Tính chất giám đốc thẩm: giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm
ba Thẩm phán. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm một trong các căn
cứ sau:
Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án;
Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
54 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2462 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng tố tụng tòa án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0.000 đồng.
Mức án phí kinh tế sơ thẩm đối với các vụ án kinh tế có giá ngạch được quy
định như sau:
Giá trị tranh chấp Mức án phí
a) từ 40.000.000 đồng trở xuống 2.000.000 đồng
b) Từ trên 40.000.000 đồng đến
400.000.000 đồng
5% của giá trị tranh chấp
c) Từ trên 400.000.000 đồng đến
800.000.000 đồng
20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tranh chấp
vượt quá 400.000.000 đồng
d) Từ trên 800.000.000 đồng đến
2.000.000.000 đồng
36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp
vượt quá 800.000.000 đồng
đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến
4.000.000.000 đồng
72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tranh chấp
vượt quá 2.000.000.000 đồng
e) Từ trên 4.000.000.000 đồng 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp
vượt quá 4.000.000.000 đồng.
Mức án phí kinh tế phúc thẩm đối với tất cả các vụ án kinh tế là 200.000 đồng
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 21
Khi khởi kiện, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, và là một điều kiện để
Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết. Còn vấn đề nguyên đơn có phải chịu án phí hay không,
tỷ lệ là bao nhiêu do Tòa án quy định vào cuối quá trình tố tụng. Người kháng cáo bản án,
quyết định sơ thẩm để yêu cầu giải quyết theo trình tự phúc thẩm phải nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm.
2.1.3. Chuẩn bị xét xử.
Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án đến ngày Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian cần thiết để
Tòa án tiến hành lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải vụ án, và xem xét
để đưa vụ án ra xét xử. Đây là công việc bắt buộc trước khi đưa vụ án ra xét xử và cần
phải có thời gian nhất định. Đối với những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì thời
hạn chuẩn bị xét xử là 02 tháng. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở
ngại khách quan thì Chánh án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá
01 tháng. Việc quy định thời hạn như vậy nhằm đảm bảo yêu cầu giải quyết vụ án một
cách nhanh chóng và kịp thời. Trong thời gian chuẩn bị cho công tác xét xử, Tòa án tiến
hành các công việc chủ yếu sau:
Một là, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông
báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
Hai là, Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Theo đó, Tòa án có quyền yêu cầu
đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ, hoặc cung cấp những vấn đề cần thiết. Yêu cầu cơ
quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải
quyết vụ án; yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết; xác minh tại
chỗ tình hình vụ án; trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập
hội đồng định giá tài sản có tranh chấp.
Ba là, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án. Tòa án tiến hành hòa giải tất cả các vụ án dân sự - đây là một thủ
tục bắt buộc phải tiến hành, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành
hòa giải được. Trong trường hợp bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn cố tình vắng mặt; hoặc đương sự không thể tham gia hòa giải được gì có lý do
chính đàng thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không cần hòa giải.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 22
Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải triệu tập tất cả các đương sự, phổ biến cho
tất cả các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
để các bên có liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc
hòa giải thành để họ tự nguyện với nhau về việc giải quyết vụ án.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp thì Tòa
án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải
thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì
phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải thành một vụ án kinh doanh, thương
mại không chỉ là giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn đơn giản hóa thủ tục,
tiết kiệm thời gian và công sức cho các đương sự.
Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì Tòa án lập
biên bản hòa giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kết thúc giai đoạn
chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa được quyền ra một trong các quyết
định sau:
Đưa vụ án ra xét xử;
Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;
Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Việc tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 189
và Điều 192/K1 BLTTDS 2004.
2.1.4. Mở phiên tòa sơ thẩm
Thời hạn mở phiên tòa là không quá một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử. (Nếu có lý do chính đáng thì thời hạn xét xử là hai tháng)
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong
trường hợp đặc biệt thì Hội xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm
nhân dân. (Quy đinh tại điều 52, BLTTDS 2005). Thành phần xét xử vụ án kinh doanh
thương mại do 3 thẩm phán giải quyết.
Tại phiên tòa sơ thẩm: đương sự phải có mặt tại phiên tòa khi Tòa án xét xử vụ án
kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan khiến họ không thể có
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 23
mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Tòa
án phải hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đương sự được
vắng mặt tại phiên tòa khi họ có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trong trường
hợp có người đại diện hợp pháp của họ tại phiên tòa. Song có những trường hợp đương sự
cố tình vắng mặt để trốn tránh nghĩa vụ của mình, nên sự vắng mặt của đương sự lần thứ
hai cần được xem xét cụ thể:
Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là
từ bỏ việc khởi kiện, và Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án mà
không cần sự đồng ý của bị đơn và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn
tiến hành xét xử vắng mặt họ. Trường hợp này bị đơn được coi là cố tình trốn
tránh nghĩa vụ đối với nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Trình tự tiến hành phiên tòa sơ thẩm:
Thủ tục chuẩn bị khai mạc phiên tòa,
Khai mạc phiên tòa,
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa,
Tranh luận tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nghị án trong phòng nghị án riêng
Chủ tọa phiên tòa tuyên án.
