MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ . 5
DANH MỤC VIẾT TẮT 6
LỜI MỞ ĐẦU . 8
CHưƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC
PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN. . 12
1.1 Công ty cổ phần . 12
1.2 Cơ cấu vốn của công ty cổ phần . 12
1.2.1 Khái quát chung về cơ cấu vốn 12
1.2.2 Cơ cấu vốn mục tiêu . 15
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cơ cấu vốn mục tiêu
. 15
1.3. Các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần . 16
1.3.1 Vay vốn ngân hàng . 16
1.3.2 Tín dụng thương mại 16
1.3.3 Phát hành chứng khoán 17
1.3.4 Các hình thức huy động vốn khác 17
1.4 Huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu . 17
1.4.1 Cổ phiếu và hình thức phát hành cổ phiếu . 17
1.4.2 Trái phiếu và hình thức phát hành trái phiếu 20
1.5 Khái quát về hiệu quả huy động vốn . 25
1.5.1 Khái niệm hiệu quả huy động vốn . 25
1.5.2 Tiêu chí phản ánh hiệu quả huy động vốn 25
1.6. Các nhân tố tác động tới quá trình huy động vốn của công ty cổ
phần 28
1.6.1 Các nhân tố khách quan . 28
1.6.2 Các nhân tố chủ quan . 29
CHưƠNG II: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH
THỨC PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU, TRÁI PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
VINCOM . 31
2.1. Tình hình huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu, trái
phiếu tại các doanh nghiệp cổ phần Việt Nam . 31
2.1.1 Phân tích tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam . 31
2.1.2 Những xu hướng mới trong hình thức phát hành cổ phiếu, trái
phiếu để huy động vốn tại các công ty cổ phần Việt nam . 34
2.2 Giới thiệu sơ lược về công ty cổ phần Vincom 36
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty 36
2.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Vincom . 37
2.2.3 Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Vincom 39
2.2.4 Cơ cấu nguồn vốn của công ty . 40
2.3 Tình hình huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu của
công ty Vincom 40
2.3.1 Những đợt huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu của
Vincom . 40
2.3.2 Phân tích việc huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu
ra công chúng lần đầu (IPO) 41
2.3.3 Phân tích việc huy động vốn qua đợt chào bán cổ phiếu ra công
chúng đầu năm 2008 của Vincom . 45
2.4 Tình hình huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu của
công ty Vincom 47
2.4.1 Những đợt huy động vốn của Vincom thông qua hình thức phát
hành trái phiếu . 47
2.4.2 Phân tích kết quả của đợt phát hành trái phiếu lần thứ 2(2008) 48
2.4.3 Phân tích kết quả của 2 đợt phát hành trái phiếu (đợt 3 và đợt 4)
của công ty Vincom trong quý 4 năm 2009 50
CHưƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN VINCOM THÔNG QUA THỊ TRưỜNG CHỨNG KHOÁN . 54
3.1 Quy mô, kết cấu nguồn vốn giai đoạn 2006 – 2009 của Vincom 54
3.2 Đánh giá hiệu quả huy động vốn thông qua chỉ tiêu . 61
3.3 Đánh giá huy động vốn nói chung của các công ty trong cùng
ngành 66
CHưƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU, TRÁI
PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 69
4.1 Những yếu tố bên trong tác động tới quá trình huy động vốn của
Vincom 69
4.1.1 Mạng lưới thông tin hiệu quả 69
4.1.2 Làm đẹp báo cáo tài chính 70
4.1.3 Quản lý chưa chặt chẽ chi phí huy động vốn 70
4.2 Những yếu tố bên ngoài tác động đến quá trình huy động vốn
của Vincom . 71
4.2.1 Chứng khoán vẫn chủ yếu để “lướt sóng” 71
4.2.2 Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh . 72
4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường còn yếu . 72
4.3 Giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng hình thức
phát hành trái phiếu, cổ phiếu đối với các công ty cổ phần . 73
4.3.1 Tạo dựng độ tin cậy của công ty . 73
4.3.2 Tạo dựng hình ảnh về năng lực của công ty 74
4.3.3 Tài sản bảo đảm . 75
4.3.4 Hạn chế rủi ro đối với nhà tài trợ vốn . 75
4.3.5 Xây dựng đội ngũ nhân lực và lãnh đạo hoạt động hiệu quả . 75
4.3.6 Chủ động tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng . 76
4.3.7 Linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chứng khoán để đạt
được mục tiêu 78
4.4 Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng . 80
KẾT LUẬN . 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5028 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần thông qua mô hình công ty Vincom, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
009 của
Vincom
Chỉ tiêu Quý III/2009 Quý IV/2009
Tỷ suất tự tài trợ 30% 25%
Hệ số nợ 70% 75%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2009 của Vincom)
53
Do mức tăng của nợ phải trả (1,93 lần) lớn hơn mức tăng của vốn chủ sở hữu
(1,53 lần), nên tỷ suất tự tài trợ của Vincom ở quý IV giảm 5% so với quý III và
ngược lại hệ số nợ của quý IV lại tăng 5% so với quý III.
Hệ số nợ của công ty ở mức cao như vậy do hệ quả của 2 đợt phát hành trái
phiếu khiến cho công ty bị phụ thuộc rất nhiều vào các chủ nợ, rủi ro tài chính cao,
không đảm bảo an toàn cho sản xuất kinh doanh.
54
CHƢƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN VINCOM THÔNG QUA THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN
3.1 Quy mô, kết cấu nguồn vốn giai đoạn 2006 – 2009 của Vincom
a. Giai đoạn 2006 – 2007
Sự biến động của tổng số nguồn vốn theo thời gian có thể cho ta biết khả
năng tạo lập, tìm kiếm, huy động vốn của doanh nghiệp. Sau đây là bảng chỉ tiêu
nguồn vốn trong giai đoạn 2006-2007.
Bảng 3.1: Chỉ tiêu nguồn vốn năm 2006 – 2007 của Vincom
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006 – 2007 của Vincom)
Chỉ tiêu
Năm 2006 Năm 2007
Số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ lệ
(lần)
A. Nợ phải
trả
79.886 11,8 1.246.686 39 1.166.799 15,6
I. Nợ ngắn
hạn
56.424 8,4 199.769 6 143.344 3,5
II. Nợ dài hạn 23.461 3,4 1.046.917 33 1.023.455 44,6
B. Vốn chủ sở
hữu
594.521 88,2 1.933.137 61 1.338.615 3,3
I. Vốn chủ sở
hữu
594.521 88,2 1.842.705 58 1.248.183 3,1
II. Nguồn
kinh phí và
quỹ khác
0 0 90.432 3 90.432 -
TỔNG
CỘNG
674.408 100 3.179.823 100 2505.415 4,7
55
Qua bảng trên, ta thấy tổng nguồn vốn Vincom năm 2007 là 3179 tỷ và năm
2006 là 674 tỷ. Như vậy tổng nguồn vốn năm 2007 đã tăng 2505 tỷ, gấp 4,7 lần so
với năm 2006. Trong đó đặc biệt nguồn vốn chủ sở hữu tăng 3,1 lần do vốn đầu tư
của chủ sở hữu tăng từ 313,3 tỷ lên 800 tỷ đồng, phản ánh việc phát hành cổ phiếu
lần đầu ra công chúng. Như vậy việc tạo lập vốn về quy mô trong năm 2007 đã tăng
mạnh so với 2006.
Tuy nhiên ta cũng có thể tính được hệ số tự tài trợ của Vincom ( tỷ trọng vốn
chủ sở hữu/ nguồn vốn) năm 2007 là 61%, của năm 2006 là 88% cho thấy rằng mặc
dù nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên so với năm 2006 nhưng đồng thời nợ phải trả của
Vincom cũng tăng, đặc biệt nợ dài hạn tăng gấp 44,6 lần so với năm 2006, nguyên
nhân chủ yếu là do năm 2007 Vincom phát hành trái phiếu thời hạn 5 năm, tổng trị
giá 1000 tỷ đồng, lãi suất 10,3%/ năm khiến cho khoản mục vay và nợ dài hạn tăng
mạnh. Chính điều này ảnh hưởng trực tiếp tới tổng nguồn vốn của Vincom khiến
cho mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty giảm đi.
