Mục lục .trang số
Lời mở đầu. 3
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP. 3
1.1.Khái niệm cơ bản về bán hàng đa cấp. 3
1.1.1.Khái niệm3
1.1.2.Các ưu điểm của bán hàng đa cấp so với hình thức phân phối truyền thống. 3
1.2.NỘI DUNG CỦA BÁN HÀNG ĐA CẤP. 3
1.2.1.Các đối tượng tham gia trong bán hàng đa cấp. 3
1.2.2.Các hoạt động cơ bản. 3
1.2.3.Nguyên tắc hoạt động của bán hàng đa cấp. 3
1.3MÔ HÌNH CỦA BÁN HÀNG ĐA CẤP. 3
1.3.1.Các mô hình bán hàng đa cấp cơ bản. 3
1.3.2.Phân biệt tháp ‘ảo’ trong bán hàng đa cấp. 3
1.4.NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM3
1.4.1.Khách quan. 3
1.4.2.Chủ quan. 3
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM . 3
2.1.KHÁI QUÁT CÁC DOANH NGHIỆP BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 20103
2.1.1.Khái quát giai đoạn đầu tiên. 3
2.1.2.Giai đoạn 2007-2010. 3
2.2.Thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam3
2.2.1.Về sản phẩm3
2.2.2.Về doanh thu. 3
2.2.3.Về mô hình hoạt động. 3
2.2.4.Về nhân viên bán hàng. 3
2.2.5.Chiến lược bán hàng. 3
2.2.6.Chính sách thuế với hoạt động bán hàng đa cấp. 3
2.3.Đánh giá hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam3
2.3.1.Thành tựu. 3
2.3.2.Hạn chế. 3
2.3.3.Nguyên nhân của hạn chế. 3
Chương 3 : Giải pháp phát triển bán hàng đa cấp tại Việt Nam3
3.2. Định hướng phát triển bán hàng đa cấp tại Việt Nam3
3.2.1. Khai thác điểm mạnh của bán hàng đa cấp vào phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân. 3
3.2.2. Khắc phục hạn chế, tiêu cực từ bán hàng đa cấp. 3
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam3
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp. 3
3.3.2. Thống nhất, nâng cao vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước. 3
3.3.3. Cơ chế đa dạng hóa các đối tượng hữu quan trong quản lý bán hàng đa cấp. 3
3.3.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam3
3.3.5. Cải thiện quan niệm của công chúng về hoạt động bán hàng đa cấp
Kết luận. 40
Tài liệu tham khảo. 3
Lời mở đầu Bán hàng đa cấp hay kinh doanh đa cấp hoặc kinh doanh theo mạng ( tên nguyên gốc tiếng anh là Multilevel Marketing - MLM - ) là một hình thức kinh doanh đã xuất hiện và phát triển từ giữa thế kỷ XX, một nhánh đầy triển vọng của lĩnh vực bán hàng trực tiếp ( Direct Selling ), đã có mặt và phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới từ những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản cho tới các nước đang phát triển khác như Trung Quốc, Brazill. Trong đó, nhiều quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia đã ứng dụng và phát triển thành công ngành kinh doanh này và có được thành tựu đáng kể góp phần vào quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia. Không nằm ngoài xu thế hội nhập và phát triển của nước ta, từ những năm cuối cùng của thế kỷ XX bán hàng đa cấp cũng đã bắt đầu xuất hiện và phát triển ở nước ta. Khởi đầu là những sự hợp tác phân phối rồi sau đó là sự hiện diện trực tiếp của các công ty nước ngoài và các doanh nghiệp thuần Việt kinh doanh trong lĩnh vực này. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đã chứng kiến sự bùng nổ của bán hàng đa cấp ở nước ta. Hàng loạt doanh nghiệp ra đời trong đó có sự xuất hiện của các tập đoàn kinh doanh đa cấp hàng đầu thế giới, các công ty này không ngừng lớn mạnh, nhiều công ty trong số đó có cả mạng lưới phân phối quy mô toàn quốc với số lượng người tham gia rất lớn bao gồm đủ mọi thành phần, đủ lứa tuổi và doanh số bán của chúng là những con số khổng lồ. Trong bối cảnh đó, không ít các công ty đã lợi dụng sự mới mẻ, thiếu hiểu biết của người dân và kẽ hở của pháp luật để tiến hành lừa đảo, kinh doanh đa cấp bất chính. Những điều này tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đến lao động và tác động hoàn toàn không nhỏ đến đội ngũ sinh viên. Những vấn đề khá khái quát nêu trên cho thấy rằng bán hàng đa cấp là một mô hình kinh doanh mới nhưng nó đang tồn tại như là một vấn đề nhạy cảm và nóng bỏng.
Với sự hướng dẫn của Ths. Nguyễn Thị Phương Lan, em chọn nghiên cứu đề tài : ’ Hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam ‘ với mục đích :
- Khái quát về hoạt động bán hàng đa cấp nhằm cung cấp cái nhìn khoa học về hình thức kinh doanh này. - Đánh giá thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt nam qua đó rút ra các ưu nhược điểm và nguyên nhân của nhược điểm. - Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Nội dung của bài gồm 3 phần: - Chương I : Cơ sở lý thuyết. Phần này khái quát những vấn đề lý luận về hoạt động bán hàng đa cấp từ đó cung cấp cơ sở cho hoạt động phân tích ở các chương sau. - Chương II: Thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam, tập trung vào giai đoạn 2007-2010. Dựa trên số liệu thu thập được để phân tích và đưa ra toàn cảnh hoạt động bán hàng đa cấp đang diễn ra tại nước ta, đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của hoạt động bán hàng đa cấp. - Chương III: Định hướng và giải pháp để phát triển bán hàng đa cấp ở nước ta trong giai đoạn tiếp theo. Bài nghiên cứu của em không tránh khỏi có những sai sót mong quý thầy cô góp ý để bài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5836 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười từ bỏ hình thức này
Bên cạnh đó là chính sách quản lý nhất là quản lý nhân sự của các doanh nghiệp đa cấp Việt Nam hầu như không đầy đủ, thống nhất khiến việc quản lý khó khăn không thể nắm giữ tốt nhất khách hàng và nhà phân phối
Năng lực quản lý là yếu tố quan trọng cho công ty có thể hoạt động đúng hướng không chệch quỹ đạo sang tháp ‘ảo’ và sự bền vững của một mạng lưới trong bán hàng đa cấp.Tuy nhiên ở các doanh nghiệp nhìn chung là còn kém từ quản lý của các công ty đa cấp tới người dẫn đầu kiêm lãnh đạo mạng lưới của mình. Chỉ có số ít những người rất thành công với hình thức kinh doanh này họ mới thực sự hiểu rõ và có năng lực quản lý tốt
Nhận thức của bản thân người tham gia bán hàng đa cấp. Người tham gia cần hiểu rõ bản chất của hình thức kinh doanh và có nhận thức rõ ràng về năng lực và hiểu rằng muốn thành công trong kinh doanh theo mạng không dễ như người khác vẫn nói. Tránh khi tham gia và gặp khó khăn liền bỏ cuộc và đưa ra đánh giá chủ quan. Tuy vậy, ở Việt Nam bản thân người tham gia bán hàng đa cấp còn thiếu nhận thức về hình thức này nhưng với tâm lý chạy theo mời người để kiếm hoa hồng, họ lôi kéo người khác tham gia. Tuy nhiên do thiếu hiểu biết, ảo tưởng nên sau khi tham gia họ thất bại, chán nản, bỏ cuộc và đưa ra các bình luận chủ quan khiến các luồng thông tin về bán hàng đa cấp ngày càng nhiều chiều khó nhận biết đúng sai. Mặt khác, bản thân những người này nếu thiếu nhận thức nhưng vẫn cố tình bỏ qua chạy theo lợi nhuận , lôi kéo người khác tham gia khiến bán hàng đa cấp trở thành hình tháp ảo.