Hình 3: Quy trình tố tụng tòa án
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 24
Khởi kiện
- Đơn khởi kiện
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho các yêu cầu của mình
Gửi đến toà
án
Thụ lý vụ án Nguyên đơn nộp tạm ứng án phí
Chuẩn bị xét xử
- Thông báo cho bị đơn và những người có quyền và nghĩa vụ liên
quan biết nội dung đơn kiện
- Lấy lời khai của các đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ
- Tiến hành hoà giải giữa các đương sự
- Có thể ra các quyết định như: quyết định áp dụng các biện pháp
khẩn cấp, tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án
Phiên toà sơ thẩm
- Hội đồng xét xử gồm: 2 thẩm phán + 1 hội thẩm. Hội đồng xét xử
quyết định theo nguyên tắc bình đẳng và theo đa số
- Phiên toà sơ thẩm gồm 4 giai đoạn:
+ Khai mạc phiên tòa
+ Thẩm vấn
+ Tranh luận
+ Nghị án và tuyên án.
Phiên toà phúc thẩm
- Hội đồng xét xử gồm: 3 thẩm phán. Hội đồng xét xử quyết định
theo nguyên tắc bình đẳng và theo đa số
- Phiên toà phúc thẩm cũng thực hiện các phần tố tụng như trong
phiên toà sơ thẩm. Điểm khác là trước khi vào thẩm vấn, chủ toạ sẽ
tóm tắt lại nội dung vụ kiện và quyết định của bản án sơ thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm
BẢN ÁN CÓ HIỆU
LỰC PHÁP LUẬT
Thủ tục tái thẩm
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
- Quyết định trong bản án không phù hợp với tình tiết khách quan
của vụ án.
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật
Căn cứ kháng nghị tái thẩm
- Mới phát hiện tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự không thể
biết được khi giải quyết vụ án
- Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của
người phiên dịch không đúng sự thật hoặc giả mạo bằng chứng
- Thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký toà cố tình làm sai lệch
hồ sơ.
- Bản án, quyết định mà toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị
huỷ bỏ
Kháng nghị,
kháng cáo hợp
lệ
Kháng nghị
Kháng
nghị
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 25
2.2. Thủ tục xét xử phúc thẩm
2.2.1. Tính chất của xét xử phúc thẩm.
Tính chất của xét xử phúc thẩm: để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử khi có đơn
kháng cáo của người có quyền kháng cáo, quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp, hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đối với bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì vụ án phải được đưa ra
xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của BLTTDS 2005. Vì vậy, việc xét xử theo
thủ tục phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, người có
quyền kháng cáo có đơn kháng cáo hợp lệ, Viện kiểm sát cùng cấp, hoặc Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp kháng nghị phúc thẩm theo quyết định của BLTTDS 2005, không kể
trường hợp kháng cáo, kháng nghị có đủ căn cứ hay không thì vụ án vẫn phải được Tòa
án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quyết định của pháp luật.
Những người có quyền kháng cáo, kháng nghị: đương sự, người đại diện của
đương sự, cơ quan, tổ chức đã khởi kiện vụ án để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách có quyền làm đơn kháng cáo,
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa
án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Người kháng cáo, kháng nghị phải làm đơn bằng văn bản gửi tới Tòa án đã giải quyết sơ
thẩm vụ án kinh tế với các nội dung chủ yếu là nội dung bị kháng cáo, kháng nghị; lý do
kháng cáo, kháng nghị và yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị. Kèm theo đơn kháng
cáo, quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho
kháng cáo, kháng nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Thời hạn kháng cáo:
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày,
kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án
của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo
nhận được quyết định.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 26
Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được
tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
Thời hạn kháng nghị:
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát
cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi
ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên
tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản
án.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình
chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp
nhận được quyết định.
Phạm vi xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có quyền xem xét lại phần
của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét
lại nội dung kháng cáo, kháng nghị. Còn những phần không có kháng cáo, kháng nghị,
hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không
được quyền xem xét và quyết định. Nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử lại và quyết
định cả những phần của bản án, quyết định không có kháng cáo, kháng nghị, hoặc không
có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đây là
một trong những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm: người kháng cáo, đương sự, cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có
thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác nếu thấy cần thiết cho việc giải quyết
kháng cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà
phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên toà sơ
thẩm.
2.2.2. Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm:
Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của
các đương sự; việc hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, tranh luận được
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 27
thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm, và chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm
vi xét xử phúc thẩm.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm:
Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm;
Sửa bản án, quyết định sơ thẩm;
Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm
giải quyết lại vụ án hoặc tiếp tục việc giải quyết vụ án.
Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc ra
quyết định. Cũng cần chú ý là khi xét các Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên tòa và cũng không phải triệu
tập các đương sự trừ trường hợp cần thiết.
2.3. Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm
phán Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba
tổng số thành viên tham gia.
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao
gồm có ba Thẩm phán.
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.
Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số
thành viên tham gia.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 28
2.3.1. Thủ tục giám đốc thẩm
Tính chất giám đốc thẩm: giám đốc thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm
ba Thẩm phán. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm một trong các căn
cứ sau:
Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án;
Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm: là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thẩm quyền giám đốc thẩm
Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
Toà kinh tế của TAND tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà kinh tế, của TAND tối
cao bị kháng nghị.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 29
Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án thuộc
thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Phạm vi giám đốc thẩm
Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét
nội dung kháng nghị.
Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan
đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ
án.
Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm:
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ
hoặc bị sửa;
Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét
xử phúc thẩm lại;
Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ
án.
Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng giám đốc
thẩm ra quyết định
2.3.2. Thủ tục tái thẩm trong Tố tụng tòa án
Tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không thể biết được khi Tòa án
ra bản án, quyết định đó.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 30
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể
biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên
dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án
hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước
mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm giống như thủ tục giám đốc thẩm.
Thời hạn kháng nghị tái thẩm: là 1 năm kể từ ngày người có thẩm quyền tái thẩm
biết được các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Thẩm quyền Hội đồng tái thẩm:
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật;
Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ
tục do Bộ luật này quy định;
Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
2.4. Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án
Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của các quá trình tố tụng, kết thúc quá trình bảo
vệ quyền lợi của các đương sự. Thi án các bản án, quyết định có hiệu lực của vụ án kinh
tế được thực hiện theo thủ tục thi hành án dân sự được quy định tại Pháp lệnh thi hành án
dân sự năm 2004. Trong giai đoạn này, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành và
bảo đảm thực hiện trên thực tế. Đây là giai đoạn có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết
các vụ án tại Tòa án, nó không những bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa
án, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật mà còn góp phần tằng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 31
Những bản án, quyết định kinh tế của Toà án được thi hành là những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật theo Điều 375/BLTTDS 2005 bao gồm:
Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 32
CHƢƠNG III: NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
3.1. Ƣu điểm và nhƣợc điểm của tố Tụng tòa án
Nếu đặt lên “bàn cân” những điểm mạnh, điểm yếu của từng hình thức giải
quyết tranh chấp thì mặc dù Trọng tài và Tòa án đều là những phương thức giải quyết
tranh chấp của các bên, không cạnh tranh lẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Thế nhưng,
nếu xét từ góc độ hiệu quả, thì giả quyết tranh chấp kinh doanh bằng tố tụng Tòa án có
một số ưu điểm và nhược điểm sau:
3.1.1. Ưu điểm:
Phán quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
nhà nước. Có cơ quan thi hành án, cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy,
phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính
xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
Thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế.
Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so
với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế
3.1.2. Nhược điểm:
Các Tòa án luôn bị quá tải công việc, điều đó ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng xét xử và làm cho vụ án bị kéo dài. Ở nước ta, hàng năm các
Tòa Kinh tế ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh phải thụ lý trên
10.000 vụ án kinh tế và nhiều vụ việc dân sự. Thêm vào đó là những thủ tục tố
tụng hết sức nghiêm ngặt, trong giới luật người ta thường nói với nhau câu:
“Công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối”! Nguyên tắc xét xử nhiều cấp khiến
cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự,
nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh
chóng, dứt điểm. Việc giải quyết tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, gây trở ngại cho
các bên tranh chấp vì tính chất của động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi
thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 33
Các thẩm phán của Tòa án không phải bao giờ cũng chuyên về các vấn đề
kinh doanh, thương mại và đủ các kiến thức để giải quyết các tranh chấp
đó một cách chuyên nghiệp, đặc biệt là trong các vấn đề tranh chấp thương
mại quốc tế chẳng hạn như các tranh chấp về bằng sáng chế, ngân hàng, tên
miền, v.v…
Là một thiết chế quyền lực và mặc nhiên hoạt động trong một quốc gia có
chủ quyền, Tòa án thường bị chi phối về tính độc lập của nó bởi sự tác động
từ nhiều phía.
