Đề tài Hoàn thiện công tác lập dự án dầu khí tại tổng công ty thăm dò và khai thác dầu khí

LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước có nhiều thay đổi. Chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tích đáng tự hào trên nhiều lĩnh vực, trong đó phải kể đến ngành công nghiệp Dầu khí. Đây là ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta, đã đóng góp đáng kể vào Ngân sách quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế- xã hôi. Và một trong những Tổng công ty trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam góp phần to lớn vào sự phát triển của toàn ngành công nghiệp dầu khí đó là Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí. Sau nhiều năm hoạt động, Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí đã có những bước tiến mang tầm vóc quốc tế, đã triển khai công tác tìm kiếm và thăm dò Dầu khí ở nhiều nước trên thế giới và đạt được những kết quả nhất định. Hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí nhất thiết phải được thực hiện theo dự án, vì đây là hoạt động mang tính chất lâu dài, phức tạp và cần sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Do đó công tác lập dự án là một trong những nội dung vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động của Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi, hiệu quả, tiến độ của dự án sau này. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác lập dự án đối với sự thành công của hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, nên trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí em đã tìm hiểu, nghiên cứu và đi sâu vào đề tài: “ Hoàn thiện công tác lập dự án Dầu khí tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí”. Với đề tài này, em rất mong mình có thể hiểu rõ hơn công tác lập dự án thăm dò và khai thác dầu khí tại Tổng công ty. Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em gồm 2 chương: Chương 1: Thực trạng công tác lập dự án tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí Chương 2: Một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí Tuy vậy, do thời gian tìm hiểu không dài cùng với sự hạn chế và hiểu biết về kiến thức nên bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.

doc101 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2674 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác lập dự án dầu khí tại tổng công ty thăm dò và khai thác dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các năm Vốn đầu tư (tr USD) Số dự án `                                     Biểu đồ 3: Số dự án được lập qua các năm Bảng 8: Bảng kết quả các chỉ tiêu thu được từ các dự án thực hiện qua các năm Các chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện Tổng cộng 2002 2002 2004 2005 2006 2007 2008 Nộp NSNN Ngoại tệ Nội tệ Phần thu của Tập đoàn và PVEP Ngoại tệ Nội tệ Tỷ đồng Tr.USD Tỷ đồng Tr.USD tỷ đồng 11,3 182,1 3.8 167,1 7,5 14,5 214,9 4.8 106,3 9,7 769,9 212,6 4.8 106,3 9,7 1.607,0 584,9 201.0 579,4 1.406,0 2.195,9 883,5 246.3 842,9 1.942,6 3.270,9 1096,8 97.8 1298,6 2.291,1 2.324,4 1.405,9 1.6712 1.368,6 1880,6 10.212 4.581 3.204 4.638 8.218 Biểu đồ 4: Phần thu của Tập đoàn và PVEP từ việc thực hiện dự án qua các năm Không chỉ tăng về số lượng các dự án mà chất lượng các dự án cũng luôn được nâng cao.             - Mục tiêu các dự án được xác đinh rõ ràng và cụ thể, trên cơ sở các mục tiêu đã định, mọi quá trình từ giai đoạn chuẩn bị dự án cho đến giai đoạn đưa vào khai thác, vận hành đều nhằm hướng đạt được mục tiêu tốt nhất.             - Các căn cứ lập dự án luôn được Tổng Công ty quan tâm xem xét rất kỹ, nhằm đảm bảo có đủ pháp lý và độ tin cậy.             - Việc giám sát đầu tư các dự án luôn được Tổng công ty thực hiện song song cùng với quá trình chuẩn bị đầu tư do đó các dự án được lập luôn đảm bảo chấp hành đúng các quy định về quản lý và phân cấp của Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí. Quá trình lập dự án tuân theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, quy phạm quy chuẩn đã được pháp luật quy định. Việc huy động vốn đầu tư, thanh toán vốn đầu tư theo đúng tiến độ được xác định trong báo cáo đầu tư.             - Riêng về phương pháp phân tích tài chính của dự án, Tổng công ty đã tiếp cận được với lý thuyết tài chính hiện đại, như sử dụng khái niệm dòng tiền chiết suất, đánh giá tính khả thi ( tính hiệu quả của dự án ) theo các chỉ tiêu đánh giá: giá trị dòng tiền hiện tại  (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), số năm thu hồi vốn (RDB), giá trị dòng tiền mong đợi (EMV), hệ số trả nợ, bảng phân tích độ nhạy…             - Việc nguồn vốn cho dự án cũng đã được Tổng công ty quan tâm, thu hút và có cơ cấu phân bổ sao cho nâng cao được hiệu quả của dự án.             Nhìn chung tất cả các dự án của Tổng công ty sau khi lập đưa vào thực hiện  đều phát huy được hiệu quả của đồng vốn, giải quyết thêm việc làm cho người lao động, tăng doanh thu cho Tổng công ty (hàng năm doanh thu từ các dự án dầu khí đem lại hàng trăm triệu USD) đưa Tổng công ty ngày càng phát triển lên một tầm cao mới. Về con người, bước đầu Tổng công ty đã hình thành một đội ngũ cán bộ có đủ trình độ và kinh nghiệm để lập các dự án và đánh giá các dự án do Tổng công ty thực hiện. 1.4.2 Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân chủ yếu trong công tác lập dự án tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí. 1.4.2.1 Số liệu đầu vào chưa phong phú và chuẩn xác: Số liệu đầu vào là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của dự án. Đây là yếu tố tác động đến việc phân tích địa chấn tai nơi dự án sẽ diễn ra,  để đưa ra kế hoạch sẽ tiến hành khoan bao nhiêu giếng thăm dò, giếng thẩm lượng, giếng bơm ép, giếng khai thác, km đường ống… sử dụng cho dự án. Ngoài ra, thông tin của dự án còn thể hiện cơ sở pháp lý của dự án, môi trường đầu tư của dự án, và các luật thuế được áp dụng cho dự án. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc thu thập các tài liệu cơ sở, đặc biệt là các số liệu đầu vào của một số dự án còn thiếu chính xác và chưa đầy đủ. Nguyên nhân là do nguồn thông tin thường được lấy từ mạng Internet, từ các đối tác, từ các tổ chức Chính phủ của các nước, từ các công ty dịch vụ, từ sách báo…Nhưng có một số dự án, nguồn thông tin trên mang internet, sách báo là không đủ và không chính xác, viêc cung cấp thông tin từ cơ quan chính phủ hầu như là không có, ví dụ đối với những nước có các chính sách khắt khe như Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, Myanma.. và không phải lúc nào Tổng công ty cũng có đủ tiền để mua thông tin từ các công ty dịch vụ. Điều này sẽ dẫn đến việc các cán bộ lập dự án phải sử dụng nhiều giả định, độ tin cậy của các chỉ tiêu không cao, rủi ro lớn, các dự án dễ dẫn đến thất bại. Nhưng hiện nay Tông công ty vẫn chưa xây dựng một kế hoạch cụ thể về việc thu thập các tài liệu, thông tin liên quan đến địa chấn, môi trường đầu tư và cơ sở pháp lý tại các khu vực mà dự án diễn ra, hay nằm trong kế hoạch tìm kiếm cơ hội đầu tư của Tổng công ty. 1.4.2.2 Phần mềm đánh giá dự án và các chỉ tiêu phân tích tài chính còn thiếu Các chỉ tiêu trong phân tích tài chính trong các dự án tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí còn hạn chế. Các chỉ tiêu phân tích tài chính chủ yếu được sử dụng trong phân tích là NPV, IRR, thời gian thu hồi vốn. Khi đánh giá độ an toàn về mặt tài chính của dự án, Tổng công ty mới chỉ chủ yếu xem xét, phân tích độ nhạy của hai chỉ tiêu hiệu quả kinh tế- tài chính là NPV, IRR thông qua các yếu tố về vốn đầu tư ban đầu, vốn đầu tư vận hành hàng năm, giá bản sản phẩm dầu khí với sự biến động trong khoảng +- 20% (như ví dụ minh họa ở trên) chứ chưa xét đến độ an toàn về nguồn vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ. Điều đó có nghĩa là những biến động thực tế của thị trường, đặc biệt là vấn đề lạm phát và trượt giá vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong khi đây là một vấn đề quan trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây khi mà thị trường Dầu khí có nhiều biến động lớn, và sự tác động qua lại giữa các yếu tố với nhau vẫn chưa được xem xét đến. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là do Tổng công ty vẫn chưa đầu tư mua những phần mềm chuyên dụng, siêu việt cho công tác lập dự án. Những phần mềm có thể cho phép phân tích độ nhạy của nhiều yếu tố ảnh hưởng đến yếu tố mục tiêu, giữa các yếu tố với nhau, và thể hiện rõ mức độ ảnh hưởng của chúng ( như phần mềm Mongtogeno) . Mặt khác là do đội ngũ nhân viên chưa đủ kinh nghiệm để sử dụng phần mêm, và thông tin kỹ thuật đầu vào không cung cấp đủ cho việc sử dụng phần mềm đó. 1.4.2.3 Chất lượng đội ngũ nhân viên còn yếu kém về trình độ Hiện nay, một số cán bộ chuyên gia ở Tổng công ty đều đã lớn tuổi, trong khi đó lực lượng cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm, thiếu chủ động sáng tạo. Trình độ năng lực của một số cán bộ còn hạn chế, khi tiến hành lập dự án chưa lường hết được những điều kiện khó khăn của quá trình triển khai cụ thể. Những cán bộ chuyên viên vê phân tích tài chính- kinh tế hầu như không am hiểu về mảng kĩ thuật của dự án (tiềm năng của mỏ, phương án phát triển khai thác mỏ…), chỉ phân tích tài chính dựa trên những con số, kết quả mà bên kĩ thuật đưa ra. Do vậy viêc trao đổi thông tin giữa bên kĩ thuật và bên kinh tế để đưa ra được những giải pháp tối ưu, vừa đảm bảo về mặt tiêu chuẩn kĩ thuật mà vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao, và các giải pháp giảm thiểu rủi ro của dự án một cách hiệu quả là hết sức khó khăn, phải sau một khoảng thời gian dài mới đi đến được sự thông nhất chung. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá dự án, các cán bộ lập dự án còn vấp phaỉ một số sai lầm sau: - Sử dụng tỷ suất chiết khấu cao hơn bình thường: Khi đánh giá hiệu quả đầu tư của các dự án được cho răng có rủi ro cao hơn bình thường thì nhiều cán bộ lập dự án sử dụng tỷ suất chiết khấu cao để thể hiện tính rủi ro cao và đồng thời thể hiện mong muốn nhằm đến tỷ suất thu hồi nội tại cao. Giải pháp này không thể hiện đúng bản chất hiệu quả kinh tế của dự án được đánh giá. - Đánh giá quá cao xác suất thành công: vì một số lý do mà việc đánh giá quá cao xác suất thành công rất thường hay xảy ra. Điều này bắt nguồn từ quy định của quản lý của Nhà đầu tu hay xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài. Khi đó hiệu quả kinh tế của  Dự án sẽ bị thôi phồng lên dẫn đến những nhận định sai lệch. - Quá lạc quan khi đánh giá các quy mô phát hiện: Các phát hiện hay được đánh giá quá lạc quan dẫn đến các kết quả tính toán dựa trên các con số không có thực tế. - Giả định các giếng khoan khi phát triển là không có rủi ro: Điều này rất hay xảy ra khi trong các đánh giá không tính đến rủi ro hay xác suất thành công của các giếng phát triển. Nói cách khác kết quả khoan các giếng này luôn được ước tính đật 100% kế hoạch. Ở một  vài khu vực rủi ro khi khoan các giếng phát triển luôn xấp xỉ các giếng thăm dò. Điều này ít khi xảy ra nhưng việc nhận định xác suất thành công trong giếng phát triển trên 90% là sai lầm, phải tính đến việc gẫy mũi khoan, hay các biến đổi khó khăn khác trong quá trình khoan giếng phát triển…( Xác suất thành công cho các giếng phát triển thường dừng ở mức 70- 75%). 1.4.2.4 Nguồn kinh phí sử dụng cho việc lập dự án chưa hợp lý             Mặc dù Tổng công ty đã quan tâm đến việc thu hút vốn và cung cấp vốn cho việc lập dự án và triển khai dự án, nhưng cơ cấu phân bổ nguồn vốn đó vào các giai đoạn là chưa thực sự hợp lý. Có những dự án, như dự án mua sản phẩm cần phải huy động một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn cho việc lập dự án và tham gia dự án ( tham gia đấu thầu, trả lời thư mời mua của đối tác) thì lại gặp khó khăn trong việc huy động vốn, bỏ nỡ cơ hội tham gia dự án ( ví dụ như dự án thu mua lô 11-1 ở Kazahtan, cân huy động mức vốn 5543 triệu USD trong vòng 5 ngày, Tổng công ty không huy động được và phả bỏ dự án). Do vậy cân phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết về nguồn vốn cho các dự án. 1.4.2.5 Thủ tục xem xét, quy chuẩn và quy trình phê duyệt chưa thống nhất             Hiện nay tại Tổng công ty chưa xây dựng được một hệ thống quy chuẩn thống nhất về các tiêu chí đánh giá trong công tác lập dự án. Điều này dấn đến những ảnh hưởng nhất định, các quyết định lựa chọn các phương án sẽ đều dựa trên những nhận định chủ quan của từng người hay nhóm một số người, những người không có đủ năng lực để quyết định thì hỏi các chuyên gia, nhưng trong trường hợp chuyên gia đi vắng lại rất khó khăn, không biết dựa vào tiêu chuẩn nào để quyết định chính xác. Chính vì không có một quy chuẩn thống nhất, nên mỗi lần đưa ra một quyết định cuối cùng cho một phương án của một dự án là vô cùng khó khăn, các bên ngồi lại tranh luận rồi đợi sự phê duyệt của Chủ tịch Hội Đồng Thành viên, của Tổng giám đốc, hay Phó Tổng giám đốc Tập đoàn hoặc PVEP, thời gian tranh luận có khi kéo dài đến hàng tuần, gây mất thời gian, ảnh hưởng đến hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong công việc của cán bộ công nhân viên.             Quy trình phê duyệt dự án còn chưa gọn nhẹ, rõ ràng, phải qua nhiều cấp, gây mất thời gian, chậm tiến độ công viêc.                                     