LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước và đang trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từ thực tế cho thấy chưa bao giờ hoạt động thương mại quốc tế (TMQT) lại diễn ra sôi động như ngày nay. Việc giao lưu buôn bán giữa các quốc gia đã trở thành một yếu tố khách quan. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện một cách thuận lợi an toàn thì một nghiệp vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là quy trình xây dựng và thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên đây là một vấn đề khó khăn và lại ảnh hưởng đến sự thành bại của một doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển tốt thì vấn đề đặt ra là phải thực hiện tốt quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng, bởi đây là cơ sở pháp lý để xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là căn cứ giải quyết tranh chấp khiếu nại - một vấn đề mà trong hoạt động TMQT khó tránh khỏi.
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng - một đơn vị chủ đạo của ngành thuỷ tinh và gốm xây dựng tại Việt Nam, vừa hoàn tất thủ tục cổ phần hoá từ hình thức ban đầu là doanh nghiệp nhà nước vào tháng 3 năm 2006. Là trung tâm xuất nhập khẩu (XNK) của Tổng công ty nên Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera rất quan tâm đến công tác XNK, coi đây là một trong những hoạt động chủ đạo liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại và phát triển của mình. Gần đây, khi công tác tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa còn nhiều khó khăn thì việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cũng như tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu phục vụ cho công tác xuất khẩu chính là lối thoát và là hướng phát triển lâu dài của Công ty.
Trong quá trình thực tập tại phòng xuất nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện hợp đồng cùng với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở xem xét thực trạng của quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty để đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao công tác này ở Công ty.
Đối tượng nghiên cứu: là toàn bộ hoạt động tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá trên cơ sở các số liệu và tình hình thực tế tại Công ty.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được trình bày thành 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU1
CHƯƠNG 1 : Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 11
1.1.Khái quát về hoạt động nhập khẩu. 11
1.1.1.Khái niệm về nhập khẩu. 11
1.1.2. Vai trò của nhập khẩu. 12
1.1.3. Các hình thức nhập khẩu hàng hoá. 15
1.1.4. Quy trình hoạt động nhập khẩu. 17
1.2. Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.24
1.3. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.37
1.3.1. Các nhân tố khách quan.37
1.3.2. Các nhân tố chủ quan.41
1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của doanh nghiệp.44
Tóm tắt chương 1 .38
CHƯƠNG 2 : Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. 47
2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.47
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.47
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.49
2.1.2.1.Chức năng của Công ty.49
2.1.2.2. Nhiệm vụ của Công ty.50
2.1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty.51
2.1.4. Đặc điểm nguồn lực của Công ty.54
2.1.5. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty.58
2.2. Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.61
2.2.1. Tổng quan về hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.61
2.2.2. Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera trong thời gian qua.71
2.3. Đánh giá công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty.84
2.3.1. Ưu điểm.84
2.3.3.Nguyên nhân.87
Tóm tắt chương 2. 89
CHƯƠNG 3 :Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. 90
3.1. Tổng kết sức mạnh nội tại và cơ hội, thách thức của Công ty.90
3.1.1. Sức mạnh nội tại .90
3.1.2. Thời cơ và thách thức.92
3.2. Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty trong thời gian tới.94
3.2.1.Mục tiêu và phương hướng phát triển chung.94
3.2.2. Phương hướng phát triển hoạt động nhập khẩu.96
3.3. Tình hình thị trường nhập khẩu của Công ty.98
3.3.1. Thị trường Châu Âu.98
3.3.2. Thị trường Trung Quốc và nhật Bản.99
3.3.3. Thị trường các nước Asean.101
3.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.101
3.4.1. Giải pháp từ phía Công ty.102
3.4.2. Kiến nghị với nhà nước.109
Tóm tắt chương 3. 113
KẾT LUẬN114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO115
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ty : Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Tổng công ty: Tổng công ty Thuỷ Tinh và Gốm xây dựng (Viglacera)
TMQT : Thương mại quốc tế.
XNK : Xuất nhập khẩu.
L/C : Letter of credit.
CIF : Cost, Isurance & Freight.
C&F : Cost and Freight.
FOB : Free on Board.
Exw : Ex Works.
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ1.1: Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.25
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty.52
Bảng 2.1: Tổng vốn kinh doanh của Công ty.54
Bảng 2.2: Phân bố lao động theo trình độ của Công ty.56
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 59
những năm gần đây.59
Bảng 2.4: Kết quả thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty giai đoạn 2004-2006. 62
Bảng 2.5: Kim ngạch XNK của Công ty giai đoạn 2003-2006. 63
Bảng 2.6: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Công ty giai đoạnh 2003-2006.66
Bảng 2.7: Kim ngạch nhập khẩu theo phương thức của Công ty. 68
giai đoạn 2003-2006.68
Bảng 2.8: Cơ cấu thị trường nhập khẩu của Công ty giai đoạn 2003-2005.70
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch của Công ty năm 2007.96
Biểu đồ 2.1: Phân loại trình độ học vấn của lao động năm 2006.57
Biểu đồ 2.2: Thể hiện thu nhập bình quân/ người của Công ty. 61
qua các năm61
Biểu đồ 2.3: Thể hiện kim ngạch nhập khẩu của Công ty qua các năm.64
Biểu đồ 2.4: Kim ngạch nhập khẩu theo phương thức của. 69
Công ty qua các năm.69
91 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3687 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh: Bộ hồ sơ xin giấy phép nhập khẩu của Công ty có nhiều loại giấy tờ cần chuẩn bị mà thủ tục hành chính của Nhà nước lại rườm rà, chưa thông thoáng nên thời gian thực hiện thủ tục xin giấy phép còn chưa tối ưu, quá trình thu thập, chuẩn bị các giấy tờ đôi khi còn chậm.
Vẫn còn có các lỗi nhỏ trong khi thực hiện mở L/C: Trong khâu mở L/C, điều bất cập thường gặp nhất ở Công ty là khi viết thư xin mở thư tín dụng, thường có lỗi nhỏ (lỗi vặt) tuy không gây thiệt hại nhưng cũng làm cho quá trình mở L/C phải mất công và thời gian sửa chữa. Bên cạnh đó, những khó khăn về mặt tài chính đôi khi cũng làm ảnh hưởng đến khâu mở L/C này.
Thủ tục thuê tàu còn bỡ ngỡ: Do thói quen nhập khẩu trước đây của Công ty là nhập khẩu theo điều kiện CIF hoặc C&F. Với hình thức nhập khẩu này thì việc thuê tàu thường do bên bán chịu trách nhiệm đảm nhận. Trong khi đang chuyển dần sang hình thức nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc EWX và Công ty giành được quyền thuê tàu thì công việc này lại còn nhiều bỡ ngỡ, chưa thật sự thành thục và chuyên nghiệp.
Kiểm tra giám sát hàng hoá nhập khẩu còn chưa cẩn thận, thấu đáo: Nhân lực của Công ty còn thiếu, thêm vào đó, chủ trương của Công ty trong những năm qua là tập trung vào công tác xuất khẩu nên đã làm hạn chế rất nhiều nhân lực dành cho hoạt động nhập khẩu nói chung cũng như khâu kiểm tra giám sát hàng hoá nhập khẩu nói riêng. Vậy nên khâu kiểm tra hàng hoá nhập khẩu của Công ty thường qua loa, đại khái, thiếu cẩn thận…
Đôi khi chưa thực sự linh hoạt trong việc lựa chọn phương thức thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán của Công ty được đánh giá là khá tốt, rất bài bản và chuyên nghiệp song chưa thực sự linh hoạt. Công ty cần cố gắng thiết lập và duy trì các mối quan hệ mật thiết hơn nữa với các đối tác để có thể lựa chọn thanh toán bằng phương thức có mức phí thấp nhưng vẫn đảm bảo an toàn.
