Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank

LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua, đất nước ta không ngừng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, luôn đạt ở mức 7.5% đến 8%/năm. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công đó là đất nước ta đã đẩy mạnh đầu tư trung và dài hạn phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những dự án hoạt động tốt, đóng góp vào sự phát triển của đất nước thì còn những dự án hoạt động kém hiệu quả thậm chí phải ngừng hoạt động, gây thiệt hại không nhỏ đối với chủ đầu tư, các nhà tài trợ vốn nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đứng trước thực tế đó, các ngân hàng thương mại cổ phần với tư cách là nhà tài trợ vốn cho các dự án phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng VP Bank (VP Bank) là một thành viên trong hệ thống ngân hàng thương mại. Trong những năm qua Ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ: trong năm 2005, Ngân hàng được xếp hạng thứ 8 trong hệ thống 10 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị lớn nhất Việt Nam; tín dụng tăng trưởng cao cả về số lượng lẫn chất lượng Sở dĩ Ngân hàng đạt được kết quả như vậy là nhờ Ngân hàng luôn chú trọng đến công tác thẩm định dự án đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, ngân hàng VP Bank vẫn còn những tồn tại và hạn chế cần phải đuợc quan tâm. Trên cơ sở những kiến thức đã được học trên ghế nhà trường và những nghiên cứu thực tế tại chi nhánh Hà Nội-VP Bank. Đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư và những tồn tại, hạn chế trong nội dung, quy trình thẩm định dự án tại chi nhánh Hà Nội-ngân hàng VP Bank nên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank”. CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI – VP BANK CHƯƠNG II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI – VP BANK KẾT LUẬN Thẩm định dự án là một nội dung rất quan trọng, nó không chỉ quyết định đến hiệu quả hoạt động của dự án, giúp các ngân hàng đưa ra quyết định cho vay, từ đó quiết định đến hoạt động của các ngân hàng. Hiện nay tại ngân hàng VP Bank, công tác thẩm định dự án rất được chú trọng quan tâm. Ngân hàng đã ban hành quy trình nghiệp vụ tín dụng thống nhất trong toàn bộ hệ thống, công tác thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm định được quan tâm Do vậy mà số lượng và chất lượng thẩm định các dự án ngày càng tăng. Tuy nhiên công tác thẩm định vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế: nội dung thẩm định còn nhiều thiếu sót, phương pháp thẩm định, phân tích rủi ro của dự án chưa phong phú, hạn chế về đội ngũ cán bộ thẩm định, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định còn thiếu và lạc hậu so với công nghệ ngành ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Để nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác thẩm định dự án nói riêng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ngân hàng nói chung, trong thời gian tới Ngân hàng cần phải quan tâm một cách thích đáng hơn nữa đến công tác thẩm định dự án.

docx68 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2379 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo cũng được Ngân hàng rất chú trọng. Ngân hàng thường xuyên tổ chức những lớp đào tạo nghiệp vụ, nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định. Hiện nay Ngân hàng đã có trung tâm đào tạo riêng. Bên cạnh đội ngũ giảng dạy là những cán bộ có kinh nghiệm lâu năm trong công tác thẩm định, Ngân hàng còn mời những chuyên gia giỏi về thẩm định dự án đến giảng dạy tại Ngân hàng, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm. Chính nhờ vậy mà hiện nay Ngân hàng đã có một đội ngũ cán bộ thẩm định giỏi về chuyên môn, có tư cách đạo đức tốt. 1.5.1.6. Về công tác thu thập, quản lý, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định Thông tin là một trong những yếu tố rất quan trọng quyết định đến chất lượng công tác thẩm định dự án. Hiểu rõ được điều đó, trong thời gian qua Ngân hàng luôn nỗ lực tăng cường công tác thu thập thông tin, tìm mọi biện pháp để lưu trữ thông tin một cách có hiệu quả phục vụ cho công tác thẩm định. Việc thu thập thông tin trong quá trình thẩm định ngày càng đa dạng phong phú. Nếu như trước đây thông tin chủ yếu do chủ đầu tư cung cấp, việc thẩm định chỉ xoay quanh việc kiểm tra tính hơp pháp của những số liệu mà chủ đầu tư cung cấp, thì nay việc kiểm tra các thông tin do chủ đầu tư cung cấp từ nhiều nguôn khác nhau như: kiểm tra thông tin từ tài liệu lưu trữ trên hệ thống liên ngân hàng , thông qua bạn hàng của doanh nghiệp, từ các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan, từ trung tâm phân tích tín dụng và phòng ngừa rủi ro ( CIC)… Có thể thấy rằng công tác thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin tại Ngân hàng ngày càng được chú trọng, quan tâm hơn. Cơ sở vật chất trang bị phục vụ cho công tác thẩm định tại Ngân hàng hiện nay cũng rất tốt. Tính trung bình 3 cán bộ thẩm định thì có hai máy tính nối mạng và một máy điện thoại dùng để thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin tốt hơn, từ đó rút ngắn thời gian thẩm định, nâng cao hiệu quả thẩm định tại Ngân hàng. 1.5.2. Những tồn tại và hạn chế Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong hai năm qua, công tác thẩm định của chi nhánh Hà Nội cũng còn những tồn tại và hạn chế như sau: 1.5.2.1. Về nội dung thẩm định Nội dung thẩm định của Ngân hàng được chi tiết ra thành 10 nội dung nhỏ nhưng trên thực tế trong quá trình thẩm định chỉ tập trung chủ yếu vào thẩm định nội dung thị trường và tài chính, còn các nội dung khác thì bỏ qua hoặc có thẩm định thì cũng thẩm định một cách rất sơ sài. Cụ thể là: Khi đánh giá về khía cạnh kỹ thuật, cán bộ thẩm định mới chỉ dựa trên những luận chứng mà khách hàng đưa ra, mà chưa thẩm định một cách kỹ càng thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật cơ bản của ngành. Ta có thể thấy rõ điều này thông qua việc thẩm định dự án “đầu tư xây dựng khu trung tâm du lịch,văn hoá,thể thao Phú Sơn”. Khía cạnh thẩm định kỹ thuật của dự án này mớichỉ dừng lại ở việc thẩm định địa điểm đầu tư mà chưa xem xét đến các khía cạnh khác như thẩm định giải pháp xây dựng, thẩm định các yếu tố bảo đảm đầu vào cho dự án. Các nộidung thẩm định khác như thẩm định cơ cấu tổ chức quản lý, thẩm định về môi trường sinh thái, thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội. Đây cũng là một trong những nội dung quyết định đến sự thành bại của dự án nhưng lại không được cán bộ thẩm định quan tâm một cách thích đáng. Khía cạnh thẩm định thị trường và khía cạnh thẩm định tài chính là hai khía cạnh được cán bộ thẩm định coi trọng nhất nhưng hai nội dung này cũng còn những tồn tại, những hạn chế. Cụ thể: ® Đối với khía cạnh thẩm định thị trường: cán bộ thẩm định chủ yếu dựa trên việc phân