Tính quốc tế của Tòa án không cao. Điều đó thể hiện ở nhiều sự ràng buộc
khác nhau liên quan đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia: Ngôn ngữ áp dụng
phải là ngôn ngữ quốc gia, thủ tục tố tụng nhất thiết phải theo quy định của
pháp luật quốc gia mà Tòa án lại là thiết chế của quốc gia đó. Phán quyết
của Tòa án không mặc nhiên có sự công nhận quốc tế, điều đó chỉ xảy ra khi
có một hiệp định song phương về tương trợ tư pháp giữa hai quốc gia hoặc
trong khuôn khổ pháp lý của một cộng đồng các quốc gia, ví dụ như Liên minh
châu Âu
Tổ chức theo thẩm quyền xét xử, các bản án của Tòa án có thể bị kháng cáo,
kháng nghị. Phiên tòa xét xử nhất thiết phải công khai, trừ một số trường hợp
do luật định mà các nhà kinh doanh không phải lúc nào cũng thích
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Về nguyên tắc khởi kiện
Cũng như các hoạt động tố tụng khác, trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế,
tòa án kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc chung về tố tụng được quy định trong Hiến
pháp và Luật Tổ chức tòa án nhân dân. Việc thực hiện những nguyên tắc này nhằm mục
đích đảm bảo cho hoạt động điều tra xét xử của tòa án chặt chẽ hơn. Tuy nhiên trong thực
tế không phải lúc nào việc áp dụng các nguyên tắc của tố tụng tòa án cũng đảm bảo thực
hiện, vì vậy có một số điểm cần phải sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn hơn.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và
có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác
mà pháp luật có quy định. Quy định như vậy là phù hợp, song việc áp dụng nguyên tắc
này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Trong BLTTDS không quy định biện pháp chế tài
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 34
mà chỉ quy định chung chung nếu không cung cấp chứng cứ thì bị bất lợi và không có quy
định về thời hạn bắt buộc đương sự phải cung cấp chứng cứ nếu không cung cấp thì
chứng cứ đó không có giá trị hoặc phải chịu chế tài như: phạt tiền..., vì vậy, thực tế có
trường hợp đương sự đang giữ chứng cứ hoặc có khả năng thu thập chứng cứ nhưng lại
không thu thập chứng cứ để cung cấp cho Toà án, chỉ đến khi thấy có lợi mới cung cấp,
thậm chí có trường hợp để đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ các
hoặc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mới xuất trình chứng cứ, kèm theo đơn khiếu
nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến Tòa án bị thụ động trong việc xét xử. Do
đó, vấn đề này pháp luật cần phải định rõ chế tài cụ thể nếu đương sự cố tình không cung
cấp chứng cứ hoặc có hành vi che giấu chứng cứ thì phải bị xử phạt để tránh tình trạng bị
động cho Tòa án.
Bên cạnh đó, nguyên tắc hòa giải là một nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng tòa án.
Hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền
thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải
quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, việc hòa giải như thế nào
thì luật lại không quy định rõ, các thẩm phán không được hướng dẫn, đào tạo có bài bản.
Việc hòa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Nếu việc hòa giải
không thành có thể dẫn đến căng thẳng, làm tăng thêm mâu thuẩn và việc thúc đẩy sự
thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém
hiệu quả. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để thực hiện nguyên tắc này có hiệu quả
hơn để phát huy tốt yêu cầu, mục đích đã đề ra.
3.2.2. Về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT)
Các quy định về thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật Tố
tụng Dân sự hiện nay đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giải quyết tranh chấp là tính
nhanh chóng và sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong việc bảo vệ
quyền lợi của họ. Chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được xây dựng tại
Chương thứ 8 Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam (BLTTDS), bao gồm 28 điều luật (từ
Điều 99 tới Điều 126) là cơ sở pháp lý quan trọng cho Toà án trong việc quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ
chứng cứ, đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định
về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn cũng đặt ra những vấn đề, đòi hỏi các cơ
quan có thẩm quyền cần phải tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn bổ sung.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 35
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, căn cứ hủy
bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự kháng cáo bản án đồng thời có
đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT. Giai đoạn này, Tòa án cấp sơ thẩm đang làm các thủ tục
liên quan đến kháng cáo theo quy định của pháp luật mà chưa chuyển hồ sơ cho Tòa án
cấp phúc thẩm. Tòa án cấp nào có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu yêu
cầu của đương sự là có căn cứ, đúng pháp luật và thuộc trường hợp cần phải được áp
dụng BPKCTT? Ngược lại, nếu yêu cầu của đương sự không đúng pháp luật và không
thuộc trường hợp cần phải áp dụng BPKCTT thì Tòa án nào sẽ không chấp nhận yêu cầu
áp dụng BPKCTT? Tòa án cấp nào có thẩm quyền ban hành văn bản trả lời đương sự?
Đây là những vấn đề BLTTDS chưa có quy định cụ thể.
Vì vậy, để xác định rõ vấn đề thẩm quyền của Tòa án cấp nào trong việc xem xét
yêu cầu áp dụng BPKCTT, Bộ luật TTDS cần thiết bổ sung những quy định rõ rang hơn.
Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét
và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì
Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết ”.