Bản thân sản phẩm được kinh doanh theo phương thức này. Nhìn chung là những sản phẩm mới,độc đáo, tiện ích và có giá trị sử dụng. Sản phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, môi trường…là cơ sở cho doanh nghiệp thu hút khách hàng và cạnh tranh trên thị trường, tạo niềm tin cho khách hàng chấp nhận chia sẻ nó với người khác theo nguyên lý chia sẻ thông tin. Nhưng bên cạnh đó còn có công ty đưa ra các sản phẩm kém nhưng vẫn giới thiệu là tốt đánh lừa người tiêu dùng khiến dư luận rất dễ đưa ra các đánh giá ‘thất thiệt’ về bán hàng đa cấp.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
KHÁI QUÁT CÁC DOANH NGHIỆP BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2010
Khái quát giai đoạn đầu tiên
So với ngành công nghiệp bán hàng đa cấp thế giới, ngành bán hàng đa cấp Việt Nam còn rất non trẻ với tuổi đời trên 10 năm.. Từ năm 1998 đã xuất hiện một vài công ty đa cấp ở nước ta, đầu tiên là Incomex, tiếp theo là Thế Giới Mới, rồi đến Sinh Lợi, Lô Hội, Vision. Những công ty này phân phối các dòng sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng, hoạt động với quy mô ban đầu nhỏ lẻ thường va chạm với pháp luật và khiến báo chí tốn không ít giấy mực. Không phải công ty nào cũng làm ăn nghiêm túc nên nảy sinh nhiều sự hiểu nhầm về mô hình kinh doanh này.
Đến cuối năm 2004 Việt Nam đã có khoảng 20 công ty bán hàng đa cấp phân phối chủ yếu những dòng sản phẩm tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp được sản xuất bởi các tập đoàn ở nước ngoài. Ngành bán hàng đa cấp Việt Nam ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn quốc khi các công ty phát triển mạng lưới phân phối và lập ra nhiều chi nhánh.
Năm 2005 hành lang pháp lý bán hàng đa cấp tại Việt Nam dần dần hình thành các điều luật và các quy định về bán hàng đa cấp mở ra con đường lớn cho ngành bán hàng đa cấp Việt Nam phát triển và tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư. Chính phủ đã ban hành Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24-8-2005 quy định các nội dung cụ thể về quản lý hoạt động BHĐC. Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) cũng đã có Thông tư 19/2005/TT-BTM ngày 8/11/2005 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP, chủ yếu liên quan đến thủ tục đăng ký tổ chức BHĐC tại các Sở Thương mại, Sở TM-DL (nay là Sở Công Thương).
Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh đã quy định thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính. Tính đến đầu tháng 7/2005 nước ta đã có gần 30 công ty kinh doanh đa cấp cả trong và ngoài nước.
Năm 2006 nhà nươc đã thực thi nghiêm pháp luật xử lý và rút giấy phép kinh doanh công ty Sinh Lợi do vi phạm nghiêm trọng các quy đinh của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng đánh dấu việc quản lý chặt hơn và đi vào quỹ đạo hơn của hoạt động bán hàng đa cấp.
Giai đoạn 2007-2010
Về tốc độ phát triển
Bảng 1
Tiêu chí
2007
2008
2009
2010
Số doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh
42
~50
~52
63
Số xin rút, chuyển đổi hoặc bị rút giấy phép
8
~10
13
20
Số doanh nghiệp còn tiến hành kinh doanh
34
~40
~33
43
Doanh thu (tỷ vnđ )
~700
1.581
2.526
2.799
Số người tham gia ước tính
~235.783
~500.000
~700.000
874.281
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong giai đoạn 2007-2010 chứng kiến sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp Việt Nam. Số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng nhanh qua các năm. Số lượng doanh nghiệp được phép kinh doanh năm 2007 là 42 và tới năm 2010 con số đó là 63 doanh nghiệp. Doanh thu của hoạt động bán hàng đa cấp cũng tăng mạnh hàng năm, năm 2007 chỉ đạt 700 tỷ vnđ nhưng năm 2010 doanh thu qua phân phối hàng hóa dịch vụ qua phương thức bán hàng đa cấp đạt 2799 tỷ vnđ ,tăng gần 400% sau 4 năm trung bình hàng năm tăng trưởng ~100% , một kết quả đáng ghi nhận vì so với các nước khác tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 20-30%/ năm. Một lý do cho tốc độ phát triển đáng kinh ngạc này là thi trường nước ta còn mới và tiềm năng. Đó cũng là nguyên nhân thu hút hàng loạt các tập đoàn bán hàng đa cấp đa quốc gia xâm nhập thị trường nước ta.
Giai đoạn 2007-2010 cũng đã chứng kiến nỗ lực của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp trong việc lấy lại hình ảnh của mình sau khi bán hàng đa cấp biến tướng lan tràn và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận và hiểu lầm về hoạt động bán hàng đa cấp. Số lượng người tham gia bán hàng đa cấp theo thống kê năm 2010 đã tăng đạt gần 900.000 người nhưng trên thực tế con số này có thể đã vượt qua 1 triệu người. Theo đó hoạt động bán hàng đa cấp đã bùng nổ trong giới trẻ văn phòng nhất là sinh viên , những người có nhiều thời gian rãnh rỗi và có đam mê kinh doanh thử.
Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận ràng hình ảnh của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp vẫn còn rất kém trong xã hội và việc kinh doanh bán hàng đa cấp biến tướng vẫn diễn ra mạnh mẽ. Chứng minh điều này là rõ ràng khi trong báo cáo tổng kết về hoạt động bán hàng đa cấp của cục quản lý cạnh tranh, số lượng doanh nghiệp vi phạm và bị rút giấy phép kinh doanh còn rất lớn và có xu hướng tăng. Năm 2007 có 8 doanh nghiệp vi phạm và bị rút giấy phép kinh doanh nhưng năm 2010 con số này không giảm mà tăng lên thành 20 doanh nghiệp. Không chỉ vậy, sự vi phạm kinh doanh đa cấp biến tướng không chỉ xảy ra tại các doanh nghiệp ‘chui’ không có giấy phép mà còn xảy ra ngay cả với các doanh nghiệp được cấp phép, điển hình như Angel Việt Nam một công ty liên doanh với nước ngoài và được đánh giá là có uy tín. Sự việc như của Angel Việt Nam đã khiến cho danh tiếng của các công ty bán hàng đa cấp suy giảm nghiêm trọng và tác động gây thiệt hại lớn cho các đối tượng hữu quan.
Về độ bao phủ
Có thể nói rằng bán hàng đa cấp đã có mặt tại hầu hết các tỉnh thành phố lớn của nước ta với sức lan tỏa rất mạnh. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ hơn qua độ bao phủ của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bằng việc khu vực đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại một tỉnh thành không phải là chỉ kinh doanh trên địa bàn của tỉnh thành đó, họ có thể sử dụng giấy đăng ký đó để kinh doanh ở các tỉnh thành khác, nhưng nơi đăng ký giấy phép kinh doanh cho thấy trọng tâm phát triển của họ tại từng khu vực khác nhau.