TGĐ              HĐTV                              Tập đoàn   Dự án làm chủ            PVEP             PVEP    đầu tư                 300 tỷ VNĐ                       500 tỷ VNĐ             1000 tỷ VNĐ            1500 tỷ VNĐ  Dự án sử dụng vốn của các                      thành phần                            Tổng giám đốc PVEP                            HĐTV                    Tập kinh tế                                                                                                    PVEP                     đoàn                   Hình 6: Qui định thẩm quyền phê duyệt của PVEP - Theo quy định của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam                                                           TGĐ tập đoàn phê chuẩn                       HĐTV PVEP                           TGĐ VSP                HĐTV PVEP, Tổng giám     HĐQT tập đoàn phê duyệt ( sau Dự án                                               đốc VSP                                khi được Thủ tướng chấp thuận do PVEP, VSP làm Chủ đầu tư                    500 tỷ VNĐ                         1000 tỷ VNĐ              Dự án do PVN làm Chủ đầu tư             Tổng giám đốc tập đoàn phê duyệt                    HĐQT tập đoàn phê duyệt                                                                                                             ( sau khi được Thủ tướng                                                                                                                                                                                                                                                                                                                           chấp thuận ) Hình 7: Qui định thẩm quyền phê duyệt của PVN CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP DỰ ÁN DẦU KHÍ TẠI TỔNG CÔNG TY THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC DẦU KHÍ 2.1  Định hướng phát triển của Tổng công ty Thăm dò & Khai thác Dầu khí trong thời gian tới 2.1.1. Định hướng phát triển cụ thể theo từng giai đoạn 2.1.1.1. Tìm kiếm thăm dò Ở trong nước:             Giai đoạn 2008-2010 - Lựa chọn một số vùng có triển vọng dầu khí cao ở các lô còn mở và vùng/ bể trầm tích mới để tự đầu tư và điều hành - Tiếp tục tăng cường các hoạt đông tìm kiếm thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí tại cạc lô đã có hoạt động dầu khí và các lô còn mở ở các bể Sông Hồng, Phú Khánh, Tư Chính- Vũng Mây, Cửu Long, Nam Côn Sơn và Malay- Thổ Chu, đặc biệt ưu tiên cho các bể Sông Hồng, Phú Khánh, Tư Chính- Vũng Mây.             Giai đoạn 2011- 2015 -Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm thăm dò tại các lô đã có hoạt động dầu khí và còn mở/ đã hoàn trả lại các bể trầm tích trên TLĐ Việt Nam, ưu tiên các bể nước sâu, nhạy cảm; đồng thời triển khai công tác nghiên cứu và tìm kiếm thăm dò các bẫy phi cấu tạo ở các diện tích hoàn trả của bể Cửu Long.             - Tiếp tục triển khai công tác nghiên cứu, khảo sát điều tra cơ bản của Tập Đoàn.             Dự kiến tổng khối lượng thu nổ địa chấn 2008- 2015: 40000 km 2D và 30000 km2  địa chấn 3D             Dự kiến số lượng giếng khoan thăm dò thẩm lượng 2008- 2015 là 250 giếng.             Giai đoạn 2016- 2025 - Tiếp tục chương trình thăm dò tìm kiếm từ giai đoạn 2008- 2015 kếp hợp lựa chọn một số vùng có triển vọng dầu khí cao ở các lô còn mở và vùng/ bể trầm tích mới. - Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm thăm dò tại các lô đã có hoạt động dầu khí và còn mở/ đã hoàn trả lại các bể trầm tích trên TLĐ Việt Nam, ưu tiên các bể nước sầu nhạy cảm;             - Tiếp tục triển khai công tác nghiên cứu, khảo sát, điều tra cơ bản cho Tập đoàn, tập trung ở các khu vực xa bờ, chồng lấn, nhạy cảm và các vùng chồng lấn với các nước láng giềng.             Dự kiến tổng khối lượng thu nổ địa chấn 2016- 2025:  30000 km2  địa chấn 3D             Dự kiến số lượng giếng khoan thăm dò thẩm lượng 2016- 2025 là 180 giếng             Ở nước ngoài :             Giai doạn 2008- 2015: Được coi là giai đoạn tích luỹ nhanh quỹ trữ lượng và được thực hiện thong qua; ·          Mua tài sản gồm: các mỏ đang khai thác, các hợp đồng đã có phát hiện chuẩn bị phát triển; ·          Tích cực farm-in vào các hợp đồng có tiềm năng cac trong giai đoạn thăm dò/ thẩm lượng; ·          Đấu thầu, đàm phán trực tiếp để ký cá hợp đồng thăm dò khai thác; Trong các giải pháp trên thì mua tài sản đặc biệt ưu tiên STT Khu vực Thu nổ 2D Km Thu nổ 3D Km2 Số giếng khoan TD/ TL 1 Nam- Trung Mỹ ( chủ yếu trên biển) 32.000 10.000 45 2 Châu Phi (chủ yếu trên biển) 20.000 5.000 15 3 Châu Á (chủ yếu trên biển) 20.000 5.000 20 4 Các nước Liên Xô (Chủ yếu trên đất liền) 7.000 2.000 35 5 Các nơi khác 5.000 2.000 15 Tổng cộng 84.000 km 24.000 km2 130 giếng Bảng 9: Dự kiến khối lượng công tác thăm dò 2008- 2015 theo khu vực trọng điểm Giai đoạn 2016- 2025: Trong giai đoạn này có thể có các diện tích thăm dò đã bị thu hẹp cộng với rủi ro răng cao nên có nhiều khả năng tốc độ tăng trưởng  của các dự án thăm dò sẽ giảm với các giai đoạn trước. Do vậy, để duy trì mức gia tăng trữ lượng dự trữ là 200 triệu tấn vào năm 2025 thì tiếp tục áp dụng các giải pháp hiệu quả ngoài ra còn cần phải triệt để áp dụng các tiến bộ khoa học để giảm thiểu rủi ro và tăng hệ số thu hồi dầu khí. STT Khu vực Thu nổ 2D Km Thu nổ 3D Km2 Số giếng khoan TD/ TL 1 Nam- Trung Mỹ ( chủ yếu trên biển) 28.000 15.000 25 2 Châu Phi (chủ yếu trên biển) 30.000 10.000 20 3 Châu Á (chủ yếu trên biển) 25.000 5.000 20 4 Các nước Liên Xô (Chủ yếu trên đất liền) 22.000 5.000 15 5 Các nơi khác 20.000 5.000 20 Tổng cộng 125.000 km 40.000 km2 100 giếng Bảng 10: Dự kiến khối lượng công tác thăm dò 2008- 2015 theo khu vực trọng điểm 2.1.2.2 Khai thác dầu khí Khai thác dầu khí trong nước:             Giai đoạn 2008- 2010: Tích cực đưa them các mỏ mới vào khai táhc và tăng cường các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác của các mỏ hiện tại để đảm bảo sản lượng khai thác dầu của PVEP tăng lên 5,1 triệu tấn/ năm (13,3 triệu tấn/năm tính cả dự án có sự tham gia của PVEP) vào năm 2010. Đông thời tích cực hoàn thành chương trình thẩm lượng và phát triển các mỏ khí, đảm bảo sản lượng khai thác khí PVEP đến năm 2010 đạt 1,5 tỷ m3/ năm (7,6 tỷ m3/ năm tính cả dự án). Tổng sản lượng dầu/ khí đạt 20 triệu tấn quy dầu/năm 2010.             Giai đoạn 2011- 2025: Tiếp tục đưa them một số mỏ dầu và khí mới vào khai thác để bù đắp sản lượng suy giảm của các mỏ đã khai thác (khoảng 8%/ năm), đến năm 2015 sản lượng dầu khai thác trong nước của PVEP ở mức 5,5 triệu tấn dầu/ năm (15 triệu tấn/ năm tính cả dự án có sự tham gia của PVEP), sản lượng khí khai thác đạt 3,4 tỷ m3/ năm (15 tỷ m3/ năm tính cả dự án).             Giai đoạn 2016- 2025: Phấn đấu sản lượng của PVEP trên 12 triệu tấn quy dầu/ năm vào năm 2025. Mặc dù sản lượng dầu bị suy giảm đáng kể trong thời gian này, nhưng nhờ vào việc đưa them một số mỏ khí đã được phát hiện vào năm 2011-2013 và các mỏ mới từ các trữ lượng mới được phát hiện sẽ bù đắp sản lượng dầu suy giảm.             