Tuy vậy, việc quy định thời hạn 48 giờ để Thẩm phán xem xét quyết định có áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không trong nhiều trường hợp có lẽ là quá dài. Đặc
biệt là đối với các yêu cầu về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp như kê biên tài sản
đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, phong toả tài khoản. Sự
chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp này dù chỉ là một khoảng thời
gian hết sức ngắn cũng đủ để người bị yêu cầu áp dụng các biện pháp này tẩu tán tài sản,
thay đổi hiện trạng tài sản hoặc rút tiền từ tài khoản nhằm trốn tránh việc thi hành nghĩa
vụ. Trong khi đó, Điều 101 BLTTDS cũng không quy định về trách nhiệm của người có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp này đối với những thiệt hại mà nguyên đơn phải gánh
chịu do việc áp dụng chậm trễ các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, các cơ quan chức
năng cần có những hướng dẫn cụ thể theo hướng trong những trường hợp thực sự khẩn
cấp Thẩm phán có thể ngay lập tức quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói
trên.
Để đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn, về lâu dài trên cơ sở các quy định
này các nhà lập pháp Việt Nam có thể phát triển, bổ sung theo hướng cho phép Thẩm
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 36
phán trong trường hợp khẩn cấp có thể quyết định áp dụng ngay lập tức các biện pháp
khẩn cấp nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của đương sự trước khi khởi kiện vụ án.
Về biện pháp bảo đảm
Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm
dụng từ phía người yêu cầu, Bộ luật TTDS đã quy định về biện pháp bảo đảm. Theo
khoản 1 Điều 120 thì người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT như kê biên;
cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng
tài sản đang tranh chấp; phong toả tài sản, tài khoản của người có nghĩa vụ, sẽ phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá “do Tòa án ấn định tương đương
với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện” vào tài khoản phong tỏa tại
ngân hàng. Cụ thể hơn, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02 thì “nghĩa vụ tài sản” là nghĩa
vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc
cho người thứ ba.
Tuy nhiên, việc xác định mức tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh như thế nào là
rất khó đối với Tòa án cũng như với người yêu cầu, mặc dù Nghị quyết số 02 cũng đã
hướng dẫn cách dự kiến và tạm tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra. Đã có nhiều trường
hợp, việc dự kiến và tạm tính thiệt hại phát sinh không chính xác, không tương xứng với
hậu quả xảy ra. Theo quy định của Bộ luật TTDS thì người yêu cầu áp dụng hay Tòa án
áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, vậy trong trường hợp
tài sản bảo đảm không đủ để bù đắp những thiệt hại đã xảy ra do việc áp dụng BPKCTT
không đúng thì có phải bồi thường thiệt hại không và ai phải bồi thường cũng là vấn đề
cần được quy định rõ trong Bộ luật TTDS. Đồng thời, khi có tranh chấp xảy ra thì yêu cầu
bồi thường thiệt hại này được xem xét trong cùng một vụ án hay giải quyết thành một vụ
án riêng cũng là vấn đề cần phải xác định. Chúng tôi cho rằng, yêu cầu bồi thường thiệt
hại do áp dụng không đúng BPKCTT không thể giải quyết trong cùng vụ án đang giải
quyết.
Về việc nộp các khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá và
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng
Theo khoản 1 Điều 120 BLTTDS thì “ Ngưòi yêu cầu Toà án áp dụng một trong
các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ
luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 37
định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi
ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu”. Thực tiễn
vận dụng các quy định nêu trên của BLTTDS đã đặt ra những vấn đề sau đây:
Hiện nay, theo hướng dẫn tại mục 5.3 Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-
4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì Thẩm phán chỉ ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi người yêu cầu xuất trình chứng cứ đã thực
hiện biện pháp bảo đảm. Như vậy, việc vận dụng các quy định về buộc thực hiện biện
pháp bảo đảm này trong thực tiễn trong nhiều trường hợp không bảo đảm được quyền lợi
chính đáng của nguyên đơn. Mặt khác, bị đơn có thể lợi dụng các quy định của pháp luật
để tẩu tán tài sản, đặc biệt là đối với các vụ án mà nguyên đơn là người nghèo không có
tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá để gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng
nơi có trụ sở của Toà án.
Về trách nhiệm bồi thường của Tòa án
Bộ luật tố tụng dân sự quy định các trường hợp Tòa án có trách nhiệm bồi thường
khi áp dụng không đúng BPKCTT gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho
người thứ ba (Khoản 2 Điều 101) nhưng lại chưa có quy định trách nhiệm bồi thường của
Tòa án trong trường hợp không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Vì vậy, trong thực tiễn, nếu đương sự yêu cầu và có căn cứ áp dụng BPKCTT nhưng Tòa
án không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại này như thế nào? Quyền, lợi ích của đương sự yêu cầu có
được bảo vệ không? Những nội dung này cần được bổ sung trong Bộ luật TTDS về trách
nhiệm bồi thường của Tòa án trong việc không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp
dụng BPKCTT, gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba.
3.2.3. Quyền kháng cáo kháng nghị
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, một vụ án được xét xử qua cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái
thẩm. Như vậy, theo nguyên tắc, một vụ án nếu phải xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm thì nhiều nhất cũng chỉ cần đến ba phiên tòa. Nhưng thực tế lại khác.