Bất kì một doanh nghiệp nào, trong kinh doanh đều gặp phải những khó khăn, tồn tại, điều quan trọng là tìm ra được nguyên nhân của những tồn tại đó để có hướng và giải pháp khắc phục một cách hiệu quả.
2.3.3.Nguyên nhân.
Những tồn tại, bất cập mà Công ty gặp phải trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là do một số nguyên nhân sau:
Nguyên nhân khách quan :
Do chính sách và thủ tục của nhà nước đang trên đà hoàn thiện vẫn còn có những điểm chưa hợp lý hoặc trong công tác thực hiện còn nhiều tiêu cực. Mặc dù trong thời gian vừa qua Nhà nước đã có những đổi mới trong cơ chế quản lý kinh doanh XNK nhưng những chính sách của nhà nước cũng chứa đựng không ít những yếu tố cản trở hoạt động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera nói riêng. Những quy định về thủ tục rườm rà và thói quan liêu vẫn còn tồn tại trong một số đơn vị chức năng đã gây khó dễ cho Công ty trong quá trình thực hiện các hợp đồng XNK.
Do việc phối hợp giữa các ban nghành trong nước về việc chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa được tốt gây sức ép cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngay tại thị trường nội địa ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu.
Do việc áp dụng luật thuế giá trị gia tăng đã làm tăng giá thành sản xuất của nhiều đơn vị thành viên trong Tổng công ty nên gây sức ép lớn về tài chính đối với các đơn vị này. Điều này dẫn đến một hệ quả là công nợ của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty đối với Công ty tăng lên, từ đó gây khó khăn cho Công ty về mặt tài chính, làm ảnh hưởng không tốt đến các khâu trong quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty đặc biệt là khâu mở L/C và khâu thanh toán.
Nguyên nhân chủ quan:
Do công tác nghiên cứu thị trường nhập khẩu của Công ty mới được chú trọng nên bước đầu đạt hiệu quả chưa cao.
Do các sản phẩm của Viglacera phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi tiếng có nhiều kinh nghiệm cũng như tiềm lực kinh tế tài chính và thị phần vững chắc trên thị trường. Điều này đã gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung.
Do nguồn lực của Công ty có giới hạn: Đội ngũ cán bộ nhập khẩu của Công ty trẻ, năng động, có trình độ chuyên môn và nhiệt tình trong công việc nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Vậy nên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bỡ ngỡ và đôi khi đã để xảy ra sai sót. Ngoài ra như đã nói ở trên, tình hình tài chính của Công ty cũng gặp khó khăn do tồn đọng quá nhiều công nợ đối với các đơn vị trong Tổng công ty. Bên cạnh đó, việc sử dụng các nguồn vốn của Công ty cũng chưa thực sự hiệu quả.
Từ khi chuyển sang mô hình quản lý mới - mô hình công ty cổ phần - công tác tổ chức của Công ty đã gọn nhẹ, hiệu quả, giảm bớt các khâu trung gian, các đầu mối, nâng cao tính chủ động sáng tạo của các mảng kinh doanh. Tuy nhiên trong công tác tổ chức lao động của mình, Công ty vẫn chưa làm tốt việc tổ chức phân công thực hiện công việc chuyên sâu theo từng lĩnh vực, từng ngành hàng, các bộ phận có quan hệ nghiệp vụ trong Công ty vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình hoạt động. Do đó làm giảm hiệu quả thực hiện hợp đồng nhập khẩu cũng như hiệu quả của các lĩnh vực hoạt động khác của Công ty.
Tóm tắt chương 2
Trong chương này bài viết đã tập trung tìm hiểu và phân tích thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, đồng thời cũng đưa ra các đánh giá về Công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty. Nhìn chung, tuy đã đạt được những kết quả khả quan trong công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu nhưng do những nguyên nhân cả khách quan và chủ quan nên vẫn còn khá nhiều tồn tại cần khắc phục. Từ những nhận định này, bài viết sẽ đưa ra các phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty được trình bày ở chương 3.
Chương 3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera
3.1. Tổng kết sức mạnh nội tại và cơ hội, thách thức của Công ty.
Để có thể đưa ra một giải pháp, một hướng đi đúng đắn cho Công ty, trước hết chúng ta phải tổng kết được sức mạnh nội tại của Công ty, nhận ra điểm mạnh, điểm yếu và nhận thức được thời cuộc (cơ hội, thách thức bên ngoài) có ảnh hưởng đến Công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty.
3.1.1. Sức mạnh nội tại .
3.1.1.1. Điểm mạnh (Strong).
Kinh nghiệm và uy tín của Công ty: Do có kinh nghiệm và uy tín trong hoạt động XNK, nhất là nhập khẩu máy móc thiết bị vật tư nên Công ty đã thiết lập được một mạng lưới bán hàng rộng khắp, không chỉ trong nước mà cả với nhiều nhà cung cấp khác nhau trên thị trường quốc tế. Do đã có thị trường nhập khẩu rộng lớn nên Công ty không còn phải lo ngại về việc hàng hoá bị khan hiếm và có thể lựa chọn nhà cung cấp phù hợp với yêu cầu của mình nhất.
Nỗ lực của các thành viên: Phòng nhập khẩu đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm đơn đặt hàng, khách hàng, tìm ra các biện pháp thích hợp để thực hiện kế hoạch nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty giao cho và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Đội ngũ nhân viên giỏi: Công ty có đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, có trình độ chuyên môn và nhiệt tình với công việc XNK. Đội ngũ nhân viên này đã biết cách tổ chức thực hiện các hợp đồng XNK rất chuyên nghiệp, bài bản và có năng lực cũng như trách nhiệm rất cao.
Đầu ra ổn định: Công ty nhập khẩu chủ yếu để phục vụ sản xuất cho các công ty là đơn vị thành viên trong Tổng công ty nên khi nhập khẩu về, hàng hoá hay nguyên liệu không bị tồn đọng mà được sử dụng vào để chế biến và sản xuất ra sản phẩm. Đây là một điểm mạnh cũng như một thành công rất lớn của Công ty.
3.1.1.2. Điểm yếu (weak).
Chưa khai thác triệt để nguồn lực: Mặc dù kim ngạch XNK tăng nhưng Công ty vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty. Theo đánh giá hiện nay, sản xuất của các đơn vị trực thuộc Tổng công ty, đặc biệt là các nhà máy sản xuất sứ vệ sinh và gạch ốp lát mới chỉ đạt 83,33% tổng công suất thiết kế.
Mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu: Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa tiết kiệm tối đa nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất, máy móc thiết bị nhập khẩu của Công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
Khó khăn trong huy động vốn: Một vấn đề khác cũng rất cấp thiết đối với Công ty đó là vốn kinh doanh. Nhiều những đơn hàng lớn, khi mở L/C bên ngân hàng yêu cầu đặt cọc một lượng ngoại tệ lớn cũng là một trong những khó khăn cho Công ty.