Bảng 3.2 : Phân tích các chỉ tiêu tài chính của Vincom năm 2006 – 2007
(Đơn vị: triệu VNĐ)
Chỉ tiêu
Năm 2007 Năm 2006
Nợ dài hạn 1.046.917 23.461
Vốn chủ sở hữu 1.842.705 594.521
Lợi nhuận sau thuế chƣa
phân phối
269.360 281.021
Tỷ suất tự tài trợ 61% 88%
Hệ số nợ 39,21% 11,85%
( Nguồn: Báo cáo kết quả thường niên 2007 của Vincom)
Qua bảng phân tích trên ta thấy vốn chủ sở hữu tăng, lợi nhuận giữ lại giảm, tỷ
suất tự tài trợ của công ty giảm, hệ số nợ tăng từ 11,85% lên 39,21%. Nợ phải trả
tăng lên dẫn tới sự tăng tương ứng của nguồn vốn, nói lên tình hình tài trợ tài sản
56
bằng vốn chiếm dụng, vay vốn đẩy mạnh sản xuất. Mặc dù đòn bẩy tài chính tăng,
tuy nhiên hệ số nợ tăng đồng nghĩa với việc Vincom bị giảm tự chủ tài chính, an
ninh tài chính của doanh nghiệp có nguy cơ bị đe dọa.
b. Giai đoạn 200 7 – 2008
Qua bảng phân tích dưới đây, ta có thể nắm được những nội dung chủ yếu
sau:
Vốn chủ sở hữu năm 2008 đạt 1622 tỷ tăng mạnh so với năm 2006 (là 594,5
tỷ), tuy nhiên lại giảm 310 tỷ so với năm 2007 ( đạt 1933,1 tỷ). Trong năm 2008
cũng chứng khiến sự tăng mạnh của khoản nợ phải trả, khoản mục này tăng 55,07
lần so với năm 2006 và 3,53 lần so với năm 2007 nguyên nhân do tháng 3/2008,
Vincom phát hành trái phiếu ra công chúng, làm tăng mức nợ dài hạn.
Thông qua các cột C, E, H ta thấy được tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn
chiếm trong tổng số nguồn vốn ở từng thời điểm cuối năm. Tỷ trọng nguồn vốn chủ
sở hữu giảm qua các năm, đến năm 2008, tỷ suất tự tài trợ là 26,94%, giảm 33,85%
so với cuối năm 2007. Ngược lại, tỷ lệ nợ phải trả / tổng nguồn vốn tăng mạnh: năm
2006 là 11,85%; năm 2007 là 39,21%; năm 2008 tăng lên 73,06%. Việc tỷ suất tự
tài trợ giảm và hệ số nợ tăng mạnh đồng nghĩa với việc giảm tính tự chủ tài chính,
an ninh tài chính của Vincom giảm.
57
58
Bảng 3.3 : Phân tích cơ cấu nguồn vốn thay đổi qua 3 năm 2006, 2007, 2008
Chỉ tiêu
Cuối năm Cuối năm 2008 so với cuối năm…
2006 2007 2008 2006 2007
Số tiền
(triệu
VNĐ)
Tỷ
trọng
%
Số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ
trọng
%
Số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ
trọng
%
Chênh lệch về
số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ
lệ (
lần)
Chên
h lệch
về tỷ
trọng
Chênh lệch về
số tiền
(triệu VNĐ)
Tỷ lệ
(lần)
Chênh
lệch về
tỷ
trọng
A B C D E G H I K L M N O
Tổng số
vốn chủ
sở hữu
594.521 88,1 1.933.137 60,7 1.622.503 26,9 1.027.981 2,7 -61 -310.634 0,8 -33,8
Tổng số
nợ phải
trả
79.886 11,8 1.246.686 39,2 4.399.063 73 4.319.176 55 61 3.152.376 3,5 33,8
Tổng số
nguồn
vốn
674.408 3.179.823 6.021.56 5.347.158 8,9 2.841.742 1,8
59
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006 – 2008 của Vincom)
60
c. giai đoạn 2008 – 2009
Thông qua bảng số liệu sau, ta có thể thấy được năm 2009 đã có một bước đột
phá lớn trong việc thay đổi cơ cấu vốn của Vincom.
Bảng 3.4: Cơ cấu nguồn vốn thay đổi năm 2008 – 2009 của Vincom
( Đơn vị: triệu VNĐ)
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2008-2009)
- Số nợ phải trả của công ty tăng đột biến gần 250% so với năm 2008, từ 4.399
tỷ VNĐ tới tận 10.677 tỷ VNĐ. Việc gia tăng nhanh chóng này chủ yếu là do cuối năm
2009, Vincom đã trở thành công ty đầu tiên của Việt Nam phát hành thành công 100
triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế ra thị trường châu Á nhằm huy động vốn cho
các dự án công ty đặc biệt là Eco City và Royal City.
- Tổng vốn chủ sở hữu cũng tăng xấp xỉ 225% so với năm 2008, từ 1.622 tỷ
VNĐ tới 3.635 tỷ VNĐ.
Qua sự tăng đáng kể cả về vốn chủ sở hữu và vốn vay nói trên, có thể nói năm
2009 là năm thành công lớn của công ty Vincom trong việc huy động vốn từ công
chúng trong và ngoài nước từ khi thành lập đến nay.
Chỉ tiêu
2008 2009
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền (ngàn VNĐ)
Tỷ trọng
(%)
Tổng VCSH 1.622.503 26,94 3.635.734 25,4
Tổng nợ phải
trả
4.399.063 73,06 10.677.630 74,6
Tổng nguồn
vốn
6.021.566 14.313.365
61
Bảng 3.5: Bảng tỷ suất tự tài trợ và hệ số nợ các năm của Vincom
( Đơn vị %)
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009
Tỷ suất tự tài
trợ
88,15 60,79 26,94 25,4
Hệ số nợ 11,85 39,21 73,06 74,6
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006 – 2009 của Vincom)
Tuy nhiên, căn cứ theo bảng trên ta thấy, hệ số nợ của công ty đã tăng lên nhanh
chóng theo các năm, và tới cuối năm 2009 con số này đã lên tới 74.6 %. Đây có thể coi
là thành công của Vincom khi huy động vốn vay dài hạn nhưng cũng là sự cảnh báo
đối với cơ cấu vốn bấp bênh của công ty. Có thể thấy, hiện nay Vincom đang bị phụ
thuộc tài chính qúa nhiều và công ty nên cẩn thận với một cơ cấu vốn tiểm ẩn nhiểu rủi
ro như vậy.
3.2 Đánh giá hiệu quả huy động vốn thông qua chỉ tiêu
Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của công ty Vincom thông qua chỉ
tiêu này, doanh nghiệp cần phải hiểu được cơ cấu nguồn vốn huy động và chi phí phải
bỏ ra để huy động nguồn vốn này qua các năm qua.
Nguồn vốn huy động thông qua phát hành chứng khoán của Vincom có mức tăng
trưởng đáng kể và khá bền vững. Năm 2006, công ty chưa có vốn huy động từ phát
hành chứng khoán. Năm 2007, nguồn vốn thu từ phát hành cổ phiếu là 800 tỷ, năm
2008 là gần 400 tỷ, giảm 2 lần so với năm 2007; năm 2009 là 800 triệu, tăng 200% so
với năm 2007. Tỷ trọng của nguồn vốn đóng góp từ cổ đông cũng giảm qua các năm
do công ty thấy răng lợi nhuận công ty tăng khá ổn định, vì vậy việc phát hành cổ
phiếu đồng nghĩa với việc chia sẻ quyền kiểm soát. Vì vậy Vincom cân nhắc và chỉ huy
62
động vốn bằng cổ phiếu với tỷ trọng nhỏ nhằm nâng cao nguồn vốn điều lệ, tạo sự tin
tưởng chắc chắn về cơ cấu vốn cho những nhà đầu tư. Năm 2009, tổng vốn điều lệ của
Vincom đã tăng lên 3600 tỷ. Trong nguồn vốn huy động thì trái phiếu vẫn chiếm tỷ
trọng cao hơn do tính chắc chắn và những ưu điểm của hình thức này. Đặc biệt trong
quý IV năm 2009, Vincom phát hành trái phiếu chuyển đổi quốc tế. Việc này không
chỉ mang lại cho Vincom kênh dẫn vốn lớn mà còn tăng sức hấp dẫn cho các nhà đầu
tư về sự đa dạng trong cơ cấu vốn của Vincom.