Có những vụ án phải xét xử tới 9 - 10 phiên tòa, nhưng vẫn chưa kết thúc được và
cũng có thể không biết bao giờ mới kết thúc. Thực tế này phát sinh từ nhiều nguyên
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 38
do, trong đó có việc chính trong các quy định của pháp luật đã tiềm ẩn những nguy cơ
làm cho một vụ án có thể bị kéo dài và phải xét xử làm nhiều lần. Do vậy, pháp luật
cần có những quy định rõ ràng chặt chẽ hơn để tránh tình trạng kháng cáo kháng nghị
kéo dài như hiện nay.
Hướng dẫn chi tiết hơn
Pháp luật nên có hướng dẫn chi tiết hơn các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục,
thẩm quyền ra văn bản, quyết định để người thực thi cứ thế mà làm. Chẳng hạn, cần quy
định rõ đơn khiếu nại giám đốc thẩm thì nơi nào tiếp nhận, nhận trực tiếp, nhận qua
đường bưu điện; nơi nào xem xét bước đầu, thời hạn báo cáo, đề xuất, trình cấp có thẩm
quyền quyết định; kháng nghị hay không kháng nghị thì thông báo cho đương sự ra sao;
thời hạn ra văn bản trả lời, ra quyết định kháng nghị; cách thức tống đạt quyết định kháng
nghị; thời hạn tối đa từ ngày ký đến ngày. Cần bổ sung quy định với những trường hợp
không chấp nhận đơn khiếu nại, không kháng nghị giám đốc thẩm thì TAND Tối cao,
VKSND Tối cao phải trả lời, giải thích rõ lý do cho đương sự biết. Làm được điều đó, sẽ
giảm rất nhiều các trường hợp khiếu nại tiếp, khiếu nại dai dẳng dù đơn đã bị bác một
cách thuyết phục.
Thời hiệu kháng nghị ngắn hơn
Đối với kháng nghị giám đốc thẩm thời hạn kháng nghị là ba năm như hiện nay là
quá dài, nên giảm bớt thời gian kháng nghị lại. Nếu rút ngắn thời hạn kháng nghị sẽ hạn
chế được tình trạng bản án đã thi hành xong lại có kháng nghị giám đốc thẩm, dẫn đến
hủy án, lật án, kéo theo nhiều hệ quả rắc rối như đã nêu trong bài trước. Thông thường,
sau phiên tòa phúc thẩm, đương sự thua kiện bức xúc thì họ sẽ khiếu nại giám đốc thẩm
ngay.
Có chế tài với người làm sai
Pháp luật cũng nên có có quy định về việc này để đảm bảo “người làm sai phải
chịu trách nhiệm về cái sai của mình”. Chế tài càng cụ thể thì người có thẩm quyền càng
phải nâng cao trách nhiệm, cẩn trọng xem xét kỹ, tránh được những trường hợp kháng
nghị thiếu căn cứ thuyết phục.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 39
Có cơ chế giám sát chặt chẽ
“Thực trạng giải quyết khiếu nại xin giám đốc thẩm, có trường hợp chính đáng
nhưng cứ phải chờ đợi trong vô vọng, như mò kim đáy bể, có trường hợp lại được chấp
nhận quá dễ dàng. Nếu tình trạng “dè sẻn” kháng nghị còn kéo dài, các sai sót của những
bản án đã có hiệu lực pháp luật không được sửa sai, khắc phục kịp thời, công lý, công
bằng sẽ không được bảo đảm, để làm cho người dân ít nhiều mất lòng tin vào pháp luật,
vào phán quyết của tòa án. Ngoài ra, nếu không có biện pháp khắc phục, không hạn chế,
giảm bớt đến mức có thể những kháng nghị tùy tiện, không có căn cứ thuyết phục… sẽ
gây nghi ngờ về những tiêu cực, nhất là đối với các bộ phận nghiệp vụ liên quan trong
quá trình xem xét, ra quyết định.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 40
KẾT LUẬN
Các hoạt động kinh tế luôn có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự
tồn tại cũng như phát triển của xã hội. Trong hoạt động kinh doanh thường khó tránh khỏi
các tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy, giải quyết các tranh chấp kinh tế
cũng là yêu cầu tất yếu. Một trong các phương pháp để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên, đảm bảo các quan hệ kinh doanh được ổn định, lành mạnh và phát triển
là phương thức khởi kiện đến tòa án theo thủ tục tố tụng.
Thông qua bài tiểu luận này, nhóm 13 muốn khái quát cho bạn đọc hiểu rõ hơn tầm
quan trọng của thủ tục tố tụng trong việc giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại,
cũng như nắm được trình tự của các thủ tục tố tụng, trình tự giải quyết vụ án, quyền và
nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Điều đó sẽ giúp cho
quý bạn đọc có thể hiểu rõ và ứng dụng trong thực tế.