Bảng 2. Danh sách các công ty bán hàng đa cấp tại Việt Nam ( tính đến hết 2009 )
( nguồn tổng hợp từ các sở công thương các tỉnh thành phố ( có thể có sai số ))
STT
Tên doanh nghiệp
Nơi đăng ký cấp phép hoạt động
1
2
Công ty TNHH Tầm nhìn Việt Nam
Hà Nội
3
Công ty TNHH Ánh sáng T.I.A.N.S.H.I
Hà Nội
4
Công ty TNHH Phan Hưng Long
Hà Nội
5
Công ty Cổ phần Merro
Hà Nội
6
Công ty Cổ phần Liên kết tri thức
Hà Nội
7
Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy
Hà Nội
8
Công ty TNHH Dược phẩm Điền Thảo Đường
Hà Nội
9
Công ty Cổ phần Liên kết Việt Nam
Hà Nội
10
Công ty TNHH Thương mại YAHGO
Hà Nội
11
Cty TNHH tư vấn đầu tư và thương mại Hằng Thuận
Hà Nội
12
Cty CP công nghệ mới và phát triển quốc tế Amkey Việt Nam
Hà Nội
13
Công ty TNHH Agel Việt nam
Hà Nội
14
Công ty TNHH FFI Việt Nam
Hà Nội
15
Công ty TNHH TM& DV Apollo ( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Hà Nội
16
Công ty TNHH Quy Xuyên Việt Nam ( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Hà Nội
17
Công ty CP đầu tư và phát triển quốc tế Monjon Việt Nam. ( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Hà Nội
18
Công ty Cổ phần Kiệt Vinh Lục Cốc( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Hà Nội
19
Cty TNHH Thương mại XNK Tổng hợp Thái Bình
Hà Nội
20
Côngty TNHH Tân Hy Vọng
Thành phố Hồ Chí Minh
21
Côngty TNHH Mỹ Phẩm Thường Xuân
Thành phố Hồ Chí Minh
22
Côngty TNHH ThếGiới ToànMỹ
Thành phố Hồ Chí Minh
23
Côngty TNHH Thương mại Lô Hội
Thành phố Hồ Chí Minh
24
Côngty TNHH Thương mại và Dịch vụ
Du lịch Ích Lợi
( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Thành phố Hồ Chí Minh
25
Côngty TNHH Thương mại- Dịch vụ
Vĩnh Nhật Quang
Thành phố Hồ Chí Minh
26
Công ty TNHH No Ni Vi Na
Thành phố Hồ Chí Minh
27
Côngty TNHH Thươngmại- Xuấtnhập
khẩu Huy Hồng
Thành phố Hồ Chí Minh
28
Côngty Cổ phầnKim Đô
Thành phố Hồ Chí Minh
29
Côngty Cổ phần Quốc tế Việt – Am
Thành phố Hồ Chí Minh
30
Cty TNHH SX –TM HưngThời Đại
Thành phố Hồ Chí Minh
31
Công ty TNHH Bảo Lan Thiên Sư
Thành phố Hồ Chí Minh
32
Công ty TNHH SXTMDV thực phẩm công
nghệ Ai On
Thành phố Hồ Chí Minh
33
Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu Vi
Na Linh
Thành phố Hồ Chí Minh
34
Côngty TNHH quốctế Đa Bảo
Thành phố Hồ Chí Minh
35
Côngty TNHH Sản xuất Thương mại
quốc tế Thượng Thống
( NGỪNG HOẠT ĐỘNG )
Thành phố Hồ Chí Minh
36
Công ty TNHH MTV Thương mại Dịch vụ Kỳ Diệu
Thành phố Hồ Chí Minh
37
Côngty TNHH Mỹ phẩm Avon (Việt Nam)
Bình Dương
38
Côngty TNHH Am way Việt Nam
Đồng Nai
39
Cty TNHH MTV Toàn Hữu
Đồng Nai
Từ bảng trên ta thấy sự phát triển của bán hàng đa cấp ở nước ta là không đồng đều. Phân theo khu vực ta thấy có sự chênh lệch, các doanh nghiệp bán hàng đa cấp phát triển rất mạnh ở khu vực phía Nam và phát triển nhanh tại khu vực phía Bắc. Hàng loạt các doanh nghiệp đăng ký mới và xin giấy phép kinh doanh. Miền Bắc riêng Hà Nội đã câp19 giấy phép kinh doanh ( 4 trong số đó bị rút hoặc xin chấm dứt ). Mền Nam phát triển bán hàng đa cấp sớm hơn và có sự phát triển mạnh, Th.p Hồ chí Minh đã cấp tới 20 giấy phép, Bình Dương 1 va Đồng Nai 2 .Trong khi đó miền Trung gần như ‘ trống’ doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới mà chỉ có chi nhánh của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tồn tại và phát triển. Hoặc là do các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp mang hoạt động này về khu vực này để mở rộng hệ thống chứ gần như không có doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trực tiếp tại khu vực miền Trung.
Không chỉ có sư chênh lệch về khu vực Bắc Trung Nam mà còn có sự thiếu đồng đều ngay trong các khu vực. Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp chỉ có mặt chính thức tại các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh. Các thành phố lớn này có sự phát triển nhanh hơn và có sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan chức năng và bản thân các công ty, trong khi đó khu vực nhỏ hơn chỉ có chi nhánh do các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp tự lập, không giấy phép và thiếu sự quản lý từ các đối tượng hữu quan.
Về cơ cấu doanh nghiệp trong nước và nước ngoài
Giai đoạn 2007-2010 cho thấy sự bắt nhịp của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp ‘thuần Việt’. Số lượng các doanh nghiệp Việt đăng ký tham gia bán hàng đa cấp gia tăng nhanh điển hình là sự gia nhập của tập đoàn FPT với công ty FNC với doanh thu hơn 58 tỉ đồng cùng mạng lưới 17.000 nhà phân phối, chỉ sau 1 năm thành lập (4.2010) qua đó giảm thiểu sự độc chiếm thị trường của các tập đoàn bán hàng đa cấp đa quốc gia như Amway, Oriflame…Tuy nhiên sự xuất hiện này của các doanh nghiệp vẫn chưa cân bằng được với các công ty nước ngoài. Sự đổ bộ hàng loạt của các thương hiệu nước ngoài kinh doanh nhiều loại sản phẩm vẫn chiếm thị phần rất lớn tại thị trường Việt Nam. Tính riêng nhãn hiệu Sophie Paris ( một nhãn hiệu thời trang kinh doanh đa cấp của Indonesia ), đạt doanh thu khoảng 2 triệu USD và hơn 13.000 nhà phân phối, chỉ sau chưa đầy 5 tháng kinh doanh (từ cuối năm 2010). Ngoài ra riêng Amway Việt Nam đạt mức doanh thu cả năm 2010 hơn 30 triệu USD, chiếm hơn 22% thị phần. Hai ví dụ trên cho thấy sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài ( ngay cả các doanh nghiệp từ khu vực Đông Nam Á ). Các doanh nghiệp nước ngoài họ có nhiều kinh nghiệm kinh doanh quản lý hình thức này trên nhiều quốc gia và lợi thế về công nghệ sản phẩm nên có sự vượt trội hơn so với các doanh nghiệp Việt.
Thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Về sản phẩm
Như đã đề cập bán hàng đa cấp cũng là một hình thức tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên không phải sản phẩm nào cũng phân phối hiệu quả qua phương thức này. Có 3 nhóm sản phẩm phù hợp nhất cho việc phân phối qua hình thức này là: Hàng tiêu dùng, Mỹ phẩm, Thực phẩm ăn uống và Thực phẩm dinh dưỡng chức năng. Thực tiễn Việt Nam cũng chứng minh cho điểu kiện này với 5 nhóm hàng là : vật dụng gia đình, thực phẩm chức năng, chăm sóc cá nhân ( mỹ phẩm, trang sức, quần áo..), các loại dịch vụ ( du lịch…) và các sản phẩm giải trí, học tập ( sách, videos…)
Trong hội nghị tổng kết hoạt động quản lý bán hàng đa cấp của cục quản lý cạnh tranh cuối năm 2010 cho thấy bán hàng đa cấp tại Việt Nam phân phối hơn 1000 dòng sản phẩm trong đó chiếm 80% lại là các dòng thực phâm chức năng và thuốc. Các loại thực phẩm chức năng có mặt gần như trong tất cả danh mục sản phẩm đăng ký kinh doanh của các công ty đa cấp. Riêng trong danh mục thực phẩm chức năng lại có hàng loạt các sản phẩm khác nhau với nhiều loại nhãn hiệu như Herbalife, Noni Vina, Vina-link Group, Eternal Sunshine Company and Kim Do Corporation…. Tổng quan thì các thực phẩm chức năng là các sản phẩm mới xuất hiện ở nước ta có nhiều chức năng đa dạng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng như thực phẩm hỗ trợ giảm cân, bổ sung vitamin các loại, các loại nước uống…. Tuy nhiên chính sự mới mẻ của các dòng sản phẩm này lại mang lại sự khó khăn trong kiểm định chất lượng và khó khăn trong hoạt động quản lý.
Xếp thứ hai sau các sản phẩm thực phẩm chức năng là các sản phẩm thuộc dòng chăm sóc cá nhân như các loại mỹ phẩm chiếm khoảng 10% các dòng sản phẩm, thời trang quần áo..Nổi bật nhất là các dòng mỹ phẩm của Amway, Avon, and Oriflame. Các mỹ phẩm này được người tiêu dùng đánh giá cao về mặt chất lượng so với các dòng sản phẩm thông thường khác do tính năng vượt trội tuy giá thành vẫn khá cao. Ngoài mỹ phẩm, các sản phẩm thời trang như áo quần và trang sức cũng bắt đầu được phân phối theo hình thức bán hàng đa cấp điển hình là thời trang của Sophie Paris. Các sản phẩm thời trang đều là các sản phẩm cao cấp nhắm có giá thành trung bình tới cao. Hầu hết là các mẫu độc quyền của nhà sản xuất thiết kế và sản xuất. Đây là khoảng trống thị trường do các sản phẩm thấp cấp bán lẻ và các sản phẩm cao cấp giá thành rất cao đê lại.