Nguồn vốn huy động tăng lên mà theo đó chi phí cho huy động vốn cũng tăng
một cách tương ứng. Năm 2008, chi phí tăng 196% so với năm 2007, năm 2009, chi
phí huy động tăng khá mạnh (tốc độ tăng là 164 % so với 2008). Mặc dù tốc độ tăng
chi phí năm 2009 giảm đi so với năm 2008 nhưng tốc độ tăng của chi phí thì vẫn tăng
nhanh hơn tốc độ tăng của nguồn vốn. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù Vincom cũng có
những biện pháp kiềm chế chi phí nhưng chưa thực sự hiệu quả.
Từ bảng 3.7 ta thấy rằng trong năm 2007, Vincom phát hành cổ phiếu lần đầu tiên
ra công chúng, vì thế lần phát hành này yêu cầu nguồn chi phí lớn cho quảng cáo,
marketing, bảo hiểm, kiểm tra đánh giá và các chi phí liên quan để đưa cổ phiếu
Vincom lên sàn giao dịch. Vì vậy phần chi phí huy động vốn trong năm 2007 chiếm tỷ
trọng lớn hơn các năm tiếp theo, khi mà Vincom chỉ phát hành thêm cổ phiếu thường.
Hơn nữa việc phát hành cổ phiếu ưu tiên cho các cổ đông hiện hữu như trong năm
2008 giúp Vincom tiết kiệm được tối đa phần chi phí tiếp thị và phát hành rộng rãi ra
công chúng. Bên cạnh đó chính sách trả cổ tức trong từng năm cũng có những biến đổi
nhất định khiến chi phí cũng thay đổi. Để khuyến khích công nhân viên, Vincom thực
hiện chính sách trả thưởng bằng cổ phiếu hoặc bán cổ phiếu với giá ưu đãi.
Trên số liệu thị các chi phí liên quan tới phát hành trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn
hơn cổ phiếu. Nhưng so về tỷ lệ chi phí bỏ ra trên nguồn vốn thu về thì chi phí phát
hành trái phiếu nhỏ hơn một cách tương đối so với cổ phiếu. Do trái phiếu thường có
63
lãi suất cố định, trả lãi hằng năm vào cuối kì nên chi phí phải trả lãi vay của trái phiếu
là không đổi. Mặc dù vậy, Vincom cũng có những chính sách nhất định: các trái phiếu
Vincom phát hành ra năm đầu thường có mức lãi suất cố định. Nhưng từ năm thứ hai
trở đi, mức lãi suất này được tính theo mức lãi suất thị trường cộng thêm một khoảng
% lãi suất nhất định. Chính sách này giúp cho chi phí trả lãi vay của việc huy động vốn
của Vincom có những thay đổi theo từng năm. Năm 2007, chi phí cho huy động vốn
bằng trái phiếu của Vincom chiếm 58% tổng lượng chi phí huy động vốn. Năm 2008 tỷ
trọng này tăng lên 91,78% và năm 2009 là 82,91%.
Từ bảng 3.7 có thể thấy rằng năm 2007, bình quân để huy động được một đồng
vốn từ phát hành cổ phiếu, Vincom phải bỏ ra 0,0933 đồng chi phí, con số này giảm đi
còn 0,0719 năm 2008 (tương ứng với bằng 77,1% so với 2007) và 0,0654 năm 2009
(tương ứng bằng 91 % so với năm 2008). Con số này giảm đi cho ta thấy rằng chi phí
huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu của Vincom giảm đi theo các năm. Các công ty
trong lĩnh vực bất động sản thường cần những nguồn vốn lớn và có tốc độ lưu chuyển
nhanh, vì thế phát hành cổ phiếu để tăng vốn chủ sở hữu là biện pháp hữu hiệu với
Vincom. Việc huy động vốn bằng cổ phiếu không có xu hướng nhất định mà tùy vào
điều kiện từng năm của doanh nghiệp. Tuy nhiên nói chung việc huy động bằng phát
hành cổ phiếu của Vincom là khá hiệu quả.
Xem xét bảng nguồn vốn và chi phí huy động vốn bằng hình thức trái phiếu của
Vincom qua các năm thấy rằng: nguồn vốn huy động bằng hình thức trái phiếu tăng lên
qua từng năm, và chi phí huy động vốn cũng có xu hướng tăng lên và tăng nhanh hơn
tỷ lệ tăng của nguồn vốn. Điều này khiến cho chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ quy mô
nguồn vốn tăng lên. Ta thấy rằng năm 2007 để huy động 1 đồng vốn thì cần 0,1035
đồng chi phí. Chỉ tiêu trong năm 2008 là 0,1604; đến năm 2009, chỉ tiêu này tăng lên là
0,1863. Như vậy việc huy động vốn trái phiếu này của Vincom chưa hiệu quả và cần
phải khắc phục trong tương lai.
64
Bảng 3.6: Bảng tổng hợp chi phí huy động vốn qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu của Vincom năm 2007 – 2009
(Các chi phí được tính dựa trên lãi suất cho vay và tỷ lệ trả cổ tức bình quân)
(Đơn vị triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Chi phí Chi phí
Tốc độ tăng
trƣởng
Chi phí
Tốc độ tăng
trƣởng
Tổng chi phí huy động 178.090 349.646 196% 574.132 164%
Tổng vốn huy động 1.800.000 2.399.910 133% 3.600.000 150%
Chỉ tiêu chi phí/ quy mô
vốn
0,0989
0,1457
147,3% 0,1594 109,4%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2007 – 2009 của Vincom)
65
Bảng 3.7: Bảng cơ cấu nguồn vốn và chi phí huy động của hình thức phát hành cổ phiếu của Vincom năm
2007- 2009
(Đơn vị triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số tiền Số tiền
Chênh lệch so
với năm 2007
Số tiền
Chênh lệch so
với năm 2008
Nguồn vốn huy
độngbằng cổ
phiếu
800.000 399.910 49,9% 800.000 100%
Chi phí huy
động bằng cổ
phiếu
74.631 28.757 38,5% 52.331 181%
Chi phí huy
động/ Quy mô
huy động vốn
0,0933 0,0719 77% 0,0654 90%
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2007, 2008, 2009 của Vincom)
66
Bảng 3.8: Bảng cơ cấu nguồn vốn và chi phí huy động của hình thức phát hành
trái phiếu của Vincom năm 2007- 2009
(Đơn vị triệu đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số tiền Số tiền
Tăng
trƣởng so
với năm
2007
Số tiền
Tăng
trƣởng so
với năm
2008
Nguồn vốn
huy
độngbằng
trái phiếu
1.000.000 2.000.000 200% 2.800.000 800.000
Chi phí huy
động bằng
trái phiếu
103.459 320.889 210,1% 521.801 162,6%
Chi phí huy
động/ Quy
mô huy
động vốn
0,1035 0,1604 154,9 % 0,1863 116%
(Nguồn: Báo cáo tài chính 2007 – 2009 của Vincom)
3.3 Đánh giá huy động vốn nói chung của các công ty trong cùng ngành
Kể từ giữa năm 2008, lo ngại tình hình lạm phát và nạn đầu cơ bất động sản
( BĐS ) vốn đang diễn ra nhanh chóng, ngân hàng Nhà nước đã có nhiều biện
pháp thắt chặt tín dụng bất động sản. Năm 2009, ngân hàng nhà nước đã có chỉ
đạo rõ ràng là “ Kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất (cho vay
kinh doanh BĐS, cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay tiêu dùng)”18.
