MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.
Danh mục các từ víêt tắt.
Lời nói đầu.
1
PhầnI: Những vấn đề chung về hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tâng Sơn Vũ
3
1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tâng Sơn Vũ.
3
1.1.1 Giới thiệu sơ lược về Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tâng Sơn Vũ.
3
1.1.2 Tình hình kinh tế tài chính, lao động.
5
1.2 Đặc điểm tổ chức quản lý.
7
PhầnII: Tổ chức công tác kế toán tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.
12
2.1 Đặc điểm về tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.
12
2.2 Vận dụng chế độ kế toán tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.
15
2.1.1 Chế độ kế toán.
15
2.1.2 Chế độ chứng từ.
16
2.1.3 Chế độ tài khoản.
16
2.1.4 Chế độ báo cáo.
16
2.1.5 Chế độ sổ sách.
22
2.3 Hạch toán các phần hành kế toán chủ yếu tạiCông ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.
24
2.3.1 Hạch toán tài sản cố định.
24
2.3.2 Hạch toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ.
27
2.3.3 Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
29
2.3.4 Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
33
2.3.5 Hạch toán tiêu thụ sản phẩm và xác định kết quả kinh doanh.
36
Phần III: Nhận xét, đánh giá về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức công tác kế toán tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.
40
3.1 Những thành tựu đạt được.
40
3.2 Những hạn chế cần khắc phục.
42
3.3 Một số biện pháp khắc phục.
43
Kết luận.
44
Danh mục tài liệu tham khảo.
Nếu có thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2309 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạch toán kế toán tại công ty đào tạo xây dựng và phát triển kinh tế hạ tầng Sơn Vũ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế và sự thay đổi trong tổ chức ở Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia đòi hỏi thành lập Viện Kinh tế Thế giới với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu những vấn đề kinh tế thế giới dưới giác độ kinh tế chính trị học Mác- Lênin, nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm, những quy luật và cơ chế vận động của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, trên cơ sở đóng góp những luận cứ koa học cho việc hoạch định những đường lối chính sách kinh tế đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Viện Kinh tế Thế giới thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia được Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định thành lập tháng 9/1983 theo Nghị định số 96/HĐBT ngày 9/9/1983 và được tái khẳng định theo Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ, với tên giao dịch quốc tế là: INSTITUTE OF WORLD ECONOMY, đến hiện nay viện đã hoạt động được hơn 20 năm và hiện nay Viện có tên gọi là Viện Kinh tế và Chính trị thế giới.
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới là một trong số các cơ quan nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế đầu ngành tại Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các chức năng và mục tiêu của Viện là các đề tài của Viện luôn hướng về chủ trương kinh tế và chính trị của Đảng và Nhà nước. Viện cũng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có năng lực hiện đang công tác tại Viện hoặc đang trở thành những cán bộ nòng cốt trong các trung tâm nghiên cứu quốc tế.
Một trong những xu hướng nổi bật của thế giới ngày nay là quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển nhanh chóng. Những nghiên cứu có tính chất khu vực hoặc theo nước không thể hàm chứa hết những vấn đề chung như tài chính quốc tế, thương mại quốc tế, các thể chế kinh tế toàn cầu, các quan hệ kinh tế xuyên châu lục như: APEC, ASEM. Đây là đối tượng nghiên cứu riêng biệt, thuộc về chức năng của một viện nghiên cứu những vấn đề kinh tế và chính trị quốc tế nào khác đã từng thực hiện. Vì vậy, chúng ta phải xác định rõ sự khác biệt của Viện với các Viện và Trung tâm khác mới được thành lập trong những năm gần đây, để thấy rõ tính riêng biệt mà chưa có một Viện hay Trung tâm nào khác đã từng thực hiện. Hiện nay, Viện có tên gọi là Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, linh vực hoạt động của Viện ngày càng mở rộng hơn cả về quy mô lẫn số lượng nghiên cứu sâu hơn không những về kinh tế mà cả về chính trị.
1.2. Cơ cấu tổ chức, quản lý của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Cơ cấu tổ chức của Viện hiện có 16 phòng, trong đó có 10 phòng nghiên cứu, các phòng nghiên cứu của Viện tập chung chủ yếu nghiên cứu các vấn đề: kinh tế phát triển, kinh tế các nền kinh tế phát triển, đang phát triển, kinh tế chuyển đổi, chính trị quốc tế, tài chính- tiền tệ -đầu tư thương mại quốc tế; kinh tế CHLB Đức và kinh tế Việt Nam. Từ năm 1994, Viện được Chính Phủ giao nhiệm vụ đào tạo tiến sỹ chuyên ngành kinh tế thế giới, mỗi năm chiêu sinh từ 8-10 Nghiên cứu sinh.
Đội ngũ cán bộ của Viện hiện có 61 cán bộ, trong đó có 46 cán bộ nghiên cứu (5 nghiên cứu viên cao cấp, 15 nghiên cứu viên chính, 26 nghiên cứu viên), các cán bộ làm chức năng phục vụ nghiên cứu, số cán bộ có học hàm học vị bao gồm: một Viện sỹ đồng thời là PGS.TSKH, 7 PGS có học vị tiến sỹ, 15 tiến sỹ và 10 thạc sỹ, ngoài hai người có trình độ trung cấp ra còn lại đều có trình độ đại học trở lên. Có thể nói, đội ngũ cán bộ công nhân viên của Viện là một đội ngũ có trình độ và được đào tạo cơ bản, và cơ cấu tổ chức nhân sự của Viện được thể hiện qua sơ đồ sau.
Sơ đồ tổ chức nhân lực của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Tổng biên tập tạp chí
Hội đồng khoa học
Phó viện trưởng
Viện trưởng
Phó viện trưởng
Các phòng nghiệp vụ
Hành chính tổ chức
Học giả nước ngoài
Phòng tư vấn hành chính
Phòng thông tin thư viện
Phòng toà soạn trị sự
Các phòng chức năng
Các phòng nghiên cứu
Phòng quan hệ kinh tế quốc tế
Phòng nghiên cứu phát triển
Phòng nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển
Phòng kinh tế các nước Đông Âu
Phòng nghiên cứu kinh tế SNG và Đông Âu
1.3. Chức năng của Viện và của một số phòng thuộc Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
1.3.1. Chức năng của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Xuất phát từ mục tiêu và phương hướng của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện đã xác định chức năng cơ bản của Viện là:
Một là, Nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề kinh tế, chính trị thế giới; chính trị và kinh tế trong nước làm cơ sở cho việc đề ra và thực hiện các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc nâng cao sự hiểu biết các vấn đề quốc tế.
Hai là, Nghiên cứu các mô hình phát triển, các chiến lược và chính sách phát triển của quốc gia, từ đó rút ra bài học, các kiến nghị góp phần đổi mới chiến lược và chính sách phát triển của nước ta.
Ba là, Nghiên cứu và đề xuất chính sách của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như trên thế giới.