Thứ ba là các máy gia đình như cleaning, nấu ăn…tiện ích hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. các sản phẩm này có giá thành cao. Nổi tiếng trong phân phối các loại sản phẩm này là IANSHI Light Company Limited and Viet-Am international JSC. Đây là nhóm sản phẩm thường bị các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính lợi dụng để lừa đảo do giá thành cao khó nhận biết và dễ dàng áp đặt người mua.
Ngoài các nhóm sản phẩm trên sản phẩm phân phối qua hình thức bán hàng đa cấp tại nước ta ngày càng trở nên đa dạng , không chỉ là sản phẩm mà còn có cả dịch vụ như dịch vụ du lịch, đào tạo … như HỌC ĐƯỜNG cung cấp việc đào tạo kỹ năng mềm cho người tham gia.FNC ( thuộc FPT ) cung cấp dịch vụ mạng và lắp đặt ADSL.
Một điểm yếu của các sản phẩm phân phối đa cấp ở Việt Nam là hầu hết chúng có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập khẩu về nước ta, có rất ít các sản phẩm thuần Việt. Gần như toàn bộ các loại mỹ phẩm, máy móc, thực phẩm chức năng đều do các tập đoàn đa quốc gia phân phối tại nước ta. Nhưng bên cạnh đó cũng có sự xuất hiện dần của các sản phẩm Việt và các nhà máy sản xuất trực tiếp tại Việt Nam . Như Amway đã đầu tư 14,8 triệu USD để xây dựng nhà máy sản xuất thứ 3 của họ trên thế giới tại Việt Nam.
Về doanh thu
Từ bảng 1 trang 19, doanh thu của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt năm 2009 doanh thu đạt hơn 2500 tỷ vnđ tăng 150 % so với năm 2008 ( > 1500 tỷ ). Tốc độ phát triển này là thành tựu đáng ghi nhận vơi hoạt động bán hàng đa cấp ở nước ta. Tuy thị trường Việt Nam còn non trẻ nhưng so sánh với các thị trường trẻ khác tương tự thì tốc độ của họ chỉ đạt từ 20-30% năm. Con số 150% /năm cho thấy sự hấp dẫn của thị trường nước ta với ngành hàng kinh doanh đa cấp.
Tuy nhiên, so với Malaysia một nước trong khu vực với 28 triệu dân nhưng mức doanh thu từ bán hàng đa cấp đạt tới con số hơn 2 tỷ USD ,nước ta quy mô dân số 89 triệu nhưng mức doanh thu xấp xỉ 2800 tỷ tương đương 140 triệu USD thì hiệu quả của hoạt động bán hàng đa cấp của nước ta còn thấp và tiềm năng thị trường là rất lớn để có thể mở rộng.
Trong mức doanh thu gần 2800 tỷ vnđ năm 2010 thì chiếm phần lớn trong số đó là của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này cũng không khó hiểu khi mà phần lớn thị trường và các sản phẩm đều có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài.
Một vấn đề gây bức xúc với hoạt động bán hàng đa cấp là việc quản lý và xác định doanh thu của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Cơ quan quản lý nhà nước không dễ gì nắm được 100% doanh thu của DN. Là người trong cuộc, tổ chức điều hành mạng lưới bán hàng, DN đương nhiên có các biện pháp để quản lý được doanh thu của họ, chí ít ra thì cũng quản lý tốt hơn cơ quan nhà nước nhưng thực sự việc kết nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý là chưa tốt. Thực tế là có rất nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp sử dụng thủ thuật để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ khi bị điều tra thì họ mới xin nộp bổ sung vì lý do kê khai thiếu. Ví dụ điển hình là công ty Hưng Thời Đại khi bị kiểm tra thì xin nộp bổ sung 2,2 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp do kê khai thiếu.
Về mô hình hoạt động
Trong số các mô hình hoạt động bán hàng đa cấp đã đề cập trên phổ biến nhất ở nước ta là 2 mô hình : nhị phân và bậc thang ly khai.
Mô hình nhị phân được áp dụng sớm hơn ở nước ta. Nó xuất hiện từ khi bán hàng đa cấp có mặt tại nước ta và rất phổ biến ở giai đoạn sau đó. Ưu điểm dễ thấy của mô hình này là sự khuyến khích với người tham gia cần có sự quan tâm tới sự phát triển hệ thống của mình. Tuy nhiên mô hình này tiềm ẩn nhiều nguy cơ và nhiều quốc gia trên thế giới coi mô hình này là mô hình bất chính do sự kém minh bạch, hạn chế sự phát triển của các cá nhân gia nhập sau so với người gia nhập trước, và quản lý chặt chẽ hoặc cấm sử dụng. Nước ta cũng chứng minh tính bất ổn của mô hình này vì hầu hết các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính bị xử phạt sử dụng mô hình này, ví dụ như công ty Sinh Lợi…Tuy vậy cho đến này mô hình này vẫn được sử dụng, và khá phổ biến ở các doanh nghiệp nội và các doanh nghiệp nhỏ.
Sau khi có sự gia nhập của các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp thì mô hình tiên tiến nhất là mô hình bậc thang ly khai được đưa vào nước ta và dần trở nên phổ biến vì tính ưu việt của nó. Hầu hết các công ty nước ngoài kinh doanh đa cấp sử dụng mô hình bậc thang ly khai. Điển hình là các công ty như Amway, Oriflame ..
Vấn đề quản lý trong viêc sử dụng mô hình kinh doanh đa cấp gặp khá nhiều khó khăn do thiếu hụt kinh nghiệm và sự hướng dẫn của hệ thống luật pháp của nước ta. Một vấn đề khác với việc sử dụng mô hình kinh doanh đa cấp là tỷ lệ hoa hồng, tỷ lệ hoa hồng do mỗi công ty xác định nhưng khi xác định chi phí của mô hình khi thì xuất hiện tranh cãi về việc tỷ lệ % hoa hồng có được tính tòan bộ vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của DN hay phải chịu tỷ lệ % khống chế, qua đó để có thể xác định thuế thu nhập doanh nghiệp. Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định này.
Về nhân viên bán hàng
Nhân viên bán hàng hay thực chất là các nhà phân phối trong bán hàng đa cấp. Dựa trên báo cáo của cục quản lý cạnh tranh tính đển hết năm 2010 số lượng người tham gia bán hàng đa cấp ở nước ta đạt xấp xỉ 900.000 người nhưng thực tế con số này có thể đã vượt qua 1 triệu người ( gấp 4 lần so với năm 2007 với gần 250 .000 người ) . So với tổng số dân của nước ta là 89 triệu người thì lượng người tham gia vào bán hàng đa cấp là chưa cao so với hình thức phân phối bán lẻ truyền thống.
Theo điều tra nghiên cứu ở các nước trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ tham gia bán hàng đa cấp cao hơn nam giới. có thể kể đến như Mỹ tỷ lệ nữ tham giam gia bán hàng đa cấp chiếm tới 81,8%. Thực tế nước ta tuy chưa có thống kê chính thức nhưng với đặc điểm các sản phẩm phân phối đa cấp thì phần lớn vai trò quyết định tiêu dùng các sản phẩm loại này thường là phụ nữ là chủ yếu nhất là các loại mỹ phẩm hay đồ dùng gia đình. Thêm vào đó là đặc điểm văn hóa nước ta phụ nữ thường ở nhà lo nội trợ nên có nhiều thời gian rảnh và họ thường chia sẻ hơn là nam giới nên tỷ lệ phụ nữ tham gia bán hàng đa cấp ở nước ta sẽ cao hơn nam giới và phụ nữ cũng là đối tượng chính để được mời chào để tham gia bán hàng đa cấp.