Kinh nghiệm còn hạn chế: Tuy được đánh giá là có kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực XNK nhưng so với các doanh nghiệp kinh doanh XNK trong khu vực và trên thế giới thì Công ty còn tương đối non trẻ cả về thâm niên hoạt động cũng như kinh nghiệm sản xuất kinh doanh và kinh nghiệm marketing XNK. Đội ngũ nhân viên tuy giỏi, nhiệt tình trong công tác XNK nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm nên đôi khi chưa phát huy được hết khả năng và trình độ chuyên môn.
3.1.2. Thời cơ và thách thức.
3.1.2.1. Thời cơ (opptunity).
Sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước: Nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi ngày càng khả quan, Việt Nam nói chung và nghành sản xuất kinh doanh mặt hàng thuỷ tinh và gốm xây dựng nói riêng đang đứng trước những cơ hội vô cùng thuận lợi. Phải kể đến đó là sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước và Bộ xây dựng, Bộ thương mại cũng như các ban nghành liên quan tới hoạt động của Công ty. Mặt khác, Nhà nước cũng đã có những chính sách mới ra đời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu cũng như sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Ưu đãi của các bên liên quan và bạn hàng: Là một doanh nghiệp uy tín trong quan hệ làm ăn với bạn hàng nước ngoài, Công ty đã giành được không ít những ưu đãi trong việc thực hiện hợp đồng chẳng hạn như việc gia hạn thời hạn thanh toán, tạo điều kiện cho Công ty có thời gian để huy động vốn phục vụ cho quá trình tái đầu tư.
Nhu cầu trong nước về mặt hàng của Công ty tăng: Do sự phát triển của đất nước, nhu cầu xây dựng cơ bản, đầu tư,…ngày càng tăng nhanh, mạnh, chính vì thế mà nhu cầu về các mặt hàng của Công ty cũng tăng. Đây thực sự là thời cơ mà Công ty cần nắm bắt.
Xu hướng của thế giới: xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá của thế giới cũng là một thời cơ mà Công ty cần tận dụng. Càng ngày các quốc gia càng tham gia vào TMQT một cách sâu rộng, các chính sách luật pháp quốc tế về thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện, điều đó giúp cho quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty đơn giản và thuận lợi hơn.
3.1.2.2. Thách thức (threat).
Đối thủ cạnh tranh: Hiện nay, ngày càng có nhiều đơn vị trong và ngoài nước tham gia vào thị trường cung cấp vật liệu xây dựng thuỷ tinh, gốm sứ. Chính vì vậy, Công ty có khá nhiều đối thủ cạnh tranh, tất yếu dẫn đến việc kinh doanh sẽ khó khăn hơn.
Cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc còn lạc hậu so với thế giới: Trong mấy năm gần đây, nhà nước cũng như các doanh nghiệp đã có những nỗ lực và đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc. Tuy nhiên, điều kiện cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của ta vẫn còn bị tụt hậu so với trình độ phát triển của thế giới. Điều này ít nhiều gây khó khăn cản trở cho hoạt động nhập khẩu của Công ty.
Các thủ tục chưa được hoàn thiện và sửa đổi: Trên thực tế còn nhiều những thủ tục, hành lang pháp lý cũng như sự không đồng nhất giữa các quy định của hải quan, thuế vụ tạo ra những khó khăn phức tạp trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty.
Tỷ giá biến động, giá cả không ổn định: Trong những tháng đầu năm 2007, tình hình giá cả leo thang, lạm phát và tỷ giá đồng USD/VNĐ biến động bất lợi cho hoạt động nhập khẩu, ảnh hưởng không tốt đến quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Đây cũng là một trong những thách thức mà Công ty cần lưu ý để có biện pháp đối phó.
Như vậy, qua đây chúng ta đã nắm được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty cũng như thời cơ và thách thức mà Công ty đang đối mặt. Trong công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, cần có những giải pháp phù hợp sao cho hoạt động này được tiến hành đạt hiệu quả cao nhất, tối ưu nhất.
3.2. Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty trong thời gian tới.
Trong thời đại kinh tế thị trường như ngày nay, hoạt động kinh doanh quốc tế gặp rất nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt ở hầu hết các lĩnh vực. Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải có định hướng đúng đắn và kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh.
Để làm được điều đó doanh nghiệp cần phải xây dựng mục tiêu hoạt động cho riêng mình. Tuỳ từng thời điểm cụ thể mà mục tiêu của doanh nghiệp có thể thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhiệm vụ của người quản lý là phải có những sách lược mềm dẻo, đúng đắn để có thể đưa doanh nghiệp của mình đạt được mục tiêu một các tối ưu nhất.
Hơn nữa, từ tháng 11 năm 2006 Việt nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, tham gia vào một sân chơi lớn của toàn thế giới, sự phát triển kinh tế nói chung và ngành cũng như thị trường gốm sứ xây dựng nói riêng cũng có sự biến đổi to lớn. Theo cam kết khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận dần dần xoá bỏ hàng rào thuế quan, giảm thuế, bỏ chế độ bảo hộ mậu dịch, chính vì thế mà Công ty đang đứng trước những thách thức cũng như cơ hội. Công ty cần biết nắm bắt thời thế, tận dụng tốt những ưu đãi và hạn chế, khắc phục những khó khăn để đem lại hiệu quả cao nhất cho Công ty và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
3.2.1.Mục tiêu và phương hướng phát triển chung.
Xuất phát từ kế hoạch theo đuổi của Công ty, cũng như kết hợp định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước, Công ty đã đề ra một số mục tiêu và phương hướng chung cho hoạt động của Công ty trong thời gian tới như sau:
Tăng cường đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm để có thể chủ động tiêu thụ sản phẩm, thu hồi và quay vòng vốn, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và công nghệ.
Tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm thuỷ tinh và gốm xây dựng ở trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn. Đối với các mặt hàng chính, Công ty quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu sau:
Sứ vệ sinh: 27% thị phần nội địa.
Gạch Granite: 98% thị phần nội địa.
Gạch ốp lát Ceramic: 14% thị phần nội địa.
Kính xây dựng các loại: 70% thị phần nội địa.
Vật liệu chịu lửa: 85% thị phần nội địa.
Các sản phẩm gạch ngói thông dụng khác: 50% thị phần nội địa.