Bốn là, Tư vấn cho các cơ quan hoạch định chính sách, lãnh đạo cao cấp, tổ chức kinh doanh về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế và quan hệ đối ngoại nhằm thực hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Năm là, Tổ chức hoạt động trao đổi khoa học giữa các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học nước ngoài và tổ chức các hội nghị khoa học trong nước và quốc tế vè kinh tế va quan hệ quốc tế.
Sáu là, Đào tạo cán bộ khoa học về các chuyên ngành liên quan đến kinh tế và chính trị quốc tế tại Viện và các trường đại học.
Bẩy là, Xuất bản và phổ biến các công trình nghiên cứu, cung cấp thông tin về kinh tế và thị trường thế giới, các vấn đề quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam cho độc giả trong và ngoài nước.
1.3.2. Chức năng của một số phòng thuộc Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
1.3.2.1. Phòng nghiên cứu phát triển thực hiện nghiên cứu về:
- Các lý thuyết về mô hình phát triển, quan hệ tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội
- Nguồn nhân lực và phát triển
- Phát triển và các vấn đề toàn cầu
- Cơ cấu và động thái phát triển của nền kinh tế
1.3.2.2. Phòng nghiên cứu các nền kinh tế phát triển thực hiện nghiên cứu về:
- Đặc điểm xu hướng phát triển kinh tế các nước công nghiệp phát triển.
- Kinh tế các nước lớn: Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh và các nước thuộc OECD.
- Những vấn đề chính trị của các nước công nghiệp phát triển, so sánh các mô hình kinh tế Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu.
1.3.2.3. Phòng nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển thực hiện nghiên cứu về:
- Đặc điểm, xu hướng phát triển và vị trí của các nước đang phát triển trong nền kinh tế thế giới .
- Kinh tế các nước ASEAN, Mỹ la tinh, Châu phi.
- Những vấn đề chính trị của các nước đang phát triển, so sánh các mô hình công nghiệp hoá.
1.3.2.4. Phòng quan hệ kinh tế quốc tế
- Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Chính sách và quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
1.3.2.5. Phòng tư vấn – phát hành
- Thực hiện các hoạt động tư vấn và dịch vụ khoa học về các vấn đề kinh tế và thương mại quốc tế.
- Thực hiện các công việc về hoạt động tạp chí tiếng Việt và tiếng Anh, công tác xuất bản và phát hành.
1.3.2.6. Phòng thông tin thư viện.
- Thực hiện các công việc biên soạn, biên dịch các tài liệu phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu .
- Thực hiện các công tác bảo quản, lưu trữ, xây dựng, sửa chữa, nâng cấp trụ sở làm việc, quản trị tài sản vật tư, bảo vệ, thông tin liên lạc, và các công việc phục vụ hàng ngày.
1.4. Mục tiêu của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới có 4 mục tiêu chính đến năm 2010 như sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu tổ chức Viện hợp lý và hiệu quả, đảm bảo thực hiện các chương trình và lĩnh vực nghiên cứu được xác định cho từng thời kì.
Thứ hai, có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu giỏi trong từng lĩnh vực chuyên sâu về kinh tế và thương mại quốc tế, có khả năng nghiên cứu và tổ chức những vấn đề nghiên cứu khoa học cơ bản thuộc chức năng của Viện.
Thứ ba, Có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, hệ thống thông tin tư liệu thư viện đáp ứng tốt các yêu cầu của công tác nghiên cứu đào tạo và phổ biến khoa học về kinh tế và chính trị quốc tế.
Thứ tư, có quan hệ quốc tế rộng rãi và quan hệ hợp tác khoa học với các trung tâm nghiên cứu quốc tế.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
Quá trình hơn 20 năm hoạt động và trưởng thành, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực, là một Viện hoạt động năng động và có hiệu quả của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, là cơ quan nghiên cứu khoa học đầu ngành về lĩnh vực kinh tế thế giới ở Việt Nam. Điều đó thể hiện ở những điểm sau.
2.1. Công tác nghiên cứu khoa học
Ngay từ khi mới thành lập, công tác nghiên cứu khoa học của Viện luôn luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là những vấn đề có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và hội nhập kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Viện có 6 phòng nghiên cứu về: Những vấn đề chung của nền kinh tế thế giới tập chung vào nghiên cứu phát triển: quan hệ kinh tế quốc tế, kinh tế các nước công nghiệp phát triển, kinh tế các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế Đông Dương. Công tác nghiên cứu của Viện được triển khai đồng thời tất cả các vấn đề khu vực và từng nước, vừa nghiên cứu cơ bản, vừa nghiên cứu tình hình và động thái, kết hợp nghiên cứu ngoài nước với nghiên cứu kinh tế Việt Nam nhằm tìm ra những bài học kinh nghiệm để áp dụng vào nước ta, góp phần xây dựng đường lối kinh tế đối ngoại, đối nội của Đảng và Nhà nước phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Công tác nghiên cứu của Viện được triển khai theo các hệ đề tài sau:
2.1.1. Hệ đề tài và nhiệm vụ Nhà nước
Từ năm 1991 đến nay, Viện được giao chủ trì và thực hiện 7 đề tài cấp Nhà nước, trong đó đã có 4 đề tài đã hoàn thành đó là:
Đề tài KHXH 01.04: Đặc điểm và nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay do PGS.TSKH Võ Đại Lược làm chủ nhiệm. Đề tài gồm 10 chuyên đề chuyên nghiên cứu những xu thế và đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay, đặc điểm của xu hướng thế giới những thập kỷ gần đây; về cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hoá, những chuyển biến và sụp đổ của hệ thống XHCN, khủng hoảng và điều chỉnh chủ nghĩa tư bản, vị thế của các nước đang phát triển trong thế giới hiện đại, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đề tài đã có 3 bản kiến nghị về: Chính sách kinh tế Việt Nam sau thời kì cấm vận của Mỹ, sự hình thành các khối kinh tế và chính sách của Việt Nam; Thời đại ngày nay và sự lựa chọn con đường phát triển của Việt Nam và trên 50 bài viết nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học.
Đề tài KHXH 01.05: Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại do PGS.TS Lê Văn Sang làm chủ nhiệm, được thực hiện từ năm 1992-1996. Đề tài đã nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản thành một bộ sách gồm 3 tập, hai bản báo cáo kiến nghị gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước về chủ nghĩa tư bản hiện đại và một số vấn đề của nó sau sự sụp đổ của Liên Xô và những đề xuất mang tính kiến nghị của đề tài về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Đề tài 06.02: Về những quan hệ mâu thuẫn và những thống nhất giữa các nước tư bản lớn trên thế giới hiện nay và xu hướng phát triển quan hệ đó, chính sách của chúng ta PGS.TS Lê Văn Sang làm chủ nhiệm, được thực hiện tư năm 1996- 2000. Đề tài đã tập trung nghiên cứu quan hệ giữa ba trung tâm lớn của thế giới là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, chỉ ra sự hợp tác và cạnh tranh giữa chúng trong một thế giới, nêu lên những đề xuất mang tính chiến lược cho Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản thành sách và 15 bài đăng tạp chí.