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 41
CHƢƠNG IV. TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT:
Nội dung vụ tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc
thảo giữa ông Đòan Minh Phúc và Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân
4.1. Nội dung tóm tắt của tranh chấp:
Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh
Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện
ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh
Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá
thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng. Lẽ ra, sau
khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất lượng sản phẩm thử nghiệm
(nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba Huân phải có trách nhiệm
lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám định hoặc khởi kiện ra Tòa
án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại đơn phương tiêu hủy tòan bộ
kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng.
Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là
không có cơ sở để được chấp nhận.
4.2. Nội dung bản án:
Trong các ngày 11 và 16 tháng 10 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 337/2007/TLST-
KDTM ngày 25 tháng 5 năm 2007 về tranh chấp hợp đồng chuyển giao công nghệ theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1806/2007/QĐST-KDTM ngày 03 tháng 10 năm 2007
giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Ông ĐOÀN MINH PHÚC
Địa chỉ : 165 đường Lò Hột, Phường 5, TX. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (Có mặt)
Bị đơn : Bà PHẠM THỊ HUÂN – Chủ DNTN BA HUÂN
Địa chỉ : 28 Nguyễn Đình Chi, Phường 9, Quận 6, TPHCM
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 42
Đại diện : Ông Đặng Minh Thành, GUQ ngày 25/7/2007 (Có mặt)
Bảo vệ quyền lợi cho bị đơn : Luật sư Trần Văn Sỹ,
Đòan luật sư tỉnh Vĩnh Long
NHẬN THẤY
Nguyên đơn trình bày :
Ngày 22/3/2007, ông Đòan Minh Phúc có ký hợp đồng chuyển giao công nghệ chế
biến hột vịt bắc thảo cho Doanh nghiệp tư nhân Ba Huân với giá trị chuyển giao là
40.000.000 đồng. Các bên đã tiến hành thử nghiệm đạt yêu cầu nhưng DNTN Ba Huân
không chịu thanh tóan số tiền còn lại là 35.000.000 đồng (ông Phúc đã nhận ứng trước
5.000.000 đồng). Do đó, ông Phúc khởi kiện yêu cầu DNTN Ba Huân phải thanh tóan tiếp
số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng.
Bị đơn trình bày :
Xác nhận có ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ chế biến hột vịt
bắc thảo với ông Đòan Minh Phúc với trị giá 40.000.000 đồng, ông Phúc đã ứng trước
5.000.000 đồng và cũng đã tiến hành thử nghiệm. Tuy nhiên, DNTN Ba Huân không
đồng ý thanh tóan tiếp số tiền còn lại của hợp đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử
nghiệm không đạt yêu cầu và ông Phúc cũng không đồng ý thử nghiệm lại theo đề nghị
của DNTN Ba Huân.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên
ý kiến.
Tại phiên tòa hôm nay :
- Nguyên đơn : Yêu cầu Chủ DNTN Ba Huân phải thanh tóan số tiền còn nợ của
hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng.
- Bị đơn : Không đồng ý thanh tóan tiếp cho nguyên đơn số tiền còn lại của hợp
đồng là 35.000.000 đồng vì kết quả thử nghiệm không đạt yêu cầu
- Ý kiến của Luật sƣ bảo vệ quyền lợi cho bị đơn :
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 43
Các bên đã cùng kiểm tra kết quả thử nghiệm, kết quả không đạt (so với thành
phẩm của một cơ sở khác).
Lẽ ra, DNTN Ba Huân có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước (5.000.000 đồng)
nhưng vì thiện chí, DNTN Ba Huân không yêu cầu ông Phúc phải trả lại.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa hai bên có thể bị vô hiệu vì ông Phúc
có thể đã sử dụng công nghệ thuộc quyền sở hữu của người khác mà không
được phép. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì ông Phúc cũng không có quyền đòi
thanh tóan số tiền còn lại của hợp đồng.
Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :
1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :
Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (chuyển giao công nghệ) giữa các cá
nhân đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có địa chỉ kinh doanh và cư trú tại TPHCM. Vì
vậy, căn cứ vào khoản 2, Điều 29, khỏan 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng
dân sự; vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP.HCM
theo thủ tục tố tụng dân sự.
2. Về thời hiệu khởi kiện :
Ngày 22/3/2007, các bên ký hợp đồng. Đầu tháng 5/2007, phát sinh tranh chấp.
Ngày 04/5/2007, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.
Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã
làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để
giải quyết.