Tăng cường công tác quản lý hành chính, tiết kiệm trong sản xuất, sử dụng vốn có hiệu quả. Tiếp tục tăng cường công tác cổ phần hoá doanh nghiệp, áp dụng chế độ ký kết hợp đồng để cụ thể hoá công việc cho từng người lao động và động viên người lao động làm tốt công tác và nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục khai trương và mở rộng thêm kênh tiêu thụ sản phẩm gốm sứ xây dựng sang thị trường nước ngoài, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu, thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài với các thị trường tiềm năng tiêu thụ lớn như Bắc mỹ, EU…
Tăng cường công tác đánh giá thẩm định, lựa chọn các dự án đầu tư thực sự có thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra với hiệu quả kinh tế cao, không dàn trải, gây căng thẳng cho công tác trả nợ, dần chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực xây dựng dân dụng, nhà ở, cơ sở hạ tầng và khu công nghiệp.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh, liên kết, liên doanh hợp tác kinh tế kỹ thuật công nghệ với các đối tác, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tăng cường công tác quản lý môi trường…
Năm 2007, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera phấn đấu thực hiện một số chỉ tiêu chính như sau:
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch của Công ty năm 2007.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Các chỉ tiêu
Kế hoạch năm 2007
I.Doanh thu
Doanh thu nhập khẩu hàng kinh doanh
Doanh thu xuất khẩu hàng kinh doanh
Doanh thu kinh doanh nội địa
Doanh thu xuất khẩu lao động
Doanh thu kinh doanh dịch vụ
II. Nộp ngân sách
III. Lợi nhuận trước thuế
IV. Thu nhập của người lao động (triệu đồng/người)
266338
54502
38549
3137
3073
250
1474
2,498
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm - Phòng tổ chức hành chính – Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera )
3.2.2. Phương hướng phát triển hoạt động nhập khẩu.
Bên cạnh những biện pháp chung đó, những hướng chính để Công ty phát triển hoạt động nhập khẩu trong thời gian tới là:
Thứ nhất, Công ty cơ cấu lại các mặt hàng nhập khẩu với tỷ trọng thích hợp hơn. Đồng thời giảm bớt việc nhập ngoại các trang thiết bị, vật tư và nguyên vật liêu sản xuất mà trong nước có thể đáp ứng được.
Thứ hai, Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ XNK, tăng cường chuyên môn và các nghiệp vụ cũng như đầu tư hỗ trợ các công cụ cần thiết trong giao dịch, mở rộng và tìm kiếm các đối tác mới.
Thứ ba, Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của quy trình nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị công nghệ của Công ty.
Thứ tư, Đẩy mạnh công tác nghiên cứu về nhu cầu của các Công ty thành viên để có kế hoạch chủ động nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ kiện phục vụ sản xuất. Mặt khác cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu nhu cầu về thị trường như về dung lượng thị trường, giá cả hàng hoá, các nhân tố ảnh hưởng để tổ chức các hoạt động nhập khẩu như lựa chọn nhà cung ứng, chọn thời điểm mua hàng và thực hiện việc đầu tư vào các dự án mang lại hiệu quả cao nhất.
Trong năm 2007: Giá trị kim ngạch nhập khẩu dự tính phấn đấu đạt 30 triệu USD, trong đó có khoảng 15-17 triệu USD nhập khẩu trực tiếp. Công ty dự kiến một số mặt hàng nhập khẩu chính với số lượng như sau:
Nhập khẩu Sôđa cung cấp cho các Công ty sản xuất kính như: VFG 31.000 tấn, VIFG 22.000 tấn, Đáp Cầu 3.000 tấn, các nhà máy kính khác ngoài Tổng công ty như Kính Cẩm Phả, Trường Phong,…khoảng 5.000 - 8.000 tấn.
Nhập khẩu kinh doanh một số hoá chất tạo màu dùng trong sản xuất kính như: Selen, Cobalt oxit Niken, Oxit sắt, Sơn, Bạc nitrat,… để cung cấp cho các nhà máy kính trong và ngoài Tổng công ty với doanh số khoảng 2.500.000 USD.
Nhập khẩu kinh doanh một số mặt hàng thiết bị vệ sinh, hàng trang trí nội thất, hợp tác với một số hãng nước ngoài để xin làm đại lý phân phối giới thiệu sản phẩm tại thị trường Việt Nam.
Nhập khẩu uỷ thác các dây chuyền thiết bị sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho các đơn vị trong và ngoài Tổng công ty nhằm nâng cao doanh thu và hiệu quả kinh doanh.
3.3. Tình hình thị trường nhập khẩu của Công ty.
Thị trường nhập khẩu cũng là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động nhập khẩu nói chung cũng như quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu nói riêng. Vì vậy, trước khi đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, chúng ta cũng nên đưa ra những nhận xét về tình hình thị trường nhập khẩu hiện tại của Công ty. Những nhận xét mang tính định lượng bao giờ cũng chính xác và tốt hơn cả, tuy nhiên ở đây do hạn chế về mặt thời gian, số liệu cũng như vượt quá khả năng tìm hiểu của chuyên đề nên em chỉ xin đưa ra những nhận xét định tính mang tính khái quát về tình hình thị trường nhập khẩu hiện tại của Công ty như sau:
Nhìn chung thị trường nhập khẩu của Công ty chủ yếu là các nước có nền sản xuất thuỷ tinh, gốm khá tiên tiến trên thế giới như: Italy, Tây Ban Nha (nhập khẩu dây truyền sản xuất, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, gạch nát nền…), Đức, Nga, Nhật bản (nhập khẩu hoá chất, máy móc thiết bị…), Trung Quốc, Đài Loan (nhập khẩu thạch cao, hoá chất…), Thái Lan, Inđônêsia (nhập khẩu kính)… Để xác định được các thị trường này, Công ty đã phải tiến hành nghiên cứu, đánh giá và tiến hành nhập khẩu có chọn lọc các mặt hàng thiết yếu với chất lượng cao nhất và giá cả hợp lý nhất.
Tình hình ở các thị trường nhập khẩu lớn.
3.3.1. Thị trường Châu Âu.
Các nước Châu âu như: Italy, Tây Ban Nha, Nga, Đức… là cái nôi của các hãng sản xuất gốm sứ nổi tiếng, sở hữu các công nghệ sản xuất thuỷ tinh và gốm xây dựng tiên tiến nhất trên thế giới. Thị trường này không chỉ là nơi cung cấp các máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho việc sản xuất gạch, kính, gốm sứ… mà nó còn là nơi cung cấp một sản lượng lớn các sản phẩm thuỷ tinh và gốm xây dựng cao cấp với chất lượng và mẫu mã tuyệt vời, có nhãn mác nổi tiếng và được đánh giá là thuộc “chiếu trên” trong làng thuỷ tinh và gốm xây dựng thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có quan hệ khá tốt đẹp với các nước này nên việc nhập khẩu hàng hoá của Công ty từ các quốc gia này diễn ra khá suôn sẻ. Do vậy, đây là một thị trường nhập khẩu ổn định của Công ty. Tuy nhiên, các mặt hàng có chất lượng tốt thì thường dẫn đến một hệ quả là giá cả của các mặt hàng đó thường cao hơn so với giá cả các sản phẩm ở các thị trường khác, thêm vào đó là do khoảng cách về mặt không gian địa lý làm cho chi phí vận chuyển hàng hoá trong quá trình nhập khẩu rất lớn, từ đó đẩy giá thành của các mặt hàng nhập khẩu lên cao, làm giảm bớt hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty. Đây chính là khó khăn mà Công ty gặp phải khi nhập khẩu ở các thị trường này.
3.3.2. Thị trường Trung Quốc và nhật Bản.
Trong thời gian qua Công ty đã tiến hành nhập khẩu từ hai thị trường Châu Á này nhiều hơn cả do vị trí địa lý đó là những nước gần Việt Nam, đã buôn bán lâu dài và có những sản phẩm giá thành rẻ, phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của thị trường.
Thị trường Nhật Bản.