tích thị trường một cách định tính, các quyết định đưa ra đều thiếu cơ sở. Cán bộ thẩm địnhchưa sử dụng những phương pháp toán học trong phân tích và dự đoán cung cầu thị trường để phân tích. ® Đối với khía cạnh tài chính. Thứ nhất: Khi thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn, tốc độ bỏ vốn, ngân hàng thường chấp nhận theo như dự toán mà chủ đầu tư nêu ra. Chính vì vậy mà xảy ra tình trạng khi dự án đi vào hoạt động, dự án không đủ vốn để hoạt động, phải đi vay them. Thứ hai: Doanh thu và chi phí là hai khoản mục quyêt định xem dự án có khả thi về mặt tài chính hay không nhưng hai khoản mục này tuy được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thẩm định. - Về doanh thu:doanh thu mỗi dự án phụ thuộc vào công suất của máy móc thiết bị, giá bán của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ được. Trong khi đó nội dung thẩm định công nghệ thiết bị của dự án không được chú trọng, điều này đối khi làm cho việc xác định công suất của dự án không được chính xác. Giá bán của sản phẩm chủ yếu là do chủ đầu tư đưa ra, cán bộ thẩm định thường sử dụng luôn mức giá này, ít khi tính đến yếu tố ttrượt giá lạm phát, các yếu tố môi trường vĩ mô khác, sự thay đổi của thị hiếu tiêu dùng, sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế mới trong tương lai. Còn số lượng sản phẩm tiêu thụ mới chỉ dựa trên những tính toán chủ quan mà không dựa trên những phương pháp khoa học hiện đại. - Về chi phí: Việc thẩm định chi phi mới chỉ dừng lại ở việc xem xét tính đầy đủ của các khoản mục chi phí mà chưa xem xét chi tiết từng khoản mục một. Việc toán này cũng không tính đến những yếu tố như lạm phát , giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng lên từng ngày. Thứ 3: Việc tính toán các chỉ tiêu tài chính còn nhiều bất cập. Cán bộ thẩm định mới chỉ sử dụng một số chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR, Tthu hồi vốn còn các chỉ tiêu khác như điểm hoà vốn, tỷ số lợi ích/ chi phí, năng lực hoà vốn… thì thường không được quan tâm. Việc tính các chỉ tiêu tài chính trên cũng có nhiều hạn chế dẫn đến kết quả của các chỉ tiêu không chính xác. Cụ thể như sau: Khi tính chi phí của dự án, cán bộ thẩm định đã tính chi phí lãi vay vào khoản mục chi phí, nhưng đến khi tính dòng thu của dự án thì cán bộ thẩm định lại không cộng lãi vay vào. Điều này ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu tài chính bởi vì nếu tính như thế thì chi phí lãi vay bị tính làm hai lần, một lần tính vào chi phí, và một lần nữa là tính thông qua hệ số chiết khấu “r”, khi tính các chỉ tiêu của dự án có tính đến yếu tố dòng tiền là ta đã tính cả chi phí lãi vay vào đó rồi. Mặt khác, một dự án bao giờ cũng có giá trị còn lại của máy móc thiết bị, nhà xuởng, cuối đời dự án thì bao giờ vốn lưu động cho dự án cũng vẫn còn. Cán bộ thẩm định cần phải cộng hai khoản mục này vào dòng thu của dự án. Trên thực tế thì hai khoản mục này bị bỏ qua không được tính đến. Thứ tư: Việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu “r” còn thiếu cơ sở khoa học Có nhiều phương pháp lựa chọn lãi suất chiết khấu khác nhau, tuy nhiên cán bộ thẩm định thường chọn mức lãi suất chiết khẩu là lãi suất ngân hàng. Cán bộ thẩm định chưa tính đến chi phí cơ hội của số vốn tự có của chủ đầu tư, chưa tính đến các yếu tố lạm phát, trượt giá, sự thay đổi lãi suất liên tục của các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng. Tỷ suất chiêt khấu này hầu như không đổi trong suốt vòng đời của dự án. Chính vì những lý do trên mà kết quả tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án thường không chính xác, phản ánh không đúng hiệu quả thực sự của dự án. 1.5.2.2. Về phương pháp thẩm định Hiện nay chi nhánh Hà Nội- VP Bank chủ yếu sử dụng ba phương pháp thẩm định là phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp dự báo và phương pháp phân tích độ nhạy tron đó phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng một cách phổ biến nhất. Tuy nhiên việc so sánh mới chỉ mang tính chất giản đơn đó là so sánh đối chiếu xem hồ sơ của dự án có hợp lệ hay không, có đầy đủ hay không, có phù hợp với các quy định hiện hành hay không… Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư, mức tiêu hao năng lượng, nguyên nhiên vật liệu…. thì chưa đuợc so sánh với các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành. Các chỉ tiêu về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng mới chỉ so sánh giữa các năm với nhau mà chưa so sánh với các doanh nghiệp trong cùng ngành, cùng lĩnh vực. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tại Ngân hàng. Phương pháp dự báo vẫn chưa được áp dụng một cách khoa học. Các dự báo về cung cầu, giá cả, chất lượng sản phẩm…chủ yếu mang tính chất định tính, chủ quan, dựa trên những thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập đuợc thông qua sách báo, tạp chí, phương tiện truyền thông…. Ngân hàng vẫn chưa áp dụng các phương pháp dự báo dựa trên cơ sở toán học hiện đại vào thẩm định. Phương pháp phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy của dự án thì đã được sử dụng nhưng không nhiều. Việc lựa chọn yếu tố dao động, khoảng dao động phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người thẩm định. 1.5.2.3. Về tổ chức thẩm định Hiện nay Ngân hàng vẫn chưa có phòng thẩm định riêng. Việc thẩm định các dự án cá nhân thì do phòng tín dụng cá nhân thực hiện, còn các dự án doanh nghiệp thì do phòng tín dụng doanh nghiệp đảm nhiệm. Như vậy nghiệp vụ thẩm định dự án được lồng ghép vào nghiệp vụ tín dụng. Mỗi một dự án khi đuợc giao cho một cán bộ thẩm định thì cán bộ thẩm định phải đảm nhiệm tất cả các khâu từ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, kiểm tra hồ sơ, đến việc lập tờ trình. Khối lượng công việc rất lớn, nhiều nội dung cần phải thẩm định, cộng thêm với việc khối lượng dự án ngày càng tăng. Đồng thời lại phải đảm bảo thẩm định đúng thời gian quy định, không đuợc quá một tháng để trình lên ban tín dụng, hội đồng tín dụng. Chính những điều này đã gây ra không ít khó khăn cho cán bộ thẩm định làm ảnh hưởng đến công tác thẩm định. 1.5.2.4. Về mạng lưới thông tin phục vụ cho công tác thẩm định Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập thông tin về khách hàng thông qua các biện pháp thu thập trực tiếp hay gián tiếp nhưng thông tin chủ yếu vẫn là do khách hàng cung cấp. Trong nhiều trường hợp các nguồn thông tin này không thực sự khách quan và đúng đắn bởi vì khách hàng muốn được doanh nghiệp cho vay vốn thường đưa ra các số liệu không đúng về tình hình tài chính. Có những doanh nghiệp có tới hai ba chế độ kế toán phục vụ cho những mục đích khác nhau. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện kiểm toán bắt buộc. Sự trao đổi về mặt thông tin giữa các thành viên trong Ngân hàng chưa chặt chẽ, hiệu quả. Dự án phân cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự thẩm định dựa vào năng lực bản thân, ít có sự hỗ trợ hợp tác với nhau. Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định có tham khảo các thông tin từ hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng (CIC). Tuy nhiên, trung tâm này mới hoạt động, thông tin chưa có nhiều, đối khi còn không chính xác (trường hợp dự án “đầu tư xây dựng mới khu trung tâm du lịch văn hoá thể thao Phú Sơn, thì thông tin về doanh nghiệp do CIC cung cấp là bị sai). Do vậy đã gây không ít khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác các thông tin trên hệ thống này chủ yếu được cung cấp bởi các tổ chức tín dụng, do vậy nếu các tổ chức này chậm hoặc không gửi thông tin thì sẽ khiến cho các thông tin về doanh nghiệp bị phản ánh không đầy đủ, thiếu khách quan. Trong khi đó việc khai thác các thông tin từ phía nhà nước, các cơ quan liên quan là rất khó khăn vì hiện nay chưa có sự phối hợp rõ ràng giữa các tổ chức cho vay và cơ quan nhà nước. 1.5.2.5. Về cán bộ thẩm định dự án Nhiệt tình năng động, trẻ, có trình độ chuyên môn là những ưu điểm của đội ngũ cán bộ thẩm định tại Ngân hàng nhưng đồng thời lại cũng là nhược điểm của cán bộ thẩm định. Do họ còn trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm thực tế về dự án, về thương trường. Hầu hết cán bộ thẩm định đều tốt nghiệp khối các trường kinh tế, cho nên họ không có kiến thức chuyên sâu về kỹ thuật công nghệ. Số cán bộ kỹ thuật tại ngân hàng hoạt động trong công tác thẩm định rất hạn chế, số cán bộ am hiểu cả về nghiệp vụ lẫn kỹ thuật thì hầu như không có. Chính điều này đã gây không ít khó khăn trong thẩm điịnh các khía cạnh kỹ thuật, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định. Mặt khác Ngân hàng cũng chưa có chương trình đào tạo chuyên sâu về dự án, việc đào tạo mới chỉ dựa vào những chương trình tập huấn và bồi dưỡng trong ngắn hạn hoặc tự đào tạo. 1.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thẩm định tại chi nhánh Hà Nội-Ngân hàng VP Bank Những tồn tại trong công tác thẩm định của Ngân hàng thời gian qua là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. 1.5.3.1 Nguyên nhân chủ quan Quy trình thẩm định được xây dựng áp dụng chung cho tất cả mọi ngành mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Các nội dung chưa được quy định chi tiết để cán bộ thẩm định có thể kiểm tra đối chiếu. Cán bộ tín dụng vẫn chưa có kiến thức chuyên sâu về mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp, phân tích dự án còn nhiều hạn chế nhất là kiến thức về kỹ thuật thì hầu như không có. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy được trang bị tương đối tốt nhưng so với trình độ công nghệ ngân hàng trong khu vực và trên thế giới thì còn rất lạc hậu. Ngân hàng chưa nghiên cứu và áp dụng các phần mềm hiện đại trong thẩm định và quản lý dự án. Trong tương lai Ngân hàng cần chú ý áp dụng hơn nữa ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác thẩm định. Về thông tin: Ngân hàng chưa có trung tâm thông tin riêng phục vụ cho công tác thẩm định, chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu theo ngành, theo sản phẩm. theo thị trường. Hệ thống này nếu được xây dựng sẽ cung cấp nguồn thông tin dồi dào cho cán bộ thẩm định 1.5.3.2 Nguyên nhân khách quan Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Pháp lệnh về kế toán thống kê vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm minh. Các doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp mình. Do đó sẽ rất khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc xác định tình hình tài chính doanh nghiệp. Môi trường kinh tế trong nước, trong khu vực và trên thế giới có nhiều biến động gây khó khăn cho công tác dự báo. Hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa hoàn thiện, thị trường chứng khoán chưa thực sự phát triển mạnh dẫn đến khó xác định lãi suất chiết khấu, tỷ giá không thống nhất cũng gây bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án. Trình độ lập dự án của các chủ đầu tư còn yếu thiếu căn cứ khoa học. Hồ sơ dự án trình lên ngân hàng đôi khi còn thiếu, tài liệu không cung cấp được những thông tin cần thiết cho quá trình thẩm định dự án khiến công tác thẩm định thường bị kéo dài. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn kém nên dự án đi vào hoạt động hiệu quả không cao. Như vậy trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác thẩm định thì chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank cũng gặp phải không ít khó khăn. Để tháo gỡ những khó khăn này, nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, em xin đưa ra một số giải pháp như sau: CHƯƠNG II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI – VP BANK 2.1 ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ GIẢI PHÁPCHO CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH Trong những năm qua đất nước ta không ngừng phát triển đi lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao luôn đạt 7- 8%/ năm. Đảng và nhà nước ta luôn khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập toàn cầu nên kinh tế đất nước ta ngày càng phát triển đi lên. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại cho vay các dự án trung hạn và dài hạn. Để hoạt động có hiệu quả hơn nữa thì các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng VP Bank nói riêng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định dự án. Chi nhánh Hà Nội là một chi nhánh mới được thành lập thuộc hệ thống ngân hàng VP Bank đang trong quá trình khẳng định mình. Mục tiêu hoạt động của chi nhánh đó là: nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh huy động vốn, tăng trưởng tín dụng trên cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng. Để đạt được mục tiêu trên chi nhánh Hà Nội cần xây dựng các giải pháp cụ thể đối với từng hoạt động cụ thể, trong đó có giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án vay vốn tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank. Một số định hướng để hoàn thiện công tác thẩm định tại chi nhánh Hà Nội là: Thẩm định dự án đầu tư phải xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và từ thực tiễn cho vay của chính ngân hàng. Hoàn thiện quy trình thẩm định, nội dung thẩm định theo hướng ngày càng khoa hoc, hợp lý hơn. Khi thẩm định dự án phải đảm bảo tính khách quan, khoa học, thẩm định dự án một cách toàn diện trên tất cả các nội dung của dự án. Công tác thẩm định dự án phải có sự phối hợp một cách đồng bộ giữa các phòng ban ở chi nhánh. Vận dụng các phương pháp thẩm định một cách linh hoạt, hợp lý. Rút ngắn thời gian thẩm định nhưng vần phải đảm bảo chất lượng thẩm định. Thường xuyên kiểm tra theo dõi hoạt động của dự án như tiến độ bỏ vốnm, tiến độ xây dựng dự án, quá trình khai thác vận hành dự án…nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án. Với những dự án lớn chi nhánh có thể hợp vốn với các ngân hàng khác để đồng tài trợ cho dự án nhằm giảm thiểu rủi ro. 2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI - VP BANK 2.2.1. Không ngừng hoàn thiện nội dung thẩm định Hiện nay quy trình thẩm định của VP Bank đã được áp dụng thống nhất trên toàn bộ hệ thống. Quy trình này được xây dựng một cách khoa học, rõ ràng tuy nhiên không phải là không có nhược điểm. Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định có thể áp dụng một cách linh hoạt, có thể đề nghị sửa đổi bổ sung có thể đề nghị sửa đổi bổ sung để hoàn thiện quy trình thẩm định hơn nữa. Về nội dung thẩm định tại chi nhánh Hà Nội-VP Bank là khá đầy đủ. Nội dung thẩm định đuợc chia ra làm 10 nội dung nhỏ, tuy nhiên việc phân tích nhiều nội dung thì lại quá sơ sài, nhiều nội dung bị bỏ qua khi thẩm định dự án. Do vậy, để nâng cao hơn nữa tính chính xác, khách quan của kết quả thẩm định thì cán bộ thẩm định cần lưu ý thêm về một số nội dung như sau: 2.2.1.1. Với nội dung thẩm định khía cạnh thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án Thị trường luôn luôn thay đổi chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Phân tích thị trường đòi hỏi cán bộ thẩm định phải lường trước, dự đoán được những rủi ro đó, từ đó đưa ra biện pháp khắc phục. Để thực hiện được yêu cầu này thì cán bộ thẩm định cần phải thực hiện những công việc sau: ® Với nội dung xác định nhu cầu thị trường hiện tại và tương lai Với những dự án sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước thì cán bộ thẩm định nên thu thập thông tin về lượng hàng hoá tiêu thụ hàng năm của sản phẩm cùng loại hoặc sản phẩm tương tự trên thị trường, khối lượng tồn kho cuối năm của sản phẩm. Với những dự án nhằm mục đích xuất khẩu thì cán bộ thẩm định nên thu thập số liệu về khối lượng nhập khẩu hàng năm, tìm hiểu về những quy định về xuất nhập khẩu, các thông lệ quốc tế mà Việt Nam phải đã cam kết. Việc dự báo cầu sản phẩm trong tương lai: cán bộ thẩm định nên sử dụng những phương pháp phân tích định lượng để xác định như phương pháp: dự báo thị trường bằng phương pháp ngoại suy thống kê, dự báo cầu thị trường bằng mô hình hồi quy tương quan, dự báo cầu thị trường bằng phương pháp hệ số co giãn cầu, dự báo cầu thị trường bằng phương pháp định mức, dự báo cầu thị trường bằng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia… Ngoài ra, dựa trên cơ sở những thông tin thu được cán bộ thẩm định có thể kết hợp kết hợp các phương pháp đó lại để đánh giá thị trường một cách sát thực hơn. Chứ không nên dựa vào phân tích thị trường một cách định tính như hiện nay. ® Với việc đánh giá thị trường mục tiêu: cán bộ thẩm định cần phải đánh giá kỹ thị trường mục tiêu của dự án, chính sách giá cả, chính sách marketing, phân phối sản phẩm… bởi vì những yếu tố này quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, do đó quyết định đến vòng đời sản phẩm của dự án, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của dự án. ® Với việc đánh giá mức độ cạnh tranh của sản phẩm Để đánh giá đuợc mức độ cạnh tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định nên sử dụng một số chỉ tiêu như sau: -Thị phần của dự án/ thị phần của các đối thủ cạnh tranh - Doanh thu từ bán sản phẩm của dự án/ doanh thu của các đối thủ cạnh tranh - Tỷ lệ chi phí marketing/ tổng doanh thu - Tỷ suất lợi nhuận Thông qua các chỉ tiêu trên cán bộ thẩm định có thể đánh giá được mức độ cạnh tranh của sản phẩm, xem sản phẩm có sức cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại hay các sản phẩm tương tự hiện có trên thị trường hay không. Đây là một nội dung rất quan trọng, nó quyết định đến vòng đời của sản phẩm, sự thành công của dự án. 2.2.1.2. Với nội dung thẩm định địa điểm công trình Địa điểm xây dựng dự án rất quan trọng, các điều kiện về địa lý, địa hình, giao thông, điện, nước… tại nơi đó không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án mà còn ảnh hưởng đến kết quả vận hành dự án sau này nữa. Với nội dung này cán bộ thẩm định cần phải khảo sát, xem xét kỹ, thậm chí nên đi đến địa điểm đó để kiểm tra. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia về địa chất, thuỷ văn, khí hậu để đưa ra quyết định cuối cùng về địa điểm đầu tư dự án có phù hợp hay không? Từ đó có ý kiến, đề xuất với chủ đầu tư. 2.2.1.3. Với nội dung thẩm định khía cạnh kỹ thuật Do các cán bộ thẩm định chủ yếu tốt nghiệp khối các trường kinh tế, kiến thức kỹ thuật còn hạn chế. Do vậy với nội dung này cán bộ thẩm định có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia về thiết bị, kỹ thuật, công nghệ để từ đó đưa ra đánh giá cụ thể 2.2.1.4. Với nội dung thẩm định tài chính Nội dung thẩm định tài chính là nội dung quan trọng nhất của ngân hàng. Trong nội dung này cán bộ thẩm định cần chú ý những điều sau: Thứ nhất, khi thẩm định tổng vốn đầu tư Theo ý kiến của đa số cán bộ thẩm định tại ngân hàng, hầu hết tổng mức vốn đầu tư trên thực tế đều cao hơn so với tổng dự toán. Để tránh tình trạng này ngân hàng nên quy định rõ là tổng vốn đầu tư của dự án gồm những nội dung nào? Mức độ chi tiết của từng nội dung như thế nào? Các chi phí có thể phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư, vận hành khai thác dự án. Với những dự án sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, cán bộ thẩm định cần kiểm tra kỹ lưỡng tính xác thực, tiến độ bỏ vốn của các nguồn vốn, tránh tình trạng thiếu vốn làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Thứ 2, việc xác định dòng chi của dự án Với các chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí quảng cáo, chi phí thuê chuyên gia, chi phí quản lý doanh nghiệp… cán bộ thẩm định nên tham khảo, có sự so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, cùng lĩnh vực xem những chi phí đó tính như thế đã phù hợp chưa? Muốn thực hiện đựoc như thế thì ngân hàng nên có sự phối hợp với các cơ quan chức năng khác có liên quan như: bộ tài chính, bộ thương mại, tổng cục thống kê… để trao đổi thông tin, đánh giá được thị trường.Việc đưa ra kết luận về các khoản mục chi phí này phải được thực hiện một cách độc lập với các kết quả tính toán của chủ đầu tư. Cán bộ thẩm định tuyệt nhiên không được mặc nhiên chấp thuận theo tính toán của chủ đầu tư. Với chi phí khấu hao, do khấu hao là một nguồn trả nợ của dự án. Nên việc xác định chính xác chi phí khấu hao là rất quan trọng. Ngân hàng phải đặt chi phí khấu hao trong mối quan hệ với khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, với tính khả thi của dự án vì chi phí khấu hao sẽ không có ý nghĩa gì khi dự án không tiêu thụ đuợc sản phẩm, không khả thi. Mặt khác, cán bộ thẩm định nên kiểm tra đối chiếu với các văn bản quản lý kinh tế của nhà nước, các quy định của bộ tài chính về tính khấu hao của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể, từng loại hình doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp khấu hao nhanh để trốn thuế của nhà nước. Thứ 3, việc xác định dòng thu của dự án Khi xác định dòng thu của dự án, cán bộ thẩm định nên cộng các khoản sau vào: chi phí trả lãi vay ngân hàng, giá trị thanh lý tài sản cố định, giá trị vốn lưu động thu hồi được cuối đời dự án. Lãi vay ngân hàng đã được tính thông qua tỷ suất chiết khấu “r”, mặt khác lại được tính vào dòng chi phí của dự án. Sở dĩ doanh nghiệp tính lãi vay vào dòng chi phí của dự án là để tăng chi phí, từ đó giảm lợi nhuận dẫn tới giảm thuế đóng góp cho nhà nước. Do vậy, nếu không cộng lãi vay vào dòng thu cuối cùng của dự án thì hiển nhiên chi phí lãi vay đã được tính hai lần, điều này làm cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính của dư án không chính xác. Cuối đời dự án các máy móc thiết bị, nhà xưởng bao giờ cũng còn lại một giá trị nhất định. Khi thanh lý chúng sẽ xuất hiện dòng thu của dự án. Do vậy, cán bộ thẩm định cần phải xem xét đến khoản thu này, nên cộng chúng vào dòng thu của dự án. Mặt khác, vốn lưu động của dự án sẽ được thu hồi cuối đời dự án nên cán bộ thẩm định cũng phải xét đến khoản thu này xuất hiện cuối đời dự án. Ta có thể thấy không cộng các khoản thu trên vào dòng thu của dự án thì dự án vẫn có hiệu quả nhưng tính như thế sẽ là cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính không chính xác. Thứ 4, về các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án Bên cạnh việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính chủ yếu như: NPV, IRR, Tthu hồi nên sử dụng thêm một số chỉ tiêu khác như điểm hoà vốn, tỷ số lợi ích/ chi phí, năng lực hoà vốn. Việc sử dụng hệ thống một số các chỉ tiêu như thế này sẽ giúp cho cán bộ thẩm định có một cách nhìn toàn diện hơn về dự án. Thứ 5, việc xác định tỷ suất chiết khấu “r” Tỷ suất “r” được sử dụng trong việc tính chuyển các khoản tiền phát sinh trong thời kỳ phân tích về cùng một mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai. Đồng thời nó còn được dùng làm độ đo giới hạn để đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư. Bởi vậy, việc xác định chính xác tỷ suất “r” của dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đánh giá dự án đầu tư. Để xác định chính xác tỷ suất “r” cán bộ thẩm định phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của dự án: Đối với dự án sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn tự có, vốn ngân sách cấp, vốn vay… được tài trợ ở những thời điểm khác nhau. Tỷ suất chiết khấu “r” phải phán ánh được tổng chi phí cơ hội của tất cả các nguồn vốn đó. Cán bộ thẩm định nên sử dụng phương pháp bình quân gia quyền để tính “r” trong đó có tính đến chi phí cơ hội vốn tự có của chủ đầu tư. Ví dụ: Trong dự án “Đầu tư xây dựng mới khu trung tâm du lịch văn hoá thể thao Phú Sơn” thì tỷ suất chiết khấu “r” phải được tính lại như sau: (Lãi suất cho vay của ngân hàng là 12%, lãi suất gửi tiết kiệm tối đa trên thị trường tiền gửi là 9,5%). Đối với những dự án sử dụng hoàn toàn vốn đi vay Trong phân tích tài chính có thể tiến hành phân tích dự án từ truớc thuế hoặc sau thuế. Khi phân tích dự án sau thuế thì chi phí sử dụng vốn được lấy làm căn cứ để tính tỷ suất chiết khấu “r” như sau: r = rvay * (1 – T) Trong đó: r là mức lãi suất vốn vay sau thuế rvay là lãi suất đi vay T là thuế thu nhập doanh nghiệp Sở dĩ ta sử dụng công thức trên vì như đã nói ở trên lãi vay được xem như một khoản chi phi khi tính vào thu nhập chịu thuế. Do đó đứng trên góc độ người sử dụng vốn phần giá trị rvay*T là khoản tiết kiệm được nhờ thuế từ chi phí trả lãi. Nhưng trên thực tế ngân hàng lại luôn lấy r = rvay tức là tỷ suất chiết khấu “r” bằng đúng chi phí lãi vay. Việc lựa chọn phương pháp tính tỷ suất chiết khấu “r” như thế nào đòi hỏi sự linh hoạt của mỗi cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất chiết khấu được điều chỉnh bởi lạm phát, trượt giá. Thứ 6, việc xác định giới hạn trả nợ, phương thức trả nợ Hiện nay, việc xác định thời hạn trả nợ chủ yếu căn cứ vào thời gian thu hồi vốn của chủ đầu tư: Tổng vốn đầu tư Tthu hồi= --------------------------------- Lợi nhuận + Khấu hao cơ bản + nguồn thu khác Khi xác định thời gian thu hồi vốn đầu tư, thì Ngân hàng giả định dùng toàn bộ lợi nhuận sau thuế và khấu hao cơ bản để trả nợ. (Trên thực tế thì doanh nghiệp chỉ trích ra một phần của lợi nhuận sau thuế để trả nợ. Tỷ lệ trích này phụ thuộc vào quy định của bộ tài chính, phụ thuộc vào doanh nghiệp). Ngân hàng dùng phương pháp này với mong muốn thu nợ càng nhanh càng tốt. Với cách tính như thế này sẽ rất bất lợi cho doanh nghiệp khi xảy ra một biến cố nào đó. Do vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc trả nợ thì ngân hàng nên thoả thuận cùng với doanh nghiệp trên cơ sở những quy định của bộ tài chính để xác định 1 tỷ lệ trích lợi nhuận sau thuế và khấu hao hợp lý làm nguồn trả nợ cho ngân hàng. Về phương thức trả nợ: Hiện nay ngân hàng thường tiến hành thu gốc đều từng kỳ. Điều này là không nên vì trong thời gian đầu của dự án máy móc thiết bị chưa vận hành hết công suất của dự án, sản phẩm mới chỉ ở giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm. Do vậy, ngân hàng không nên yêu cầu mức trả nợ cao ngay từ đầu sẽ làm cho dự án chưa đủ khả năng trả nợ, sẽ ảnh hưởng đến sản xuất. Ngân hàng nên căn cứ vào dòng tiền của dự án, tiến hành thu hồi gốc tăng dần theo thời gian, như vậy sẽ phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng doanh nghiệp phải vay vốn ngắn hạn để trả nợ. Thứ 7, phân tích rủi ro của dự án Dự án đầu tư luôn luôn chịu ảnh hưởng của những yếu tố biến động theo thời gian như rủi ro về thiên tai, hoả hoạn, rủi ro biến động giá bán, nguyên nhiên vật liệu yếu tố đầu vào… Do vậy, phân tích rủi ro là một nội dung rất quan trọng. Tuy nhiên, nội dung này hầu như không được cán bộ thẩm định đề cập đến trong tờ trình thẩm định, đây là một khiếm khuyết rất lớn mà ngân hàng cần khắc phục. Trong thời gian sắp tới, cán bộ thẩm định nên quan tâm đến phân tích rủi ro một cách thích đáng hơn. Ngoài sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, để phân tích rủi ro cán bộ thẩm định có thể sử dụng một số phương pháp sau: Điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu Đây là phương pháp đơn giản nhất, nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là điều chỉnh mức tỷ lệ chiết khấy cơ sở được xem là không có rủi ro hoặc là có thê chấp nhận ở mức rủi ro tối thiểu. Việc điều chỉnh được thực hiện bằng cách cộng thêm vào lãi suất một mức bù cần thiết cho rủi ro (mức bù rủi ro). Thông thường mức bù rủi ro này được lấy là 4%, 7% và 10% tương ứng với từng loại dự án (xem bảng). Sau đó thực hiện tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR… theo mức lãi suất mới nhận được, sau khi đã điều chỉnh mức rủi ro. Bảng 2.1: Bảng điều chỉnh mức lãi suất chiết khấu Mức bù rủi ro Điều kiện áp dụng 4% Mở rộng