Để đảm bảo được mục tiêu sản lượng dầu khí trong nước được khai thác như dự báo chiến lược, cần phải đẩy nhanh đầu tư tìm kiếm thăm dò dầu khí để đạt trữ lượng phát hiện dự kiến trong những năm tiếp theo từ việc tim kiếm thăm dò cận mỏ, chi tiết ở bồn trũng Cửu Long và các phát hiện mới ở các bể trầm tích Nam Côn Sơn, Phú Khánh…             Khai thác dầu khí ở ngoài nước:             Dự kiến trữ lượng dầu khí được phát hiện trong công tác tìm kiếm thăm dò tiếp theo trong nước sẽ không đạt được như các năm trước đây do các bể trầm tích có tiềm năng đã được tiến hành khá chi tiết. Để gia tăng sản lượng dầu khí khai thác ở ngoài nước, cần phải tiến hành mua tài sản trong các năm từ 2008 đến 2015.             Giai đoạn 2008- 2015: Sản lượng dầu ngoài nước dự kiến khai thác theo % cổ phần PVEP tham gia trên 6,7 triệu tấn/ năm vào năm 2015, chủ yếu dựa vào sản lượng dầu khai thác các mỏ được mua cùng với việc dự kiên đưa mỏ Junon-2 vào khai thác năm 2012.             Giai đoạn 2016- 2025: Sản lượng dầu khai thác từ ngoài nước tăng từ 6,7 triệu tấn/ năm năm 2015 lên khoảng 14 triệu tấn/ năm vào 2025 theo % cổ phần PVEP tham gia. Sản lượng dầu được gia tăng đáng kể trong giai đoạn này phụ thuộc vào việc mua tài sản trong giai đoạn 2008- 2015 và đẩy mạnh đầu tư tìm kiếm thăm dò ngoài nước.             Như vạy việc gia tăng và duy trì tổng sản lựong dầu khí khai thác của PVEP như chiến lược đề ra trong các năm 2015 đến 2025 phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư thành công trong công tác tìm kiếm và thăm dò dầu khí ra nước ngoài. Sản lượng PVEP phấn đầu đạt 1,4 triệu tấn quy dầu/ năm vào năm 2010, 6,7 triệu tấn vào nă, 2015 và 14 triệu tấn vào năm 2025. 2.1.2 Số lượng cá dự án của PVEP qua các thời kỳ                     Bảng 5: Số lượng dự án Thăm dò giai đoạn 2008- 2025             Năm 2007: Tổng số dự án của PVEP là 54 (24 TD, 20 PT và 10KT), trong đó PVEP điề hành 22 dự án (7TD, 7 PT và 8 KT).             Giai đoạn 2008- 2010: Đến năm 2010 tổng số các dự án của PVEP tăng lên con số 70 dự án ( 38 TD, 12PT và 20KT), trong đó PVEP điều hành 27 dự án (13 TKTD, 8 PT và 6 KT )             Giai đoạn 2011- 2015: Đến năm 2015 tổng số dự án của PVEP tăng lên thành 108 dự án ( 50 TD, 20 PT và 38 KT), trong đó PVEP tự điều hành 39 dự án ( 16 TKTD, 7 PT và 16 KT).             Giai đoạn 2016- 2025: Đến năm 2025 tổng số dự án của PVEP tăng lên 137 ( 65 TD, 10 PT và 62 KT), trong PVEP điều hành 40 dự án (21 TD, 5 PT và 14 KT ). 2008 2009 2010 Gia tăng trữ lượng (tr. Tấn quy dầu) Dầu khí trong nước Dầu nước ngoài                               32                               50 Sản lựong (tr. Tấn quy dầu ) Dầu trong nước Khí trong nước Dầu nước ngoài 8,99 7,67 0,15 13,24 8,67 0,98 14,56 7,65 1,46 Doanh thu (tr. USD) Nộp ngân sách của PVEP Nộp Tập đoàn 987,58 280,46 - 1.506,09 546,23 77,23 1.876,68 705,32 88,90 tổng đầu tư (tr. USD) 2.016,89 1.998,76 1994,24 Bảng 11: Kế hoạch phát triển giai đoạn 2008- 2010 2.2  Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án Dầu khí Để công tác lập dự án Thăm dò và Khai thác Dầu khí dần đáp ứng được những yêu cầu thực tiên và đạt hiệu quả cao thì Tổn công ty phải phối hợp nhiều giải pháp khác nhau. Từ quá trình phân tích thực trạng công tác lập dự án tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí, đồng thời rút ra được những tồn tại hạn chế và xem xét những nguyên nhân của nó, em mạnh dạn xin đưa ra một số nhóm giải pháp như sau: 2.2.1 Hoàn thiện quy trình, hệ thống tiêu chuẩn thống nhất cho công tác Lập dự án 2.2.1.1Hoàn thiện quy trình lập dự án             Đối với bất kỳ một dự án nào  thì quy trình soạn thảo đều có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác lập dự án. Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào sự phối hợp, phân công, bố trí công việc giữa các phòng ban trong Tổng công ty. Do vậy để công tác lập dự án ngày càng hoàn thiện hơn, thì quy trình thực hiên dự án của Tổng công ty cũng phải được đổi mới và hoàn thiện.             Hiện nay, các phòng ban trong Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí hoạt động tương đối độc lập, sự phối hợp giữa các phòng ban là chưa thực sự cao, chưa tập trung năng lực làm việc của các cán bộ trong Tổng công ty khi hoạt động. Làm việc phân tán cũng là một yếu tố cản trở tính hiệu quả của việc điều hành tập trung. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng công tác lập dự án. Bởi một dự án Dầu khí được lập cần phải trải qua sự phân tích của nhiều phòng, ban, bộ phận, từ ban bộ phận nghiên cứu và phân tích địa chấn, bộ phận phát triển mỏ tại Ban dự án mới, rồi đến ban Công nghệ mỏ, bộ phận kinh tế tại Ban dự án mới đánh giá, Ban Phát triển khai thác, Ban Sức khoẻ và an toàn môi trường, Ban Luật…nên nếu không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, thì thời gian lập dự án sẽ kéo dài và hiệu quả lập dự án không cao, gây nên sự tranh luận thường xuyên giữa các phòng ban. Do vậy Tổng công ty nên lập một ban chuyên môn, bao gồm các đại diện của các phòng, ban, và mỗi khi có dự án thì họp bàn phương hướng làm việc chung trước khi giao nhiệm vụ cụ thể cho đơn vị tiến hành. Như vậy, vừa huy động đước năng lực làm việc sáng tạo của tất cả các cán bộ chuyên môn giỏi, vừa phù hợp với phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty. Hơn nữa, nếu có vướng mắc hay sai sót trong quá trình tiến hành, thay vì chỉ một phòng ban tìm cách giải quyết, ý kiến của nhiều chuyên gia trong Tổng công ty sẽ giúp ích cho đơn vị tiến hành tháo gỡ vấn đề.             Ngoài ra, cần tăng cường thực hiện công tác theo dõi giám sát viêc thực hiên quy trình lập dự án bởi vì trên thực tế do không có sự giám sát chặt chẽ của chủ nhiệm dự án nên một số bước trong quy trình lập dự án tiến hành không tốt hoặc có khi bị bỏ qua, hoặc mốt số bước làm chậm sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của các bước tiếp theo. Hiên nay, tại Tổng công ty vẫn còn có nhiều các dự án khi lập xong phải chỉnh sửa lại, hoặc gửi lên các cơ quan thẩm quyển phê duyệt bị gửi trả lại vì chưa đạt yêu cầu nên công tác kiểm tra đánh giá đôi khi còn xem nhẹ. Do đó, sau khi hoàn thành dự án các cán bộ làm công tác lập dự án cần kiểm tra đánh giá lại xem có thiếu sót gì không sau dó trình trưởng ban của mình kiểm tra lại. Để khắc phục vấn đề này thì trưởng các phòng ban cần quan tâm hơn nữa đến công tác lập dự án của từng thành viên trong ban mình, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện và có chế độ phạt thưởng thích hợp để có được một dự án hoàn chỉnh trình cơ quan thẩm quyền phê duyệt 