Nhật Bản là thị trường cung cấp máy móc thiết bị trong lĩnh vực sản xuất thuỷ tinh và gốm xây dựng cũng vào loại tiên tiến trên thế giới, không thua kém các nước như: Italy, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ… Bao thế kỉ qua, người Nhật đã làm đồ gốm, đồ sứ ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Dù chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên nhưng gốm sứ Nhật Bản vẫn phát triển theo phong cách rất riêng, độc đáo và đầy tính sáng tạo. Gốm sứ xây dựng Nhật Bản phong phú các chủng loại, đa dạng về màu sắc và kiểu dáng, tinh tế ở độ nhẵn bóng trên bề mặt và giá cả thì phải chăng so với giá cả các sản phẩm gốm sứ xây dựng trên thế giới. Từ năm 1999, Việt Nam và Nhật Bản đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc nên các hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu về từ Nhật Bản sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi. Có thể nói, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu vô cùng thuận lợi của Công ty. Vậy nên trong những năm qua giá trị các mặt hàng mà Công ty nhập khẩu về từ Nhật Bản luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tất cả các thị trường mà Công ty nhập khẩu.
Thị trường Trung Quốc.
Những năm gần đây, “hàng Trung Quốc” đã trở thành một “khái niệm toàn cầu” khiến tất thảy các nền kinh tế từ nhỏ tới lớn đều lo lắng. Nhật Bản, Mỹ và một số nước Châu Âu đã phải ban hành một số biện pháp nhằm ngăn chặn làn sóng hàng Trung Quốc tràn ngập vào các thị trường này. Các mặt hàng thuỷ tinh và Gốm xây dựng cũng là một trong những thế mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc vốn là nước có bề dày và nổi tiếng về ngành thuỷ tinh và gốm sứ. 2-3 năm trở lại đây, ngành thuỷ tinh và gốm sứ Trung Quốc với công suất chiếm hơn phân nửa tổng công suất sản xuất toàn cầu đã có những bước điều chỉnh nhỏ, nhưng vừa đủ để cùng kết hợp với nhiều con đường đã thâm nhập trở lại thị trường Asean. Các sản phẩm thuộc ngành thuỷ tinh và gốm sứ Trung Quốc tuy chất lượng không vào loại cao cấp nhưng mức giá thấp, mẫu mã phong phú đa dạng, đẹp mắt, nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng vẫn tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt. Trong đó, Trung Quốc đặc biệt có ưu thế trong việc cung cấp các nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm thuỷ tinh và gốm xây dựng như: thạch cao, hoá chất, Sôđa…Dự đoán trong thời gian tới đây sẽ là thị trường cung cấp các mặt hàng thuộc ngành thuỷ tinh và gốm xây dựng rất lớn của thế giới.
3.3.3. Thị trường các nước Asean.
Đây là thị trường có quan hệ gần gũi, lâu năm với Việt Nam và có vị trí địa lý gần với Việt Nam do đó hàng hoá của Công ty nhập khẩu từ các thị trường này về có nhiều thuận lợi như: vận chuyển hàng hoá tương đối dễ dàng, chi phí thấp, ít rủi ro… Mặt khác, các nước Asean đã ký hiệp định về ưu đãi thuế quan chung Asean (CEPT) mà trong đó mặt hàng thuỷ tinh và gốm xây dựng là một trong 15 mặt hàng thuộc chương trình giảm thuế nhanh có hiệu lực vào năm 2000 nên hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này được hưởng mức thuế suất ưu đãi hơn rất nhiều so với các nước ngoài Asean. Đây là một thuận lợi rất lớn cho Công ty.
Trên đây là vài nét khái quát chung về thị trường nhập khẩu của Công ty. Đây cũng là một trong những cơ sở để Công ty tìm ra giải pháp đúng đắn cho công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu của mình.
3.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Qua những phần đã trình bày ở trên, em đã nói lên được những nhận định của mình về thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera cũng như nêu ra được phương hướng phát triển trong tương lai của Công ty. Đó là kết quả của thời gian em thực tập, cố gắng nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động của Công ty nói chung cũng như công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty nói riêng. Giả định những nhận định của em là đúng, trên cơ sở những nhận định đó cũng như tham khảo sách báo và các công ty kinh doanh ngành hàng tương tự như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera như sau:
3.4.1. Giải pháp từ phía Công ty.
3.4.1.1. Tổ chức thực hiện chuyên sâu và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận có quan hệ nghiệp vụ trong Công ty.
Tổ chức phân công chuyên sâu công tác tổ chức nhập khẩu theo từng lĩnh vực, ngành hàng cho cán bộ thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Nhờ đó mà các cán bộ xuất nhập khẩu có thể chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá nghiệp vụ của mình, từ đó tạo ra chiều sâu trong quá trình làm việc, mang lại chất lượng và hiệu quả trong công việc. Điều này làm cho thời gian, công sức, chi phí cho hoạt động nhập khẩu sẽ giảm xuống. Nói chung, sự phối hợp nhịp nhàng, ăn ý giữa các bộ phận phòng ban sẽ tạo hiệu quả cao trong công việc, giúp tiết kiệm nhân lực cho Công ty. Từ đó, Công ty có thể bố trí nhân lực cho các khâu trong quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu một cách thích đáng, nhờ đó có thể khắc phục được những tồn tại do thiếu nhân lực, đặc biệt là tồn tại trong khâu kiểm tra giám sát hàng hoá.
Bên cạnh đó, cần phối hợp chặt chẽ các phòng kế toán của các Công ty thành viên và cán bộ nhập khẩu trực tiếp để chủ động đề ra các biện pháp giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu uỷ thác như thanh toán đúng hạn theo đúng hợp đồng quy định, giải quyết nhanh chóng chi phí lưu thông kiểm hoá… để đảm bảo uy tín với phía nhà cung cấp nhằm nâng cao mối quan hệ làm ăn tốt đẹp.
Sang năm tới, để thực hiện được các điều khoản trên, Công ty nên chỉ đạo các đơn vị kinh doanh và kế toán phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các hợp đồng nhập khẩu cung cấp linh kiện phụ kiện, nguyên liệu… cho các đơn vị sản xuất trực thuộc Tổng Công ty như: mở L/C, thu hồi công nợ, giao hàng đúng tiến độ đảm bảo tính an toàn, hiệu quả, chi phí thấp nhất. Củng cố việc lưu trữ và luân chuyển chứng từ khoa học, tuân thủ chặt chẽ các quy định của ISO trong công tác nhập khẩu với phương châm làm đúng ngay từ đầu. Điều này cũng góp phần khắc phục sự chậm trễ trong khâu xin giấy phép nhập khẩu. Bởi vì khi việc lưu trữ và luân chuyển chứng từ trong toàn Công ty được tiến hành một cách khoa học sẽ giúp cho việc tập hợp những giấy tờ cần thiết để lập hồ sơ xin giấy phép nhập khẩu diễn ra một cách thuận lợi, nhanh chóng. Từ đó sẽ rút ngắn thời gian thực hiện khâu này một cách tối ưu.
3.4.1.2. Thiết lập và duy trì các mối quan hệ.
Duy trì mở rộng quan hệ với nhà cung cấp và các cơ quan chức năng có liên quan là một trong những nhiệm vụ mà Công ty phải làm thật tốt trong thời gian tới.