Nếu xét theo độ tuổi của các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp thì có thể thấy người tham gia chủ yếu là người thuộc độ tuổi từ 18- 30, sau đó là người từ 30-46 tuổi. theo thống kê ước lượng tỷ lệ người tham gia bán hàng đa cấp tuổi từ 18-30 chiếm khoảng 40% còn người từ 30-46 chiếm khoảng gần 30 % ( con số so sánh ước lượng với các nước trong khu vực ). Giai đoạn 2007-2010 cũng thấy sự gia nhập mạnh mẽ của đội ngũ sinh viên vào trong hoạt động bán hàng đa cấp với mục đích kiếm thêm thu nhập, nâng cao kinh nghiệm và tận dụng thời gian rỗi.
Hầu hết các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp đều chọn nó như một công việc Part time của họ chứ không phải là một công việc chính thức full-time. Chỉ một số ít chọn bán hàng đa cấp là công việc chính thức do yêu cầu của bán hàng đa cấp không cần phải đầu tư nhiều thời gian, thời gian làm việc là tự do và hơn hết đa số người tham gia coi nguồn thu từ bán hàng đa cấp là phụ vì không dễ dàng để có thể có được doanh thu cao trong bán hàng đa cấp bởi lẽ bán hàng đa cấp cũng có khó khăn và yêu cầu riêng.
Yếu điểm chung của nhân viên bán hàng đa cấp là họ thiếu hiểu biết về hoạt động bán hàng đa cấp do nguồn thông tin còn hạn chế và việc đào tạo của các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào cách bán hàng và mời người hiệu quả chứ chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho người tham gia bán hàng đa cấp. Nguồn thông tin về bán hàng đa cấp không chính thức trong khi từ các nguồn không chính thức thì có vô vàn và mâu thuẫn lẫn nhau về hoạt động này. Chính vì thế gây ra sự hoang mang và thiếu hiểu biết của các cá nhân tham gia, là điều kiện lý tưởng cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính.
Tồn tại khác trong phương diện nhân viên bán hàng ở nước ta chủ yếu là do sụ thiếu hiểu biết và tâm lý muốn phát triển nhanh, có thu nhập cao từ bán hàng đa cấp nên không ít người chọn cách thổi phồng lợi ích và sự dễ dàng của bán hàng đa cấp để có thể lôi kéo nhiều người tham dự hơn qua đó kiếm hoa hồng nhanh hơn chứ không tập trung vào hoạt động bán và phân phối sản phẩm để có hoa hồng nên gây ra sự hiểu nhầm về hình thức kinh doanh này. Gây ra sự hụt hẫng, cảm giác bị lừa đảo khi chính thức bước chân vào bán hàng đa cấp của nhiều người. Và chính họ là những người sẽ phê phán mạnh hình thức bán hàng đa cấp.
Chiến lược bán hàng
Hiện nay các doanh nghiệp sử dụng 2 loại chiến lược bán hàng cơ bản là : bán hàng trực tiếp cá nhân mặt đối mặt (Individual/Person-to-Person selling ) , bán hàng theo nhóm và qua các hội nghị (Party plan/group selling ).
Bán hàng cá nhân trực tiếp mặt đối mặt là chiến lược phổ biến nhất có thể chiếm tới 80% , do các cá nhân trực tiếp lấy hàng từ công ty rồi trực tiếp bán lại cho người tiêu dùng cuối cùng.
Ngoài ra các công ty còn sử dụng một chiến lược khác là tổ chức các hội nghị và bán hàng theo nhóm. Thông qua việc tổ chức hội nghị tạo cơ hội cho các cá nhân biết tới sản phẩm và dịch vụ của công ty và trực tiếp tạo điều kiện để thu hút cá nhân tham gia bán hàng đa cấp. thông thường ở nước ta việc bán hàng qua hội nghị hay bán hàng theo nhóm thường kèm theo cả các hoạt động đào tạo khác.
Chính sách thuế với hoạt động bán hàng đa cấp
Chính sách thuế là tồn tại khá gay gắt trong việc quản lý hoạt động bán hàng đa cấp với hai loại thuế cơ bản là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân từ các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp. Theo báo cáo của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, trong những năm qua, tổng số thuế các doanh nghiệp này đã nộp vào ngân sách nhà nước đạt trên 1.200 tỷ đồng, số thuế thu nhập cá nhân đạt trên 170 tỷ đồng.
Tuy nhiên các quy định và việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bán hàng đa cấp nói riêng còn nhiều hạn chế. Khó khăn trong việc xác định doanh thu bán hàng của các doanh nghiệp và việc xác định chi phí để làm cơ sở tính lợi nhuận qua đó có được cơ sở tính thuế còn phức tạp chưa minh bạch. Ngoài ra việc khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Người tham gia hệ thống bán hàng đa cấp đương nhiên nhận được thu nhập từ tỷ lệ % hoa hồng được hưởng, doanh nghiệp bán hàng đa cấp sẽ phải thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khấu trừ theo tỷ lệ 10% đối với những món chi trả có trị giá 500.000 đồng/lần trở lên hay khấu trừ theo Biểu thuế lũy tiến từng phần? Tính khấu trừ trên tổng số tiền cá nhân được hưởng hay cho loại trừ một phần bởi thu nhập thực của cá nhân là bao nhiêu khi họ phải tự trả tiền chi phí đi lại, bảo quản, vận chuyển hàng hóa, mở các lớp huấn luyện người tham gia mới, tổ chức các cuộc hội thảo,… chỉ trong khuôn khổ tỷ lệ % hoa hồng có được ? Việc xem xét đánh thuế TNCN đối với người tham gia được nhận % hoa hồng có được xem xét trong mối liên quan tính vào chi phí của doanh nghiệp bán hàng đa cấp hay không ? còn là các câu hỏi khó trả lời.
Đánh giá hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Thành tựu
Qua hơn 10 năm hình thành và phát triển ở nước ta, hoạt động bán hàng đa cấp ở nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất đinh.
Thứ nhất là tạo được cơ sở ban đầu về bán hàng đa cấp ở nước ta.Bán hàng đa cấp đã được công nhận là một hình thức kinh doanh hợp pháp. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp đã được hình thành sơ bộ và đi vào thực tiễn quản lý tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn cho ngành nghề này.Bên cạnh đó tạo được nhận thức đúng về bán hàng đa cấp cho một bộ phận người dân.
Thứ hai, tuy còn non trẻ về mặt tuổi đời nhưng hoạt động bán hàng đa cấp của nước ta đã có bước phát triển vượt trội. Tốc độ phát triển rất nhanh đạt 100-150% rất đáng hoan nghênh so với mức phát triên trung bình của các nước khác là 10-15%.
Thứ ba là đã đóng góp cho GDP và ngân sách nhà nước một khoản thuế không nhỏ( thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp)
Thứ tư tạo ra được cơ hội việc làm và có thêm thu nhập cho một lượng không nhỏ dân cư tham gia vào hình thức này. Thêm vào đó, mở ra hình thức này cũng đem đến cho nhân dân thêm lựa chọn về chủng loại hàng hóa đến từ những thương hiệu lớn trên thế giới với giá cả ở mức dễ chấp nhận hơn.
Thứ năm là thúc đẩy mạnh mẽ hơn tốc độ lưu thông hàng hóa và thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta như các dự án nhà máy sản xuất của Amway.Avon...trị giá hàng triệu USD.
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đa đạt được ở trên, bán hàng đa cấp ở nước ta còn rất nhiều vấn đề còn tồn tại.
Thứ nhất là tuy có hệ thống quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp nhưng còn thiếu và yếu, hoạt động của các cơ quan nhà nước về quản lý bán hàng đa cấp còn chưa hiệu quả. Điển hình là các vụ công ty bán hàng đa cấp trá hình vẫn còn tồn tại, việc quản lý bán hàng đa cấp còn lỏng lẻo, chờ sự việc xảy ra rồi mới nghĩ biện pháp giải quyết.
Thứ hai là tốc độ phát triển nhanh nhưng ẩn chứa nhiều nguy cơ. Thực tế, giai đoạn vừa qua bán hàng đa cấp ở nước ta phát triển rất nóng,lượng cá nhân tham gia vào lớn nhưng lượng người ngừng tham gia cũng nhiều. Hoạt động chưa thực sự dựa trên sản phẩm mà còn tập trung nhiều vào lôi kéo người tham gia thành lập mạng lưới dễ gây nhầm lẫn với các hình thức lừa đảo khác.