Dư nợ tín dụng cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản năm 2009 giảm gần 12%
18
Quyết định 2665/ QĐ – NHNN, Ngân hàng nhà nước ban hành ngày 01/12/2009
67
so với năm 2008, con số tuyệt đối lên tới gần 20.000 tỷ đồng. Và sang năm 2010,
vẫn chưa có dấu hiệu các ngân hàng nới lỏng tín dụng trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, chủ trương này đang gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp, chủ đầu tư BĐS vì không có kinh phí để tiếp tục thực hiện dự án. Từ cái
khó này, nhiều doanh nghiệp BĐS đã tự cứu lấy mình khi đưa vào khai thác
phương thức huy động vốn bằng cách chứng chỉ hóa BĐS, phát hành trái phiếu
doanh nghiệp cho những người có nhu cầu. Thực chất cách làm này đã phổ biến
ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng ở Việt Nam còn mới mẻ.
Một số chuyên gia nhận xét, trong tình hình thị trường BĐS gặp nhiều khó
khăn về các khoản tín dụng như hiện nay thì việc phát hành trái phiếu được xem
như là một kênh huy động vốn nhanh, hiệu quả. Hơn nữa lượng tiền mặt trong dân
khá nhiều nên với cách này các doanh nghiệp đầu tư BĐS sẽ không khó khăn để
tìm được nguồn vốn theo ý muốn. Ngoài ra chủ đầu tư có thể huy động vốn của
nhiều đối tượng khác nhau như quỹ đầu tư, các công ty, tập đoàn bảo hiểm, tài
chính... Mặt khác việc áp dụng lãi suất cũng như quá trình trả nợ qua phương thức
này sẽ linh hoạt hơn so với các tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp cũng có thể chủ
động hơn trong việc quản trị tài chính thông qua việc mua đi hay bán lại trái phiếu
do công ty mình phát hành ra trên thị trường.
Qua sự việc ngân hàng “khóa van” BĐS vừa qua, các doanh nghiệp kinh
doanh BĐS mới vỡ ra một điều, điểm tựa tài chính cho thị trường BĐS Việt Nam
còn quá yếu, gần như duy nhất chỉ biết vay vốn từ ngân hàng mà không có một
kênh huy động nào khác. Chính vì vậy khi xảy ra sự cố, các doanh nghiệp BĐS lao
đao, thị trường lập tức rối loạn khiến nhiều người vô cùng lo lắng và ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng bền vững của thị trường còn non trẻ này. Chính vì vậy việc tạo
ra nhiều kênh huy động vốn khác nhau sẽ khiến thị trường BĐS chủ động và đứng
vững hơn trước mọi biến cố. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh BĐS đang tỏ ra rất
hào hứng với phương thức huy động vốn kiểu này. Rõ ràng, tại thời điểm hiện nay
khi nhiều doanh nghiệp đang bên bờ vực thẳm thì đây chính là cái phao vớt họ lên.
Càng nhiều doanh nghiệp tham gia huy động vốn bằng hình thức này thì người
68
mua sẽ càng có lợi do các doanh nghiệp phải chạy đua ưu ái khách hàng nhằm
sớm thu được tiền thực hiện dự án. Tuy nhiên để thực hiện một cách bài bản, đúng
pháp luật và lâu dài thì cần phải có những quy định pháp lý rõ ràng, cụ thể về trách
nhiệm đối với cả hai bên. Người mua cũng cần thận trọng, nên “chọn mặt gửi
vàng” và tìm hiểu kỹ các nội dung ràng buộc giữa hai bên để hạn chế thấp nhất
những mâu thuẫn, hiểu lầm, ảnh hưởng đến quyền lợi có thể phát sinh sau này,
nhất là lúc đáo hạn thị trường BĐS tăng lên hoặc hạ xuống bất ngờ.
Các chuyên gia cho rằng, việc doanh nghiệp "tự thân vận động" bằng cách
huy động vay tiền nhàn rỗi từ cá nhân, tổ chức thông qua cổ phiếu, trái phiếu, trái
phiếu chuyển đổi là điều tất yếu. Tuy nhiên, cũng cần phải cân đối tỷ lệ hợp lý
giữa phần vốn tự có với phần vốn vay nợ, về mặt lý thuyết cứ 2 đồng vay thì
nên "thủ" 1 đồng tự có. Mặt khác, doanh nghiệp cũng không nên quá kỳ vọng vào
mức lợi nhuận cao mà có thể linh động giảm giá bất động sản để bán hàng nhằm
quay vòng vốn tái đầu tư khi cần.
69
CHƢƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN BẰNG HÌNH THỨC
PHÁT HÀNH CỔ PHIẾU, TRÁI PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN
Theo như phân tích ở chương 3 cho thấy, nói chung Vincom đã đưa ra một
số chính sách để kiểm soát được chi phí huy động vốn qua thị trường chứng khoán
nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn. Chỉ tiêu chi phí vốn huy đông/ quy mô
vốn mặc dù vẫn tăng lên nhưng với tốc độ giảm đi theo từng năm. Trong chương 4
này, đề tài sẽ tìm hiểu lý do về mức độ hiệu quả trong việc huy động vốn của
Vincom thông qua những yếu tố tác động từ bên trong lẫn bên ngoài. Từ đó sẽ đưa
ra một số giải pháp hữu ích đối với công ty cổ phần nói chung, Vincom nói riêng
cũng như là nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và chứng
khoán, giúp các doanh nghiệp cổ phần tìm kiếm được nguồn vốn tài trợ cho hoạt
động kinh doanh.
4.1 Những yếu tố bên trong tác động tới quá trình huy động vốn của Vincom
4.1.1 Mạng lưới thông tin hiệu quả
Một trong những nguyên nhân khiến cho việc phát hành cổ phiếu và trái
phiếu của Vincom diễn ra thuận lợi đó là nhờ hệ thống cung cấp thông tin kịp thời
và chi tiết đến các nhà đầu tư.
Website của công ty ( được xây dựng rất công
phu, rõ ràng và dễ tra cứu. Nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận được những thông
tin đáng tin cậy về tình hình hoạt động, các dự án sắp triển khai, các báo cáo tài
chính cũng như các thay đổi trong bộ máy quản trị của công ty. Các báo cáo tài
chính riêng, báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tài chính tóm tắt được cập nhật
thường xuyên theo từng quý.
70
Ngoài kênh thông tin trực tuyến là website của công ty, Vincom cũng mở
rộng hình ảnh của mình, đăng tải tin tức thường xuyên sang các trang website
đáng tin cậy và nhiều người đọc khác như:
4.1.2 Làm đẹp báo cáo tài chính
Bài học thứ hai mà chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm của Vincom đó là
việc làm đẹp báo cáo tài chính cũng như những bản cáo bạch được công khai. Nhờ
việc chau chuốt cho bản cáo bạch trước khi lên sàn HOSE, Vincom đã dễ dàng
huy động được 800 tỷ VNĐ trong lần phát hành IPO của mình. Con số này quả
thật không nhỏ đối với một doanh nghiệp mới lần đầu bước lên sàn chứng khoán.
Tuy nhiên, việc làm này có thể giống như “con dao hai lưỡi”, nhiều trường
hợp kê khai sai lệch báo cáo tài chính đã khiến cho các công ty rơi vào tình trạng
khó khăn, thậm chí là phá sản. Thế giới cũng từng chứng kiến không ít vụ đổ vỡ
do thiếu minh bạch trong quản trị dẫn đến gian dối tài chính như vụ WorldCom
hay Tập đoàn Enron. Còn ở Việt Nam, có thể kể đến trường hợp của CTCP Bông
Bạch Tuyết (BBT), một trong những công ty đầu tiên niêm yết trên TTCK Việt
Nam, đã hứng chịu sự giảm giá cổ phiếu "thê thảm" trên thị trường với mức giá
còn bằng một nửa mệnh giá khi sự thiếu minh bạch, nếu không nói là gian dối,
trong báo cáo tài chính bị bại lộ. Cổ phiếu BBT thậm chí còn bị Sở giao dịch
chứng khoán TP. HCM ngừng giao dịch trong một thời gian. Rõ ràng, cái mất của
BBT trong tình huống này không chỉ là giá trị doanh nghiệp, mà còn là lòng tin
của cổ đông, nhà đầu tư, của những đối tác kinh doanh như ngân hàng, nhà cung
cấp nguyên vật liệu và những bên liên quan khác.
Chính vì lí do này mà không chỉ có Vincom mà tất cả các công ty cổ phần
đều cần phải cẩn trọng trong việc xử lý sổ sách. Phương án tốt nhất là phải xây
dựng một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả.