2.2.1.2 Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn thống nhất cho việc đánh giá dự án :             Hiện nay, tại Tổng công ty vẫn chưa xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn thống nhất cho việc đánh giá dự án. Điều này gây khó khăn cho các cán bộ lập dự án, không biết phải dựa vào căn cứ, cơ sở nào cho chuẩn để  đưa ra các quyết định cho đúng đắn, chính xác và phù hợp. Vì vậy, Tổng công ty nên có kế hoạch thu thập ý kiến đánh giá, nghiên cứu của các chuyên gia đầu ngành có nhiều năm kinh nghiệm về các mảng công viêc trong công tác lập dự án, để xây dưng lên một hệ thống các tiêu chuẩn thống nhất chung cho việc so sánh, đánh giá các chỉ tiêu của dự án. Đây là một công việc hết sức quan trọng mà Tổng công ty cần thực hiện. 2.2.2 Hoàn thiện nội dung Lập dự án Tuy các nội dung trong các dự án mà công ty đã lập đã khá là đầy đủ nhưng cũng có nhiều nội dung phân tích chưa sâu, thậm chí còn chưa được quan tâm thoả đáng, trong đó đáng chú ý là nội dung phân tích môi trường đầu tư, phân tích hiệu quả tài chính, phân tích kĩ thuật, phân tích khía cạnh kinh tế xã hội. Do đó, cần có những giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn nữa những khía cạnh nghiên cứu này. Cụ thể phải hoàn thiện nội dung lập dự án như sau: 2.2.2.1 Nghiên cứu môi trường đầu tư Đối với một dự án Thăm dò và Khai thác Dầu khí thì nội dung nghiên cứu môi trường đầu tư không thể thiếu được. Nội dung này bao gồm các thông tin vê: vị trí địa lý, điều kiện chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội, công nghiệp dầu khí, cơ chế tổ chức quản lý ngành dầu khí, pháp lý hợp đồng, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc đầu tư tại nước diễn ra dự án. Đây là những nội dung hết sức quan trọng liên quan đến việc triển khai và thực hiện dự án sau này, cũng như những rủi ro mà dự án gặp phải trong đời dự án. Qua tìm hiểu về công tác lập dự án tại Tổng công ty ta có thể thấy rằng, công tác này đã được quan tâm thực hiện những vẫn còn tồn tại một số bất cập. Việc tìm hiểu thông tin về môi trường đầu tư vẫn dừng lại ở mức sơ sài, tìm hiểu thông tin chủ yếu từ mạng internet, một số sách báo, một số dự án tương tự mà chưa có một kế hoạch cụ thể, chưa có một quá trình phân tích và xử lý thông tin một cách chính xác, chưa đưa ra được những nhận định và đánh giá sâu sắc về môi trường đầu tư. Đôi khi, các phần trong nghiên cứu môi trường đầu tư còn xem nhẹ, không đầy đủ, nhất là đối với dự án đầu tư trong nước. Như ví dụ minh họa dự án thăm dò và khai thác dầu khí lô 103- 107 , hoặc các lô 111-1, lô 31 Vĩnh Châu…thì phần tình trạng ngành công nghiệp dầu khí, cơ chế quản lý ngành, căn cứ pháp lý liên quan đến dự án không được đề cập đến.             Trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải lập ra một đội ngũ chuyên trách về phân tích môi trường đầu tư của dự án, am hiểu về pháp lý tại nơi mà dự án diễn ra. Có như vậy, việc phân tích sẽ có tính chuyên môn hoá và hiệu quả hơn. Tăng cường hiệu quả hệ thống thu thập thông tin bằng cách hiện đại hoá máy móc thiết bị, đầu tư mua các thông tin từ các công ty dịch vụ có uy tín, thu thập thông tin từ Đại sự quán, từ các tổ chức Chính phủ…để cung cấp nguồn số liệu đầu vào phong phú và chính xác cho việc lập dự án. 2.2.2.2  Phân tích kĩ thuật             Nội dung phân tích kĩ thuật của một dự án Thăm dò và Khai thác Dầu khí được tiến hành nghiên cứu hết sức chi tiết và cụ thể. Một trong những mục đích của việc nghiên cứu kỹ thuật của dự án dầu khí là nhằm xác định thông số kỹ thuật từ đó làm tiền đề cho công tác nghiên cứu khía cạnh tài chính sau này. Tuỳ theo từng dự án cụ thể mà các vấn đề nào được nghiên cứu chi tiết, cụ thể, cần phải xử ký thông tin nhiều hơn, vấn đề nào chỉ cần xem xét sơ bộ.             Qua nghiên cứu thực trạng công tác lập dự án ở phần trên, chúng ta có thể thấy được nội dung phân tích kỹ thuật tại Tổng công ty là những phần lớn như:             - Đánh giá tiềm năng dầu khí: Vị trí địa lý và lịch sử thăm dò; đặc điểm địa chất khu vực; hệ thống dầu khí; tiềm năng dầu khí; chương trình thăm dò/ thẩm lượng/ khai thác             - Công nghệ mỏ & ý tưởng/ kế hoạch phát triển mỏ: công nghệ mỏ; phương án phát triển mỏ; hiện trạng khai thác và kế hoạch triển khai mỏ ( Khi áp dụng );dự kiến chi phí và tiến độ đầu tư.             Đây là nội dung cần rất nhiều thông tin liên quan đến địa chất, lịch sử thăm dò, đặc điểm địa tầng, trầm tích, cấu tạo đất đá, cấu tạo các mỏ…để xác định số giếng và chi phí liên quan giếng thăm dò, giếng thẩm lượng, giếng phát triển khai thác, mũi khoan…Việc phân tích, đánh gá các thông số kĩ thuật là hết sức khó khăn, do vậy các chuyên gia và các nhân viên lập dự án rất cần các phần mềm chuyên dụng cho việc phân tích địa chất, lập kế hoạch phát triển mỏ. Do đó, giải pháp đưa ra là Tổng công ty cần đầu tư chi phí vào việc mua thông tin, mua các phần mềm chuyên dụng, bổ sung thêm đội ngũ kỹ sư khảo sát, kỹ sư phân tích địa chấn, kỹ sư phát triển khai thác…để tiến hành phân tích các nội dung kỹ thuật đầy đủ và chính xác hơn. Thêm vào đó, trong quá trình phân tích kỹ thuật nên đưa ra nhiều tình huống, nhiều phương án kỹ thuật để lựa chọn. Nếu phân tích kỹ thuật tiến hành tốt sẽ loại bỏ được các phương án không khả thi về mặt kỹ thuật là tiền đề cho bước nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu về kinh tế tài chính của dự án. Nếu phương án kỹ thuật được lựa chọn ngay từ đầu là phù hợp và mang lại hiệu quả kinh tế cao thì sẽ tránh được các tổn thất sau này cho dự án.           2.2.2.3 Phân tích chỉ tiêu tài chính             Đây có thể nói là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quá trình soạn thảo các dự án đầu tư. Mặt khác, phân tích tài chính dự án còn là cơ sở để tiến hành phân tích kinh tế xã hội. Trong phân tích tài chính thì phải xây dựng tỷ suất chiết khấu, giá dầu, trượt giá, lạm phát theo đúng các luận chứng kinh tế và kỹ thuật, tham khảo một số ý kiến phân tích đánh giá, trên các tạp chí của các tổ chức kinh tế lớn, các chuyên gia hàng đầu. Các dự án được lập trong thời gian qua có tỷ suất chiết khấu, giá dầu, tỷ số trượt giá, tỷ lệ lạm phát được xác định chủ yếu dựa vào các dự án tương tự, hoặc thông số trên thị trường hiện tại mà hầu như không có sự tính toán nào, không xem xét và đánh giá đến sự biến động của các yếu tố đó trong tương lai. Như trong dự án Thăm dò và Khai thác Dầu khí lô 103- 107 , dựa vào tình hình thị trường người lập dự án xác định mức lãi suất vay thị trường hiện tại là 8%. Sau đó người lập dự án đưa ra mức lãi suất vay dự kiến là 10% mà không có sự tính toán khoa học nào cả, dẫn đến kết quả tính toán chưa thật sự chính xác. Do vậy, các thành viên làm công tác lập dự án cần thiết lập kiến