dự án hoạt động Mở rộng dự án hoạt động đang có hiệu quả 7% Thực hiện dự án mới gắn với hoạt động chính của công ty 10% Dự án sản xuất sản phẩm mới, tiếp cận thị trường mới Phương pháp hệ số tin cậy Phương pháp này điều chỉnh giá trị của dòng tiền dự kiến (CFi) bằng cách đưa vào các hệ số điều chỉnh đặc biệt ai đối với từng thời kỳ thực hiện dự án CCFi ai = ------- Þ CCFi = ai * RCFi RCFi Trong đó: CCFi là giá trị các luồng thu nhập ròng không có rủi ro trong thời kỳ i. RCFi là giá trị các luồng thu nhập ròng dự kiến trong thời kỳ i (tức là RCFi đã bao gồm cả rủi ro) Từ đó xác định lại NPV và IRR của dự án. Phương pháp phân tích theo kịch bản Phương pháp này tiến hành trên cơ sở phương pháp phân tích độ nhạy, thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Xây dựng mô hình bài toán tổng quát trong đó xác định mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả đầu tư và mối quan hệ giữa các nhân tố với nhau. Bước 2: Tiến hành phân tích độ nhạy để xác định các nhân tố tác động mạnh nhất đến kết quả và hiệu quả đầu tư Bước 3: Căn cứ vào kết quả bước 1 và bước 2 xác định những tình huống có thể xảy ra nhiều nhất đối với dự án và tiến hành phân tích các tình huống đó. Việc phân tích kịch bản sẽ thường được tiến hành theo một số kịch bản thường xảy ra. Số lượng kịch bản dựa vào mong muốn của nhà phân tích. Kết quả phân tích kịch bản là một số bức tranh về tình hình đầu tư trong tương lai. Đây sẽ là cơ sở để cán bộ thẩm định đưa ra quyết định của mình. Phương pháp phân tích theo xác suất: Tiến hành theo các bước: Bước 1: Xây dựng mô hình bài toán, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả đầu tư Bước 2: Tiến hành phân tích độ nhạy để xác định nhân tố tác động mạnh nhất đến kết quả và hiệu quả đầu tư Bước 3: Lựa chọn những nhân tố tác động mạnh nhất đến kết quả và hiệu quả đầu tư, tiến hành phân tích các nhân tố đó về xác suất và giá trị ứng với từng xác suất. Bước 4: Lựa chọn ngẫu nhiên từng nhân tố với một giá trị và đánh giá kết quả và hiệu quả theo việc lựa chọn đó. Việc lựa chọn này được tiến hành nhiều lần, số lần tuỳ thuộc vào mong muốn của nhà đầu tư Bước 5: Căn cứ vào kết quả tính toán ở bước 4, xây dựng bảng tổng quan về phân tích xác suất trong đó xác định: Giá trị kỳ vọng, độ lệch chuẩn, xác suất thành công của dự án. Việc sử dụng phương pháp phân tích rủi ro nào hay kết hợp các phương pháp khác nhau là tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng dự án, tuỳ thuộc vào lượng thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập được. Trước mắt, ngân hàng có thể áp dụng phương pháp phân tích điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu, phương pháp phân tích độ nhạy, phương pháp hệ số tin cậy vì đây là những phương pháp đơn giản dễ tính, dễ áp dụng. Trong thời gian tới khi ngân hàng đã có cơ sở thông tin, dữ liệu phong phú và các máy tính, phần mềm hiện đại có thể áp dụng phương pháp phân tích theo kịch bản và phương pháp phân tích xác suất. 2.2.2. Công tác tổ chức điều hành Như đã nói ở trên, một trong những hạn chế trong công tác thẩm định dự án tại ngân hàng đó là nghiệp vụ thẩm định còn lồng ghép với nghiệp vụ tín dụng, chưa có sự phân công chuyên môn hoá sâu. Tại chi nhánh Hà Nội vẫn chưa có phòng thẩm định dự án riêng, tuy đã có phòng thẩm định tài sản bảo đảm chuyên thẩm định tài sản nhưng còn tất cả các công việc còn lại khác như thẩm định hồ sơ vay vốn, thẩm định các nội dung của dự án… chỉ do một cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Để khắc phục hạn chế này trong thời gian tới ngân hàng cần thực hiện những công việc sau: Bố trí cán bộ thẩm định: ngân hàng cần căn cứ vào tính chất phức tạp của từng dự án và trình độ năng lực, kinh nghiệm của từng cán bộ để phân công công việc cho phù hợp. Việc phân công công việc cho từng cán bộ phải hợp lý, tránh tình trạng một cán bộ phải đảm nhiệm quá nhiều công việc, từ đó không những ảnh hưởng đến việc thẩm định dự án nói riêng mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của cả ngân hàng nói chung. Như ta thấy, thời gian thẩm định một dự án tại Ngân hàng đối với dự án trung hạn và dài hạn là không đuợc quá 27 ngày. Thời gian thì ít trong khi số cán bộ thực hiện thẩm định chỉ có hai người (một người thẩm định tài sản đảm bảo, một người thẩm định các nội dung còn lại). Điều này là rất khó khăn cho cán bộ thẩm định. Do vậy, trong thời gian tới Ngân hàng nên cử thêm 1 đến 2 cán bộ nữa cùng thẩm định để giảm bớt trách nhiệm và khối lượng công việc cho cán bộ thẩm định. Đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc thì cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng lại hoặc thuyên chuyển sang làm công việc khác. Ngân hàng nên thành lập một phòng thẩm định riêng chuyên thẩm định những dự án trung và dài hạn, phòng này có sự độc lập với phòng tín dụng. Phòng thẩm định sẽ phối hợp với phòng tín dụng cá nhân, phòng tín dụng doanh nghiệp, phòng thẩm định tài sản đảm bảo và các phòng ban khác để thu thập thông tin về khách hàng về dự án vay vốn, từ đó đưa ra các quyết định cần thiết. 2.2.3. Tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định Nhân tố con người là nhân tố trung tâm, giữ vai trò quyết định. Với công tác thẩm định cũng như vậy. Cán bộ thẩm định sẽ là người trực tiếp thực hiện công việc thu thập thông tin, đánh giá, đề xuất phương án thực hiện các khoản vay. Do vậy mà yêu cầu đối với một cán bộ thẩm định là phải có kiến thức tổng hợp, phải am hiểu các quy định của pháp luật, có kiến thức về kinh tế, kỹ thuật, có hiểu biết sâu rộng về nghiệp vụ ngân hang và các lĩnh vực kinh tế xã hội có liên quan. Để đáp ứng các yêu cầu đó thì ngân hàng cần tập trung vào một số công việc sau để phát triển nguồn nhân lực: - Ngân hàng nên tổ chức các đợt tuyển chọn nhân sự một cách phù hợp để đảm bảo không thiếu cán bộ thẩm định. Việc thuyên chuyển công tác giữa các chi nhánh các phòng ban cũng phải đảm bảo tính hợp lý, tránh tình trạng nơi thừa, nơi thiếu nhân sự. - Ngân hàng nên có những chính sách hợp lý phù hợp để thu hút những sinh viên giỏi từ các trường thuộc khối ngành kinh tế, tài chính, kỹ thuật, pháp luật…Hiện nay tại Ngân hàng chưa có cán bộ thẩm định am hiểu về mặt kỹ thuật, do vậy trong thời gian tới trong các đợt tuyển dụng ngân hàng nên tuyển thêm cán bộ kỹ thuật tốt nghiệp các trường như xây dựng, bách khoa…Những cán bộ này sẽ chịu trách nhiệm thẩm định những nội dung kỹ thuật của dự án. - Về công tác đào tạo chuyên môn: Ngân hàng cần xây dựng chương trình cụ thể về đào tạo cán bộ đối với những nhân viên mới cũng như những nhân viên hiện tại của ngân hàng. Bên cạnh các đợt tập huấn nghiệp vụ hàng năm, ngân hàng nên tổ chức những khoá học ngắn hạn nhằm nâng cao khả năng phân tích, đánh giá dự án của cán bộ tín dụng. Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các buổi lễ tổng kết về công tác thẩm định, mời các chuyên gia thẩm định trao đổi kinh nghiệm về kỹ thuật thẩm định.Lực lượng giảng dạy các khoá học này có thể là các cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn sâu, kinh nghiệm; cũng có thể là giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ đang giảng dạy tại các trường đại học có uy tín như Đại học kinh tế quốc dân, học viện tài chính, học viện ngân hàng… Song song với hình thức đào tạo tại chỗ và đào tạo trong nước ngân hàng nên tổ chức thêm những đợt cho nhân viên đi tập huấn ở nước ngoài, ở các ngân hàng nước ngoài để cán bộ thẩm định có thể nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý dự án. Về chế độ đãi ngộ: Công việc thẩm định là một công việc phức tạp khó khăn, đòi hỏi người cán bộ không chỉ giỏi về chuyên môn mà cần phải có bản lĩnh vững vàng, tư cách đạo đức tốt , họ phải chịu áp lực công việc rất lớn do họ chính là người quyết định những khoản cho vay lớn và chịu trách nhiệm về những khoản vay đó. Để khuyến khích cán bộ thẩm định yên tâm công tác, làm việc ngân hàng phải có chính sách đãi ngộ cả về vật chất lẫn tinh thần đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, công việc của mình. Về tinh thần, ngân hàng nên tổ chức những buổi lễ tổng kết biểu dương những cá nhân xuất sắc hoàn thành tốt nhiệm vụ, trao bằng khen, giấy khen cho những cán bộ đó. Về vật chất ngân hàng nên có hỗ trợ cán bộ thẩm định về phương tiện đi lại, chi phí điện thoại di động… do cán bộ thẩm định là người thường xuyên phải tiếp xúc khách hàng, thu thập tìm hiểu thông tin…. Ngân hàng cũng có thể thành lập quỹ thẩm định riêng, quỹ này sẽ hỗ trợ cán bộ thẩm định và khen thưởng những cán bộ thẩm định có thành tích xuất sắc. Mặt khác ngân hàng cũng nên ban hàng quy định,chế tài xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ vì lợi ích cá nhân , vì thiếu tinh thần trách nhiệm, suy thoái đạo đức gây thất thoát vốn cho ngân hàng. 2.2.4. Đầu tư cho hệ thống trang thiết bị công nghệ phục vụ cho công tác thẩm định Có thể nói rằng cơ sở vật chất trang thiết bị hiện có tại chi nhánh Hà nội – VP Bank là tương đối tốt. Các phòng ban tại chi nhánh đều được trang bị máy tính nối mạng, được trang bị điện thoại cố định, máy in, máy phô tô… Tại chi nhánh Hà Nội – VP Bank hiện nay đang triển khai phần mềm lõi công nghệ ngân hàng T24, tạo điều kiện tốt hơn cho cán bộ thẩm định. Nhưng để có thể pháy huy hơn nữa vị thế của mình trên thị trường liên ngân hàng cũng như hội nhập được với thị trường tài chính ngân hàng khu vực và trên thế giới thì VP Bank cần phải tiếp tục tăng cường đầu tư hơn nữa cho cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ phục vụ cho công tác thẩm định nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. 2.2.5. Đa dạng hoá thông tin phục vụ cho công tác thẩm định Thông tin có vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định có nên tài trợ vốn cho dự án hay không. Thu thập, xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác là một việc làm vô cùng quan trọng. Việc thu thập thông tin đuợc thực hiện thông qua nhiều nguồn khác nhau: thông tin từ khách hàng cung cấp, thông tin thu được thông qua việc tiếp xúc trao đổi với khách hàng, thông tin từ nội bộ ngân hàng, thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước, các phương tiện thông tin đại chúng, từ các tổ chức tín dụng khác. Khối lượng thông tin thu được “ thừa nhưng lại thiếu”, cán bộ thẩm định cần phải lựa chọn, xử lý thông tin một cách chính xác, tuy nhiên công việc này là rất khó khăn và phức tạp. Để giảm bớt những khó khăn và phức tạp cho cán bộ thẩm định trong việc thu thập xử lý thông tin thì ngân hàng cần thực hiện những công việc sau: - Ngân hàng phải có quy định cụ thể đối với những hồ sơ giấy tờ mà khách hàng gửi lên ngân hàng. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, hợp lệ của những hồ sơ này. Bên cạnh đó ngân hàng nên đưa ra quy định đối với cán bộ thẩm định là phải hướng dẫn khách hàng kỹ lưỡng trong việc làm hồ sơ vay vốn, hạn chế tối đa việc hồ sơ thiếu phải bổ sung nhiều lần gây mất thời gian, chi phí của cả ngân hàng lẫn khách hàng. - Bên cạnh những thông tin do khách hàng cung cấp, để tìm hiểu về khách hàng thì các cán bộ thẩm định nên tham khảo thêm thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp, đối tác của doanh nghiệp, các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực. Kết hợp với việc đi thực tế, khảo sát thăm quan nhà xưởng, cơ sở vật chất của doanh nghiệp. - Bản thân mỗi một cán bộ thẩm định phải thường xuyên thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học bài bản trên các phương tiện hiện đại như máy tính… và có chế độ bảo mật hợp lý. Cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những thông tin mới về doanh nghiệp có dự án do mình quản lý, những quy định, văn bản mới về tất cả các lĩnh vực như như kinh tế, pháp luật… đặc biệt là những văn bản, quy định liên quan đến hoạt động đầu tư như luật đầu tư, quy chế đấu thầu, các văn bản, nghị định về đầu tư xây dựng cơ bản… - Để nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định, trong thời gian tới ngân hàng nên thành lập một trung tâm thông tin riêng. Trung tâm này chuyên làm nhiệm vụ lưu trữ, thu thập và xử lý thông tin, cung cấp thông tin cho phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp, phòng phục vụ khách hàng cá nhân, phòng thẩm định tài sản đảm bảo và các phòng ban khác. Đồng thời yêu cầu các chi nhánh, phòng giao dịch khác trong hệ thống phải có nghĩa vụ và trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin chính xác cho trung tâm này. Ngân hàng có thể tham khảo, mua các phần mềm quản lý thông tin doanh nghiệp từ các công ty công nghệ thông tin trong nước và ngoài nước. - Mạng thông tin tín dụng CIC của ngân hàng nhà nước có thể cung cấp những thông tin tương đối đầy đủ và chính xác về tình hình quan hệ tín dụng của từng doanh nghiệp đối với các ngân hàng thương mại trong hệ thống. Độ chính xác của những thông tin này lại phụ thuộc vào độ chính xác của những báo cáo do các ngân hàng thương mại cung cấp. Vì vậy ngân hàng VP Bank nên có kiến nghị với ngân hàng nhà nước đưa ra những quy định về tính xác thực, chính xác của những báo cáo do các ngân hàng thương mại gửi lên. - Ngoài ra các cán bộ thẩm định cũng cần chủ động khai thác thêm thông tin từ các bộ phận khác thuộc ngân hàng nhà nước như vụ chiến lược ngân hàng, vụ chính sách tiền tệ, vụ quản lý ngoại hối…và các trang web của các tổ chức kinh tế như: trang www.cbi.nl. 2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 2.3.1. Kiến nghị với Nhà nước và các bộ, ngành có liên quan Thứ nhất, Đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước, các viện quy hoạch phát triển cần công bố một cách rộng rãi, công khai các quy hoạch phát triển đất nước, phát triển vùng, phát triển ngành, địa phương và theo từng thời kỳ. Ngân