Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp tại Việt Nam và kế hoạch niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán

1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay không có bất cứ quốc gia nào tồn tại phát triển được mà chỉ dựa trên một nền kinh tế đóng, không giao thương với nước ngoài. Hoạt động giao thương kinh tế phải là của các doanh nghiệp. Một khi các doanh nghiệp còn hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa thì không thể cạnh tranh nổi trong môi trường toàn cầu hóa, nó sẽ làm mất đi vai trò đặc trưng của mình là thước đo của nền kinh tế. Quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà Nước từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao cấp sang cơ chế thị trường tại Việt Nam đã diễn ra được 20 năm nếu tính mốc đầu tiên là Nghị định 217 ngày 14/11/1987 quy định bãi bỏ cơ chế hỗ trợ ngân sách trực tiếp cho các doanh nghiệp. Đây là bước đi khởi điểm cho quá trình chuyển đổi, thay đổi cách nhìn nhận của Nhà Nước đối với các doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên quá trình này diễn ra rất chậm chạp và đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20 hoạt đồng này đã không đạt được yêu cầu như mong muốn. Tình trạng thất thoát làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà Nước vẫn tiếp tục diễn ra, điều này buộc Chính phủ Việt Nam phải quyết tâm hơn nữa trong việc cải cách này. Hàng loạt văn bản luật đã ra đời để chỉ đạo và hướng dẫn quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà Nước thành các công ty TNHH, công ty cổ phần . Song song với cách chỉ đạo đó của chính phủ là việc Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước chính thức đi vào hoạt động từ 01/8/2006 và việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì việc chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà Nước, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ đặt ra cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước là phải thay mặt Nhà Nước tiếp nhận, quản lý và phát triển nguồn vốn tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các tổng công ty và các doanh nghiệp Nhà Nước lớn, tiến tới niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp này trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước. Bài viết này tập trung vào quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà Nước, quá trình tiếp nhận phần vốn Nhà Nước tại các doanh nghiệp của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước và kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

doc88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp tại Việt Nam và kế hoạch niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng của nó đối với cả nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động của Tổng công ty có nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể liệt kê ra đây một số hình thức đầu tư và làm dịch vụ tư vấn tài chính: Bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu Đầu tư trên thị trường chứng khoán thông qua hoạt động mua bán cổ phiếu, trái phiếu… Chưa bao giờ thị trường chứng khoán Việt Nam được chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của tất cả các thành phần tham gia như hiện nay. Theo con số thống kê có được từ các công ty chứng khoán. Trên toán thị trường chứng khoán hiện nay có khoảng 160.000 tài khoản đã được mở tăng 160% so với thởi điểm giữa tháng 7/2006 (khoảng 60.000 tài khoản). Phía các tổ chức tài chính trung gian cũng gia tăng nhanh chóng với gần 50 công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được cấp phép hoặc chấp thuận thành lập trong khoảng quý 4/2006 và quý 1/2007. Đáng chú ý hơn đó là sự gia tăng của các công ty, các doanh nghiệp niêm yết, với khoảng hơn 100 doanh nghiệp đã được niêm yết trong năm 2006. Đặc biệt riêng hai tháng cuối năm 2006 đã có tới gần 100 doanh nghiệp được niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Sự phát triển vựot bậc và tăng nhanh về quy mô của thị trường chứng khoán được giải thích trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tựu trung có ba vấn đề lớn sau: Thứ nhất, Nhà Nước khuyến khích các doanh nghiệp đã cổ phần hoá bằng cách miễn giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm liên tiếp nếu doanh nghiệp đó niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là nhân tố kích thích không nhỏ đối với các doanh nghiệp, là cơ hội rất lớn để được miễn giảm một phần nghĩa vụ tài chính với Nhà Nước, tăng lợi nhuận có được, tích luỹ đầu tư tăng làm tăng sức cạnh tranh và quy mô doanh nghiệp. Thứ 2, Khi niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung sẽ làm tăng tính thanh khoản đối với các loại cổ phiếu mà doanh nghiệp đã phát hành ra công chúng. Điều đó sẽ kích thích sự quan tâm của các nhà đầu tư và khi đó doanh nghiệp có thể tăng quy mô doanh nghiệp bằng cách huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là phát hành thêm cổ phiếu bán cho công chúng và nhà đầu tư chiến lược. Thứ 3, Khi niêm yết trên thị trường chứng khoán đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng được những điều kiện nhất định mà khi chưa niêm yết doanh nghiệp sẽ không phải làm như vậy: Như phải có báo cáo tài chính và được kiểm toán độc lập. Hay chiến lược kinh doanh… Điều đó có nghĩa tính minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp được tăng lên đồng nghĩa với thương hiệu được xác lập. Điều này là vô cùng quan trọng trong giai đoạn phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Với quy mô của thị trường như hiện nay chiếm khoảng 24% GDP trong khi mục tiêu đến năm 2010 thì quy mô thị trường chứng khoán mới chếim 10% GDP đã bị phá vỡ, hay nói cách khác đó là mục tiêu đặt ra đã bị vượt qua. Về quan điểm của Chính phủ trong báo cáo tình hình kinh tế xã hội trước Quốc hội thì năm 2007 sẽ tiếp tục gắn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước với phát triển thị trường chứng khoán. Năm 2007 dự kiến cổ phần hoá khoảng 550-600 doanh nghiệp và cũng trong năm 2007 sẽ đưa 100 doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đồng thời thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá tất cả các doanh nghiệp Nhà Nước. Năm 2007 cũng là năm Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước hoạt động mạnh mẽ, để tiến tới các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố không đảm nhiệm chức năng đại diện vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà Nước nữa mà tập trung tại một đầu mối là SCIC. Trong khi đó quan điểm của SCIC là sẽ tiếp nhận phần vốn Nhà Nước tại các doanh nghiệp là sẽ tiến hành phân loại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết sẽ đưa lên sàn. Như vậy quan điểm chủ đạo của Chính phủ là vẫn thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn trong năm 2007 nhằm góp phần đạt tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 ở mức 8,2 - 8,5%. Vấn đề còn lại là Bộ Tài chính sẽ định hướng sự phát triển đối với từng thành phần trên thị trường chứng khoán như thế nào để thị trường phát triển đồng bộ và an toàn. Xét về bản chất của việc thành lập SCIC thì mục đích chính là tiếp nhận phần vốn góp tại các doanh nghiệp có vốn Nhà Nước. Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, làm dịch vụ tài chính, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường trong và ngoài nước, nhận uỷ thác các nguồn vốn đầu tư. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh vốn và các dịch vụ hỗ trợ khác. Việc làm dịch vụ tài chính và đầu tư trên thị trường chứng khoán chỉ là một lĩnh vực hoạt động của SCIC nhưng với vai trò đại diện phần lớn vốn tại rất nhiều doanh nghiệp Nhà Nước thì việc tham gia của một chủ thể như SCIC vào thị trường là vô cùng quan trọng. Để thực hiện việc đầu tư trên thị trường chứng khoán đòi hỏi các nhà đầu tư và công chúng không chỉ có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà còn phải thường xuyên quan tâm theo dõi, bám sát thực trạng, phân tích xu hướng phát triển của thị trường vốn. Để làm được điều này đòi hỏi nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân tích từng chứng khoán cụ thể, lập và quản lý danh mục đầu tư… hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn. Với lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ này chỉ có những nhà chuyên gia và nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện được vì vậy mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế về thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội trong hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán. Từ nhu cầu thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối quan hệ kinh tế tất yếu trên cơ sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở hữu vốn, quản trị và điều hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức. Cùng với nó những người chủ sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mô hình như "quỹ đầu tư" "công ty đầu tư" "công ty quản lý quỹ đầu tư"… Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị trường tài chính. Và khi thị trường chứng khoán đã phát triển ở mức độ nhất định. Thực tiễn đã chứng minh rằng mặc dù thị trường chứng khoán đã phát triển từ giữa thế kỷ XV nhưng các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ mới chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX đến nay. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ phát triển một cách tuần tự từ giản đơn đến phức tạp, quy mô cũng phát triển tăng dần từ nhỏ đến lớn, mô hình tổ chức ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động ngày càng rộng rãi không chỉ trong phạm vi một quốc gia. Từ thực tiễn phát triển không ngừng của các quỹ đầu tư và các công ty quản lý qũy trên thị trường tài chính là một trong những kết quả trực tiếp của sự phát triển phân công lao động xã hội trong lĩnh vực tài chính. Nhiệm vụ của quỹ đầu tư và các công ty quản lý qũy: Huy động vốn đầu tư Quản lý và thực hiện quá trình đầu tư trên cơ sở các nguồn vốn đã huy động được. Lưu ký bảo quản tài sản và quản lý giám sát các hoạt động đầu tư. Để thực hiện những nhiệm vụ này, quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư phải giải quyết tốt những mối quan hệ trên thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ. Trong đó phải kể đến các mối quan hệ với các ngân hàng, công ty tài chính… Với tư cách là tổ chức bảo lãnh, phát hành lưu ký, bảo quản tài sản, giám sát hoạt động của các công ty quản lý quỹ đầu tư hoặc thực hiện hợp đồng uỷ thác, huy động vốn, quản lý danh mục đầu tư cho các quỹ đầu tư. Nội dung cơ bản của hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư là nhiệm vụ quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại đối với mọi quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư. Vì vậy để tiến hành đầu tư các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư phải tổ chức phải thực hiện nghiêm túc quy trình hoạt động đầu tư. Để nghiên cứu đầu tư các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư sử dụng công cụ phân tích cơ bản nhằm tập trung giải quyết các vấn đề vĩ mô như phân tích sự tác động của lãi suất, tỷ giá, chính sách kinh tế - xã hội các mối quan hệ kinh tế quốc tế… tác động tới hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán, phát hiện dự đoán khuynh hướng phát triển và những biến động có thể xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là đối với thị trường tài chính và triển vọng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Đồng thời để tính toán khả năng sinh lời, triển vọng tăng trưởng, phân tích rủi ro đối với từng loại chứng khoán cụ thể. Mục tiêu lợi nhuận được xác định và thiết lập trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thị trường và phân tích lợi nhuận và rủi ro đồng thời phải xuất phát từ khả năng tài chính, khả năng tham gia của các nhà đầu tư những đặc điểm và mục tiêu thành lập quỹ. Trên cơ sở đó phải xác định mục tiêu đầu tư và thu nhập, lãi vốn hay kết hợp cả hai mục tiêu này để bảo tồn và phát triển quỹ một cách hiệu quả nhất. Mục tiêu đầu tư được thực hiện thông qua các chiến lược đầu tư nghĩa là chiến lược đầu tư phải được thực hiện trên cơ sở của mục tiêu đầu tư. Căn cứ vào mục tiêu đầu tư chủ động xây dựng chiến lược đầu tư để xác định cơ cấu tài sản (phân bố tài sản) và lựa chọn chứng khoán theo hướng năng động hoặc theo cơ cấu ổn định, từ đó hình thành chiến lược đầu tư mang tính chủ động hay thụ động hoặc sử dụng chiến lược hỗn hợp để hoạt động đầu tư. Chiến lược đầu tư mang tính chủ động: áp dụng chiến lược này danh mục đầu tư thường tập trung vào các công cụ tài chính mang tính mạo hiểm, mức độ rủi ro cao như đối với việc đầu tư kinh doanh cổ phiếu, các công cụ tài chính phát sinh và liên quan nhiều đến yếu tố tạo lập thị trường. Với việc áp dụng chiến lược này các nhà hoạch định kỳ vọng vào sự tăng trưởng về giá trị tương lai hoặc sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể, điều này đòi hỏi phải sử dụng thuần thục cả hai loại công cụ phân tích nêu trên để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hoá cơ cấu tài sản đổi mới chứng khoán. Chiến lược đầu tư thụ động Đó là chiến lược dàn trải tài sản và đa dạng hoá chứng khoán trong danh mục đầu tư nhằm bù đắp giữa lợi nhuận và rủi ro để có được thu nhập ổn định hạn chế rủi ro đến mức có thể chấp nhận được đối với từng loại chứng khoán cụ thể. Với việc áp dụng chiến lược này các nhà hoạch định thường phân bổ tài sản chủ yếu vào các công cụ tài chính có thu nhập tương đối ổn định như trái phiếu Chính phủ hoặc thiết lập đầu tư theo kết cấu chỉ số. Với việc áp dụng chiến lược này các nhà hoạch định và điều hành quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư thu nhập chủ yếu mang tính ổn định, ít đột biến nên lợi nhuận thường thấp nhưng ít rủi ro hơn. Lợi nhuận đạt được cũng mang tính khách quan do thị trường mang lại. Có thể nói chiến lược này có thể áp dụng rất thành công tại các thị trường mới nổi. Các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư cũng có thể áp dụng chiến lược hỗn hợp trên cơ sở phân bố tài sản một cách hợp lý của cả hai chiến lược nêu trên. Ví dụ: phát huy tính chủ động trong việc phân bổ tài sản, thường xuyên thay đổi danh mục đầu tư chứng khoán nhưng trong việc lựa chọn chứng khoán thì nắm giữ các danh mục đầu tư theo chỉ số đối với từng loại chứng khoán cụ thể. Tính hỗn hợp của chiến lược đầu tư cũng có thể được thực hiện theo hướng thụ động trọng tâm. Để thực hiện được chiến lược này trọng tâm của danh mục đầu tư là chứng khoán được lựa chọn theo chỉ số. Bộ phận còn lại sẽ được thực hiện theo phương thức chủ động. Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư việc quản trị, điều hành quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư phải luôn hướng vào các chỉ tiêu kinh tế cơ bản như tổng thu nhập, tỷ lệ thu nhập, tổng chi phí, tỷ lệ chi phí và chất lượng hoạt động của bộ máy quản trị điều hành. Đồng thời các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư không chỉ khai thác và sử dụng tốt các thông tin thị trường mà còn phải cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ về tình hình tài chính và hoạt động của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư. Hội đồng quản trị phải cung cấp cho các nhà đầu tư báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư, tình hình tài chính. Danh mục đầu tư thể hiện tổng thể mục tiêu, chiến lược đầu tư việc phân bố tài sản và lựa chọn chứng khoán không chỉ đối với các loại hình chứng khoán, ngành, lĩnh vực mà quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư quan tâm còn thể hiện cả mục tiêu, phạm vi hoạt động của chúng trên thị trường tài chính thế giới. Danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thế giới đã không còn chỉ tập trung ở các thị trường tài chính phát triển nữa mà đã được mở rộng ra các nước có thị trường chứng khoán mới nổi ở Đông Âu và châu á như Trung Quốc, ấn Độ. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có hai chứng chỉ quỹ được niêm yết hoạt động đó là công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam - Viet Fund Managament (VFM) và PRU-BF1. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư đối với việc chuyển đổi các Tổng công ty Nhà Nước sang mô hình tập đoàn kinh tế. Việc đổi mới các công ty Nhà Nước thành các tập đoàn kinh tế đê thích ứng với các điều kiện của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO và quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách khu vực kinh tế Nhà Nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn thế giới cho thấy để tăng cường sự chủ động về vốn và phát triển lĩnh vực đầu tư tài chính ngoài các công ty con là các ngân hàng các công ty tài chính, các tập đoàn kinh tế phi ngân hàng còn có các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư đã trở thành tiền đề quan trọng đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia (Trannational - Corporations) vì vậy việc thành lập các quỹ đầu tư và các công ty quản lý quỹ sẽ trở thành yếu tố thúc đẩy cho sự phát triển của các Tập đoàn kinh tế của Việt Nam hiện nay. Hiện nay tất cả các Tập đoàn kinh tế Việt Nam đều chưa chính thức thành lập một quỹ đầu tư hay công ty quản lý quỹ nào cả điều này có thể coi là một "khoảng trống" của các Tập đoàn kinh tế Việt Nam. Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn tính đến 25/4/2007 đã tiếp nhận 470 doanh nghiệp. Một phần trong số đó đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Với việc nắm giữ đa số cổ phần tại rất nhiều công ty trên thị trường tập trung hoặc phi tập trung như vậy nên nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Có thể SCIC được thành lập với mục đích không phải để kinh doanh chứng khoán nhưng với vị thế vai trò của mình thì buộc nó phải có những kế hoạch của mình đối với quá trình từ cổ phần hóa các doanh nghiệp đến bán bớt cổ phần ra công chúng và tiến tới niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Để kinh doanh chứng khoán thì SCIC không thể trực tiếp tham gia vào thị trường sẽ dễ dẫn đến nảy sinh nhiều tiêu cực xuất phát từ vai trò của nó nhưng việc thành lập một quỹ đầu tư chứng khoán thì là điều hoàn toàn hợp lý, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu sôi động và sắp tới sẽ tiến hành cổ phần hoá hàng loạt Tổng công ty, các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính lớn… Việc thành lập công ty tài chính tại các Tổng công ty và các Tập đoàn trong giai đoạn hiện nay là không còn phù hợp, vì xét về mặt bản chất các công ty tài chính không phải là các doanh nghiệp chuyên hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính dưới hình thức chứng khoán. Vì vậy, để có thể bắt nhịp và hoà nhập vào thị trường tài chính đồng thời để thúc đẩy sự chuyển đổi từ mô hình Tổng công ty sang mô hình Tập đoàn dưới dạng công ty mẹ - công ty con thì việc thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư là phù hợp với xu hướng phát triển và những tiềm năng hiện có của các tổng công ty nói chung và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước nói riêng. Cùng với tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp đang vào giai đoạn “nước rút”, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các ngân hàng thương mại lớn và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính khác như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng thì quá trình tiếp nhận vốn của SCIC tại các đơn vị này cũng đang được hình thành. Với một loạt các doanh nghiệp lớn được cổ phần hoá và sẽ dần được đưa lên niêm yết tại các trung tâm giao dịch chứng khoán trong nước và các sàn giao dịch nước ngoài sẽ là một bước đột phá quan trọng trong tiến trình làm thay đổi tính chất hoạt động xưa nay của các doanh nghiệp, tính minh bạch hoá và công khai sẽ được đưa lên hàng đầu. Theo số liệu thống kê thì phần vốn Nhà Nước tại tất cả những công ty đã cổ phần hoá, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên đang được chuyển giao về cho tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà Nước là 260 nghìn tỉ đồng theo giá trị sổ sách. Còn nếu tính theo giá trị trường sẽ là một con số cực lớn vì khi đưa ra thị trường chứng khoán vốn hoá sẽ tăng lên hàng chục lần đối với các doanh nghiệp làm ăn tốt, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, có vị trí vai trò quan trọng trong nền kinh tế, các ngành nghề đặc thù với các doanh nghiệp chiếm thị phần cao trong cả nền kinh tế. Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước và từng bước chuyển giao về cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước thì Chính phủ hi vọng rằng nguồn vốn đó không chỉ được bảo toàn mà phải phát triển hơn nhiều lần. Như vậy là trách nhiệm đối với SCIC sẽ rất lớn. Muốn tăng trưởng nguồn vốn tại các doanh nghiệp được tiếp nhận ngoài việc tính toán để đầu tư kinh doanh sao cho có hiệu quả thì việc tăng giảm thị phần nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp cần phải đặt ra. Vì mục đích cuối cùng của việc kinh doanh là hiệu quả phải đặt lên hàng đầu. Việc tăng hay giảm cổ phần Nhà Nước tại các doanh nghiệp được làm bằng nhiều cách mà một trong những cách được cho là quan trọng và phù hợp trong giai đoạn hiện nay đó là mua bán chứng khoán trên thị trường. Kinh doanh chứng khoán không phải là mục tiêu khi chính phủ thành lập SCIC nhưng đó cũng có thể coi là một kênh dẫn vốn đối với các doanh nghiệp mà SCIC đã nhận chuyển giao. Muốn làm được việc này SCIC phải thành lập một công ty quản lý quỹ đầu tư. Như vậy việc đặt ra đối với SCIC là cần phải thành lập một công ty chuyên quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty này này sẽ hoạt động dựa trên mục tiêu của SCIC. Quỹ đầu tư của SCIC sẽ hoạt động tập trung vào các lĩnh vực đầu tư gián tiếp (mua bán chứng khoán) trên thị trường tập trung và phi tập trung. Hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán SCIC Hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán SCIC là làm dịch vụ tư vấn tài chính như: Tư vấn cơ cấu tài chính doanh nghiệp . Tư vấn cổ phần hoá. Tư vấn đầu tư. Bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Như vậy, nhiệm vụ chính của công ty quản lý quỹ đầu tư này chính là: mua bán chứng khoán và tư vấn tài chính. Làm nhiệm vụ tư vấn tài chính: Đây là mảng hoạt động hết sức quan trọng của quỹ đầu tư nói chung và còn đặc biệt hơn khi SCIC đang phải gánh vác trọng trách lớn trong ba năm 2007 – 2009 cùng với Chính phủ và các doang nghiệp hoàn thành cổ phần hoá các doanh nghiệp lớn. Việc thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư chuyên biệt sẽ giúp cho SCIC có thêm thời gian và kinh nghiệm trong tiến trình tiếp nhận phần vốn Nhà Nước tại các doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy được hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp đó là một nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu của SCIC trong giai đoạn này. Việc một công ty quản lý quỹ đầu tư của SCIC làm tư vấn cổ phần hoá sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Làm tư vấn cho chính các doanh nghiệp Nhà Nước đã được chuyển giao cho SCIC hoặc có thể chưa chuyển giao nhưng nó sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình đó vì ngoài áp lực phải cổ phần hoá thì những điều kiện thuận lợi từ sự hỗ trợ của công ty mẹ (SCIC) là rất lớn. Làm dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư công ty quản lý quỹ đầu tư của SCIC sẽ là cánh tay đắc lực rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp lớn tiếp theo của Nhà Nước. Tư vấn cổ phần hoá sẽ giảm gánh nặng cho SCIC vì nếu được tư vấn thành công thì việc tiếp nhận cũng như tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp đó sẽ có nhiều thuận lợi. Mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung: Với tình hình thị trường chứng khoán phát triển rất nhanh từ cuối năm 2006 và đầu năm 2007 thì một chủ thể như SCIC nắm giữ từ 50 - 70% cổ phần tại các doanh nghiệp đã niêm yết không thể không có ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường chứng khoán. Công ty quản lý qũy đầu tư chứng khoán của SCIC vừa hoạt động kinh doanh như các công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư khác nhưng đồng thời vừa phải làm nhiệm vụ, làm cánh tay phải cho SCIC trong vấn đề nắm giữ cổ phần Nhà Nước tại các doanh nghiệp này. Và đây là nhiệm vụ đồng thời cũng là cơ hội để quỹ đầu tư của SCIC thực hiện mục tiêu của Chính phủ. Việc tăng hay giảm số lượng cổ phần nắm giữ với từng ngành nghề và trong những giai đoạn khác nhau sẽ đặt ra cho công ty quản lý quỹ đầu tư của SCIC phương thức lựa chọn mua và bán cổ phần mà SCIC nắm giữ. Khi Nhà Nước không còn cứng nhắc trong vấn đề nắm giữ cổ phần nữa thì việc lựa chọn hình thức và phương thức đầu tư với SCIC là rất quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán nói riêng. Mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung Nếu phát triển quá nóng như thời gian qua phải chỉ ra rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là do trên thị trường có quá ít các doanh nghiệp niêm yết, có quá ít các loại hàng hoá để nhà đầu tư lựa chọn. Nếu như vậy khi đó SCIC có thể lựa chọn bán bớt một phần vốn của Nhà Nước để đầu tư cho các dự án khác hoặc ngược lại có thể mua lại cổ phần tại các doanh nghiệp khi thấy cần thiết và đã nghiên cứu kỹ. Mua – bán chứng khoán trên thị trường phi tập trung Bằng cách lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, đây là cách phù hợp vì nó ít tác động tới giá chứng khoán trên thị trường lại lựa chọn được nhà đầu tư có uy tín và có khả năng tài chính muốn đầu tư lâu dài vào các doanh nghiệp của Nhà Nước. Mua – bán trái phiếu trên thị trường chứng khoán Đây là một kênh đầu tư lợi nhuận tuy không cao nhưng rất ổn định mà các định chế tài chính lớn của nước ngoài thường hay sử dụng. Đối với SCIC điều này cũng rất quan trọng vì mục tiêu của SCIC không chỉ là lợi nhuận mà còn phải thực hiện các mục tiêu khác của Chính phủ đề ra. Tóm lại, việc đầu tư trên thị trường chứng khoán là bước đi không thể thiếu của SCIC. Việc lựa chọn thế nào còn tuỳ thuộc vào từng giai đoạn nhưng với vai trò và vị thế của mình SCIC nhất định không thể đứng ngoài sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và của thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng. Chương 3. Giải pháp tiếp nhận các doanh nghiệp Nhà Nước và niêm yết trên thị trường chứng khoán của SCIC Kế hoạch tiếp nhận và chuyển giao quản lý vốn tại các doanh nghiệp Tính đến ngày 25/4/2007 SCIC đã tiếp nhận 470 doanh nghiệp tại 25 tỉnh và các Bộ như : Tài chính, Thuỷ sản, Thương mại, Giao thông, Khoa học Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Nhà Nước. Như vậy số lượng doanh nghiệp đã tiếp nhận của SCIC đã tăng lên đáng kể so với năm 2006. Tuy nhiên trong số này có rất ít các doanh nghiệp lớn ngoại trừ, ba doanh nghiệp lớn là Vietcombank, Bảo Việt và Vinamilk có vốn trên 1.600 tỉ đồng, còn lại đa số là các doanh nghiệp nhỏ và thuộc các địa phương. Hai địa bàn lớn nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh gần như chưa tiếp nhận và hai địa phương này cũng là hai địa phương có số doanh nghiệp lớn nhất. Như vậy nhiệm vụ của SCIC trong hai năm tới là hết sức nặng nề, với kế hoạch cổ phần hoá một loạt doanh nghiệp lớn như Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV, Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, các tập đoàn và tổng công ty lớn thì số vốn mà SCIC tiếp nhận là rất lớn vì vây SCIC cần đặt ra cho mình một kế hoạch và lộ trình phù hợp để có thể hoàn tất công việc được giao. Với kế hoạch cổ phần hoá một loạt doanh