Thứ ba, môi trường cạnh tranh nội bộ ngành không trong sạch. Thể hiện sự mất cân bằng giữa các doanh nghiệp Việt và các doanh nghiệp nước ngoài,số lượng doanh nghiệp nước ngoài chiếm đa số và lượng lớn thị phấn. Mặt khác là sự cạnh tranh không lành mạnh, không ít doanh nghiệp để kéo người doanh nghiệp khác đã nói xấu lẫn nhau gây ra sự hoài nghi cho người trong và ngoài bán hàng đa cấp.
Thứ tư, hệ thống thông tin chính thức về bán hàng đa cấp chưa đầy đủ, thống nhất. Hiện nay, có rất nhiều luồng thông tin trái chiều về bán hàng đa cấp trên báo chí, mạng , truyền khẩu,…khiến người dân khó có cái nhìn đúng đắn về bán hàng đa cấp. Thêm vào đó là hệ thống thông tin hướng dẫn của nhà nươc về bán hàng đa cấp còn chưa đầy đủ gây lúng túng cho doanh nghiệp trong thực hiện .
Thứ năm, hạn chế về sản phẩm. Chủ yếu là các sản phẩm nhập khẩu của các công ty nước ngoài, các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa có nhiều và thiếu sức cạnh tranh mạnh. Các sản phẩm phân phối bởi bán hàng đa cấp tuy độc đáo nhưng giá thành thường cao hơn các sản phẩm cùng loại, điều này gây ra sự khó khăn trong tiếp cận của một số người dùng thật sự có nhu cầu. Mặt khác, hàng hóa trong bán hàng đa cấp vẫn còn tồn tại các sản phẩm kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn, không tuân theo quy định kiểm soát của nhà nước.Thêm vào đó là việc thông tin mập mờ không đày đủ về lợi ích, tính năng của sản phẩm là chuyện khá phổ biến.
Thứ sáu là hình thức kinh doanh biến tướng, bóp méo, tháp ảo của bán hàng đa cấp còn tồn tại và thường xuyên xuất hiện gây thiệt hại về kinh tế - xã hội, môi trường kinh doanh của nước ta.
Thứ bảy và là thách thức lớn nhất của bán hàng đa cấp là sự hiểu nhầm trong bộ phận lớn công chúng về hoạt động bán hàng đa cấp tạo ra bởi hàng loạt các công ty bán hàng đa cấp bất chính ngay từ giai đoạn đầu tiên khi bán hàng đa cấp mới xuất hiện và kéo dài tới hiện nay, điều đó đã tạo nên một hình ảnh xấu khó thay đổi về hoạt động này
Nguyên nhân của hạn chế
Có thể chia các nguyên nhân của các hạn chế ở trên thành hai nhóm: khách quan và chủ quan
Khách quan
Thứ nhất là do bán hàng đa cấp là một hoạt động mới xuất hiện ở nước ta và bản thân bán hàng đa cấp có nhiều điểm còn gây tranh cãi,khó hiểu trên nhiều nước trên thế giới. Không hề dễ dàng để nhận biết và đánh giá nó. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của các hạn chế bên trên
Thứ hai, hệ thống pháp luật của nước ta còn thiếu và hổng ở nhiều lĩnh vực không chỉ ở bán hàng đa cấp. Chính điều này tạo ra sự khó khăn trong thực thi luật như việc hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh,mặt hàng, hình thức và mô hình kinh doanh với các công ty đa cấp. Sự thiếu đầy đủ đồng bộ này còn dẫn tới sự khó khăn trong quản lý thực tiễn với hoạt động các doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đó. Ngoài ra, nó còn là kẽ hở để kẻ gian có thể tiến hành các hành vi trái pháp luật, thực hiện lừa đảo.
Thứ ba , là bản thân xuất phát điểm của nước ta là thấp. Thấp về mặt kinh nghiệm, vốn và công nghệ sản xuất. đây là nguyên nhân gây ra sự yếu kém trong cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, vì bản thân hình thức bán hàng đa cấp yêu cầu doanh nghiệp và sản phẩm không như các hình thức kinh doanh khác,nó đòi hỏi có kinh nghiệm cao để có thể quản lý tốt, trình độ và công nghệ sản xuất chế tạo ra các sản phẩm khác biệt, chất lượng yêu cầu cao hơn, cải biến nhiều hơn để tiến hành kinh doanh.
Thứ tư là sự lúng túng trong yếu kém chung trong hệ thống quản lý nhà nước. Một phần là do hệ thống pháp luật chưa đầy đủ nhưng phâng nhiều hơn là do sự yếu kém trong quản lý. Thậm chí chính bản thân các người quản lý cũng chưa chắc nắm rõ về hình thức kinh doanh này. Sự lúng túng này thấy rõ ngay trong công tác giám định mô hình kinh doanh nào của bán hàng đa cấp là đúng và nên áp dụng. trong khi sắp tới sở công thương TP.Hồ Chí Minh tiến hành cấm mô hình đa cấp nhị phân vì cho rằng nó là không hợp lệ nhưng các sở công thương khác hoặc không đồng ý hoặc không ý kiến.
Thứ năm là trình độ hiểu biết về hình thức bán hàng đa cấp ở nước ta còn thấp, chưa rõ ràng. Nhiều người tham gia chỉ do lời chào mời đầy hứa hẹn của người khác, hoặc tham gia bán hàng đa cấp rồi mà chưa rõ ràng mình đang làm gì và làm như thế nào? Thói quen suy nghĩ rằng bán hàng đa cấp là dễ dàng và dễ trở nên giàu có nên nhiều người không tìm hiểu kỹ đã tham gia bán hàng đa cấp và đã bị lợi dụng
Thứ sáu là hệ thống thông tin chính thức về bán hàng đa cấp của chính phủ còn ít, chưa đầy đủ và khó tiếp cận. trong khi trên các phương tiện thông tin khác có vô vàn các thông tin khác nhau về bán hàng đa cấp khiến người dân không có định hướng cụ thể. Hệ thống thông tin này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính có thể thổi phồng sự thật về họ, sản phẩm của họ hay hình thức kinh doanh này mà không có bất kỳ hệ quy chiếu nào đối chứng. Hiện chỉ có các sở công thương, cục quản lý cạnh tranh chịu trách nhiệm chính về vấn đề này.
Chủ quan
Nhóm nhân tố chủ quan có thể do: Bản thân doanh nghiệp hoặc do các thành viên tham gia bán hàng đa cấp.
Thuộc về doanh nghiệp kinh doanh đa cấp
Đầu tiên là việc các doanh nghiệp chưa ý thức hết về tính lâu dài và phát triển bền vững của hoạt động bán hàng đa cấp, chạy theo cái lợi trước mắt bỏ qua các điều kiện phát triển bền vững và lợi dụng sự lỏng lẻo của hệ thống luật pháp để kinh doanh bất chính. Những Doanh nghiệp này đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn. Việc này thường xuất hiện và tùy mức độ và do công ty muốn tối đa hóa lợi nhuận mà đi ngược nguyên tắc của bán hàng đa cấp. Ở một góc độ khác, các công ty cũng thường hay thổi phòng tính năng, tác dụng lợi ích sản phẩm của mình hơn sô với thực tế nhằm thu hút người tham gia. Tuy nhiên nó vô hình chung làm giảm lòng tin và gây ra sự thất vọng, cảm giác bị lừa đảo của những người tham gia. Kết hợp vào đó là sử dụng các mô hình bất chính,tháp ảo của một số công ty làm biến tướng hình thức bán hàng đa cấp. Chính việc làm của những công ty này khiến cho mọi người có cái nhìn xấu về bán hàng đa cấp.
Một nguyên nhân nữa là các doanh nghiệp quá tập trung vào mở rộng thị trường mà bỏ qua nội dung đào tạo. Vì vậy những người mới vào và đã vào vẫn chưa thực sự hiểu rõ kinh doanh đa cấp, chưa được đào tạo về đạo đức nghề nghiệp, các kiến thức và kỹ năng để có thể bán hàng đa cấp hiệu quả. Hầu hết các công ty chỉ đào tạo sơ qua và chú trọng để họ làm sao để mời thêm người vào hệ thống kinh doanh, và giới thiệu cho họ một viễn cảnh bằng vàng dễ chịu cho người tham gia. Kết quả khi đi vào thực tế họ gặp rất nhiều khó khăn và bỏ cuộc.