Đề tài 06.08: Về khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đặc biệt là những năm cuối của thế kỷ XX và xu thế do PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì thực hiện từ năm 1998- 2000. Đề tài đã phân tích một cách có hệ thống căn nguyên và những hình thái biểu hiện chủ yếu của khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đồng thời xem xét những điều chỉnh, nhận định về chiều hướng thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong xu thế toàn cầu hoá và cách mạng tin học, đánh giá những tác động đối với Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trong cuốn Chủ nghĩa tư bản hiện đại: Khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh, gần 700 trang và trên 10 bài đăng tạp chí chuyên ngành.
Hiện nay, Viện đang chủ trì thực hiện 4 hệ đề tài cấp Nhà nước.
.
+ Cục diện kinh tế thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI do PGS.TS. Lê Văn Sang làm chủ nhiệm;
+ Tác động của Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam do PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng làm chủ nhiệm.
Ngoài những đề tài Nhà nước nêu trên, Viện cũng đã thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu cấp Nhà nước theo yêu cầu của lãnh đạo Đảng và Chính Phủ về: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 1990- 2000; Đánh giá nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa; Tình hình thế giới và cơ sở khoa học về đường lối đối ngoại của Đảng ta; Vấn đề chống lạm phát của Việt Nam; Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam, Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và tác động tới nền kinh tế Việt Nam; Tác động của sự kiện 11- 9 tới nền kinh tế Việt Nam…
Những vấn đề trên được tập thể cán bộ Viện nghiên cứu một cách nghiêm túc, công phu, báo cáo kịp thời, trực tiếp hoặc bằng văn bản đến các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, Viện đã tích cực tham gia vào quá trình soạn thảo các nghị quyết của TW về các vấn đề kinh tế. Đồng chí Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng trong nhiều năm làm việc với tư cách cố vấn cho Tổng Bí Thư và thành viên tổ tư vấn, nay là ban nghiên cứu của Thủ Tướng Chính Phủ đã có nhiều đề xuất chính sách quan trọng. Một số đồng chí cán bộ có uy tín được mời tham gia nhóm soạn thảo dư án công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng. Một số kiến nghị gửi lãnh đạo Đảng được đánh giá tốt, thiết thực góp phần vào việc chuẩn bị các Văn kiện Đại hội của Đảng.
2.1.2. Chương trình và hệ đề tài cấp bộ
Viện đã chủ trì hai chương trình cấp bộ, do PGS.TSKH. Võ Đại Lược làm chủ nhiệm là:
* Chương trình: Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, thực hiện từ năm 1988- 2000. Chương trình gồm 6 đề tài nghiên cứu các xu hướng của thế giới, đề xuất một hệ thống các quan điểm về chiến lược phát triển cho Việt Nam trong bối cảnh mới. Trong đó có 3 đề tài do cán bộ của Viện chủ trì, đó là:
- Sự điều chỉnh phát triển của Việt Nam đến năm 2001 do PGS. TS Nguyễn Xuân Thắng làm chủ nhiệm.
- Tình hình thế giới ( chủ yếu về kinh tế ) trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX do PGS.TS Tạ Kim Ngọc làm chủ nhiệm.
* Chương trình: Bối cảnh hệ thống kinh tế thế giới và sự điều chỉnh chính sách ở các nước lớn, thực hiện trong hai năm 2001- 2002, tập trung nghiên cứu những điều chỉnh chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại, đầu tư, chính sách phát triển kinh tế tri thức và chính sách đối với khu vực doanh nghiệp của các nước lớn. Trong đó có hai đề tài do cán bộ của Viện chủ trì, đó là:
- Điều chỉnh chính sách kinh tế EU do TS. Chu Đức Dũng làm chủ nhiệm
- Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách của các nước lớn, do PGS.TSKH. Võ Đại Lược làm chủ nhiệm.
Ngoài ra, Viện đã thực hiện tốt dự án Điều tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, do PGS. TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì. Kết quả của cuộc điều tra này là một bộ cơ sở dữ liệu và một báo cáo phân tích đã công bố dưới hình thức một cuốn sách.
* Viện đã thực hiện một số đề tài cấp bộ độc lập sau:
- Các nước SNG và Đông Âu chuyển sang kinh tế thị trường, đề tài do GS.TS. Bùi Huy Khoát chủ trì, nghiệm thu 1993.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát huy lợi thế so sánh- Kinh nghiệm các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, do PGS.TS. Đỗ Đức Định làm chủ trì, nghiệm thu năm 1997.
- Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á, do PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì, nghiệm thu năm 1997.
- Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh lạnh, do TS. Đinh Quý Độ chủ trì, nghiệm thu năm 2000.
- Vấn đề lựa chọn thị trường sản phẩm và thị trường trong chính sách ngoại thương ở các nước Châu Á, do TS. Nguyễn Trần Quế chủ trì, nghiệm thu năm 2000.
- Quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam – CHLB Đức thực hiện năm 2003, do TS. Nguyễn Thanh Đức thực hiện.
- Sự điều chỉnh hợp tác của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương trong bối cảnh toàn cầu hoá, do PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng chủ trì, thực hiện trong các năm 2001- 2003.
- Cải cách chế độ sở hữu ở một số nền kinh tế chuyển đổi, do TS. Nguyên Văn Tâm chủ trì, nghiệm thu năm 2002.
- Bước sang nền kinh tế tri thức ở một số nước lớn trên thế giới hiện nay, do PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh chủ trì, nghiệm thu năm 2002….
- Kinh tế và chính trị thế giới 2005-2006, PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ trì, thực hiên năm 2005
Nhìn chung, các đề tài cấp bộ đã được cán bộ của Viện nghiên cứu công phu, đúng tiến độ được giao, được đánh giá có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, hầu hết các đề tài đều được hội đồng nghiệm thu đánh giá vào loại xuất sắc. Sản phẩm của đề tài đã được xuất bản thành sách, các bài báo đăng trên tạp chí khoa học và có kiến nghị gửi tới các cơ quan Đảng và Nhà nước.
2.1.3. Hệ đề tài cấp Viện
Hàng năm, Viện tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu cấp Viện. Đó là hệ đề tài khoa học có tính chất chuyên ngành và cơ bản theo từng lĩnh vực hoặc theo từng khu vực, từng nước cụ thể. Một số đề tài tập thể được triển khai theo phòng nghiên cứu như: Tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ đối với triển vọng kinh tế Đông Á; Hợp tác giữa các nước Đông Á trong các vấn đề an ninh truyền thống; Điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại ở các nước đang phát triển Châu Á sau khủng hoảng; Những xu hướng lớn trong quan hệ kinh tế quốc tế; Xu hướng phát triển tự do hoá thương mại khu vực và những ảnh hưởng đến tương lai của APEC…. Một số được triển khai theo đề tài độc lập trong đó có hệ thống các cuốn sách giới thiệu về kinh tế các nước và các vấn đề kinh tế thế giới phục vụ bạn đọc rộng rãi. Kết quả nghiên cứu trong 20 năm qua là Viện đã xuất bản gần 160 cuốn sách hàng trăm bài báo và các kiến nghị khoa học.