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu thì mối quan hệ với nhà cung cấp rất phức tạp do khoảng cách xa xôi về mặt địa lý, văn hoá, phong tục tập quán, cách ứng xử ở nước của nhà cung cấp. Vì vậy, nên tránh tình trạng có những hành vi ứng xử làm cho đối tác hiểu lầm gây bất hoà. Ngoài ra, Công ty cần phải tích cực củng cố mối quan hệ với các nhà cung cấp lâu năm, đồng thời Công ty cũng như Tổng công ty cần phải tích cực tìm kiếm thêm nhà cung cấp mới bằng cách tham gia các cuộc hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, thực hiện các chuyến đi thăm viếng các nước… Vấn đề nhà cung cấp rất quan trọng vì nó quyết định đến chất lượng của công tác thực hiên hợp đồng nhập khẩu và uy tín của Công ty cũng như Tổng công ty.
Hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu phụ thuộc vào hiệu quả của từng khâu, từng giai đoạn trong toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng. Trong một số khâu như làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm, thuê phương tiện vận tải… thì kết quả đạt được không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của bản thân Công ty mà còn phụ thuộc vào việc các cơ quan chức năng có tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm các thủ tục để nhập khẩu hàng hoá của Công ty hay không. Do đó, Công ty cần phải cố gắng để thiết lập mối quạn hệ tốt đẹp, lâu dài với các cơ quan chủ quản như Bộ thương mại, Tổng cụ hải quan, Bộ xây dựng… bằng cách nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy chính sách của nhà nước nhằm tạo ra hình ảnh tốt và uy tín của Công ty với các cơ quan chức năng này. Từ đó việc thực hiện các thủ tục, giấy tờ trong quá trình thực hiện hợp đồng sẽ diễn ra nhanh chóng hơn.
Tóm lại, các mối quan hệ luôn là vấn đề nhạy cảm và hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu của Công ty nói riêng. Công ty cần phát triển quan hệ với các ngân hàng Thương mại, Ngoại thương nhằm tăng cường hỗ trợ vay vốn cho các dự án nhập khẩu hàng hoá, thiết bị có giá trị lớn. Cần kể đến là Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh Cầu Giấy, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Từ Liêm… để có thể hưởng những mức ưu đãi mà ngân hàng cũng như những đối tác tham gia dành cho Công ty. Đây là lời giải đáp cho bài toán lớn, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện cho việc thanh toán và các nghiệp vụ liên quan đến ngân hàng - tài chính. Bên cạnh đó cũng tạo điều kiện thuận lợi trong các khâu khác trong quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu như: khâu khai báo hải quan, kiểm nghiệm hàng hoá… cũng như một số tồn tại ở các khâu trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu như đã nêu ở chương 2.
3.4.1.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng rất phức tạp, chịu sự tác động của nhiều nhân tố như tập quán, thông lệ quốc tế, các điều khoản giao dịch… mà các nhân tố này lại thường xuyên thay đổi. Đội ngũ cán bộ kinh doanh trực tiếp làm nhiện vụ nhập khẩu của Công ty tuy còn rất trẻ, năng động nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm, đòi hỏi cần tạo điều kiện cho họ có cơ hội cọ sát thực tế, tích luỹ kinh nghiệm, phát huy hết khả năng và chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc biệt, các cán bộ ngoại thương cần chú trọng các nội dung kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương ở từng bước, từng khâu, từng hoạt động từ nhỏ đến lớn, từ đầu đến cuối một cách bài bản, chi tiết, chuyên nghiệp và đúng với quy định của những văn bản pháp luật của nhà nước. Điều này đòi hỏi các cán bộ ngoại thương cần cập nhật đầy đủ các văn bản, nghị định, thông tư… một cách chính xác và kịp thời.
Bên cạnh đó thì công tác quản lý của Công ty cũng rất quan trọng. Cán bộ quản lý và nhất là cán bộ trực tiếp quản lý hoạt động ngoại thương của Công ty phải là người có kiến thức sâu rộng và toàn diện, quyết đoán, sáng tạo và năng động. Đối với Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera thì những cán bộ quản lý hiện nay là những người thực sự có năng lực. Tuy nhiên, do đòi hỏi của công việc thực tế, Công ty phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ hơn nữa, mặt khác, có kế hoạch đào tạo những đội ngũ kế cận đủ khả năng đảm trách trong tương lai.
Để tạo điều kiện cho cán bộ phát huy hết năng lực vốn có của mình giúp cho Công ty ngày càng phát triển vững mạnh, ban lãnh đạo Công ty cần có nhiều hình thức động viên tinh thần làm việc. Đây là một công việc rất khó khăn nhưng cũng rất quan trọng, đòi hỏi nhà quản lý phải có nghệ thuật quản trị nhân lực. Việc khuyến khích có thể bằng vật chất hoặc tinh thần:
Khuyến khích bằng vật chất: có thể là bằng thu nhập hoặc tiền thưởng. Thu nhập có nghĩa là một mức lương cho đúng người, đúng việc, bảo đảm cuộc sống của cán bộ công nhân viên. Ngoài ra, ban lãnh đạo có thể khuyến khích bằng tiền thưởng do hoàn thành tốt công việc hay trong những dịp lễ tết.
Khuyến khích tinh thần: có thể là tổ chức cho cán bộ công nhân viên những chuyến đi dã ngoại nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết trong Công ty mà cũng thể hiện sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với họ. Hoặc có thể tuyên dương những cán bộ thực hiện công tác tốt hay có những sáng kiến hay trong công việc. Hoặc khuyến khích bằng cách thăng chức cho những cán bộ có năng lực và có khả năng đảm trách.
Một khi Công ty đã tạo ra được cho mình một đội ngũ cán bộ bao gồm các nhà quản lý tài giỏi cùng với các nhân viên ngoại thương dày dặn kinh nghiệm trong việc thực hiện các nghiệp vụ XNK, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc thì việc khắc phục một số tồn tại ở các khâu trong quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty như khâu: mở L/C, thuê tàu lưu cước, thanh toán… cũng sẽ nhanh chóng được giải quyết.
3.4.1.4. Sử dung một cách có hiệu quả mọi nguồn vốn.
Trong thời điểm hiện nay, nền kinh tế Việt Nam còn rất yếu, tình hình vốn luôn là mối quan tâm đặc biệt của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh tế. Mặt khác, việc nhập khẩu hàng hoá đều tính theo giá quốc tế và sử dụng đồng ngoại tệ để thanh toán. Do đó việc thu hút và tận dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn vốn là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera nói riêng. Điều này giúp củng cố tình hình tài chính của Công ty, khắc phục được những bất cập do khó khăn về vốn gây ra, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Trong hoạt động nhập khẩu, Công ty cần phải tính đến lợi ích và hiệu quả kinh tế để xem xét việc ký kết hợp đồng. Muốn vậy, Công ty cần phải tính toán xem nếu một đồng vốn bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hay nói cách khác, Công ty cần tính đến hiệu suất lợi nhuận của chi phí (lợi nhuận nhập khẩu/chi phí nhập khẩu). Đây là yêu cầu cấp bách trong điều kiện hiện nay vì giá trị đồng tiền thay đổi hàng ngày, giá cả hàng hoá cũng biến động thất thường.
Để có một tình hình tài chính ổn định hơn, các công việc đầu tiên mà Công ty cần làm đó là:
Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tài chính – tín dụng của nhà nước.
Tính toán các khả năng lỗ lãi, thời gian thu hồi vốn cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa.
Hoàn thành tốt các nhiệm vụ tổng hợp, báo cáo kết quả kinh doanh, lập báo cáo kế hoạch, thường xuyên phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và đáng giá hiệu quả sử dụng vốn.
Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn, tránh tình trạng ứ đọng vốn, công nợ.
Ngoài ra, Công ty cũng nên tập trung rà soát lại công nợ đối với các đơn vị trong Tổng công ty để đề xuất phương án hợp lý trong việc bán hàng thu hồi công nợ, phấn đấu bán hàng thu hồi khoảng 40% công nợ của các đơn vị thành viên. Từ đó có thể bổ sung nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, trong đó có hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Khi đã có một nguồn vốn đảm bảo thì công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu chắc chắn sẽ diễn ra suôn sẻ hơn.
3.4.4.5. Một số giải pháp khác.
Thực hiện các biện pháp đi sâu nghiên cứu thị trường.
Giải pháp này xuất phát từ thực tế là Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera chưa có phòng ban nghiên cứu thi trường độc lập nên đôi khi công tác này bị coi nhẹ. Cán bộ phụ trách nhập khẩu của Công ty cần thường xuyên đến các đơn vị trong và ngoài Tổng công ty để tìm hiểu nhu cầu của các đơn vị đó rồi có kế hoạch chủ động chào hàng và thực hiện Công tác nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị có nhu cầu đó. Đồng thời, Công ty cũng cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng bên cạnh những nguồn hàng đã có. Từ đó Công ty có thêm nhiều lựa chọn khi quyết định nhập khẩu, nơi nào có hàng hoá rẻ, chất lượng tốt, phù hợp và thuận tiện cho công tác nhập khẩu thì Công ty chọn lựa. Điều này giải quyết cho bài toán khó khăn của Công ty khi Công ty chưa có phòng nghiên cứu thị trường riêng, các cán bộ XNK cần tăng cường nghiệp vụ để khắc phục sự thiếu hụt này. Cần nhấn mạnh đây là một khâu quan trọng trong quá trình XNK của Công ty. Trong thời gian tới Công ty nên lập một phòng chuyên nghiên cứu thị trường để có thể nắm bắt được nhu cầu cũng như hiểu biết về thị trường, bạn hàng… sao cho có những đáp ứng tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất.
Nắm bắt thông tin và cơ hội.
Công ty cần thu thập nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Tiến hành chọn và lọc thông tin. Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin, của truyền thông Internet và thông tin trong thế giới ấy chính là của cải, là tiền, là điều tiên quyết đối với sự phát triển và thậm chí là cả vận mệnh của Công ty. Đây cũng chính là xu hướng phát triển chung của thế giới, khi thương mại điện tử đang diễn ra ngày càng sôi động và hiệu quả. Thông tin chính là tiền bạc vì vậy cần nhanh nhạy nắm bắt, không để lọt cơ hội vì cơ hội không có lần thứ hai.
Giải pháp sử dụng thương mại điện tử cũng như dùng các công cụ của Internet nhằm mục tiêu tìm kiếm, liên lạc, đàm phán, thoả thuận giữa các bên mua và bên bán ở cách xa về mặt địa lý là rất hiệu quả và tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh cũng như trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Lựa chọn công nghệ.
Đối với việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, vật tư thiết bị khi tiến hành đầu tư bất cứ dây chuyền công nghệ sản xuất nào Công ty cũng nên tổ chức đấu thầu công khai và mời các Công ty có thực lực, có danh tiếng và kinh nghiệm cả trong và ngoài nước tham gia bỏ thầu. Từ đó có thể đánh giá, so sánh, lựa chọn việc nhập khẩu công nghệ nào là phù hợp nhất với trình độ sản xuất trong nước mà giá cả lại hợp lý.
Đối với nhập khẩu linh kiện, phụ kiện và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, Công ty nên tham khảo ý kiến của các Vụ thương mại, các Công ty tư vấn chuyên ngành. Đồng thời, tìm hiều kỹ các đối tác cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài để từ đó có thể đánh giá chung về mặt bằng chất lượng, mẫu mã của các sản phẩm cạnh tranh để có thể có những thay đổi phù hợp và kịp thời. Ngoài ra, khi nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất Công ty nên nhập khẩu các nguyên liệu từ Đài Loan , Trung Quốc như thạch cao, hoá chất, sôđa… Do khoảng cách gần nên việc chuyên chở này thường thuận lợi hơn, vì vậy có thể làm giảm được giá thành nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Công ty nên nhập giá C&F hoặc trong trường hợp chủ động được về vận tải thì nên nhập khẩu với giá FOB.
Tóm lại, Công ty cần phối hợp thực hiện các biện pháp chính sách một cách đồng bộ và hiệu quả sao cho mang lại hiệu quả lớn nhất trong hoạt động nhập khẩu của Công ty. Những hoạt động này không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân Công ty mà phải cần được tiến hành đồng bộ trong toàn thể các đơn vị trực thuộc Tổng công ty Viglacera.
3.4.2. Kiến nghị với nhà nước.
Bất cứ một doanh nghiệp nào đều phải hoạt động trong một môi trường kinh doanh phức tạp, đa dạng và phong phú. Đó là: môi trường chính trị, luật pháp, văn hoá, xã hội, marketing… Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera cũng là một thực thể trong nền kinh tế, cũng không nằm ngoài quy luật vận động và các tác động, chi phối mạnh mẽ của các yếu tố môi trường kinh doanh trên. Các yếu tố này có tác động trực tiếp: thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Công ty nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Đây là những nhân tố khách quan mà các doanh nghiệp không thể tự điều chỉnh được, đòi hỏi phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, để hoạt động tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera được hoàn thiện hơn em xin đưa ra một vài kiến nghị với các cơ quan nhà nước như sau:
3.4.2.1. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu theo hướng đơn giản, thông thoáng, phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Hiện nay, nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giảm bớt các thủ tục rườm rà trong quá trình nhập khẩu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu. Để tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu, trong các năm tiếp theo nhà nước nên tiến hành các công việc sau:
Đơn giản hoá các thủ tục nhập khẩu, bỏ bớt các thủ tục rườm rà gây cản trở quá trình nhập khẩu, để tiết kiệm thời gian, tiền của và công sức cho các doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện chính sách một cửa, một dấu một cách triệt để và có hiệu quả. Tránh hiện tượng chồng chéo về quản lý do không phân cấp rõ ràng giữa các cấp. Bổ sung những người trẻ, có năng lực, hiểu biết và có chuyên môn cho công việc nhập khẩu.
Về thuế nhập khẩu: Nhà nước cần quy định rõ ràng về thuế suất nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng và kèm theo đó là bản mô tả về mặt hàng chịu thuế. Ngoài ra, nhà nước nên điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu sao cho hợp lý hơn. Cụ thể: giảm hoặc miễn thuế đối với các mặt hàng phục vụ công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước như nguyên vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, các phụ kiện, vật tư, hoá chất phục vụ sản xuất các mặt hàng thuỷ tinh, gốm sứ xây dựng mà Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đang nhập khẩu.
Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn các hoạt động buôn lậu, các hoạt động gian lận thương mại, cụ thể là tăng cường việc dán tem nhập khẩu các mặt hàng sứ vệ sinh, gạch ốp lát nhằm đảm bảo công bằng cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty, từ đó đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu của Công ty phát triển.