Thêm vào đó là năng lực quản lý và hệ thống thông tin nội bộ chưa đồng bộ.Và sự không đoàn kết của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Trong quá trình kinh doanh, thậm chí công ty này nói xấu các công ty khác để gây dựng danh tiếng. Nhưng cuối cùng họ phải nhận sự ngờ vực của người khác do chính các công ty trong ngành nói ra làm mất đi sự trong sạch, đúng đắn của hình thức kinh doanh này
Về nguyên nhân xuất phát từ những người tham gia bán hàng đa cấp
Một hoạt động gây ra sự khác biệt giữa kinh doanh đa cấp nươc ta và các nươc khác là hoạt động đầu cơ trục lợi. người tham gia đầu cơ tích trữ hàng hóa nhằm lên vị trí cao nhanh hơn, nhận nhiều lợi ích hơn. Ví dụ minh chứng là vụ việc công ty Agel Việt Nam. Hoạt động đầu cơ này đã làm biến dạng bán hàng đa cấp, dễ dàng cho kẻ xấu kiềm lợi lớn từ hoạt động đầu cơ này, kích thích người tham gia đầu cơ tích trữ sau đó doanh nghiệp bỏ chạy.
Một nguyên nhân quan trọng thuộc về người tham gia là họ cố tình làm, kể sai sự thật về hình thức bán hàng đa cấp miễn sao có thể lôi kéo người khác tham gia dù biết hoặckhông.
Chương 3 : Giải pháp phát triển bán hàng đa cấp tại Việt Nam
3.2. Định hướng phát triển bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Đảng và nhà nước ta đã xác định chiến lược “đến năm 2020 nước Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để có thể thực hiện mục tiêu này, hầu hết các hoạt động kinh tế trong nước đều phải tập trung phát triển theo hướng hiện đại, dịch chuyển dần cơ cấu kinh tế. Với tư cách là một hình thức bán hàng tiếp thị hiện đại trong lĩnh vực dịch vụ, bán hàng đa cấp cũng được đầu tư , phát triển theo hướng hoàn thiện hơn để đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Định hướng cho phát triển bán hàng đa cấp được thể hiện chi tiết hơn qua ba quan điểm cụ thể :
Khai thác điểm mạnh của bán hàng đa cấp vào phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân;
Khắc phục hạn chế, tiêu cực từ bán hàng đa cấp
3.2.1. Khai thác điểm mạnh của bán hàng đa cấp vào phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân
Cần có các biện pháp cụ thể khuyến khích bán hàng đa cấp và tạo điều kiện cho ngành nghề này phát triển như những ngành nghề khác.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà phân phối, người tiêu dùng không chỉ về mặt pháp lý mà còn bằng những chương trình hành động, cụ thể hóa các quy định, nghị định về bán hàng đa cấp cho sát với thực tế sao cho nó thật sự đi vào cuộc sống và áp dụng một cách có hiệu quả.
Nghiên cứu về mô hình này và học hỏi kinh nghiệm ở các nước phát triển, lập ra mô hình bán hàng đa cấp chuẩn mực tham khảo dành cho các công ty.
Mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý kinh tế về bán hàng đa cấp, thiết nghĩ nước ta cũng cần sớm có chương trình đào tạo ngành này ở các bậc học như một số nước phát triển trên thế giới.
3.2.2. Khắc phục hạn chế, tiêu cực từ bán hàng đa cấp
Hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước đối với bán hàng đa cấp, thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát các công ty bán hàng đa cấp một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Ngăn chặn triệt để và sớm xử lý nghiêm các công ty bán hàng đa cấp bất chính, các đối tượng lợi dụng mô hình để trục lợi cá nhân gây thiệt hại, dần xóa bỏ hình tháp ảo ra khỏi nền kinh tế. Tạo một môi trường kinh doanh đa cấp lành mạnh.
Quy định những khuôn khổ cho các công ty bán hàng đa cấp và nhà phân phối, hạn chế các trường hợp gây thiệt hại.
Khuyến khích mọi người đứng ra tố cáo các hành vi bán hàng bất chính, phổ thông hóa các quy định, nghị định về bán hàng đa cấp đến người dân. Giúp người dân phân biệt bán hàng đa cấp và bán hàng đa cấp bất chính
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp của nước ta mới được thành lập từ cuối năm 2005 và còn thiếu, nhiều thiếu sót khiến cho công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp gặp nhiều khó khăn và tạo khe hở cho các doanh nghiệp kinh doanh bất chính lợi dụng. Để có thể phát triển hiệu quả hình thức kinh doanh mới này cần hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh.
Trên giác độ quản lý nhà nước, hoạt động bán hàng đa cấp cần phải có các quy định pháp luật để điều chỉnh các hành vi của DN và những người tham gia mạng lưới về các nội dung sau:
Thứ nhất, Quy định rõ các điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động bán hàng đa cấp;
Khoản 11 Điều 3 của Luật cạnh tranh (Luật số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004) quy định các điều kiện kinh doanh đa cấp một cách định nghĩa chưa có các điều kiện cụ thể, yêu cầu với các doanh nghiệp tham gia bán hàng đa cấp.
Thứ hai, Quy định các hành vi bị cấm đối với DN và những người tham gia mạng lưới nhằm thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho người tiêu dùng; Nhằm phân biệt rõ ranh giới giữa bán hàng đa cấp tuân thủ quy định của pháp luật (chân chính) với hoạt động bán hàng đa cấp bất chính. Các quy định cần tuân thủ theo luật cạnh tranh là.
Một là, Nghiêm cấm việc: Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Hai là, Nghiêm cấm việc: Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
Ba là, Nghiêm cấm việc: Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Bốn là, Nghiêm cấm việc: Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.”
Thứ ba, Quy định cụ thể về cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động bán hàng đa cấp, trong đó có các ràng buộc về mức giá, cơ chế kiểm soát giá, nghĩa vụ thuế, hạch toán kế toán,…thực tiễn nước ta cho thấy các quy định của luật pháp nước ta điều chỉnh mảng quản lý tài chính là thiếu và yếu nhất, khiến các doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế và các quy định tài chính về mặt nghĩa vụ của doanh nghiệp với người tham gia bán hàng đa cấp cho công ty. Các quy định cần làm rõ là
Quy định về giá sản phẩm và cơ chế kiểm soát và quản lý giá bán sản phẩm phân phối theo hình thức đa cấp. do đặc thù của hoạt động bán hàng đa cấp khác với bán lẻ truyền thống nên việc xác định giá cả là rất quan trọng là cơ sở điều chỉnh và đề ra các chính sách quản lý tài chính khác. Với mỗi dòng sản phẩm cần có kiểm tra chất lượng và định giá sản phẩm tương đối làm cơ sở quản lý.
Quy định về hoa hồng cho các cá nhân tham gia. Làm rõ việc tỷ lệ trích hoa hồng này có vai trò như thế nào trong chi phí của mô hình hoạt động đa cấp. kết hợp 2 quy định trên cơ quan quản lý sẽ có cơ sở chính xác để quản lý doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp để có thể xác định chính xác thuế thu nhập doanh nghiệp.
Quy định về tính thuế thu nhập cá nhân đối với người tham gia bán hàng đa cấp.
Thứ tư, Quy định cụ thể về các hành vi được các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
Thêm vào đó, hoạt động bán hàng đa cấp cần có sự quản lý không chỉ từ một lĩnh vực pháp luật mà còn từ nhiều lĩnh vực khác nhau hông chỉ bao gồm Bộ luật dân sự, pháp luật về thương mại, pháp luật về cạnh tranh, mà còn bao gồm cả lĩnh vực pháp luật về thuế, pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về quảng cáo,..