2.2. Hợp tác nghiên cứu với nước ngoài
Ngoài các công trình nghiên cứu được giao, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới đã chủ động khai thác các nguồn tài trợ và hợp tác với các Viện nghiên cứu nước ngoài, thực hiện những công trình nghiên cứu về kinh tế thế giới và sự phát triển kinh tế Việt Nam. Những kết qủa thể hiện chủ yếu ở các hoạt động khoa học và công trình nghiên cứu sau:
Một là, phối hợp với Viện các nền kinh tế đang phát triển (DIE) của Nhật Bản nghiên cứu các đề tài: Chính sách công nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1994); Đổi mới kinh tế và chính sách dối ngoại của Việt Nam (1995); Định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đến năm 2000 (1996); Chính sách thương mại và đầu tư của Việt Nam (1997); Chính sách thương mại - đầu tư và sự phát triển một số nghành công nghiệp chủ lực cuả Việt Nam (1998).
Hai là, Phối hợp với Dataconsult và tập đoàn Economist Conferences của Anh tổ chức hai diễn đàn kinh doanh (tháng 4/1994 và 10/1994) tại TP. Hồ Chí Minh và 4 hội nghị bàn tròn cấp Chính Phủ tại Hà Nội, tham dự hội nghị và diễn đàn kinh doanh là các nhà kinh doanh của các tổ chức kinh tế hàng đầu thế giới, đến Việt Nam với mục đích tìm hiểu cơ hội đầu tư. Các hội nghị trên đã thành công tốt đẹp, đã được các bên đối tác và các thành viên dự hội nghị đánh giá tốt, và có hiệu quả thiết thực.
Ba là, Phối hợp với Sasakawa Foundation Peace tổ chức hội thảo về AFTA và nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng tham gia dự án nghiên cứu do UNDP tài trợ về hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN (1996).
Bốn là, Phối hợp với Toyota Foundation tiến hành dịch và xuất bản nhiều tài liệu về kinh tế Nhật Bản và khu vực như: Thuyết Z, Kinh tế chính trị học Nhật Bản, Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, Kinh tế Nhật Bản giai đoạn tăng trưởng cao, MITI và sư thần kỳ của Nhật Bản….
Năm là, Phối hợp với Viện Kinh tế và Chính trị thế giới của Trung Quốc nghiên cứu đề tài: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc và Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là hai tập sách đã được xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng Trung Quốc.
Ngoài ra, Viện còn hợp tác với các viện và tổ chức kinh tế khác như: Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương(VAPEC); với Đại học Michigan- Hoa Kỳ. Hiện tại Viện được sự hỗ trợ của Ford Foundation, Viện đang triển khai thực hiện hai dề tài về An ninh kinh tế và về Hợp tác kinh tế Đông Á. Trong hơn 20 năm qua Viện Kinh tế Thế giới đã tổ chức đón hàng trăm đoàn khách quốc tế và học giả nước ngoài đến làm việc và trao đổi hợp tác khoa học với Viện.
2.3. Công tác tạp chí
Viện hiện có hai tờ tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới- tiếng Việt- mỗi năm 6 số và Vietnam Economic Review- tiếng Anh- mỗi năm có 12 số. Đến nay, Viện đã xuất bản được gần 90 số tạp chí tiếng Việt và trên 100 số tạp chí tiếng Anh. Trong những năm qua, hai tờ tạp chí luôn đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức, chất lượng tạp chí ngày càng được nâng cao và có nhiều chuyên mục mới. Tờ tạp chí Vietnam Economic Review đã kịp thời phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời cung cấp những thông tin về thành tựu của nền kinh tế Việt Nam ra nước ngoài, góp phần nâng cao sự hiểu biết của các nước đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Cả hai tờ tạp chí đều được bạn đọc trong và ngoài nước hoan nghênh, số lượng tạp chí xuất bản ngày càng tăng. Hai tờ tạp chí này của Viện đã được các độc giả đánh giá rất cao, nó đã cung cấp thông tin mới nhất về những tình hình kinh tế trong nước cũng như ở nước ngoài với cách nhìn sâu rộng và toàn diện. Không chỉ có vậy mà hai tờ tạp chí của Viện đã cung cấp một lượng thông tin rất lớn cho các độc giả trong nước, đặc biệt là các độc giả nước ngoài để họ có điều kiện tìm hiểu về nền kinh tế Việt Nam.
2.4. Công tác thông tin thư viện
Song song với việc nghiên cứu xuất bản các ấn phẩm sách báo, dưới các hình thức lược thuật, lược dịch, tổng quát, hàng năm Viện đã in các tài liệu dưới dạng tin nhanh, tài liệu phục vụ, tập san chuyên đề đề cập đến các vấn đề nóng bỏng, quan trọng về tình hình kinh tế thế giới hoặc các bài viết nổi bật của các nhà khoa học nước ngoài về các vấn đề kinh tế, cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết cho các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đọc và tham khảo.
Bằng nguồn kinh phí của Nhà nước cấp để mua sách báo và trao đổi qua sách báo khá lớn: Trên 10.000 đầu sách tiếng Việt và tiếng nước ngoài, hàng trăm tạp chí định kì các thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Đức, Trung…đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của cán bộ trong và ngoài Viện. Công tác phục vụ bạn đọc ngày càng được nâng cao, bạn đọc có thể chọn tài liệu qua kho thư viện mở của Viện. Với ngân sách Nhà nước cấp hàng tháng Viện Kinh tế Thế giới đều mua và nhập về hàng trăm cuốn sách nhằm bổ sung tài liệu mới nhất phục vụ cho cán bộ trong Viện để có diều kiện tốt nhất về tài liệu trong quá trình nghiên cứu. Viện đã từng bước thực hiện công tác tin học hoá thông tin thư viện. Hiện nay, người đọc có thể tìm sách báo trên máy vi tính khai thác thông tin kinh tế thương mại qua mạng Intranet.
2.5. Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo
Cơ cấu tổ chức của Viện hiện có 6 phòng nghiên cứu và 4 phòng chức năng nhiệm vụ. Trong những năm qua, Viện đã chú trọng công tác bồi dưỡng cán bộ. Bên cạnh đào tạo về chuyên môn trên đại học trong và ngoài nước, còn coi trọng bồi dưỡng chính trị cho các cán bộ trong Viện.
Hiện nay, Viện có 59 cán bộ, trong đó có một viện sĩ, hai PGS, 19 tiến sĩ, 6 thạc sĩ, ngoài hai đồng chí có trình độ trung cấp, số còn lại đều có trình độ đại học (36 cán bộ nghiên cứu, 23 cán bộ làm công tác chức năng nhiệm vụ). Đặc biệt, năm 1995 do những thành tích nghiên cứu trong khoa học, đồng chí Võ Đại Lược được Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội nhân văn của Cộng hoà Liên Bang Nga tặng danh hiệu Viện sỹ nước ngoài.
Từ năm 1994, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học, do có những bước chuẩn bị tốt nên trong một thời gian ngắn Viện đã hướng dẫn và tổ chức bảo vệ thành công năm luận án tiến sỹ. Hiện nay, Viện đang đào tạo 17 nghiên cứu sinh học vị tiến sỹ.