4.1.3 Quản lý chưa chặt chẽ chi phí huy động vốn
Như phân tích chỉ tiêu tại chương 3 ta thấy rằng việc huy động vốn của
Vicom khá hiệu quả. Tuy nhiên, ua các năm, nguồn vốn được huy động tăng lên
71
nhưng đồng thời chi phí huy động vốn cũng tăng với tốc độ còn nhanh hơn. Chi
phí huy động vốn bao gồm chi phí để phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chi phí
marketing, quảng cáo cùng với lãi phải trả cho các trái chủ và các cổ đông. Việc
tiết kiệm chi phí trong tương lai là điều cần thiết và rất quan trọng đối với Vincom.
Vincom đã đưa ra những chính sách như phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện
hữu, như vậy sẽ giảm được chi phí khi phát hành ra rộng rãi thị trường ( như chi
phí kiểm toán, bảo đảm, quảng cáo…). Bên cạnh đó, công ty cũng sử dụng lãi suất
trái phiếu cố định trong năm đầu, sau đó dùng lãi suất thả nổi để tăng độ linh hoạt
cho trái phiếu, cũng như góp phần vào kiểm soát chi phí trả lãi cho trái chủ. Tuy
nhiên theo chỉ tiêu tính toán tại chương 3, chi phí huy động vốn bằng trái phiếu
vẫn chưa hiệu quả.
4.2 Những yếu tố bên ngoài tác động đến quá trình huy động vốn của Vincom
4.2.1 Chứng khoán vẫn chủ yếu để “lướt sóng”
Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, hệ thống ngân hàng phần nào giảm
tải được gánh nặng cung cấp nguồn vốn đầu tư trung - dài hạn cho nền kinh tế,
nhưng tỷ trọng còn khiêm tốn. Các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán
không hẳn vì mục đích dài hạn, nhà đầu tư không quan tâm nhiều đến hệ số P/E
(hệ số giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập của cổ phiếu đó mang lại) mà chủ yếu
là giá cổ phiếu hàng ngày, mua để “lướt sóng”, kiếm chênh lệch giá.
Có lẽ, đó là lý do để nói rằng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ tổng vốn giao dịch trên
thị trường chứng khoán được chuyển vào khu vực sản xuất kinh doanh, mà dẫn
chứng là những năm thị trường chứng khoán hưng thịnh như 2007 thì tỷ lệ này
cũng chỉ có 20%, phần còn lại chỉ chuyền tay, lướt sóng từ người này sang người
khác.
Tuy chứng khoán của công ty Vincom vẫn được các nhà đầu tư mua nhiều
nhưng bởi vì Vincom là công ty lớn, có giá trị doanh nghiệp khá vững chắc, nhưng
đối với những công ty mới bắt đầu lên sàn chứng khoán, hoặc những công ty cổ
phần khác có quy mô nhỏ thì chứng khoán của các công ty này vẫn chưa thực sự
thu hút được sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Xu hướng “lướt sóng” chứng khoán
72
khiến cho nhiều công ty cổ phần gặp khó khăn khi kiếm tìm nguồn vốn trung và
dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
4.2.2 Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh
Một yếu tố nữa tác động đến quá trình huy động vốn của không chỉ Vincom
mà các công ty cổ phần khác đó là hệ thống pháp lý điều chỉnh trên thị trường
chứng khoán. Khi có một hệ thống pháp luật tiêu chuẩn thì các công ty cũng như
những nhà đầu tư có thể yên tâm hơn vì quyền lợi của mình được đảm bảo.
Thực tế tại Việt Nam, hệ thống pháp lý mới chỉ bước đầu hình thành và
đang hoàn thiện. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường
chứng khoán chưa đồng bộ, cơ chế hoạt động chưa thật hoàn chỉnh. Các nguyên
tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán... tuy đã
được áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định
cần thiết cho thị trường phi tập trung (OTC), hoạt động định mức tín nhiệm, các
công cụ phái sinh …, nên chưa tạo được hành lang pháp lý nhằm giúp nhà đầu tư
có thể bảo vệ rủi ro cho mình.
Chính lí do này khiến cho không ít những người có tiền nhàn rỗi trong dân
chúng không dám đầu tư vào thị trường chứng khoán, từ đó cũng làm giảm một
phần hiệu quả huy động vốn của các công ty cổ phần nói chung, Vincom nói riêng.
4.2.3 Tính thanh khoản của thị trường còn yếu
Tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) được hiểu là việc chứng khoán
hay các khoản nợ, khoản phải thu...có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận
tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Chứng khoán có tính thanh khoản là những
chứng khoán có sẵn thị trường cho việc bán lại dễ dàng, giá cả tương đối ổn định
theo thời gian và khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư nguyên thủy của
ngân hàng.
Tính thanh khoản của thị trường Việt Nam thực sự còn rất yếu, cả nước chỉ
có 2 sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất đó là sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
và Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, các công ty thường xuyên có những đợt phát hành
73
chứng khoán lẻ tẻ, khiến cho các cơ quan khó thống kê, kiểm soát cũng như nắm
bắt thông tin. Việc phát triển các hình thức chứng khoán phái sinh còn rất sơ khai.
Với những đặc điểm như vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam không thu
hút được các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, từ đó chưa tạo được điều kiện tốt
nhất để cho các doanh nghiệp có thể hoàn thành tốt công tác huy động vốn.
Từ những bài học của Vincom, đề tài đưa ra một số giải pháp cho các công
ty cổ phần và một số kiến nghị đối với nhà nước để có thể giúp các công ty dễ
dàng hơn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.
4.3 Giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành
trái phiếu, cổ phiếu đối với các công ty cổ phần
4.3.1 Tạo dựng độ tin cậy của công ty
Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà đầu tư thường căn cứ vào độ tin
cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn nhanh chóng huy động được các
nguồn vốn nhàn rỗi của nhà đầu tư, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của
công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Các nhà đầu tư lớn và nhỏ lể hầu như đều sẽ tiến hành xác minh,
nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy
của công ty.
Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty. Sau những vụ bê bối tài
chính lớn như Enron, Worldcom... giờ đây các công ty trên thế giới đã quan tâm
hơn đến bộ máy kế toán. Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi nếu cứ tiếp tục xem
thường bộ máy kế toán như trước đây, thì chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những
“vết xe đổ”. Và do vậy lòng tin của các nhà đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng.
Nhiều hãng lớn của châu Âu như Orcale, Vodaphone đã quy định: nếu chưa
am hiểu về kế toán, nhà quản lý phải bổ sung kiến thức chuyên môn bằng cách
tham dự các khóa học ngắn hạn do trường đại học hoặc trung học kinh tế tổ chức.
Thời gian học khoảng từ hai đến sáu tháng, sau đó có thể học tiếp lớp nâng cao
hoặc tham khảo sách chuyên ngành. Nhà quản lý doanh nghiệp hiểu biết về kế
74
toán, tất nhiên, không phải để tự mình làm lấy các công việc lập sổ sách, mà là để
kiểm tra lại tính chính xác của những thông tin cấp dưới báo cáo, giúp cho công
tác quản lý, điều hành và ra quyết định hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế
hơn.
Bộ máy kế toán sẽ xác định đúng nhu cầu cần huy động vốn, lựa chọn
nguồn tài trợ thích hợp có thể tiết kiệm được chi phí lựa chọn phương thức đẩy
mạnh kinh doanh làm cơ sở để huy động vốn, đảm bảo nguồn vốn phát triển hữu
ích, từ đó nâng cao lợi nhuận của công ty.
4.3.2 Tạo dựng hình ảnh về năng lực của công ty
Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh doanh,
bạn còn phải thể hiện cam kết tài chính của công ty đối với những hoạt động kinh
doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số
chuẩn mực về tài chính. Bạn nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả
kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM)..., bởi chúng là
những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng của công ty trong con mắt các nhà tài trợ.