3. Về nội dung tranh chấp :
Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi Chủ DNTN Ba Huân phải thanh toán số tiền còn
nợ của hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 là 35.000.000 đồng:
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 44
Căn cứ vào hợp đồng chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa ông Đòan Minh
Phúc và DNTN Ba Huân do bà Phạm Thị Huân làm chủ (bà Phạm Thị Kim Anh đại diện
ký hợp đồng) và lời khai nhận của các bên đương sự tại phiên tòa thì ông Đòan Minh
Phúc có chuyển giao công nghệ chế biến trứng vịt bắc thảo cho DNTN Ba Huân với giá
thỏa thuận là 40.000.000 đồng, ông Phúc đã nhận ứng trước 5.000.000 đồng. Các bên
cũng đã thống nhất xác nhận:
Từ ngày 18 đến ngày 28 tháng 3 năm 2007, ông Phúc đã tiến hành chuyển giao
công nghệ cho DNTN Ba Huân bằng việc chế biến thử nghiệm 10 ổ trứng vịt bắc thảo với
sự chứng kiến của đại diện DNTN Ba Huân. Việc thử nghiệm đã hòan tất và các bên đã
tiến hành kiểm tra kết quả thử nghiệm. Tuy nhiên, tại thời điểm này, bắt đầu phát sinh
tranh chấp vì hai bên không thống nhất ý kiến đánh giá kết quả thử nghiệm: ông Phúc cho
rằng kết quả đã đạt yêu cầu (5/10), còn DNTN Ba Huân cho rằng không đạt (chỉ đạt 2/5).
Ông Phúc yêu cầu niêm phong chờ giải quyết nhưng DNTN Ba Huân không đồng ý và đã
tự đem tiêu hủy tòan bộ sản phẩm thử nghiệm (10 ổ trứng vịt) mà không có sự đồng ý và
cũng không có sự chứng kiến của ông Phúc hoặc đại diện chính quyền địa phương hoặc
cơ quan chức năng. Lẽ ra, sau khi được chuyển giao công nghệ, nếu có khiếu nại về chất
lượng sản phẩm thử nghiệm (nghĩa là khiếu nại về hiệu quả của công nghệ) thì DNTN Ba
Huân phải có trách nhiệm lưu giữ kết quả thử nghiệm để nhờ cơ quan chuyên môn giám
định hoặc khởi kiện ra Tòa án để Tòa án trưng cầu giám định nhưng DNTN Ba Huân lại
đơn phương tiêu hủy tòan bộ kết quả thử nghiệm mà không có lý do chính đáng (DNTN
Ba Huân cho rằng do lo sợ dịch cúm gia cầm và ô nhiễm môi trường là không có cơ sở vì
trứng nguyên liệu do chính DNTN Ba Huân cung cấp, phải bảo đảm không nhiễm vi rút
trước khi đưa vào thử nghiệm, và việc ô nhiễm môi trường phải có cơ quan y tế xác nhận
mới có cơ sở). Trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các
bên đương sự không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định công nghệ đã được chuyển giao
theo hợp đồng.
Do đó, khiếu nại của DNTN Ba Huân cho rằng kết quả thử nghiệm không đạt là
không có cơ sở để được chấp nhận. Yêu cầu của ông Đòan Minh Phúc phù hợp với quy
định của pháp luật tại các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật
dân sự năm 2005, nên có cơ sở để được chấp nhận
4. Về án phí:
Tố tụng Tòa Án Nhóm 13
GVHD: LS TS Trần Anh Tuấn Trang 45
Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19
Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án:
Chủ DNTN Ba Huân phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho ông
Đòan Minh Phúc.
Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền
tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên, tòa án quyết định:
Áp dụng các điều 292 và 297 Luật thương mại năm 2005; Điều 412 Bộ luật dân
sự năm 2005; Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị Huân - Chủ
DNTN Ba Huân, phải thanh tóan cho ông Đòan Minh Phúc số tiền còn nợ của hợp đồng
chuyển giao công nghệ ngày 22/3/2007 giữa hai bên là 35.000.000 đ (ba mươi lăm triệu
đồng).
2. Về án phí:
- Bà Phạm Thị Huân phải chịu án phí sơ thẩm là 1.750.000 đồng (một triệu bảy
trăm năm chục ngàn đồng).
- Ông Đòan Minh Phúc không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 875.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002029 ngày 23 tháng 5 năm
2007 của Thi hành án dân sự TPHCM).
3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Đòan Minh Phúc, nếu bà Phạm
Thị Huân không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định
tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005. NXB Chính trị , Hà Nội (2006)
2. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự - Luật 65
65/2011/QH12 (Quốc hội thông qua ngày 29/03/2011)
3. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. NXB chính trị , Hà Nội (1989)
4. Nghị quyết số 04/2003/NQ-HDTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Tòa án nhân dân tối cao
(2003)
5. Bản án kinh tế phúc thẩm số126/PT- KT. Tòa án nhân dân tối cao (2002)
6. Quyết định giám đốc thẩm số 08/UBTP-KT. Tòa án nhân dân tối cao (2002)
7. Phạm Duy Nghĩa. Vài bình luận ngắn về pháp luật giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo Giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá
sản doanh nghiệp, NXB Giao thông vận tải (2000) 69.
8. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại, LS. TS Lê Minh Nhựt
9. TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005
10. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh.
11. Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_nhom_13_mba11b_tl_luat_kinh_doanh_to_tung_toa_an__2488.pdf