Ngoài ra, một số cán bộ của Viện đã và đang tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại các trường đại học và cơ sở đào tạo khác.
2.6. Công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới được Nhà nước cấp vốn xây dựng trụ sở làm việc 4 tầng với mặt bằng xây dựng gần 1000m từ năm 1985 tại phường Trung Liệt- Đống Đa – Hà Nội được đưa vào sử dụng năm 1989. Do xây dựng từ thời bao cấp và được xây dựng giữa ao hồ lên công trình xuống cấp rất nhanh, mặt tiền thiết kế xấu và hướng tây nên rất nóng, bụi ồn ảnh hưởng đến chất lượng làm việc hàng ngày của cán bộ công nhân viên. Trong những năm gần đây bằng vốn chống xuống cấp, vốn đầu tư và vốn tự khai thác qua các nguồn hỗ trợ bên ngoài. Viện đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại, điều hoà nhiệt độ, đèn chiếu, máy vi tính, máy Photocopy,… cũng như trang thiết bị khác phục vụ công tác nghiên cứu. Hệ thống phòng họp, hội trường, phòng khách quốc tế, thư viện được cải tạo nâng cấp đủ điều kiện tổ chức các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế. Kết quả là sau khi công trình được đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng, trụ sở của Viện khang trang và đẹp đẽ hơn đã góp phần nào chống được độ nóng và ồn ào, chất lượng công việc đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay, Viện Kinh tế Thế giới là một trong những Viện có trụ sở làm việc và cảnh quan môi trường tốt, thoáng mát, góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân viên.
3. NHỮNG ƯU ĐIỂM, TỒN TẠI, NGUYÊN NHÂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
3.1. Những ưu điểm (những kết quả đạt được)
Hơn hai mươi năm qua, với những hoạt động nghiên cứu nêu trên, có thể nói Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới xứng đáng là một trong những cơ quan hàng đầu của Việt Nam về kinh tế , chính trị thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Điều này thể hiện ở khối lượng các công trình nghiên cứu đã công bố và đặc biệt thể hiện ở tính hệ thống, toàn diện và tính thực tiễn của các đề tài nghiên cứu. Viện đã nghiên cứu cả lý thuyết và động thái của kinh tế thế giới và các khu vực, các nước cụ thể, nghiên cứu cả những vấn đề vi mô và vĩ mô và đặc biệt là luôn gắn với những vấn đề do thực tiễn Việt Nam đặt ra, đồng thời nghiên cứu trực tiếp những vấn đề kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới. Những kết quả nghiên cứu này đã được chuyển tải trực tiếp tới các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Chính phủ, cũng như được phổ biến rộng rãi cho nhiều đối tượng khác nhau, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế của thế giới. Có thể coi đó là đặc trưng nổi bật của hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện. Những đóng góp cụ thể của Viện có thể được khái quát như sau:
3.1.1. Thời kỳ trước đổi mới
Một là, nghiên cứu kinh nghiệm của quá trình cải cách kinh tế ở các nước XHCN, đặc biệt chỉ ra xu hướng tât yếu của việc vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ trong quản lý, xu hướng phi tập trung hoá. Các đề tài nghiên cứu của Viện đã tập trung vào việc xem xét quá trình biến đổi của các nền kinh tế XHCN, đặc biệt chỉ ra những giới hạn của sự phát triển theo chiều rộng và xu hướng phát triển theo chiều sâu dựa trên việc áp dụng các công nghệ mới vào sản xuất. Những bất cập của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng đã được phân tích trong nhiều công trình nghiên cứu của Viện, đồng thời chỉ rõ xu hướng tất yếu của sự vận dụng các quan hệ hàng hoá tiền tệ trong nền kinh tế XHCN. Xu hướng cải tổ, cải cách của Liên Xô, Hungari và đã chiếm một vị trí nổi bật trong các nghiên cứu ở thời kỳ này. Những nghiên cứu và thông tin về các cuộc cải cách ở Trung Quốc đã có ý nghĩa tham khảo rất tích cực.
Hai là, nghiên cứu lý giải những biến đổi trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, đặc biệt chú trong nghiên cứu những thành tựu kinh tế của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ II; nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm phát triển kinh tế ở các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển, đặc biệt là quá trình cải cáh khu vực kinh tế Nhà nước, chính sách kinh tế đối ngoại. Nhiều công trình biên soạn và dịch thuật đã cung cấp những thông tin trung thực và hữu ích về quá trình phát triển kinh tế ở các nước và các khu vực, làm cơ sở cho những đánh giá khách quan xu hướng của thời đại.
Ba là, nghiên cứu những vấn đề về lý thuyết kinh tế. Bên cạnh những nghiên cứu về lý luận thời kỳ quá độ có liên quan trực tiếp đến con đường phát triển của Việt Nam, Viện còn có những nghiên cứu về những lý thuyết kinh tế học hiện đại.
3.1.2. Từ sau khi đổi mới đến nay
Trong thời kỳ này các công trình nghiên cứu của Viện tiếp tục góp phần vào việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối đổi mới cũng như giới thiệu như giới thiệu cho công chúng trong bức tranh tổng thể nền kinh tế thế giới. Những thành tựu nghiên cứu thể hiện trên những điểm chính sau:
Một là, phân tích và luận giải những đặc điểm và xu thế phát triển của kinh tế thế giới qua các thời kỳ. Trong thời kỳ 1986- 1990, Viện tiếp tục nghiên cứu sâu hơn quá trình cải cách kinh tế ở các nước XHCN, tập trung luận giải những mâu thuẫn của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung; phân tích quá trình liên kết kinh tế quốc tế XHCN. Cuốn sách Đổi mới tư duy trong cải tổ kinh tế ở Liên Xô, Ba Lan, Bungari, do tập thể cán bộ của Viện biên soạn xuất bản năm 1988 là một trong số ít công trình nghiên cứu có hệ thống tư tưởng cải tổ, cải cách trong hệ thống XHCN lúc đó đã có một tác dụng tốt đối với công chúng nước ta, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới tư duy ở Việt Nam .
Từ đầu thập kỷ 90, Viện đã thực hiện những nghiên cứu mang tính cơ bản hơn đặc biệt là hai đề tài cấp Nhà nước thời kỳ 1991- 1996: Nội dung và những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay, và Chủ nghĩa tư bản hiện đại. Hai đề tài này và các đề tài độc lập khác đã vạch ra những xu hướng và đặc điểm lớn của thế giới sau chiến tranh lạnh, đó là xu hướng hoà bình và hợp tác; xu hướng chuyển sang cơ sở vật chất kĩ thuật mới dựa trên cuộc cách mang khoa học hiện đại; xu hướng toàn cầu hoá kinh tế; xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường; xu hướng hình thành hệ thống chính trị toàn cầu. Các công trình nghiên cứu cũng phân tích và đánh giá nguyên nhân của sự sụp đổ hệ thống XHCN, khả năng thích ứng và tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, những vấn đề cuả các nước đang phát triển trong thế giới hiện đại và những vấn đề toàn cầu như nợ nần, đói nghèo, môi trường….Đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Viện không chỉ dừng lại ở việc nhận diện xu hướng chung mà phân tích những tác động đa chiều của chúng đối với thế giới nói chung và từng khu vực, xem xét sự phản ứng chính sách của các nước lớn, các khu vực và các tổ chức quốc tế ( Bối cảnh quốc tế và sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn năm 2002; Những xu hướng phát triển kinh tế thế giới năm 2001; Dự báo những vấn đề toàn cầu năm 2000; Tính hai mặt của toàn cầu hoá năm 2001; Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước hiện nay năm 2002….