Báo cáo tài chính sẽ “tiết lộ” hoạt động của công ty bạn, đồng thời cung cấp những
thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai,
các chủ nợ,… về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo
cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Ngoài ra, có những chỉ số vừa cần thiết cho các nhà tài trợ vốn khi muốn
tìm hiểu về thực lực của công ty bạn, vừa giúp “trang điểm” cho hình ảnh công ty
rất hiệu quả:
- Tỷ lệ giá/lợi nhuận (P/E): Cho đến nay, tỷ lệ này được sử dụng phố biến
nhất để đánh giá cổ phiếu và tình hình tài chính của công ty, thể hiện bạn sẵn sàng
trả bao nhiêu cho mỗi USD lợi nhuận của công ty.
- Tỷ lệ giá/doanh thu (P/S): Chỉ số này có thể được sử dụng để nhận ra
những công ty có mạng lưới kinh doanh ổn định, nhưng lợi nhuận có thể giảm sút
sau quá trình phát triển quá nóng.
75
- Tỷ lệ giá/lưu lượng tiền mặt (P/C): Con số doanh thu và lợi nhuận mà công
ty báo cáo là “sản phẩm” của những quy tắc tính toán phức tạp có thể được vận
dụng để làm sai lệch số liệu. Lưu lượng tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh có
thể đưa ra một bức tranh xác thực hơn.
- Tỷ lệ giá/giá trị sổ sách (P/B): Tỷ lệ này được dùng để đánh giá giá trị toàn
mạng lưới của công ty đối với các máy móc, thiết bị và các tài sản khác, thường
được sử dụng để tìm kiếm các mục tiêu tiếp quản.
4.3.3 Tài sản bảo đảm
Trong quá trình huy động vốn, một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền vốn huy
động cần được đảm bảo bởi tài sản hợp pháp của công ty, hoạt động kinh doanh có
triển vọng cũng như thị trường mà công ty bạn đang kiểm soát.
Bạn nên chứng minh cho nhà tài trợ thấy những tài sản hữu hình và tài sản
vô hình mà bạn đang sở hữu. Đôi khi tài sản vô hình như giá trị thương hiệu, thị
phần, kênh phân phối… còn có giá trị lớn hơn rất nhiều so với tài sản hữu hình.
Đôi khi, việc nhờ một tổ chức chuyên nghiệp định giá công ty của bạn sẽ rất cần
thiết để việc huy động vốn của bạn được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn.
4.3.4 Hạn chế rủi ro đối với nhà tài trợ vốn
Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà tài trợ là
những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường, như giá ngoại tệ lên xuống
thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt
giá phi mã,… Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro
xấu nhất có thể xảy ra.
Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty nên có các
phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động,
đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bạn
bấy nhiêu.
4.3.5 Xây dựng đội ngũ nhân lực và lãnh đạo hoạt động hiệu quả
Muốn huy động vốn bằng cổ phiếu hay trái phiếu một cách hiệu quả, điều
quan trọng đối với các công ty cổ phần là phải có những lãnh đạo sáng suốt, có
76
tầm nhìn rộng và phải am hiểu bản chất của các công cụ chứng khoán cũng như
tâm lý các nhà đầu tư tổ chức và nhỏ lẻ. Tiếp theo là đội ngũ nhân viên trung
thành, nhiệt tình, năng động,
Điều này càng cần thiết hơn khi đất nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa
mở rộng kinh tế thị trường toàn phần. Sắp tới, các doanh nghiệp nói chung, các
công ty cổ phần nói riêng, phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của của rất nhiều
những công ty nổi tiếng và giàu kinh nghiệm nước ngoài. Chính vì thế, nhân lực là
một vấn đề quan trọng, là yếu tố quyết định và cần bồi đắp ngay từ bây giờ, tránh
việc chảy máu chất xám.
4.3.6 Chủ động tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng
Một công ty có chiến lược khôn ngoan thì phải có tầm nhìn dài hạn cho
mỗi công việc và cả những mối quan hệ mà mình có. Đối với việc huy động vốn
cũng tương tự như vậy, đừng để đến khi cần vốn mới lập kế hoạch huy động
vốn hay tìm kiếm nhà đầu tư.
Tìm kiếm và nuôi dưỡng các nhà đầu tư là một nhiệm vụ dài hạn. Để thành
công, các công ty cần theo đuổi những nhà đầu tư tiềm năng trong một thời gian
dài trước khi cần tới tiền của họ
Quá trình nuôi dưỡng những nhà đầu tư có thể được chia ra làm 4 bước như
sau:
Bƣớc 1: Tìm kiếm những nhà góp vốn tiềm năng
- Tìm nhà đầu tư ở đâu? Đây là vấn đề nhiều công ty băn khoăn nhưng
nhiều công ty không biết rằng họ có thể có nhiều cơ hội tiếp cận các nhà đầu tư
hơn họ nghĩ. Các ngân hàng hay nhân viên kế toán hiển nhiên là những người
trung gian, đồng thời đó có thể là một người hàng xóm làm việc trong một công ty
luật chuyên về tài chính, một người bạn học cũ làm việc trong một Quỹ đầu tư
mạo hiểm, hay một người thân trong gia đình đang điều hành một công ty đầu tư
nào đó.
77
- Trong giai đoạn này các công ty nên tìm kiếm các nhà đầu tư tiềm năng
với tất cả tình cảm không khác gì tình yêu của họ dành cho các ý tưởng kinh
doanh. Và đừng ngại ngần “ quăng một mẻ lưới rộng “. Các nhà đầu tư luôn
mong chò các công ty tốt để trợ giúp và hạnh phúc tìm hiểu về chúng.
Bƣớc 2: Tiếp cận
- Khi đã tìm thấy, trước hết đừng đề nghị những nhà đầu tư tiềm năng đó
bất cứ điều gì ngoài việc giới thiệu về các bản thân của công ty mình. Tiếp theo lời
giới thiệu nên là một bức thư hay email giải thích ngắn gọn những gì công ty mình
đang làm và tại sao các nhà đầu tư có thể muốn biết về nó. Song đừng đè nặng lên
đôi vai các nhà đầu tư bằng các file PDF hay các bảng biểu excel với đầy các
thông tin bán hàng tiếp thị.
- Hãy tìm hiểu kỹ các nhà đầu tư này. Ví dụ như hãy vào tìm kiếm tại
Google cũng như nhiều trang mạng lưới kinh doanh khác tại địa phương. Hãy tìm
xem nhà đầu tư tương lai thích nói chuyện về công việc tại bữa trưa, tại quán trà
hay công viên. Đồng thời, hãy luôn tuân theo các đề nghị về thời gian và địa điểm,
thậm chí bạn phải hoãn lại cuộc họp trong một vài tuần hay một vài tháng. Bạn
cần nhớ rằng mục tiêu của bạn là một mối quan hệ lâu dài.
- Hãy thể hiện niềm đam mê đối với sản phẩm hay ý tưởng của công ty,
nhưng đừng khoe khoang về các thành công của mình. Thay vào đó, hãy đề nghị
nhà đầu tư cho công ty các lời khuyên. Có thế, họ sẽ cảm thấy gắn kết tình cảm
với sự tăng trưởng của công ty. Tại giai đoạn này, không nên hướng tới đơn lẻ một
hai nhà đầu tư. Hãy gặp gỡ nhiều nhất các nhà đầu tư tiềm năng có thể. Khi đã biết
về họ, phạm vi sẽ thu hẹp lại.
Bƣớc 3: Xây dựng mối quan hệ
- Điều quan trọng là giữ cho các nhà đầu tư tiềm năng luôn quan tâm tới
công ty, cho dù đó là thông qua những cập nhập định kỳ hay các tấm thiệp thỉnh
thoảng sau khi bạn gặp gỡ họ. Những nhà huy động vốn chuyên nghiệp cho rằng
những tiếp xúc kiểu này nên định kỳ hàng tháng. Những người khác thì khuyên
rằng bạn nên chia sẻ các thông tin quan trọng đặc biệt.
78
- Tất cả những điều này để chuẩn bị cho khi hoạt động kinh doanh của
bạn có được một bước tiến mới về phía trước, thời điểm thích hợp cho việc đề
xuất một cuộc gặp gỡ khác – nơi mà bạn đề xuất kêu gọi vốn góp – đã đến.
Bƣớc 4: Gắn kết
- Khi sẵn sàng đề cập tới chủ đề tiền bạc, bạn có thể thấy rằng không quá
khó khăn với việc đưa ra một gợi ý.