thức tỷ suất chiết khấu để hoàn thiện về nội dung này. Tính tỷ suất chiết khấu tính theo bình quân từ các nguồn huy động vốn khác nhau. Như ví dụ ở trên, người lập dự án phỉa dựa vào tỷ lệ vốn của từng loại, thời điểm phát sinh các nguồn vốn đó, thời điểm cấn tính tỷ suất chiết khấu để tính tỷ suất chiết khấu bình quân. Theo bảng dự kiến vốn đầu tư của dự án (bao gồm vốn đầu tư và vốn vay): Năm Hợp đồng 2006 2007 2008 2009 2010 Chi phí Thăm dò + Thẩm lượng 16,3 46,8 43,5 - - Chi phí Phát triển mỏ - - 40,4 73,9 22,0 Vốn tự có - - 12,1 22,2 6,6 Vốn vay - - 28,3 51,8 15,4 Chi phí vận hành - - - - 5,5 Chi phí dỡ bỏ - - - - 1,7 Tổng vốn tự có 16.3 46.8 55.5 22.1 13.8 Tổng vốn vay - - 28.3 51.8 15.4 Tổng chi phí của PIDC 16,3 46,8 83,8 73,9 29,2             Ta có cách tính tỷ suất chiết khấu của dự án, tại thời điểm dự án bắt đầu có doanh thu (năm 2010) như sau:             ( 16,3*( 1+0.1)^4+46.8*(1+0.1)^3+55.5*(1+0.1)^2+22.1*(1+0.1)+13.8)*0.1+ (28.3*(1+0.08)^2+51.8*(1+0.08)+15.4)*0.08 Rbq=                                                                                                                        = 9.3%                           ( 16,3*( 1+0.1)^4+46.8*(1+0.1)^3+55*(1+0.1)^2+22.1*(1+0.1)+13.8)+ (28.3*(1+0.08)^2+51.8*(1+0.08)+15.4)             Ta thấy các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính trong các dự án mà công ty lập vẫn chưa đầy đủ. Qua nghiên cứu một số dự án được lập tại Tổng công ty chúng ta có thể thấy rằng các chỉ tiêu về mặt tài chính rất được chú trọng như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn. Tuy nhiên, trong thực tế với một số dự án thì các chỉ tiêu này chưa đánh giá chính xác tính khả thi của dự án. Đây chính là một điểm còn hạn chế mà cán bộ lập dự án tại Tổng công ty cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu phân tích quan trọng khác như: chỉ tiêu lợi ích- chi phí (B/C), chỉ tiếu suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR), vòng quay vốn lưu động, điểm hoà vốn… để đảm bảo tính khả thi của dự án. Việc tính toán cụ thể, Tổng công ty có thể sử dụng phần mềm Excel để tính toán cho đúng và chính xác. Ngoài ra, Tổng công ty nên đầu tư mua thêm một số phần mềm chuyên dụng, và trang bị kiến thức cho cán bộ lập dự án vê công dụng và cách sử dụng phần mềm trong quá trình phân tích độ nhạy của dự án, khi mà nhiều yếu tố cũng ảnh hưởng tới yếu tố mục tiêu.             Khi phân tích tài chính Tổng công ty cần tính toán thêm các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của dự án như: hệ số vốn tự có so với vốn đi vay, tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầu tư. Hai chỉ tiêu này nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho dự án được thực hiện thuận lợi.             Ngoài ra, một nội dung không kém quan trọng trong phân tích tài chính đó là đánh giá độ an toàn về mặt tài chính của dự án. Hiện nay, tại Tổng công ty nội dung này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong công tác lập dự án. Hầu hết các dự án chưa phân tích độ an toàn về mặt tài chính trong báo cáo đầu tư, Do đó để có thể hoàn thiện khía cạnh phân tích tài chính dự án cũng như là nâng cao chất lượng của dự đựơc lập trong thời gian tới, Tổng công ty nên bổ sung một số nội dung đánh giá tài chính như sau:             - An toàn về nguồn vốn: đảm bảo tỷ lệ giữa vốn tự có và vốn đi vay ≥ 1. Áp dụng cho dự án minh họa: Vốn tự có                       40.9                              =                        = 0.43 < 1. . Vốn đi vay                      95.4   Hệ số an toàn về nguồn vốn của dự án thấp, mức độ rủi ro cao.             - An toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ phả đảm bảo:             + Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành= Tài sản lưu động/ Nợ ngắn hạn ≥  1             + Tỷ số khả năng trả nợ của dự án= Nguồn trả nợ hàng năm của dự án/ Nợ phải trả hàng năm ( gốc và lãi )             Áp dụng cho ví dụ dự án minh họa: PVEP trả gốc và lãi trong vòng 5 năm từ năm 2010- 2014 Năm 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn trả nợ 15,5 31,1 43,6 43,6 43.6 Trả gôc và lãi 15,3 14,4 13,5 12,6 11,7 Tỷ lệ khả năng trả nợ 1.013 2.16 3.23 3.46 3.726             Khả năng trả nợ của dự án đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá độ án toàn về mặt tài chính của dự án đông thời là một trong các tiêu chuẩn để chấp nhận có cung cấp tín dụng cho dự án hay không. 2.2.2.4 Phân tích chỉ tiêu kinh tế- xã hội Các chỉ tiêu phân tích kinh tế xã hội trong các dự án Thăm dò và Khai thác Dầu khí thường chỉ được đề cập đến khi các dự án này diễn ra ở trong nước. Tuy nhiên các chỉ tiêu này chỉ được đề cập một cách sơ bộ, thậm chí mang tính thủ tục bằng những đánh giá chủ quan mang tính định tính. Chủ yếu tập trung vào khía cạnh xã hôi như: tác động của dự án đến lao động, đến việc làm; môi trường sinh thái; đóng góp của dự án vào ngân sách; ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương; tác động đến sự phân phối thu nhập của người dân…như ví dụ nêu trên. Do đó, trong thời gian tới Tổng công ty nên bổ sung các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội như: giá trị tăng thuần (NVA), giá trị hiện tại ròng kinh tế (NPV(E)), tỷ số lợi ích- chi phí kinh tế (B/C(E)) và các chỉ tiêu kinh tế xã hội cần được đánh giá theo đinh lượng như: tính toán mức đóng góp Ngân sách hàng năm của dự án, tính số lao động được tạo việc làm từ dự án, mức thu nhập cho từng hộ gia đình, năng suất lao động… Cách xác định các chỉ tiêu kinh tế xã hội: Về chỉ tiêu giá trị gia tăng : Giá trị gia tăng gồm 2 bộ phận chính là phần lương trả cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và phần thặng dư xã hội bao gồm các loại thuế mà doanh nghiệp phải trả cho việc thực hiện dự án, lãi suất phải trả cho cơ quan tài chính, lợi nhuận dự án đem lại cho doanh nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ dự trữ, quỹ phát triển của doanh nghiệp…Giá trị gia tăng thực NVA được xác định bằng giá trị gia tăng chung trừ đi phần giá trị gia tăng chuyển ra ngoài như lương, lợi tức cổ phần…Đây là phần đóng góp thực của dự án đối với nền kinh tế quốc dân. Về chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng kinh tế NPVE, chỉ tiêu này phản ánh tổng lợi ích thuần của cả đời dự án trên góc độ toàn nền kinh tế quy về gốc thời gian hiện tại. Dự án sẽ được chấp thuận nếu NPVE> 0, khi đó tổng thu kinh tế của cả đời dự án lớn hơn tổng chi của cả đời dự á quy về hiện tại, ngược lại nếu NPVE < 0, thì dự thức tính:               n NPVE= ∑             i=0 BEi- CEi (1+ rs)i Trong đó: BEi: Lợi ích kinh tế của dự án tại năm thứ i của đời dự án. Đây chính là các khoản thu của dự án sau khi có những điều chỉnh về nội dung các khoản mục được coi