nghiệp lớn còn lại trong hai năm 2008-2009 của Chính phủ thì SCIC phải tập trung xây dựng phương án tiếp nhận đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, điều này cần học hỏi thêm ở các nước như Trung Quốc, Malaysia, Singapore để hoàn thiện đề án cho riêng mình nếu không sẽ dẫn tới tình trạng khó kiểm soát đặc biệt là vấn đề nhân sự của SCIC khi mà ngày cổ phần hoá các doanh nghiệp này không còn xa nữa. Triển vọng thay thế Nhà Nước quản lý và kinh doanh vốn Quá trình tiếp nhận và chuyển giao vốn từ Nhà Nước cho SCIC đang diễn ra theo chiều hướng tích cực. Mặc dù số lượng và vốn tiếp nhận chưa lớn nhưng vì các doanh nghiệp đã tiếp nhận đa phần là đã cổ phần hoá nên làm ăn có hiệu quả. Theo số liệu thống kê của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp tính đến hết tháng 8 năm 2006 cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp trong đó đã cổ phần hóa 3.060 doanh nghiệp. Riêng giai đoạn từ năm 2001 đến 2006 đã sắp xếp được 3.830 doanh nghiệp Nhà Nước bằng 68% số doanh nghiệp Nhà Nước đầu năm 2001. Cũng theo báo cáo này nhìn chung các doang nghiệp sau cổ phần hóa đều làm ăn có hiệu quả, trên 90% doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều làm ăn có lãi. Cụ thể theo báo cáo từ các địa phương khảo sát ở 850 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên một năm cho thấy vốn điều lệ bình quân tăng 44%/năm, doanh thu tăng bình quân 23,6%/năm và lợi nhuận bình quân tăng 139,76%/năm, nộp ngân sách tăng bình quân 24,9%. Đây là những con số hết sức thuyết phục mặc dù đa phần các doanh nghiệp đó là nhỏ và kém lợi thế cạnh tranh. Những con số đó đã chứng minh chủ chương của Nhà Nước là rất đúng đắn, nó củng cố niềm tin vào quyết tâm của chính phủ là sẽ hoàn thành cổ phần hóa vào năm 2010. Đối với Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước khi nhận chuyển giao nguồn vốn từ các doanh nghiệp có vốn Nhà Nước đã triển khai phương hướng tổ chức và quản lý doanh nghiệp theo cách phân loại để từ đó có phương thức đầu tư phát triển doanh nghiệp sao cho hiệu quả nhất. Nguyên tắc đầu tư của SCIC là: Tập trung đầu tư và những ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao, khả năng sinh lời vốn lớn. Hạn chế đầu tư vào các ngành, lĩnh vực Nhà Nước không cần đầu tư trực tiếp và có khả năng thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác. Hình thức đầu tư của SCIC cũng khá đa dạng, phong phú như: Đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn liên doanh liên kết, đầu tư qua thị trường chứng khoán, liên kết hoặc uỷ thác cho các tổ chức tài chính, các công ty quản lý quỹ đầu tư và các quỹ đầu tư. SCIC là một mô hình mới đối với Việt Nam, là một bước cải cách lớn trong phương thức quản lý của Nhà Nước. Đã là cải cách thì khó tránh khỏi những khó khăn. Các khó khăn này sẽ dần được khắc phục thông qua cách làm là phương án xây dựng chiến lược tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn thông qua đại diện của mình. Kết quả đạt được là đáng khích lệ khi đa số các doanh nghiệp được SCIC tiếp nhận đều làm ăn có hiệu quả đặt biệt là các doanh nghiệp lớn và vừa. Ví dụ, tại Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk sau khi được chuyển giao về cho SCIC thì có rất nhiều nhà đất tư chiến lược nước ngoài muốn mua cổ phần của Vinamilk và đây là doanh nghiệp thực phẩm rất lớn đã được tiếp nhận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao khi vốn là 1.650 tỉ đồng và năm 2006 lợi nhuận/vốn đạt trên 41%, đây là con số rất cao so với một doanh nghiệp lớn như Vinamilk. Hay như doanh nghiệp FPT, cổ phần Nhà Nước ở FPT chỉ là 10 tỉ đồng nhưng ra thị trường thì lên tới 2.000 tỉ đồng. Đây là con số rất lớn khi biết rằng doanh nghiệp này luôn hoạt động có mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận tăng từ 50 – 70%/năm. Hiện tại những doanh nghiệp được chuyển giao đang hoạt động rất tốt và với chiến lược phát triển đúng đắn, sự chuẩn bị cho phương án tiếp nhận hợp lý với đội ngũ làm công tác tài chính năng động sẽ là cơ sở để tin tưởng rằng triển vọng tiếp nhận vốn tại các doanh nghiệp của SCIC sẽ đạt được yêu cầu đề ra. 3.3 Giải pháp thúc đẩy vai trò của tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn với sự phát triển của thị trường chứng khoán Nhanh chóng xây dựng đề án tiếp nhận các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá. kế hoạch hoàn thành cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn trong năm 2007 đã không đạt kế hoạch, cụ thể mới chỉ tiến hành cổ phần hóa được 2 doanh nghiệp lớn là Bảo Việt và Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank. Những doanh nghiệp lớn còn lại như Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV, Ngân hàng Công thương Vietinbank, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long hay các tập đoàn điện lực, than khoáng sản Việt Nam... mới chỉ dừng lại ở việc cổ phần hóa các công ty con, công ty trực thuộc. Bản thân các doanh nghiệp lớn còn lại chưa cổ phần hóa đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn xuất phát từ lợi ích của các bên mà cụ thể là giữa Nhà nước và các chủ thể còn lại. Điều mà SCIC sẽ phải đối mặt trong thời gian tới là hoàn thành cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn còn lại theo đúng kế hoạch nhưng không bán rẻ các doanh nghiệp này. Đây là điều mà SCIC phải lựa chọn sao cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích của Nhà Nước nhưng cũng phải hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa đã được Chính phủ giao. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là phương án tiếp nhận cũng như vai trò đại diện phần vốn của Nhà Nước tại các doanh nghiệp. Việc chuyển giao vốn cho SCIC từ các chủ thể khác như các Bộ, UBND các tỉnh... sẽ phải khác, đặc biệt là khi mà mục tiêu quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp có phần vốn của Nhà Nước là làm bảo toàn và phát triển đồng vốn, việc đó là thước đo để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. SCIC là đại diện phần vốn của Nhà Nước tại các doanh nghiệp nhưng không mang tính hình thức cũng như can thiệp thô bạo vào tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Vấn đề trách nhiệm đặt ra đối với người đại diện phần vốn của Nhà Nước tại các doanh nghiệp phải thay đổi theo hướng tích cực, tránh áp đặt và cần có một cơ chế chính sách đãi ngộ phù hợp với người đại diện tại các doanh nghiệp, có như vậy thì quyền lợi và trách nhiệm đặt lên vai những người đó sẽ hợp lý hơn. Tham mưu cho Chính phủ cũng như các doanh nghiệp trong vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước Chính phủ giao quyền quản lý tài sản của mình cho SCIC nên SCIC cần phải chủ động xây dựng cho mình phương án cổ phần hoá các doanh nghiệp đồng thời có kế hoạch tiếp nhận và sử dụng đồng thời vốn của các doanh nghiệp sao cho hiệu quả. Những doanh nghiệp lớn theo lộ trình sẽ bắt đầu được cổ phần