Hai là, một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu của Viện tập trung phân tích những vấn đề của chủ nghĩa tư bản hiện đại dưới góc độ kinh tế chính trị học. Các công trình này đã phân tích chủ nghĩa tư bản như một hình thái kinh tế – xã hội với nhiều biến thái trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghệ, chỉ ra những mâu thuẫn của nó gắn liền với xu thế mới này: Chủ nghĩa tư bản ngày nay: Tự điều chỉnh kinh tế, Nxb. KHXH, HN 1993; Điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản phát triển,Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1993; Chủ nghĩa tư bản hiện đại, Nxb. Chính trị Quốc gia1995….Không chỉ dừng lại ở những phân tích chiều hướng chung, nghiên cứu của Viện về chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đi sâu phân tích các mô hình của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các trung tâm lớn của chủ nghĩa tư bản.
Ba là, nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế ở các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây là một trong các hướng nghiên cứu có những đóng góp khoa học hữu ích. Trên cơ sở bức tranh chung về cải cách và chuyển đổi kinh tế, nhiều công trình nghiên cứu đã tập chung tìm hiểu phân tích quá trình cải cách sở hữu, coi đây là vấn đề cốt lõi nhất của toàn bộ quá trình chuyển đổi. Đề tài Cải cách chế độ sở hữu ở Nga và Đông Âu(2002); sách Tư nhân hoá lớn ở các nước Trung và Đông Âu (1996); và Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc(1997) đã phân tích cả về lý luận và thực tiễn của quá trình cải cách chế độ sở hữu, bước đi, hình thức và những vấn đề nảy sinh của cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. Các công trình này cũng chỉ ra những đặc điểm đặc thù, các mô hình tư nhân hoá và cổ phần hoá khác nhau giữa các nước.
Bốn là, trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu của Viện, đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề thương mại và đầu tư quốc tế. Quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ WTO cũng như tự do hoá thương mại khu vực, đặc biệt trong khuôn khổ AFTA đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Những nghiên cứu này đã phân tích cơ sở lý thuyết của xu thế tự do hoá thương mại, những nguyên tắc của hệ thống thương mại đa phương, tiến trình tự do hoá thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được nghiên cứu từ cả phía các công ty xuyên quốc gia lẫn phía nhân đầu tư , phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình toàn cầu hoá, hình thành mạng lưới sản xuất toàn cầu cũng như đối với phát triển kinh tế quốc gia. Cuốn sách Các công ty xuyên quốc gia trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI (Nxb, KHXH.1995) đã trình bày một cách có hệ thống , phân tích cơ cấu tổ chức, mô tả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, xem xét chiến lược hoạt động của chúng.
Năm là, nghiên cứu hệ thống tài chính tiền tệ thế giới. Đây là lĩnh vực còn tương đối mới mẻ trong các công trình và đề tài do Viện thực hiện, song những vấn đề cơ bản của hệ thống tài chính tiền tệ, đặc biệt các chế độ tỷ giá, thị trường ngoại hối, quá trình cải tổ hệ thống tài chính quốc tế đã được xem xét khá hệ thống, góp phần vào việc tìm hiểu và nghiên cứu những chiều hướng mới của nền kinh tế thế giới
Sáu là, bên cạnh nghiên cứu cơ bản về xu thế phát triển kinh tế thế giới như vừa nêu trên, Viện còn tổ chức nghiên cứu và cung cấp thông tin về tình hình và động thái kinh tế thế giới, thể hiện qua các báo cáo hàng tháng và hàng năm. Những diễn biến về thương mại, đầu tư, tài chính tiền tệ quốc tế cũng như tình hình kinh tế của từng nước và khu vực đã được phản ánh khá đầy đủ và kịp thời trong các đề tài của Viện. Đặc biệt, nhiều sự kiện kinh tế thế giới những năm gần đây như khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, suy giảm kinh tế Mỹ- Nhật, sự kiện 11- 9 đã được tập trung nghiên cứu rất kịp thời, đưa ra nhiều nhận định xác thực, cung cấp cho giới hoạch định chính sách và đông đảo công chúng những thông tin và binh luận được đánh giá là có giá trị khoa học tốt. Có thể nói, nhiều công trình nghiên cứu không chỉ dừng lại ở phân tích sự kiện mà đã đi sâu tìm hiểu căn nguyên của các cuộc khủng hoảng và biến chuyển gần đây, xem xét những giải pháp chính sách khắc phục khủng hoảng.
Bẩy là, thành tựu của Viện trong hơn 20 năm qua còn được thể hiện trong việc nghiên cứu các mô hình và các kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới. Về mặt này, các công trình nghiên cứu đã đi sâu phân tích những vấn đề có ý nghĩa tham khảo thiết thực cho Việt Nam như kinh nghiệm công nghiệp hoá, cải cách kinh tế, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cuốn sách: Các mô hình công nghiệp hoá: Xingapo, Nam Triều Tiên, Ấn Độ (1988); Công nghiệp hoá, hiện đại hoá- Phát huy lợi thế so sánh: Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển châu Á(1991) đã phân tích chiến lược công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển châu Á, sự gắn kết công nghiệp hoá với hội nhập kinh tế thể hiện qua chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Kinh nghiệm trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong hoạt động ngoại thương, trong quá trình cải cách và cải tổ cơ cấu kinh tế, phát triển khu kinh tế mở, trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong phát triển nguồn nhân lực đã được nghiên cứu trong nhiều công trình như: Một số vấn đề kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển,(1988); Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển, (1994); Chiến lược con người trong thần kỳ kinh tế Nhật Bản (1996); Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam (1998) …. Viện cũng đã tiến hành những nghiên cứu về kinh nghiệm quản lý và hoạt động kinh doanh ở tầm vi mô như những vấn đề cải tổ công ty, kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản và một số nước châu Á.
Tám là, đóng góp khoa học quan trọng của Viện là những nghiên cứu về nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm chỉ đạo trong hoạt động nghiên cứu của Viện là mọi nghiên cứu phải hướng vào giải pháp những vấn đề của Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu kinh tế Việt Nam đã trở thành một mảng nghiên cứu quan trọng. Trong những năm 1980, nhiều công trình nghiên cứu của Viện đã cung cấp các luận cứ khoa học xác đáng cho việc đề ra đường lối đổi mới mà trọng tâm là cải cách kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá. Nhiều công trình nghiên cứu cũng góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề kinh tế nóng bỏng của đất nước như: chống lạm phát thời kỳ 1987- 1989, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam 1991- 2010, về tự do hoá thương mại, về chính sách tài chình tiền tệ, về đối sách với các nước lớn… trong những năm gần đây.