là thu và về giá cả theo yêu cầu phân tích kinh tế. CEi: Chi phí kinh tế của dự án tại năm thứ i của đời dự án. Đây chính à khoản chi của dự án sau khi có những điều chỉnh về nội dung các khoản mục coi là chi và về giá cả theo yêu cầu của phân tích kinh tế. rs: Tỷ suất chiết khấu xã hội Về chỉ tiêu lợi tỷ số lợi ích kinh tế B/ C, chỉ tiêu này được sử dụng trong đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Nếu tổng thu của dự án quy về mặt bằng thời gian hiện tại lớn hơn tổng chi dự án quy về mặt bằng hiện tại tức là B/CE > 1 thì dự án được chấp nhận, và ngược lại khi B/CE < 1 thì dự án có thể bị bác bỏ hoặc điều chỉnh lại. Chỉ tiêu này được tính như sau: B/ CE= ∑ni=0    BEi (1+ rS)i ∑ni=0    CEi (1+ rS)i Trong đó: BEi: Lợi ích kinh tế của dự án tại năm thứ i của đời dự án. Đây chính là các khoản thu của dự án sau khi đã có những điểu chỉnh về nội dung của các khoản mục được coi là thu và về giá cả theo yêu cầu của phân tích kinh tế. CEi: Chi phí kinh tế của dự án tại năm thứ i của đời dự án. Đây chính là các khoản thu của dự án sau khi có những điều chỉnh về nội dung các khoản mục coi là chi phí và về giá cả theo yêu cầu của phân tích kinh tế. rs: Tỷ suất chiết khấu xã hội  Ngoài ra, hiện nay Tổng công ty chưa có hệ thống tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế xã hội, nên khi tiến hành nghiên cứu nội dung này các cán bộ lập dự án đã chủ yếu dựa vào phương pháp so sánh để đối chiếu với một số chỉ tiêu có sẵn về kinh tế xã hội mà địa phương đưa ra. Vì vậy giải pháp cho vấn đề này đó là cán bộ làm công tác dự án cần lập ngay hệ thống tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội, tạo ra một khuôn mẫu chung có tính khoa học và nên nghiên cứu theo các chỉ số tổng hợp. 2.2.3 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác Lập dự án             Đối với các công ty nói chung và Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí nói riêng, nguồn nhân lực là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Tổng công ty. Con người là nhân tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động, là nhân tố quyết định đến kết quả và hiệu quả công việc. Trong công tác lập dự án cũng vây, dự án là sản phẩm do con người tạo ra do đó muốn có sản phẩm tốt thì phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực thật sự, có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, đầu tư nguồn lực cho hoạt động lập dự án là một giải pháp rất cần thiết để nâng cao công tác lập dự án tại Tông công ty.             Thứ nhất: Đào tạo đội ngũ cán bộ lập dự án             Việc đào tạo đội ngũ cán bộ lập dự án là việc nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ đó. Hiện nay, có một số thành viên trong Tổng công ty có trình độ chuyên môn chưa đạt yêu cầu do vậy cần tổ chức đào tạo hoặc học thêm để nâng cao trình độ, đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc được giao. Các giải pháp cụ thể là: nâng cao ý thức trách nhiệm cán bộ công nhân viên, khuyến khích và cử các cán bộ trẻ hiện đang đảm nhận các công việc chuyên môn của Tổng công ty tham gia các lớp học nâng cao trình độ cũng như mời các chuyên gia đầu ngành đến giảng dạy về phân tích địa chấn, công nghệ mỏ, phát triển mỏ, đánh giá kinh tế…Đồng thời bổ sung đội ngũ chuyên gia trong và nước ngàoi có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm và có ý thức với sự phát triển của Tổng công ty vào làm việc. Tổng công ty đặc biệt chú trọng đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức các hoạt động đoàn thể trong Tổng công ty để mỗi cán bộ nhân viên xác định rõ được tinh thần trách nhiệm đối công việc được giao, có tinh thần hợp tác với các đồng nghiệp và có ý thức học hỏi, vươn lên để đáp ứng với sự phát triển trong các giai đoạn mới của Tổng công ty.             Cùng với việc đào tạo vê chuyên môn cho cán bộ thi Tổng công ty cần phải tại điều kiện để cán bộ trong Tổng công ty nâng cao trình độ về tin học, ngoại ngữ, các phần mềm cần thiết phục vụ cho công tác lập dự án. Mọi cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty phải phấn đầu sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho chuyên môn của mình. Quan tâm chu đáo đến đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên yên tâm công tác.             Thứ hai: Đổi mới và hoàn thiện công tác tuyển dụng lao động             Việc đào tạo và tuyển dụng lao động cần được chú trọng hơn nữa và tiến hành thường xuyên. Hàng năm, Tổng công ty phải có kế hoạch tuyển dụng cán bộ cho từng bộ phận, vị trí trong doanh nghiệp, đảm bảo trong doanh nghiệp luôn có đội ngũ kế cận. Do sự cạnh tranh của cơ chế thị trường, để tuyển dụng được cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt cần phải có sự đầu tư thích ứng. Tổng công ty có thể áp dụng chính sách học bổng, tài trợ cho những sinh viên có thành tích học tập xuất sắc, tạo điều kiện cho các sinh viên giỏi được thực tập tại Tổng công ty ngay từ năm thứ 2, thứ 3.             Trong quá trình tuyển dụng, công ty phải đổi mới cách đánh giá cán bộ. Từ xưa đến nay, khi tuyển dụng sinh viên mới ra trường, công ty thường căn cứ và coi trọng kết quả học tập chứ chưa đánh giá đến khả năng thích nghi công việc của họ. Tuy nhiên, ngày nay công tác tư vấn đòi hỏi người cán bộ không những có năng lực chuyên môn mà còn phải nhạy bén trong công việc, nắm bắt các thong tin thị trường và có khả năng giải quyết các tình huống ngoài dự kiến. Do vậy, để đánh giá đúng, cán bộ tuyển dụng phải có cái nhìn bao quát và đưa ra được các biện pháp thử thách, thực tập thích hợp cho từng đối tượng dự tuyển.             Thứ ba: Chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài             Trong cơ chế thị trường, rất nhiều các bộ chuyên môn giỏi hiện nay đều tìm đến làm việc cho công ty nước ngoài hoặc những công ty tư nhân mà họ được trả lương cao hơn. Các cán bộ trẻ cũng không muốn vào làm trong các cơ quan nhà nước có mức thu nhập thấp. Để khắc phục tình trạng trên, Tổng công ty cần cố những cải tiến cơ chế phân phối thu nhập theưo hướng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Tổng công ty cũng nên có những chính sách ưu đãi đặc biệt cho các chuyên gia giỏi để khuyến khích họ phát huy hết năng lực, trí tuệ phục vụ Tổng công ty. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế xử phạt đối với các cán bộ làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công việc, làm giảm uy tín của Tổng công ty.             Thứ tư: Củng cố và hoàn thiện công tác quy hoạch cán bộ             Một trong các nội dung mà Tổng công ty phải quan tâm là phải xây dựng quy hoạch cán bộ cho riêng mình. Quy hoạch cán bộ là phải dựa trên chiến lược trước mắt và lâu dài. Do vậy, trên cơ sở mục tiêu phát triển quy mô tư năm nay đến năm 2025, công ty cần tiến hành tính toán số lượng cán bộ cần thiết cho nghiệp vụ lập dự án. Tuyển thêm các cán bộ còn thiếu và có biện pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ riêng cho từng nhóm cán bộ.             