hàng sẽ dựa trên những quy hoạch này để phân bổ tín dụng cho phù hợp vừa đảm bảo nhu cầu vốn củadoanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Thứ hai, Nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo dựng môi trường đầu tư ổn định phát triển. Đây là điều kiện quan trọng để giảm thiểu rủi ro của dự án. Thứ ba, Nhà nước cần phải đưa ra những chính sách phát triển kinh tế hợp lý, tránh những biến cố đột biến có thể xảy ra như lạm phát tăng quá cao, nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu không ổn định…làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện các dự án. Thứ 4, Nhà nước cần yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán, phải thực hiện chế độ kiểm toán độc lập đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cán bộ thẩm định khi xác minh tình hình tài chính doanh nghiệp. Thứ 5, Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và kiên quyết giải thể những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Tăng cường kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép đầu tư. Thứ 6, Nhà nước cần phải tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, đơn giản hoá những thủ tục hành chính rườm rà, gây tốn kém thời gian, chi phí không cần thiết. Thứ 7, Đề nghị các bộ ngành có liên quan như bộ công nghiệp, bộ xây dựng, bộ tài nguyên môi trường… nhanh chóng hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành mình. Đồng thời các bộ trên phải có sự phối hợp một cách chặt chẽ với ngân hàng trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án. 2.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại khác Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đầu não của hệ thống các ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì sự phát triển an toàn của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các chính sách của ngân hàng Nhà nước sẽ tác động trực tiếp tới hệ thống ngân hàng thương mại. Để nâng cao hơn nữa chức năng hoạt động của mình đồng thời giúp các ngân hàng thương mại trong hệ thống phát triển lành mạnh, em có một số kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước như sau: Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp lại hệ thống các ngân hàng thương mại, đảm bảo vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Thứ hai, ngân hàng Nhà nước cần phải tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại, áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật, nhằm đảm bảo cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ cho các ngân hàng thương mại nhất là nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thẩm định. Ngân hàng nhà nước có thể tổ chức các buổi lễ tổng kết thẩm định dự án đầu tư theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và định hướngcho công tác thẩm định dự án trong thời gian tới. Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần phải xây dựng quy trình thẩm định dự án đối với từng loại dự án của từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở quy trình thẩm định này và hoàn cảnh cụ thể của từng ngân hàng, các ngân hàng thương mại có thể xây dựng riêng cho mình một quy trình thẩm định hoàn chỉnh và hợp lý hơn. Thứ năm, ngân hàng Nhà nước cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của hệ thống cung cấp thông tin tín dụng CIC. Yêu cầu các ngân hàng thương mại phải thường xuyên gửi báo cáo hoạt động cho CIC, áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình thu thập,xử lý thông tin. Các ngân hàng thương mại cần phải phối hợp với nhau trong việc thu thập và xử lý thông tin, trao đổi kinh nghiệm để phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Bởi vì mỗi một ngân hàng khác nhau đều có những thế mạnh riêng của mình nên sự phối hợp này rất có ý nghĩa nhất là đối với những dự án cho vay hợp vốn. 2.3.3. Kiến nghị với ngân hàng VP Bank Thứ nhất, Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các hội nghị tổng kết kinh nghiệm thẩm định, hội thi cán bộ thẩm định giỏi, tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các chi nhánh, các phòng ban trong hệ thống. Thứ hai, Ngân hàng cần phải tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thẩm định dự án. Đồng thời cử các cán bộ thẩm định có kinh nghiệm lâu năm, các chuyên gia thuộc trung tâm đào tạo VP Bank đến từng chi nhánh, phòng ban có liên quan đến hoạt động thẩm định trao đổi kinh nghiệm, đóng góp ý kiến với các cán bộ thẩm định. Thứ ba, Ngân hàng cần phải có chế độ khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ thẩm định giỏi. Thứ tư, Ngân hàng nên chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả để cho vay, chủ động tìm kiếm những lĩnh vực đầu tư có tiềm năng từ đó tư vấn cho các doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả hơn nữa. KẾT LUẬN Thẩm định dự án là một nội dung rất quan trọng, nó không chỉ quyết định đến hiệu quả hoạt động của dự án, giúp các ngân hàng đưa ra quyết định cho vay, từ đó quiết định đến hoạt động của các ngân hàng. Hiện nay tại ngân hàng VP Bank, công tác thẩm định dự án rất được chú trọng quan tâm. Ngân hàng đã ban hành quy trình nghiệp vụ tín dụng thống nhất trong toàn bộ hệ thống, công tác thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm định được quan tâm… Do vậy mà số lượng và chất lượng thẩm định các dự án ngày càng tăng. Tuy nhiên công tác thẩm định vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế: nội dung thẩm định còn nhiều thiếu sót, phương pháp thẩm định, phân tích rủi ro của dự án chưa phong phú, hạn chế về đội ngũ cán bộ thẩm định, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định còn thiếu và lạc hậu so với công nghệ ngành ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Để nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác thẩm định dự án nói riêng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ngân hàng nói chung, trong thời gian tới Ngân hàng cần phải quan tâm một cách thích đáng hơn nữa đến công tác thẩm định dự án. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), Lập và quản lý dự án đầu tư, nhà xuất bản thống kê, đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội Nguyễn Hồng Minh (2004-2005), Quản trị rủi ro trong đầu tư Vũ Công Tuấn (2002), Thẩm định dự án đầu tư, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh Ngân hàng VP Bank (2005-2006), Tài liệu học tập của nhân viên tân tuyển, Quy trình nghiệp vụ tín dụng doanh nghiệp-VP Bank, Tờ trình thẩm định dự án “Đầu tư xây dựng khu trung tâm du lịch văn hoá thể thao Phú Sơn”, Báo cáo thường niên năm 2005 Trần thị Vân Anh (2006), Luận văn tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngân hàng VP Bank” Vũ Lệ Thuỷ (2006), Luận văn tốt nghiệp “Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoàn thiện công tác thẩm định dự án tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng VP Bank.docx
Luận văn liên quan