Ngoài ra, Viện đã tiến hành điều tra với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng công nghiệp. Kết quả điều tra đã cung cấp cơ sở dữ liệu tốt cho các nghiên cứu về hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến quá trình hội nhập.
3.2. Những tồn tại (hạn chế)
Đội ngũ cán bộ của Viện có trình độ chuyên sâu với tư cách là các chuyên gia đầu ngành chưa nhiều, lực lượng trẻ cần có thời gian đào tạo, đúc rút kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học.
Cần xác định lại chức năng cơ cấu của Viện sao cho phù hợp với tình hình và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Phần nhiều cán bộ diễn đạt bằng tiếng Anh còn hạn chế do vậy ảnh hưởng đến việc sinh hoạt khoa học trong và ngoài nước. Cho nên, bồi dưỡng và nâng cao trình độ ngoại ngữ là một yêu cầu cấp thiết của Viện.
Cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị của Viện hiện nay đã được nâng cấp song vẫn chưa thực sự hiện đại, chưa xứng đang với tầm vóc của một Viện nghiên cứu kinh tế hàng đầu trong cả nước hiện nay.
3.3. Phương hướng nghiên cứu của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới trong thời gian tới
Trên cơ sở chức năng của Viện, những hướng nghiên cứu từ nay đến năm 2010 của Viện là:
Thứ nhất, nghiên cứu và dự báo những xu hướng phát triển chủ yếu của thế giới những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI về kinh tế, chính trị, an ninh trong đó chú trọng đặc biệt đến những đặc điểm và xu hướng lớn của nền kinh tế thế giới với tư cách một chỉnh thể. Đây là hướng nghiên cứu cơ bản, chi phối các hướng nghiên cứu cụ thể tiếp theo.
Thứ hai, nghiên cứu và dự báo cuộc cách mạng khoa học công nghệ, những tác động về mặt kinh tế và chính trị của nó với các quan hệ kinh tế quốc tế và sự phát triển của các quốc gia.
Thứ ba, nghiên cứu các lý thuyết phát triển, các mô hình phát triển, các chiến lược và chính sách phát triển của các quốc gia và các khối quốc gia, làm nổi rõ những lý thuyết, mô hình, chiến lược và chính sách phát triển có ảnh hưởng trong các thập kỷ tới.
Thứ tư, nghiên cứu những vấn đề thương mại quốc tế, phân tích và dự báo thị trường thế giới nói chung và thị trường khu vực và từng nước, chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia có quan hệ buôn bán với Việt Nam; thị trường các sản phẩm và các đối thủ cạnh tranh trong từng lĩnh vực định hướng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, nghiên cứu đặc điểm và xu hướng của thị trường tài chính quốc tế và những vấn đề tiền tệ quốc tế; quá trình tự do hoá tài chính quốc tế; sự vận hành của đồng tiền chung châu Âu và tác động của nó; những đặc điểm của thị trường chứng khoán quốc tế; vai trò của các đồng tiền mạnh; thị trường ngoại hối; những diễn biến trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
Thứ sáu, nghiên cứu đặc điểm và các xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài; vai trò của các công ty xuyên quốc gia; chiến lược kinh doanh của chúng ở các nước đang phát triển và khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
Thứ bẩy, nghiên cứu toàn diện về tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như: WB, IMF, EU, APEC, NAFTA, ASEAN.
Thứ tám, nghiên cứu các quan hệ xuyên châu lục như quan hệ Á- Âu; quan hệ giữa các nước lớn; quan hệ giữa các nước phát triển , giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển cũng như các hình thức mới của quan hệ quốc tế.
Thứ chín, nghiên cứu các vấn đề chính trị và an ninh quốc tế, đặc biệt là những vấn đề có liên quan đến khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Việt Nam.
Thứ mười, nghiên cứu những vấn đề phát triển toàn cầu như dân số, các nguồn lực; nợ quốc tế; môi trường và phát triển; thu hẹp khoảng cách phát triển.
Ngoài ra, Viện còn tổ chức nghiên cứu các lý thuyết mô hình và thực tế phát triển như tăng trưởng và tiến bộ xã hội, nguồn lực con người và phát triển, tăng cường nghiên cứu sự phát triển của các lĩnh vực, các ngành kinh tế trên thế giới. Nghiên cứu những đặc điểm chung của các nước phát triển, động thái và chính sách của các nước lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. Nghiên cứu quá trình toàn cầu hoá, động thái, xu hướng và tác động của quá trình này đến chính trị và kinh tế thế giới, khu vực và Việt Nam. Nghiên cứu quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Nghiên cứu quá trình hội nhập của Việt Nam vào đời sống kinh tế và chính trị quốc tế, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO, APEC, ASEAN.
Cụ thể trong năm 2008 Viện tập trung nghiên cứu theo những hướng hoạt động sau:
Quá độ sang thời kỳ kinh tế mới và chuyển dịch nền kinh tế thế giới
Toàn cầu hoá và cải tổ hệ thống kinh tế quốc tế.
Những xu hướng trong hệ thống chính trị quốc tế đầu thế kỷ XXI.
Tình hình, dự báo ngắn hạn và trung hạn kinh tế các nước và khu vực.
Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá; chính sách và quan hệ đối ngoại của Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam….
3.4. Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động của Viện
Để thực hiện mục tiêu và chiến lược của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, cần có một loạt các biện pháp về tổ chức và đầu tư xây dựng Viện nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện trong thời gian tới.
Một là, củng cố về cơ cấu tổ chức. Cơ cấu tổ chức của Viện sẽ được hoàn thiện theo hướng kiện toàn bộ máy, cần thêm một số phòng mới, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Chức năng của các phòng ban được thành lập:
Phòng nghiên cứu tiền tệ và tài chính quốc tế thực hiện các vấn đề nghiên cứu như: hệ thống tiền tệ quốc tế, lý luận và chính sách tiền tệ, thị trường ngoại hối, các đồng tiền mạnh; lý thuyết và thực tiễn tài chính quốc tế, hệ thống ngân hàng quốc tế, các luồng vốn quốc tế; quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá tài chình quốc tế.
Phòng nghiên cứu thương mại quốc tế nghiên cứu các vấn đề: Lý thuyết và chính sách thương mại quốc tế; Quá trình tự do hoá thương mại khu vực và toàn cầu; Đặc điểm và xu hướng thị trường thế giới; Marketing quốc tế; Đặc điểm và xu hướng thương mại quốc tế.
Phòng nghiên cứu đầu tư và công ty xuyên quốc gia nghiên cứu về: Lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia; Động thái và xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài; Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, vai trò của chúng trong nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, một số phòng như: phòng nghiên cứu các tổ chức quốc tế thì nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Liên Hợp Quốc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức kinh tế như WB, IMF…; Phòng nghiên cứu chính trị quốc tế và phòng nghiên cứu các nền kinh tế chuyển đổi thì nghiên cứu về những lĩnh vực mà mình phụ trách.