Để tránh lãng phí nguồn nhân lực, bố trí phân công công việc giữa các phòng ban phải phù hợp với chuyên môn của từng người và đảm bảo sự hợp lý trong cơ cấu tổ chức công tác lập dự án, sao cho công tác này được tiến hành gọn nhẹ, đúng theo trình tự quy định của pháp luật và đảm bảo dự án được lập có chất lượng cao. Ngoài ra, sau khi thống nhất thì nên giao cụ thể cho từng cá nhân để khuyến khích tinh thần trách nhiệm nhằm nâng cao chất lượng của dự án.  2.2.4 Xây dựng kế hoạch và chiến lược đầu tư hợp lý             Hiện nay, hoạt động lập dự án  tại Tổng công ty được triển khai theo một kế hoạch cụ thể nhưng kế hoạch còn chưa chi tiết, chưa đặt ra mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn sao cho phù hợp với thực tế, điều này gây khó khăn cho cán bộ làm công tác lập dự án. Căn cứ vào tình hình thực tế trên, ban lãnh đạo Tổng công ty cần lập ra những giải pháp chiến lược phát triển hợp lý nhất cho Tổng công ty, đồng thời xây dựng các kế hoạch hành động để thực hiện chiến lược đó thành hiện thực. Việc xây dựng kế hoạch và chiến lược của Tổng công ty phải có sự tham gia, ý kiến đóng góp của các phòng, ban và cán bộ nhân viên trong Tổng công ty, phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, kĩ thuật đầu ngành. Cùng với việc xây dựng kế hoạch chiến lược của Tổng công ty thì công tác lập dự án cũng cần có chiến lược và kế hoạch phát triển cụ thể, hợp lý cho riêng mình. Môi trường luôn luôn biến đổi, do vậy để cho dự án có vẫn đạt được hiệu quả trong sự thay đổi của môi trường thì đòi hỏi người thực hiện lập dự án cần có một tầm nhìn chiến lược, kiến thức chuyên sâu và người lãnh đạo giữ vai trò rất quan trọng để điều chỉnh công việc đi đúng hướng. 2.2.5. Đầu tư đổi mới khoa học công nghệ Hiện nay, các máy móc thiết bị để phục vụ cho công tác lập dự án được Tổng công ty trang bị khá đầy đủ gồm có các máy tính nối mạng Internet, mạng nội bộ, máy in, máy photo, điện thoại cố định giữa các phòng ban, máy fax, máy scan, các dụng cụ, thiết bị văn phòng phẩm…Tuy nhiên, số lượng các máy tính xách tay, điện thoại di động trang bị cho các cán bộ công nhân viên chưa được nhiều. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác lập dự án nói riêng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn Tổng công ty nói chung, Tổng công ty cần đầu tư hơn nữa vào hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho công tác lập dự án như: thay thế các máy tính cũ bằng các máy tính hiện đại, máy tính xách tay…Ngoài ra, Tổng công ty cần mua sắm thêm các dụng cụ máy tính, máy in, máy photo phục vụ cho công tác lập dự án bởi khối lượng công viêc của Tổng công ty ngày càng lớn.             Bên cạnh đó, việc đầu tư cho các nhân viên trong Tổng công ty sử dụng tốt các phần mềm hỗ trợ cho việc lập dự án đầu tư cũng là một giải pháp hết sức hữu ích và cần thiết. Hiện nay, trong công tác lập dự án tai tổng công ty có rất nhiều phần mềm hỗ trợ, phục vụ như: Microsft Word,  Excel,  Microsft Project, IES - 2D/3D, Indepth, Stratlog , Well Test 200, Well Design…Mọi cán bộ lập dự án cần được trang bị đầy đủ kỹ năng để có thể sử dụng tốt các phần mềm này, nhằm tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm bớt được gánh nặng tính toán trong công tác lập dự án, trình bày các bảng biểu, đồ thị, chỉ tiêu một cách rõ ràng, mạch lạc. Do vậy, Tổng công ty cần tổ chức các buổi học bổ sung kiến thức và thuê các chuyên gia có kinh nghiệm lập dự án hướng dẫn các cán bộ về cách thức sử dụng, ứng dụng các trang thiết bị, phần mềm này nhằm tin học hoá tất cả các công việc trong công tác lập dự án. Ngoài ra, Tổng công ty cần đầu tư thêm các phần mềm chuyên dụng, đa dạng để đánh giá được mọi khía cạnh của dự án một cách chính xác và đầy đủ, rõ ràng.             Để đánh giá một cách sát sao thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên, Tổng công ty cần trang bị máy chấm thời gian làm việc bằng vân tay. Với việc sử dụng máy này sẽ có sự đánh giá khách quan nhất và làm tăng tính tự giác của tất cả các thành viên trong Tổng công ty, qua đó mà chất lượng các dự án được nâng cao. 2.2.6 Đầu tư hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin phục vụ cho việc lập dự án             Cơ sở thông tin dữ liệu luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác lập dự án. Bất kỳ một dự án đầu tư nào để được lập ra phải sử dụng rất nhiều thông tin dữ liệu. Thông tin được thu thập càng nhiều thì dự án càng đạt được chất lượng tốt, tránh được những sai lầm do nhận định chủ quan, thiếu cơ sở của người lập dự án. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác lập dự án thì cần thiết phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh và khoa học.             Hiện nay, tất cả các hồ sơ dự án được lập tại Tổng công ty đều được lưu trữ trên hồ sơ và bộ nhớ máy tính. Tuy nhiên trên thực tế cách sắp xếp các dự án chưa khoa học, còn lộn xộn và không theo một trật tự nhất định, cụ thể. Do đó quá trình tìm kiếm và rà soát lại thông tin về dự án sau này rất khó. Để khắc phục điều này, Tổng công ty cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu hợp lý, rõ ràng để phục cho công tác lập dự án.             Các dự án nên được tin học hoá và lưu vào bộ nhớ máy tính. Việc sắp xếp dự án phải tuân thủ theo một trình tự khoa học, theo từng năm, từng loại dự án, hoặc từng nước, từng khu vực đầu tư để khi cần tìm thì dễ dàng hơn.             Các thông tin về môi trường đầu tư, tài liệu về kỹ thuật, thăm dò địa chấn, điều kiện tài chính hợp đồng, thương mại…cần phải được tổng kết và phân chia theo các khu vực và các nước cụ thể để có thể đưa ra được những nhận định, phân tích sâu sắc về các nước, các khu vực đó. Khi có các dự án mới cũng thuộc trong các nước, các khu vực đó thì đã có nguồn thông tin và cơ sở đánh giá để sử dụng.             Xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến dự án như: luật đất đai, thuế, luật tài nguyên khoáng sản, luật dầu khí, thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế chấp nhận chung, luật thuế xuất nhập khẩu…ở các nước, các khu vực để so sánh đối chiếu khi cần thiết.             Xây dựng mạng lưới thu thập thông tin cho từng dự án từ các nguồn khác nhau như: thông tin từ sách báo, mạng Internet, từ các dự án tương tự, từ Bộ kế hoạch đầu tư, các cơ quan nhà nước, Chính phủ, các Đại sự quán, các công ty dịch vụ, các đối tác…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện công tác lập dự án Dầu khí tại Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí.doc
Luận văn liên quan