3.3.2. Thống nhất, nâng cao vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước
Cơ chế quản lý hiện tại của nhà nước, doanh nghiệp bán hàng đa cấp chịu sự quản lý trực tiếp từ các sở công thương tỉnh thành phố và kết hợp với sự giám sát của cục quản lý cạnh tranh ở cấp vĩ mô mà chưa có một cơ quan nào chủ đạo quản lý trực tiếp hoạt động bán hàng đa cấp. Trong khi đó việc quản lý của các sở công thương còn lỏng lẻo còn tầm vĩ mô của cục quản lý cạnh tranh chỉ tập trung vào việc quản lý các hoạt động vi phạm nhưng lại chưa sát sao, không đề ra các chính sách chiến lược phát triển thực sự cho ngành hàng đa cấp. Ngay tại cấp của các sở công thương cũng yếu kém trong việc kiểm soát các doanh nghiệp và tình hình diễn biến của hoạt động bán hàng đa cấp, xảy ra tình trạng doanh nghiệp bán hàng đa cấp không có giấy phép hoặc không thê nắm rõ việc có bao nhiêu doanh nghiệp bán hàng đa cấp hoạt động tại địa phương mình quản lý. Vì vậy cần có một cơ quan chính thức chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp hoạt động bán hàng đa cấp ở tầm vĩ mô đề ra chiến lược và chính sách điều chỉnh và phát triển hoạt động này, ngoài ra còn phối hợp với địa phương để có thể nắm rõ diễn biến thực tế.
Cơ quan này cũng chính là đại diện chính thức của nhà nước về mặt pháp luật hướng dẫn các doanh nghiệp bán hàng đa cấp cũng như cung cấp nguồn thông tin chính thức cho người dân về hoạt dộng bán hàng đa cấp. Giảm thiểu tình trạng không có nguồn thông tin chính thức đầy đủ và nhiễu loạn các nguồn thông tin về bán hàng đa cấp tạo lòng tin và hướng dẫn người dân về hoạt động bán hàng đa cấp.
3.3.3. Cơ chế đa dạng hóa các đối tượng hữu quan trong quản lý bán hàng đa cấp
Ngay trong lĩnh vực pháp luật điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp đã nêu rõ cần có sự quản lý pháp luật dựa trên nhiều lĩnh vực, cho thấy việc quản lý bán hàng đa cấp không chỉ cẩn có sự nỗ lực của cơ quan nhà nước mà còn từ các phía như người tiêu dùng,doanh nghiệp đa cấp…
Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam đã được thành lập để có thể đáp ứng nhu cầu trên. Hiệp hội này có vai trò gắn kết các doanh nghiệp trong ngành, giảm sự cạnh tranh không lành mạnh tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các doanh nghiệp và phối hợp với các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cho dù đã được thành lâp nhưng hiệp hội vẫn chưa quy tụ đủ các doanh nghiệp trong ngành và hoạt động còn mờ nhạt. Nhưng với sự có mặt của hiệp hội này cho thấy kỳ vọng về tương lai tốt đẹp hơn của hoạt động bán hàng đa cấp.
Thêm vào đó chính người tiêu dùng cũng cần tự bảo vệ mình qua vai trò của các hiệp hội của người tiêu dùng nhằm vai trò thẩm định và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tiếng nói của một hiệp hội sẽ có tác động mạnh mẽ hơn so với của các cá nhân. Tuy nhiên cũng như hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam, hiệp hội của người tiêu dùng đã có nhưng hoạt động chưa đúng với nhiệm vụ của mình
Ngoài ra cũng cần có sự tham gia của các tổ chức đánh giá, thẩm định chât lượng và hoạt động của các doanh nghiệp đa cấp từ đó có những tư vấn hợp lý cho cả doanh nghiệp, nhà nước và người tiêu dùng
3.3.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Một hạn chế cơ bản của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp của nước ta là năng lực cạnh tranh kém hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Sự yếu kém này thể hiện trong cả năng lực, trình độ quản lý và trình độ công nghệ ứng dụng sản phẩm dịch vụ.dẫn tới sự thống trị thị trường của các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài.
Tuy thị trường nước ta còn non trẻ phát triển muộn hơn so với các thị trường khác nhưng đó cũng là một lợi thế của chúng ta để có thể tiếp thu kiến thức và khoa học công nghệ mới nhất để có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước và nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp trong việc học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nghiệp nước ngoài và sự đầu tư phát triển khoa học công nghệ để sản phẩm có sức cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài.
3.3.5.Cải thiện quan niệm của công chúng về hoạt động bán hàng đa cấp
Để có thể cải thiện quan niệm của công chúng về hoạt động bán hàng đa cấp cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau :
Nâng cao trình độ dân trí để tạo cho họ cơ sở để có thể tự nhận thức về hoạt động bán hàng đa cấp.
Cung cấp thông tin và hiểu biết cơ bản về bán hàng đa cấp để họ hiểu rằng bán hàng đa cấp là một hình thức kinh doanh hợp pháp. Trong đó, nhà nước cần thống nhất và cung cấp nguồn thông tin chính thức loại bỏ các nguồn thông tin không chính thức, đồng thời doanh nghiệp cũng cần có hoạt động đào tạo có chiều sâu hơn với các nhân viên của mình nhất là các nhân viên mới để họ làm việc chuyên nghiệp và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.
--- Hết ----
Kết luận
Từ lâu người ta dùng khái niệm “thương trường như chiến trường” chỉ cuộc chiến giành khách hàng đã trở nên khốc liệt đến mức các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng bị loại khỏi cuộc chiến ngay những năm đầu tiên. Công nghệ hiện đại giúp nhà sản xuất có thể sản xuất hàng loạt sản phẩm hiện đại, chất lượng nhưng đời sống sản phẩm bị rút ngắn trong khi họ luôn phải đối mặt với vấn đề hàng đầu là tiêu thụ. Sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông cho phép các doanh nghiệp quảng bá, tiếp thị sản phẩm của mình rộng khắp, nhưng chi phí quá cao và có thể họ không còn kiểm soát được hiệu quả của các công cụ hiện đại này trong tình trạng tràn ngập thông tin và người dân bị quá tải khi là đối tượng mục tiêu của hàng chục thông điệp marketing và quảng cáo mỗi ngày.
Trước những vấn đề hóc búa của những mô hình kinh doanh có từ lâu đời, MLM đã ra đời như một giải pháp phân phối mới, được các doanh ngiệp vận hành như những công cụ thay thế marketing truyền thống, quá trình tiêu thụ đã diễn ra theo một quy trình hiệu quả: Từ nhà sản xuất đến trung tâm phân phối và NPP nối liền trung tâm phân phối với người tiêu dùng. Một công ty MLM dễ dàng thực hiện được mục tiêu tiết kiệm, mục tiêu nghiên cứu phát triển sản phẩm và mục tiêu tiêu thụ.
Trái với những lời dự đoán rằng MLM sẽ thay thế ngành kinh doanh truyền thống và toàn bộ dân số sẽ gia nhập MLM trong một thời gian ngắn, MLM dù đã phát triển mạnh thế nào cũng là một mô hình tồn tại song song các mô hình kinh doanh khác. Cũng như những mô hình kinh doanh khác MLM có ưu điểm và nhược điểm, đặc biệt những biến tướng tiêu cực của nó gây nhiều thiệt hại cho kinh tế, xã hội và luôn bị dư luận lên án... nhưng đó chỉ là một số hiện tượng của một mô hình kinh doanh hiện đại, và quan niệm rằng MLM là một ngành nghề lừa đảo cần phải “xóa sổ” khỏi Việt Nam chắc chắn là một quan điểm không phù hợp với chủ trương phát triển và hội nhập của ta.
Bằng việc hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp ở nước ta kết hợp với hình thức kinh doanh truyền thống sẵn có chắc chắn sẽ đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước để thực hiện được mục tiêu của đảng và nhà nước đề ra là tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp với cơ cấu nền kinh tế hợp lý và phương thức sản xuất hiện đại năng suất cao.
Hà nội ngày 31 tháng 12 năm 2011
Tài liệu tham khảo
1. Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
2. Luật Cạnh Tranh 2005.
3. Thông tư 19/2005/TT-BTM.
4. Thông tin từ các sở công thương Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh
5. Richard Poe, dịch giả Cù Hoàng Đức (2003), Làn sóng thứ 3, Nhà xuất bản Thế Giới.
6. qlct. gov. vn/Web/Content. aspx?distid=2082&lang=vi-VN
7.àng-da-cap-the- nao/20356272/87/
8. Bán hàng đa cấp ở Việt Nam: Méo mó và biến tướng đăng trên báo CAND ngày 20-7-2011
9.
A%A5p
10. àng-da-cap-Sinh-Loi-moc-dau-moi/30141286/87/
11.
12.
13. Báo cáo của Cục Quản lý cạnh tranh tổng kết công tác quản lý bán hàng đa cấp ngày 1-7-2011 tại Tp.Hồ Chí Minh
14.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam.docx