hoá mạnh mẽ từ năm 2007 và muộn nhất hoàn thành về cơ bản trong năm 2009, đó là mục tiêu của Chính phủ, nhưng để thực hiện được điều đó cần phải dựa vào “cánh tay phải” SCIC trong vấn đề này. Tham vọng là rất lớn khi Chính phủ muốn các doanh nghiệp lớn sau khi cổ phần hoá sẽ trở thành các tập đoàn lớn đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế của đất nước. Việc chuyển đổi mô hình từ doanh nghiệp 100% vốn Nhà Nước sang mô hình đa dạng các hình thức sở hữu tại các doanh nghiệp lớn là việc đặc biệt quan trọng vì đây là vấn đề mới và chưa từng xảy ra ở Việt Nam. Theo thống kê, đến nay đã có trên 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá nhưng chỉ có 30% số doanh nghiệp có vốn trên 5 tỉ đồng, một con số quá nhỏ bé. Điều đó chứng tỏ Nhà Nước còn can thiệp quá sâu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế và vô hình chung không tạo ra được môi trường thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp khác phát triển, dẫn đến thất thoát nguồn lực đầu tư, đầu tư dàn trải không hiệu quả, khó kiểm soát và quản lý dẫn đến thất thoát tài sản Nhà Nước, muốn khắc phục thì cần phải thay đổi. Thực tế trong giai đoạn từ 2007 đến nay SCIC chưa đạt được kế hoạch cổ phần hóa mới chỉ tiếp nhận 2 doanh nghiệp lớn là Bảo Việt vốn 3.600 tỷ và Vietcombank vốn 12.000 tỷ. Vấn đề đặt ra ở đây là phần vốn của các doanh nghiệp này trước đây 100% của Nhà Nước nay cổ phần hóa không phải là triệt thoái vốn mà là giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần bằng cách phát hành thêm cổ phiếu để bán ra bên ngoài. Mục đích đặt ra ở đây là với những doanh nghiệp lớn có thị phần chi phối đối với nền kinh tế thì SCIC không bán số cổ phần nắm giữ mà phát hành thêm để tăng quy mô doanh nghiệp. Như vậy xét về bản chất hay giá trị tuyệt đối tại doanh nghiệp thì Nhà Nước vẫn giữ nguyên dù là giảm tỷ lệ sở hữu tại Doanh nghiệp những vẫn giữ cổ phiếu chi phối tuyệt đối. Khi Doanh nghiệp đã được tiến hành cổ phần hóa thì SCIC đưa người của mình vào nắm giữ các vị trí then chốt tại doanh nghiệp. Cụ thể là đối với Vietcombank, 3 cá nhân đại diện cho phần vốn Nhà Nước chiếm trên 90% số cổ phần. Vấn đề đặt ra ở đây là đối với doanh nghiệp này mọi quyết định đều do 3 cá nhân này, còn hàng ngàn nhà đầu tư cá nhân và tổ chức khác chiếm < 10% vốn dù có sự đồng thuận cũng không thể thay đổi bất cứ quyết định nào của 3 cá nhân nêu trên. Như vậy khi nhìn vào hoạt động của doanh nghiệp có thể thấy mặt thực trạng là bình mới rượu cũ tức là về tổ chức và hoạt động thì theo mô hình mới nhưng mọi quyết định đều do một chủ thể quyết định là Nhà Nước vì Nhà Nước nắm cổ phần chi phối tuyệt đối. Doanh nghiệp được tiếng là hoạt động theo mô hình mới nhưng về bản chất chưa có sự thay đổi vì muốn có một sự thay đổi mạnh mẽ thì nhà nước nên tiếp tục bán hoặc phát hành thêm số cổ phần ra bên ngoài để giảm tỷ lệ sở hữu tại các doanh nghiệp. Cá nhân những người đại diện phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp lớn vừa cổ phần hóa là người của SCIC đưa vào nắm các vị trí chủ chốt làm việc và được trả lương từ doanh nghiệp mà bản chất là từ SCIC vì SCIC là chủ nên rất khó để có một sự thay đổi mang tính đột phá trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản thân SCIC cho rằng không can thiệp vào hoạt động tổ chức của doanh nghiệp mà mình nắm giữ cổ phần chi phối là việc không thể có, cho dù muốn phủ nhận hay không. Đã là doanh nghiệp thì ai nắm giữ cổ phần chi phối chủ thể đó là người sẽ quyết định. Như vậy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó có một sự thay đổi căn bản nào chỉ mang tính hình thức nhiều hơn nếu Nhà Nước vẫn giữ số cổ phần chi phối một cách tuyệt đối như hiện nay. Một khi vấn đề này không được giải quyết kịp thời thì quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động của doanh nghiệp sẽ không thể thực hiện được về bản chất và điều này sẽ gây khó khăn cho kế hoạch của SCIC trong giai đoạn cổ phần hóa tiếp theo. Chính vì vậy Chính phủ nên có một cơ chế linh hoạt trao cho SCIC, bản chất của vấn đề cổ phần hóa là thay đổi tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp sao cho các doanh nghiệp khi đã cổ phần thì làm ăn hiệu quả. Khi cổ phần hoá Nhà Nước nên giao cho SCIC linh hoạt trong vấn đề nắm giữ cổ phần tại các doanh nghiệp Chỉ có những vấn đề quá lớn như từ bỏ doanh nghiệp hoặc rút phần lớn cổ phần thì mới cần trình Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ cần tạo ra cơ chế linh hoạt cho SCIC nhằm tạo cho SCIC hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là những doanh nghiệp mà Nhà Nước không phải giai đoạn nào cũng cần nắm giữ cổ phần chi phối. Một bài toán đơn giản trong giai đoạn hiện nay, nếu xem xét những diễn biến của tình hình thị trường chứng khoán vừa qua cả trên thị trường tập trung và phi tập trung, giá cổ phiếu liên tục biến động rất mạnh, nguyên nhân có rất nhiều nhưng quan trọng nhất đó là cơ chế chính sách, điều hành thị trường của các cơ quan chủ quản đặc biệt là quan hệ cung cầu trên TTCK. Việc lên xuống của TTCK là bình thường nhưng đôi khi sự thay đổi đó vượt ra ngoài mọi quy luật thì chúng ta nên xem xét lại chính sách của mình vì giữa sự tồn tại và phát triển của TTCK có mối liên hệ mật thiết đối với tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp. Mà vấn đề cốt lõi ở đây là phải giải quyết hay dung hòa được lợi ích của các bên. Điều quan trọng nhất hiện nay đó là vấn đề định giá doanh nghiệp vì điều này có liên quan trực tiếp đến việc có hoàn thành được cổ phần hóa hay không. Và chính phủ cũng cần giao cho SCIC một cơ chế mở trong vấn đề này. Bản thân SCIC đang đứng trước thách thức hoàn thành kế hoạch đề ra với vấn đề không làm thất thoát nguồn vốn của doanh nghiệp và vấn đề trực tiếp là nên định giá như thế nào. SCIC là cơ quan được chính phủ thành lập thì cũng nên giao toàn quyền quyết định cho SCIC trong vấn đề định giá doanh nghiệp. Trong mỗi giai đoạn lại có những phát sinh mới trong quá trình thực hiện cổ phần hóa mà chỉ có thực tế mới phát sinh và giải quyết được. Lấy ví dụ: Nếu như trong những năm đầu cổ phần hóa thì giá bán lần đầu ra công chúng (IPO) tại Vinamilk rất thấp chỉ trên mệnh giá một chút và càng ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của doanh nghiệp và càng nhiều chủ thể khác tham gia vào. Và đỉnh điểm là cuối năm 2006 đầu 2007 giá IPO tại các doanh nghiệp đã lên rất cao vượt ra ngoài cả mong đợi của nhiều người. Là những người nắm giữ rất nhiều doanh nghiệp SCIC cần phải biết rằn đây hoàn toàn là do yếu tố cung cầu. Một khi cung không tăng mà cầu tăng sẽ đẩy giá cổ phần tăng lên nhanh chóng và vượt giá trị thực của doanh nghiệp. Nếu khi đó chủ động được vấn đề cổ phần hóa SCIC là có thể làm cho thị trường giảm nhiệt không gây ssốc cho các nhà đầu tư. Thực tiễn đã cho thấy vấn đề định giá doanh nghiệp không đơn giản là để nhà nước thu được