- Thậm chí nếu không có ai “quăng” tiền cho bạn, bạn vẫn có thể biết rõ ai
là nhà đầu tư tiềm năng tốt nhất của mình và bao nhiêu tiền họ sẵn lòng đầu tư vào
công ty bạn. Bạn cũng nên xác định rõ mình cần bao nhiêu tiền và bạn sẵn lòng từ
bỏ những gì để có được nó – có thể là một chiếc ghế trong hội đồng quản trị hay
một vài vị trí cố vấn khác. Hãy đề nghị hơn một cuộc gặp với các nhà đầu tư của
bạn và nói chuyện với họ về các mục tiêu của công ty bạn một cách chân thực
nhất.
4.3.7 Linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chứng khoán để đạt được mục
tiêu
Đối với cổ phiếu, các nhà quản trị công ty cổ phần phải tính toán huy
động vốn cách nào để vốn gọi được nhiều nhưng chỉ chia quyền quản trị ít. Cổ
đông có ba quyền là quản trị công ty, chia lợi nhuận và sau này được chia tài sản
còn lại. Bỏ tiền ra, chấp nhận lời ăn lỗ chịu, cổ đông thường muốn được quản
trị công ty. Trái lại người lập ra công ty lại không muốn quyền quản trị của mình
bị chia xẻ cho nhiều người.
Để thực hiện được mục tiêu huy động với chi phí và lợi ích bị mất thấp
nhất, khi phát hành cổ phiếu mới, các công ty cổ phần ngoài việc phát hành những
cổ phiếu thông thường nên chú ý tới 3 cách “ dụ dỗ” cổ đông hiện có hay các nhân
viên cấp cao của mình như sau:
Cách thứ nhất là phát hành cổ phiếu lựa chọn (stock option) cho nhân viên.
Khi cầm nó nhân viên được quyền mua hay bán một số chứng khoán của công ty
79
theo một giá đã định trước khi hết hạn vào một ngày nào đó. Cổ phiếu lựa chọn có
thể là một Call option cho họ quyền mua hay một Put option cho họ quyền bán.
Với giá đã định, người nắm Call option có lợi khi giá chứng khoán của công ty
tăng trên thị trường chứng khoán vào lúc đến hạn mua, thì được mua với giá cũ.
Nếu giá chứng khoán xuống thì người có Put option có lợi vì được bán cho công
ty với giá đã định cao hơn giá hiện thời. Phần thưởng cho họ nằm ở sự chênh lệch
giá.
Cách thứ hai là ấn định quyền (rights) cho người nắm cổ phiếu thông
thường. Có rights họ được quyền mua một số cổ phiếu thông thường mới phát
hành với một giá đã ấn định, nếu mua trước một ngày nào đó thường là một năm.
Đến ngày hết hạn mà giá chứng khoán của công ty lên thì họ có lời vì được mua
với giá cũ.
Cách thứ ba là Cổ phiếu bảo đảm (stock warrant) dành cho những ai có cổ
phần ưu đãi hay có trái phiếu. Ai có nó sẽ được mua chứng khoán của công ty với
giá đã định trước một ngày hết hạn nào đó. Khi ấy nếu giá lên thì họ có lời.
Đối với trái phiếu, các công ty cổ phần Việt Nam ít dùng đến hình thức
này để huy động vốn ngoại trừ những công ty hoạt động trong lĩnh vực bất
động sản vì mệnh giá trái phiếu thường lớn trong khi những người hoạt động
chủ yếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam lại chủ yếu là những nhà đầu tư
nhỏ lẻ. Tuy nhiên đây là một kênh huy động vốn dài hạn rất hiệu quả, tốn ít chi
phí hơn là việc vay vốn ngân hàng và không bị chia quyền quản trị công ty như
cổ phiếu.
Để tăng sức cuốn hút cho loại hình này, nhiều công ty đã nghĩ tới việc gắn
trái phiếu với hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là những doanh nghiệp bất
động sản. Ví dụ như: trái phiếu doanh nghiệp liên quan tới bất động sản (còn gọi
là trái phiếu bất động sản) tức là trái phiếu có gắn quyền mua bất động sản. Mới
đây nhất, năm 2008 công ty Sacomreal đã thử nghiệm phát hành rất thành công
80
loại trái phiếu này. Sự kiện này đã mở ra nhiều hướng đi mới cho nhiều công ty cổ
phần Việt Nam trong việc tiếp cận loại hình huy động vốn triển vọng này.
4.4 Kiến nghị đối với Nhà nƣớc và các cơ quan chức năng
Việc phát triển của các công ty trong nước là yếu tố quan trọng để củng cố
nền kinh tế nước nhà, vì vậy, nhà nước và các cơ quan chức năng phải có trách
nhiệm tạo điều kiện và giúp đỡ các công ty trong nước tìm kiếm được nguồn vốn
tài trợ cho những hoạt động kinh doanh của mình. Dưới đây là một số kiến nghị
đối với nhà nước để có thể tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động huy động vốn của
các công ty cổ phần.
- Nhà nước cần thực hiện nhiều biện pháp hơn để “Tái cấu trúc thị trƣờng
tài chính”, xác định lộ trình, tách bạch chức năng thị trường tiền tệ và thị trường
vốn, nhằm hướng thị trường tài chính đến sự phát triển bền vững
- Thị trường chứng khoán cần phải được phát triển lành mạnh, có sự quản
lý và giám sát tốt. Để dần dần, tạo ra tâm lý và hành vi đầu cơ đúng đắn chứ không
để người ta biến đó thành chỗ lướt sóng. Ở đó là nơi để các nhà đầu tư có tổ chức
hoạt động, chứ không phải “toàn dân chơi chứng khoán” như bây giờ.
- Thêm vào đó, nhà nước phải tạo ra môi trƣờng kinh tế vĩ mô ổn định từ
chính sách phát triển, chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định giá cả…thì mới thu hút
được các nhà đầu tư lâu dài. Còn nếu môi trường kinh tế chưa ổn định thì ngay cả
gửi tiền ngân hàng, người dân vẫn không dám gửi dài.
- Ngoài ra, một điều không thể không nhắc đến là tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tới thời điểm này đang bị “hụt hơi”, khi khá nhiều doanh
nghiệp nhà nước không muốn trở thành doanh nghiệp đại chúng. Sở dĩ như vậy là
bởi họ quá coi trọng và so bì về giá như thời điểm hoàng kim 2006 - 2007, trong
khi nếu tồn tại theo mô hình cũ, vừa được hưởng “bầu sữa mẹ” từ nhà nước, vừa
không “bị” minh bạch.
- Xây dựng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam phù hợp
với chiến lược phát triển thị trường vốn đến năm 2020, phân định rõ vai trò của
81
các thành viên tham gia thị trường trong việc thực hiện chiến lược, chú trọng nâng
cao tính chủ động của các công ty cổ phần trong việc phát hành chứng khoán phục
vụ cho mục tiêu phát triển .