Hai là, cụ thể hoá tiêu chuẩn các ngạch công chức, viên chức.
Đối với cán bộ nghiên cứu: với những người có học vị tiến sỹ và phó tiến sỹ, thực hiện các hình thức đào tạo chính, thông qua nhiều con đường khác nhau bao gồm cả thực tập ở nước ngoài và trao đổi hoc giả. Đối với chưa có học vị, phải được đào tạo để nhận học vị thạc sỹ và cao hơn. Tất cả các cán bộ đều phải có trình độ ngoại ngữ, trình độ tin hoc cơ sở…
Đối với cán bộ phục vụ nghiên cứu: Phải có trình độ đại học về lĩnh vực chuyên sâu; thông thạo ít nhất một ngoại ngữ; sử dụng thành tạo vi tính; đối với cán bộ tạp chí phải được trng bị nghiệp vụ báo trí; đối với cán bộ thư viện phải được đào tạo nghiệp vụ thư viện.
Đối với cán bộ quản lý: phải qua các lớp đào tạo về quản lý Nhà nước và lý luận chính trị theo quy định của Nhà nước.
Đối với cán bộ quản lý hành chính: được đào tạo về quản lý hành chính, có kỹ năng trong lĩnh vực phụ trách.
Ba là, xây dựng cơ sở vật chất và trang bị kĩ thuật: tiếp tục cải tạo nâng cấp trụ sở làm việc tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ công nhân viên như: nâng cao nền tầng một, thay toàn bộ hệ thống của sổ, nâng cấp thư viện và phòng đọc, chống thấm dột, chống nóng, xây trạm biến áp độc lập do năng lượng tiêu thụ của Viện quá lớn. Tiếp tục trang bị hệ thống máy móc như: điều hoà nhiệt độ, máy vi tính, máy đun nước nóng lạnh; vi tính hoá công tác thông tin và công tác tài chính, nối mạng vi tính nội bộ, nối mạng Intranet, Internet…
3.5. Giải pháp chung
- Phổ biến cho toàn thể cán bộ viên chức của Viện về chiến lược và quy hoạch tổng thể của Viện. Quán triệt cho toàn thể cán bộ trong Viện những mục tiêu và định hướng phát triển của Viện để từng người phấn đấu trong lĩnh vực chuyên môn của mình vào mục đích chung của Viện. Viện sẽ xác định rõ những tiêu chuẩn cụ thể cho từng diện công chức trong Viện, kết hợp chuyên sâu và khả năng phối hợp thực hiện nghiên cứu liên ngành.
- Xây dựng kế hoạch hàng năm dựa trên bản kế hoạch tổng thể này. Các kế hoạch hàng năm sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng, hoạt động của công đoàn và Đoàn thanh niên trong việc triển khai thực hiện quy hoạch này. Thực hiện việc bàn bạc dân chủ với trách nhiệm của lãnh đạo trong tất cả các khâu công việc.
- Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm thu hút nguồn lực trí tuệ và vật chất cho sự phát triển củaViện
3.6. Kiến nghị
- Chính phủ cần đổi mới cơ chế quản lý khoa học xã hội trên cơ sở chiến lược chung và quy hoạch phát triển khoa học xã hội. Cốt lõi của việc đổi mới cơ chế này là làm cho Viện nghiên cứu có thể thực hiện đúng chức năng của mình.
- Cần đổi mới chính sách đối với cán bộ khoa học sao cho có thể thu hút được người tài làm việc cho Viện nghiên cứu.
- Tăng thêm biên chế hoặc cho phép thực hiện chế độ tuyển dụng hợp đồng lâu dài.
KẾT LUẬN
Trong thời gian hơn 20 năm hoạt động và nghiên cứu vừa qua, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, khối lượng công việc đã làm là rất đáng khích lệ. Đóng góp lớn nhất của Viện là tổng kết và đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống các thay đổi thường xuyên của bối cảnh quốc tế; đúc kết kinh nghiệm phát triển của các nước; làm rõ các yếu tố kinh tế, chính trị thế giới…. Tác động tới tiến trình phát triển của Việt Nam, và đặc biệt góp phần tích cực vào việc xây dựng luận cứ cho việc hoạch định đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới đã trở thành một trong ba Viện thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia được yêu cầu báo cáo kết quả nghiên cứu trực tiếp lên văn phòng Trung ương Đảng.
Tuy nhiên, để duy trì được thành tích đã đạt được và khắc phục được những hạn chế của Viện còn tồn tại, đòi hỏi tập thể cán bộ công nhân viên chức của Viện không ngừng phấn đấu, nghiên cứu, trao đổi kiến thức cũng như có sự đầu tư thích đáng để có sự cải thiện môi trường hoạt động, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho Viện để xứng đáng với tầm vóc và quy mô của Viện.
Sau khi kết thúc giai đoạn thực tập tổng hợp 6 tuần đầu tại Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, nhờ có sự giúp đỡ tận tình của cán bộ trong Viện, em đã hoàn thành xong bài viết của mình. Qua đó em tích luỹ thêm được nhiều kiến thức về kinh tế về một nhà quản trị để em có thể vững bước hơn trong cuộc sống của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chủ biên PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng – PGS.TS Lưu Ngọc Trinh (2007), Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 8 -2007
PGS.TS Lưu Ngọc Trinh (2007), Báo cáo: “Viện Kinh tế Thế giới những thành tựu chủ yếu và phương hướng nghiên cứu khoa học trong năm 2007”.
PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển Viện Kinh tế Thế giới đến năm 2010.
TS. Chu Đức Dũng (2004), Báo cáo tổng kết năm 2004 của Viện Kinh tế Thế giới.
TS. Chu Đức Dũng (2005), Báo cáo tổng kết năm 2005 của Viện Kinh tế Thế giới.
TS. Chu Đức Dũng (2006), Báo cáo tổng kết năm 2006 của Viện Kinh tế Thế giới.
TS. Chu Đức Dũng (2007), Báo cáo tổng kết năm 2007 của Viện Kinh tế Thế giới.
Số thứ tự
Chữ viết tắt
Ý nghĩa đầy đủ
Tiếng anh
Tiếng việt
1
WTO
World trade organization
Tổ chức thương mại thế giới
2
TC
Transnational Corporation
Công ty xuyên quốc gia
3
MC
Multinational Corporation
Công ty đa quốc gia
4
ODA
Offical Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
5
UN
United Nations
Liên hợp quốc
6
OECD
Organization for Economic Co-operation and Development
Tổ chứ hợp tác và phát triển kinh tế của Liên hợp quốc
7
ASEAN
Association of South – East Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
8
APEC
Asia- Pacific Economic Co-opertation
Tổ chức hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương
9
NIC
New Industry Countrys
Các nước công nghiệp mới
10
ASEM
Asian – Europe Meeting
Hội nghị hợp tác Á - Âu
Danh mục các từ viết tắt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hạch toán kế toán tại Công ty ĐTXD và PTKT Hạ tầng Sơn Vũ.DOC