thặng dư vốn lớn nhất có thể mà mục đích chính là chuyển đổi mô hình tổ chức, hoạt động sao cho doanh nghiệp thay đổi về chất để hội nhập, để đứng được trên chính đôi chân của mình. Nếu doanh nghiệp được định giá quá cao sẽ gây ra những khó khăn lâu dài cho kế hoạch cổ phần hóa của SCIC. Khi giá trị doanh nghiệp được đẩy lên quá cao sẽ rất khó IPO mà cụ thể lấy ví dụ là VCB. Trong khi nhà đầu tư trong nước đưa ra mức giá > 100.000 VND cổ phần thì nhà đầu tư nước ngoài không mặn mà lắm với giá này. Theo quy định của Chính phủ nhà đầu tư chiến lược không được mua cổ phần với giá thấp hơn mức đấu giá bình quân của các doanh nghiệp. Chính vì vậy VCB đã gặp khó trong vấn đề lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Cách thức tiến hành IPO VCB được chính phủ cho phép rất linh động là có thể lựa chọn nhà đầu tư chiến lược trước khi IPO nhưng do định giá doanh nghiệp không sát thực tế nên dẫn đến kết quả là VCB đã liên tục phải tì hoãn IPO. Lựa chọn nhà đầu tư chiến lược trước khi IPO thì không được do không gặp nhau ở vấn đề định giá nên cuối cùng đành phải IPO trước khi có nhà đầu tư chiến lược và kết quả là đến giờ sau hơn 7 tháng IPO VCB vẫn chưa có nhà đầu tư chiến lược nào. Một vấn đề nữa được đặt ra là khi nhà nước định giá các doanh nghiệp quá cao dẫn đến khi IPO xong giá giảm liên tục làm niềm tin của nhà đầu tư suy giảm dẫn đến thua lỗ và kết quả được nhìn nhận là kế hoạch IPO của chính phủ đã không đạt được như mong muốn. Chính vì vậy SCIC cũng phải chủ động trong vấn đề cung cầu của TTCK, không thể nói rằng việc thành lập SCIC chỉ để tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp vì điều này chỉ làm được khi có một TTCK ổn định và phát triển thì mục tiêu của chính phủ mới thực hiện được. Khi có cơ chế linh hoạt thì SCIC có thể chủ động trong vấn đề đầu tư như thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn liên doanh hoặc thoái đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà Nước không cần giữ cổ phần để mở cửa cho các nhà đầu tư khác tham gia. Một cơ chế linh hoạt đối với SCIC là cực kỳ cần thiết khi biết rằng trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp và việc tiếp nhận vốn của nhà nước phát sinh rất nhiều khó khăn. Có thể kể ra đây những nguyên nhân chính về mối quan hệ bình thông nhau giữa cổ phần hóa với thị trường chứng khoán Việt Nam. Kế hoạch của chính phủ là cổ phần hóa xong các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn, các tổng công ty trước 2010. Có nghĩa chỉ còn chưa đầy 2 năm nữa phải cổ phần tất cả các doanh nghiệp lớn còn lại điều này là không thể thực hiện được trong giai đoạn hiện nay. Với việc thị trường chứng khoán Việt Nam đi xuống rất mạnh trong thời gian qua thì kế hoạch IPO các doanh nghiệp được chính phủ giao cho SCIC là không hiện thực. Nếu tiến hành cổ phần hóa bằng mọi cách sẽ dẫn đến thất thoát tài sản Nhà Nước vì khi đó thị trường sẽ không thể hấp thụ được một lượng hàng quá lớn trong khi nguồn vốn của ta có hạn. Nhưng nếu không cổ phần hóa xong thì coi như đây là một thất bại trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà Nước chuyển đổi mô hình hoạt động từ doanh nghiệp 100% vốn Nhà Nước sang công ty cổ phần là trọng tâm trong hoạt động cải cách kinh tế của chính phủ. Đến nay việc cổ phần hóa đã đi được một chặng dài nhưng những khó khăn đang còn rất nhiều ở phía trước. Các doanh nghiệp lớn chưa cổ phần hóa còn rất nhiều, các doanh nghiệp đã cổ phần hóa nhưng lượng vốn của Nhà Nước chiếm tỷ trọng quá lớn là rào cản các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình hoạt động cũng như kết quả kinh doanh đạt được chưa tương xứng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính vì vậy Chính phủ cần giao cho SCIC tự chủ trong vấn đề tăng hoặc triệt thoái vốn của mình tại các doanh nghiệp đã cổ phần. Nhiệm vụ của SCIC không chỉ là vấn đề, mua bán, kinh doanh đầu tư mà còn là mang tính cải cách là chìa khóa để mở ra các doanh nghiệp hoạt động theo một cơ chế mới một cơ chế mà ở đó mọi hoạt động của doanh nghiệp phải mang tính tự chủ hoạt động đúng nghĩa theo cơ chế thị trường. Trong đàm phán, gia nhập WTO Việt Nam cần 12 năm để được công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường là một cái giá quá đắt mà nguyên nhân chính, nguyên nhân chủ yếu chính là xuất phát từ cơ chế cũ bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả do sự can thiệp của các cơ quan chủ quan. Nếu tiếp tục để các doanh nghiệp này hoạt động theo cơ chế cũ tức là không cổ phần hóa được thì thiệt hại sẽ rất lớn và chúng ta sẽ chịu nhiều khó khăn trong vấn đề bảo hộ do chúng ta chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường. Đối với SCIC là phải chủ động và linh hoạt trong hoạt động, tham mưu cũng như đề xuất các giải pháp cho chính phủ đồng thời phải tiếp nhận và quản lý có hiệu quả các doanh nghiệp đã được chuyển giao. Vấn đề này sẽ được thực hiện một cách dễ dàng nếu thông qua thị trường chứng khoán. Việc mua hay bán cổ phần Nhà Nước xét về mặt kinh doanh sẽ thuận lợi hơn khi SCIC là chủ doanh nghiệp. Xét về mặt quản lý thì SCIC có thể lựa chọn hình thức quản lý thông qua lựa chọn nhà đầu tư chiến lược cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà đầu tư có vốn, có kỹ thuật và có nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Mở rộng cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế chỉ có lợi cho đát nước, đa dạng hóa hình thức sở hữu sẽ tận dụng được nguồn lực lớn trong xã hội để phát triển kinh tế. Để xây dựng một nền kinh tế thi trường đúng nghĩa thì chúng ta đã chuẩn bị từ khá sớm nhưng đến nay kết quả đạt được là chưa như mong muốn, quá trình cổ phần hóa chắc chắn sẽ diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn 2007 – 2009. Luật doanh nghiệp thống nhất được Quốc hội thông qua đặt ra thời hạn hoàn tất chuyển đổi (để chịu sự chi phối của Luật doanh nghiệp thống nhất) đối với doanh nghiệp Nhà Nước là 4 năm. Đây quả là một thác thức bởi lẽ sau 14 năm tiến hành cổ phần hoá chúng ta mới đi được 1/5 quãng đường. Vậy làm thế nào để 3 năm còn lại có thể chạy nốt 4/5 quãng đường còn lại? Một ví dụ điển hình là trường hợp của Vietcombank. Chính phủ chính thức đưa VCB vào “bệ phóng” cổ phần hoá bằng Quyết định 230/2005 QĐ/CP ngày 21/9/2005, trong đó xác định rõ lộ trình với những mức hết sức cụ thể. Song cũng phải thừa nhận rằng thực tế triển khai không hoàn toàn đơn giản. Với một khối lượng vốn và tài sản lớn như VCB thì ngay cả việc lựa chọn nhà tư vấn và định giá VCB đã rất khó khăn và mất nhiều thời gian. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên thí điểm cổ phần hoá một doanh nghiệp lớn, kinh doanh trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm nên bước đi cần phải thận trọng, thêm vào đó cơ chế hiện hành còn nhiều bất cập. Tuy nhiên đến tháng 5/2007 về cơ bản việc cổ phần hoá doanh nghiệp này đã xong chỉ còn trình Chính phủ phê duyệt. Để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước và hoàn tất quá trình này vào năm 2010 theo dự kiến có rất nhiều việc phải làm. Về phía Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách cho cổ phần hoá cũng như chỉ đạo mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước. Về phía các doanh nghiệp Nhà Nước cũng cần phải quát triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình cổ phần hoá, lãnh đạo các doanh nghiệp Nhà Nước và các bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức rằng cổ phần hoá là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền, đặc lợi cá nhân cần phải loại bỏ. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành cổ phần hoá phải luôn quán triệt một điều đó là làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh cổ phần hoá hình thức hoặc “bán rẻ” tài sản của Nhà Nước. Đối với các công ty sau cổ phần phải thực sự thay đổi về cơ chế quản lý và tăng cường giám sát để vừa nâng cao hiệu quả hoạt động, vừa đảm bảo quyền lợi cho tất cả các cổ đông. Mặt khác, cần phải mở rộng giới hạn tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các công ty cổ phần, nhanh chóng niêm yết trên thị trường chứng khoán đối với các công ty đủ tiêu chuẩn. ở một khía cạnh khác cần hoàn thiện cơ chế của thị trường chứng khoán, tích cực tuyên truyền phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng đầu tư. Tăng cường giám sát đối với hoạt động của trung tâm giao dịch và các công ty chứng khoán cũng như các công ty niêm yết nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán “sạch” và hoạt động lành mạnh, tránh đổ vỡ, gây hậu quả xấu đối với nền kinh tế và môi trường đầu tư. Và cuối cùng một sân chơi với các công ty cạnh tranh bình đẳng và phát triển lành mạnh, một thị trường hoạt động hiệu quả, một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa là những điều mà chúng ta kỳ vọng trong một tương lai không xa. Tất cả những vấn đề trên sẽ được thực thi theo một kế hoạch đã định sẵn, có sự chuẩn bị tương đối dài theo một lộ trình thích hợp và tin tưởng rằng kế hoạch đó sẽ thành công khi mà sự kỳ vọng được đặt lên vai của Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn Nhà Nước SCIC. Kết luận Quá trình cải cách chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà Nước từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp thành công ty TNHH và công ty cổ phần đã, đang và sẽ tiếp tục diên ra ngày càng nhanh, mạnh mẽ hơn. Điều này xuất phát từ sự chỉ đạo của chính phủ mà biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước. Từ chỗ Việt Nam có đến 12.000 doanh nghiệp Nhà Nước, trực tiếp hoạt động trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, sự không thừa nhận một cách rộng rãi vai trò của các thành phần kinh tế khác vô hình chung đã làm lãng phí nguồn lực vô cùng to lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế. Đến nay trải qua gần 20 năm đổi mới những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực kinh tế là đáng khích lệ khi biết rằng số doanh nghiệp Nhà Nước đến tháng 8/2006 đã được sắp xếp là 4.447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 3.060 doanh nghiệp, và vẫn đang được sự chỉ đạo sát sao của chính phủ tiếp tục đẩy mạnh quá trình này lên một mức cao hơn. Đó là kế hoạch cổ phần hoá tất cả các tổng công ty và các doanh nghiệp lớn phải hoàn thành trước năm 2010. Chương trình cải cách đổi mới doanh nghiệp của chính phủ là nhằm xây dựng các tổng công ty thành các tập đoàn mạnh hoạt động đa ngành đa lĩnh vực đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Khi việc chuyển đổi mô hình doanh nghiệp thành công sẽ tiến hành cho niêm yết trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước. Muốn thế phải đáp ứng các điều kiện làm thay đổi các tư duy và cung cách hoạt động bây lâu nay của các doanh nghiệp Nhà Nước, làm tăng tính minh bạch hoá hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp giúp chính phủ đánh giá một cách toàn diện về tình hình kinh tế xã hội vì hệ thống các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán luôn được coi là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Với sự chỉ đạo sát sao của chính phủ trong việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp đồng thời phải tạo ra một cơ chế chính sách thích hợp để thị trường chứng khoán phát triển bền vững. Từ chỗ Nhà Nước can thiệp quá sâu vào lĩnh vực kinh tế, bằng chứng là có quá nhiều doanh nghiệp Nhà Nước (12.000 doanh nghiệp năm 1991) đến chương trình cải cách và chuyển đổi doanh nghiệp, tổ chức sắp xếp lại và kế hoạch là hoàn thành cổ phần hoá tất cả các tổng công ty và doanh nghiệp lớn trước 2010 tiến tới niêm yết trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước là một kế hoạch dài hạn và đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất. Với kinh nghiệm học hỏi được từ các quốc gia khác và quá trình cổ phần hoá đã trải qua có thê tin tưởng rằng kế hoạch của chính phủ sẽ được hoàn thành đúng thời hạn, đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập sắp tới. Tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt Phạm Phan Dũng (2004), Đổi mới phương thức quản lý phần vốn Nhà Nước đầu tư tại các doanh nghiệp, tài liệu ”Hội nghị quốc tế về quản trị doanh nghiệp” do Tổ chức Tài chính Quốc tế – IFC, Bộ Tài chính và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tê – OCDE tổ chức, Hà Nội, tháng 12/2004 Scott Cheshier, Jago Penrose, Nguyễn Thị Thanh Nga (2006), Nhà Nước với tư cách là nhà đầu tư: Cổ phần hóa, Tư nhân hóa và Chuyển đổi doanh nghiệp Nhà Nước tại Việt Nam, Tài liệu đối thoại chính sách của UNDP số 2006/3 Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà Nước (2007), Bản tin Thị trường Tài chính tuần 3, tháng 4, 2007, www.scic.vn Ngân hàng Nhà Nước (2005), Văn bản Quy phạm pháp luật số 07/2005 Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) và Ngân hàng Thế giới (2005), Báo cáo Nghiên cứu sau cổ phần hóa các doanh nghiệp, Hà Nội, tháng 9/2005 Mallon Raymond (1996), Cải cách doanh nghiệp Nhà Nước tại Việt Nam: Những chính sách phát triển, thành tựu và những khó khăn tồn tại, báo cáo do ADB soạn, Hà Nội, tháng 5/1996 Tin tức Việt Nam (2005), Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, 2/12/2005, vietnamnews.vnagency.com.vn Thời báo kinh tế Việt Nam (2006), Các doanh nghiệp Nhà Nước hiệu quả hơn sau cổ phần hóa, 4/1/2006, www.vneconomy.com.vn Tài liệu tiếng Anh State Capital Investment Corporation, Khazanah Nasional (2006), Seminar “State capital Investment - Experiences from Khazanah”, Hà Nội, tháng 10/2006’ Các website: www.scic.vn www.mof.gov.vn www.vneconomy.com.vn www.kiemtoan.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà Nước, quá trình tiếp nhận phần vốn Nhà Nước tại các doanh nghiệp của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn N.doc
Luận văn liên quan