3.4.2.2. Ban hành các văn bản luật chặt chẽ hơn.
Thực tế hiện nay hệ thống pháp luật của Việt Nam còn chưa chặt chẽ và có khe hở để các tổ chức cũng như các cá nhân có thể lợi dụng. Cụ thể: trong luật hải quan có quy định ở Điều 30 về hình thức kiểm hoá hàng nhập khẩu: cán bộ hải quan kiểm tra xác xuất thực tế hàng hoá không quá 10% đối với những lô hàng bình thường nhưng có thể kiểm tra toàn bộ lô hàng nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Trên thực tế khi làm thủ tục nhận hàng, cán bộ hải quan ra lệnh phải mở tất cả các lô hàng, dù không phát hiện được bất cứ dấu hiệu vi phạm nào, gây lãng phí thời gian, tiền của, công sức của các cán bộ nhập khẩu và nhân viên hải quan. Cho nên, một đề xuất đối với Nhà nước ở đây là ban hành các văn bản luật sao cho chặt chẽ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình XNK hàng hoá.
3.4.2.3. Hoàn thiện các thủ tục hải quan
Cơ quan hải quan cần tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp XNK về thủ tục, giấy tờ… Hơn nữa, cơ quan hải quan cần có những cán bộ có năng lực, am hiểu chuyên môn về các lĩnh vực liên quan đến ngành nghề của các công ty để giảm bớt thủ tục gây mất thời gian cho doanh nghiệp. Ngoài ra, cần nâng cao hơn nữa kiến thức về TMQT cho cán bộ làm công tác nhận tờ khai hải quan. Cơ quan hải quan cũng nên ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình làm việc, đẩy nhanh quá trình thử nghiệm làm thủ tục hải quan trực tuyến để tránh gây mất thời gian, công sức và các tiêu cực trong quá trình doanh nghiệp làm các nghiệp vụ liên quan đến hải quan. Một điểm nữa là Nhà nước cần làm trong sạch hoá đội ngũ cán bộ hải quan để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp XNK và tránh phiền hà cho các doanh nghiệp này.
3.4.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc hiện đại.
Trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, để không bị tụt hậu với thế giới, chúng ta buộc phải có một cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc hiện đại. Nhất là quá trình hội nhập, yêu cầu về cơ sở hạ tầng lại ngày càng cấp thiết.
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo điều kiện và cơ hội phát triển cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nhờ có mạng lưới thông tin hiện đại, chúng ta sẽ có những thông tin cập nhật nhất, nóng nhất với chi phí thấp nhất, từ đó có chiến lược kinh doanh nhập khẩu đúng đắn hơn, hợp lý hơn. Công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các doanh nghiệp cũng nhờ đó mà được thực hiện tốt hơn.
Xu hướng phát triển hiện nay là TMQT, đó là thương mại điện tử. Để có thể tồn tại, các doanh nghiệp của Việt Nam không thể không hoà mình vào xu thế chung của thời đại. Cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc sẽ là nền tảng vững chắc, là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Thông qua thương mại điện tử, thay bằng việc buôn bán thông thường, các doanh nghiệp có thể tìm thấy thông tin nguồn hàng, khách hàng…thông qua mạng Internet, các trang Web và chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, các hình thức buôn bán B2C và B2B. Chính vì vậy các doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một Website có thể nói là một kênh thông tin, quảng bá, tuyên truyền và buôn bán trên mạng Internet.
3.4.2.5. Một số giải pháp, chính sách khác.
Duy trì các chính sách thúc đẩy phát triển TMQT: Nhà nước cần kiên trì thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, gắn nền kinh tế quốc gia tham gia vào nền kinh tế thế giới để có thể học hỏi và tiếp thu những khoa học, phát minh tiên tiến của con người.
Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại: điều này nhằm cung cấp thông tin về kinh doanh quốc tế nói chung và doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nói riêng. Nên tận dụng sức mạnh kết nối của Internet, đây thực sự là một công cụ hữu hiệu, đắc lực với chi phí thấp và hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp và các ban ngành liên quan cũng nên lưu ý và sử dụng công cụ này. Tổ chức các chương trình đào tạo, mở lớp bồi dưỡng và nâng cao kiến thức chuyên ngành TMQT cho cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm tắt chương 3
Qua việc tổng kết sức mạnh nội tại và cơ hội, thách thức của Công ty ở phần đầu chương, chúng ta nhận thấy: bên cạnh sức mạnh nội tại (điểm mạnh, điểm yếu) của chính bản thân Công ty thì thời cuộc cũng đang tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức đối với công tác tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty. Vì vậy, trong chương này em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để có thể kết hợp và phát huy hài hoà những điểm mạnh và cơ hội, hạn chế và khắc phục những điểm yếu và thách thức nhằm hoàn thiện hơn quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty. Những giải pháp và kiến nghị này được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera và điều kiện kinh tế của Việt Nam cũng như xu hướng phát triển chung của thế giới. Và chắc chắn rằng không những chỉ doanh nghiệp mới cần có kế hoạch mà ngay cả cơ quan nhà nước cũng cần phải có chính sách đúng đắn, tạo điều kiện chắp cánh cho doanh nghiệp khởi sắc cùng bạn bè thế giới.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, hoà mình vào trào lưu chung của xã hội, với bước khởi đầu là gia nhập tổ chức ASEAN, AFTA, APEC… và tiếp đến là tổ chức thương mại thế giới WTO (tháng 11/2006). Để có được những thành công trên, Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn trong việc cải thiện vị trí và hình ảnh của mình trên diễn đàn kinh tế khu vực cũng như trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chính là bộ mặt để các nước bạn đánh giá sự phát triển của Việt Nam trên con đường cải cách và đổi mới. Vì vậy, vai trò của các doanh nghiệp kinh doanh XNK nói chung là vô cùng quan trọng.
Qua hơn 30 năm xây dựng, hoạt động và trưởng thành, Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng Viglacera cũng như trung tâm xuất nhập khẩu - Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera - đã trải qua nhiều khó khăn thử thách, nhưng họ vẫn đứng vững và ngày càng phát triển. Hoạt động của Công ty luôn đem lại lợi nhuận cao, do vậy đã góp phần không nhỏ đóng góp cho ngân sách nhà nước, mang lại việc làm và thu nhập cho người lao động.
Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera tuy đã khá hoàn thiện song không tránh khỏi những điểm còn hạn chế. Qua thời gian thực tập, trên cơ sở xem xét thực trạng của Công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhỏ. Hy vọng rằng Công ty có thể sử dụng những biện pháp đó để có thể nâng cao hiệu quả cho quá trình nhập khẩu của mình.
Tuy nhiên, do thời gian và khả năng bản thân còn hạn chế, nên bài viết này không thể tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được sự nhận xét và góp ý của quý thầy cô và các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Thanh Thu (2005), Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Hà Thị Ngọc Oanh (2002), Giáo trình Kỹ thuật kinh doanh thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3. Vũ Hữu Tửu (2000), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Dương Hữu Hạnh (2005), Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Trần Chí Thành (2000), Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
6. Trần văn Chu (1999), Ngiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Tình (2006), Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT), Luận văn tốt nghiệp, Trường đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
8. Báo cáo:
Báo cáo tổng kết năm (2003-2006) của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Báo cáo kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu (2003-2006) của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2007 của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
11. www.viglacera.com.vn.
12. www.mpi.gov.vn
13. www.vnexpress.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.docx