- Tập trung xây dựng hệ thống khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng
khoán: Pháp luật mỗi nước đều có những điều chỉnh rất đa dạng và phong phú đối
với hoạt đông huy động vốn, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cũng như những đặc
điểm của thị trường mà pháp luật kinh doanh có những quy định khác nhau. Tuy
nhiên, hiện tại pháp luật Việt Nam đối với các hoạt động trên thị trường tài chính
còn ít, sơ sài và chưa được phổ biến rộng rãi. Đứng trước thềm mở cửa thị trường
hoàn toàn, việc đầu tư một hệ thống luật pháp chặt chẽ, công bằng là điều rất cần
thiết nhằm tạo cảm giác an toàn cho các công ty cổ phần và cả các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Huy động vốn trên thị trường tài chính còn khá mới mẻ ở
Việt Nam nên các nhà hoạch định luật và chính sách có thể nghiên cứư luật và
những kinh nghiệm từ các nước đã phát triển. Ví dụ như: trong luật của Pháp và
một số nước Latinh, việc gọi vốn của công ty được quy định ngay từ khi nó được
thành lập. Pháp luật đề ra loại trách nhiệm hữu hạn nếu gọi vốn riêng tư và cổ
phần nếu gọi vốn công chúng. Ranh giới gọi vốn đã được định. Muốn thay đổi
phương thức huy động vốn phải đổi hình thức công ty. Luật kinh doanh của Mỹ
thì làm khác. Mỹ không định loại hình công ty lúc đầu mà để cho công ty trong
quá trình hoạt động sẽ chọn cách gọi vốn. Và từ cách gọi vốn đó công ty có một
loại hình. Nếu chọn cách gọi vốn riêng tư thì công ty không phải đăng ký với Sở
giao dịch chứng khoán và công ty sẽ là loại “Closely held corporation”. Nếu gọi
vốn của công chúng thì phải đăng ký và lúc đó nó là một “Public corporation” đại
chúng. Nói chung, các công ty ở Mỹ được chủ động về vốn, không ai quản lý vốn
của họ. Luật pháp kinh doanh của Mỹ coi số vốn đã đăng ký là tài sản để trả nợ
khi công ty phá sản. Vốn phải phục vụ kinh doanh, nên trong hạn mức vốn đã
đăng ký với chính quyền, công ty có quyền tăng hay giảm một cách linh hoạt số
vốn ấy; có sao thì trả lời với chủ nợ sau này. Để có vốn dài hạn lúc đầu, hay tăng
vốn sau này; công ty bán các loại cổ phiếu thường và ưu đãi. Nếu những thứ này
82
chỉ bán cho một nhóm nhỏ, gồm những người thân quen, thì họ không phải đăng
ký ở Sở giao dịch chứng khoán. Nếu bán cho công chúng thì phải đăng ký. Trong
những lần tăng vốn sau, công ty có thể ấn định các loại warrants, options và rights,
và những thứ này cũng được bán ra thị trường. Dù bán cho công chúng hay bán
trong chỗ riêng tư, thì công ty vẫn phải làm ăn lời lãi, nếu không thì chẳng có tiền
chia lời hay trả lãi cho cổ đông. Với những quy định về huy động vốn như vậy,
các công ty sẽ luôn hoạt động rất nhộn nhịp kể cả trong những thời điểm giá
chứng khoán tụt dốc. Đồng thời với đó, các công ty thường xuyên có được những
nguồn vốn cần thiết phục vụ hoạt động kinh doanh của mình trên thương trường.
- Ban hành các quy định, cơ chế cụ thể cho phép hình thành tổ chức định
mức tín nhiệm, đảm bảo tính độc lập, chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động.
Cần học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức định
mức tín nhiệm chuyên nghiệp trên thế giới. Công ty định mức tín nhiệm (CRA)
rất quan trọng đối với sự phát triển thị trường vốn của mọi nền kinh tế. Công ty
định mức tín nhiệm là loại hình phù hợp nhất cho thị trường vốn Việt Nam và
cũng phù hợp nhất với các nước phát triển. Đối tượng đánh giá của công ty định
mức là các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, định chế tài chính phi ngân
hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn, có niêm yết trên thị trường chứng
khoán, doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng, các tổng công ty nhà
nước, doanh nghiệp lớn của nhà nước. Các chủ thể tham gia thị trường khó có thể
nhận ra rủi ro lãi suất tiềm tàng (tức là giá) của một trái phiếu nếu không có hoạt
động định mức tín nhiệm. Điều này sẽ buộc các nhà đầu tư muốn mua phải làm
các bước như: tự phân tích chi phí đầu tư trái phiếu một cách tốn kém; mua trái
phiếu không định hướng; và cuối cùng có thể là không mua. Với sự ra đời của
công ty định mức tín nhiệm, nhà đầu tư có nhu cầu mua trái phiếu có thể thông
qua đánh giá của công ty này để chọn được doanh nghiệp vừa có khả năng mang
lại lợi nhuận cao vừa đảm bảo tính an toàn.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát thị trường chứng
khoán trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc quản lý trên cơ
83
sở đánh giá rủi ro (risk-based), đồng thời sử dụng hệ thống công nghệ thông tin
hiện đại như một công cụ giám sát thị trường hữu hiệu. Song song với hệ thống
quản lý giám sát phải có chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những thành viên
không tuân thủ quy tắc thị trường.
- Ngoài việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, cần thực hiện hàng loạt
các biện pháp nhằm tăng thanh khoản cho thị trƣờng nhƣ: Cơ cấu lại danh
mục trái phiếu bằng cách mua lại các lô trái phiếu đã phát hành lẻ tẻ để phát hành
trái phiếu mới với quy mô lớn, đạt chuẩn về mã trái phiếu, lãi suất, kỳ hạn…. tạo
cơ sở hình thành đường cong lãi suất chuẩn, sử dụng linh hoạt các công cụ như:
Chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, cầm cố trái phiếu Chính phủ;
từng bước phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh nhằm tăng thanh khoản
cho thị trường thứ cấp.
84
KẾT LUẬN
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp cổ phần trong nền kinh tế thị
trường hiện đại là một tất yếu khách quan do nhu cầu của thị trường rất đa dạng và
phong phú mà các hình thức công ty nhà nước hay tư nhân không thể đáp ứng
được hết. Hơn nữa các doanh nghiệp cổ phần với đặc tính nhạy cảm, thích ứng
nhanh, dễ dàng xâm nhập vào mọi ngõ ngách của thị trường có vai trò đáng kể
trong việc làm nền kinh tế năng động hơn, thu hút vốn và tạo thêm nhiều việc làm.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp này đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, trong đó thiếu vốn là vấn đề khó khăn nhất. Tuy tỷ trọng cho
doanh nghiệp cổ phần vay vốn tín dụng ngân hàng tăng lên đáng kể trong những
năm qua nhưng việc thiếu vốn kinh doanh vẫn xảy ra trầm trọng. Phần vốn này
phải được trang trải bằng vốn tự có và những hình thức huy động vốn từ thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên những hình thức và xu hướng mới này vẫn chưa được
xem xét và đánh giá một cách đầy đủ. Vì vậy đề tài này đã đưa ra những cái nhìn
chung và đi sâu vào phân tích cũng như đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu cho các công ty cổ
phần.
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Nguyên Hoàn (2002) “ Thị trường chứng khoán và công ty cổ
phần”, NXB Lao động.
2. TS. Đàm Văn Huệ (2006) “ Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. Mạc Quang Huy (2008) “ Cẩm nang ngân hàng đầu tư”, NXB Thống kê
4. Phạm Thị Thanh Tâm, Phan Trần Trung Dũng - Luận văn: “Sử dụng các
công cụ tài chính có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu để huy động vốn”
, ĐHNT, 2005.
5. Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, NXB Lao Động.
6. Luật Chứng khoán 2006, NXB Lao Động.
7. Niên giám thống kê 2007-2008-2009, NXB Tổng cục thống kê Việt Nam.
8. Hàm Yên, “Ngân hàng Nhà nước can thiệp mạnh để bình ổn thị trường”,
Sài Gòn online (25/11/2009) - www.sggp.org.vn
9. Nguyễn Tuyết Mai (dịch từ Business week), “Huy động vốn một cách thông
minh” (13/12/2007)
10. Minh Giác, “Việt Nam phát hành trái phiếu chuyển đổi quốc tế: đắt hàng
do lãi suất”, (25/01/2010),
11. ThS. Bùi Thu Thủy “Tiềm năng thị trường trái phiếu Việt Nam”
(25/09/2009) www.stox.vn
12. “Công ty cổ phần Vincom phát hành trái phiếu chuyển đổi quốc tế”
(19/11/2009) www.vincom.com
13. “Phong trào phát hành trái phiếu chuyển đổi” (22/6/2010),
86
14. Kevin Hamlin “Phân tích tình hình phát triển kinh tế và môi trường kinh
doanh Việt Nam” ( dịch), tạp chí Institutional Investor số tháng 9/2006 .
15. “Báo cáo tài chính công ty Vincom 2006 – 2007 – 2008 – 2009”,
www.vincom.com
16. “ Bản cáo bạch niêm yết lần đầu của Vincom 2007”, www.vincom.com
17. “ Bản cáo bạch phát hành trái phiếu 2009”, www.vincom.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hiệu quả huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần thông qua mô hình công ty Vincom.pdf