Trong hơn 20 năm của quá trình đổi mới, Việt Nam đã có nhiều chuyển
biến tích cực, tốc độ tăng trưởng GDP cao. Sau khi gia nhập WTO, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế đã không ngừng được nâng lên, được bầu làm
Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Những hiệu ứng tích cực của việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam đạt
được những kết quả đầy khích lệ, thể hiện Việt Nam đang hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vị thế đó đã mở ra cho kinh tế nói chung và
thị trường trái phiếu Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức.
Về cơ hội: Việt Nam có một nền chính trị ổn định, nền kinh tế đang
trong giai đoạn phát triển khởi sắc. Nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển là rất
lớn và đang cần phát huy tối đa nội lực. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước, đến
năm 2010 nước ta hoàn toàn thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt
được các mục tiêu đã đề ra đòi hỏi phải huy động từ nhiều nguồn lực, trong
đó nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng. Chính phủ, các địa phương, các
doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đ ối với sự
phát triển của nền kinh tế, phát triển kênh dẫn vốn nhanh cho nền kinh tế đó là
thị trường chứng khoán nó i chung và TTTP nói riêng. Hướng đến tầm nhìn
năm 2020, TTTP triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động đáp ứng nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển, đồng thời góp phần phát triển thị trường vốn Việt
Nam sánh vai với các nước trong khu vực và quốc tế.
108 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2575 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược những kết quả đầy khích lệ, thể hiện Việt Nam đang hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Vị thế đó đã mở ra cho kinh tế nói chung và
thị trường trái phiếu Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức.
Về cơ hội: Việt Nam có một nền chính trị ổn định, nền kinh tế đang
trong giai đoạn phát triển khởi sắc. Nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển là rất
lớn và đang cần phát huy tối đa nội lực. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước, đến
năm 2010 nước ta hoàn toàn thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt
được các mục tiêu đã đề ra đòi hỏi phải huy động từ nhiều nguồn lực, trong
đó nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng. Chính phủ, các địa phương, các
doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đối với sự
phát triển của nền kinh tế, phát triển kênh dẫn vốn nhanh cho nền kinh tế đó là
thị trường chứng khoán nói chung và TTTP nói riêng. Hướng đến tầm nhìn
năm 2020, TTTP triển cả về quy mô và chất lượng hoạt động đáp ứng nhu cầu
vốn cho đầu tư phát triển, đồng thời góp phần phát triển thị trường vốn Việt
Nam sánh vai với các nước trong khu vực và quốc tế.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 74
Bên cạnh đó, Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển thị trường
TPDN, bởi lẽ trong xu thế hội nhập Chính phủ không thể là “bà đỡ” cho các
doanh nghiệp mãi, bản thân các doanh nghiệp phải tự chủ trong việc tìm các
nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Bộ Tài chính
cũng đã đưa ra một số định hướng phát triển cho TPDN như: khuyến khích
doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp trên thị trường, hạn chế sự phụ thuộc
quá mức vào việc cấp vốn qua kênh tín dụng; tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý. Ngoài ra, việc hình thành và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ
cho thị trường trái phiếu như tổ ĐMTN, định giá trái phiếu; đẩy mạnh hợp tác
khu vực và quốc tế… cũng đã được tính đến. Đó chính là tiền đề thuận lợi cho
việc phát triển thị trường TPDN ở Việt Nam. Mặt khác, số lượng tài khoản
đăng ký tham gia giao dịch chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là rất nhỏ so
với số dân cả nước, trong khi đó con số này ở các nước khác trên thế giới cao
hơn nhiều lần; hiện nay nhận thức và hiểu biết về thị trường chứng khoán nói
chung và TTTP nói riêng của đông đảo người dân Việt Nam ngày càng tăng
cao. Vì vậy số lượng người tham gia thị trường chứng khoán trong thời gian
tới chắc chắn sẽ tăng, đây là một thuận lợi trong việc thu hút tiền nhàn rỗi của
người dân để phát triển thị trường trái phiếu.
Về thách thức: Thị trường TPDN chỉ phát triển khi thị trường TPCP phát
triển đến một mức độ nhất định, nhưng ở Việt Nam thị trường này cũng còn
hạn chế. Chúng ta cũng còn thiếu một đội ngũ trí thức, hiểu biết về thị trường
này và hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện. Theo ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Chủ
tịch Diễn đàn thị trường trái phiếu Việt Nam nhận định về sự phát triển của
thị trường trái phiếu Việt Nam trong năm tới: “Trước mắt trong năm 2009 thì
thị trường trái phiếu Việt Nam sẽ có nhiều thách thức. Nếu không có các giải
pháp kịp thời thì tính thanh khoản trên thị trường trái phiếu thứ cấp trong năm
2009 cũng có nguy cơ bị giảm sút bởi những nguyên nhân sau: Thứ nhất, nhu
cầu đầu tư trái phiếu có xu hướng giảm xuống khi đối tượng các nhà đầu tư
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 75
nước ngoài có xu hướng co lại. Xu hướng rút vốn đầu tư khỏi các thị trường,
tài sản có độ rủi ro cao chuyển sang thị trường và tài sản có độ rủi ro thấp
cùng với việc giảm mạnh tỷ lệ đòn bẩy trong hoạt động đầu tư và chuyển sang
giữ tiền mặt đã sẽ còn tiếp tục tác động mạnh tới khả năng tham gia của các
nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trái phiếu cũng như cổ phiếu Việt Nam,
ít nhất là trong nửa đầu năm 2009. Thứ hai, mặc dù ở nước ngoài khi kinh tế
bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn thì các nhà đầu tư thường có xu hướng tăng cường
đầu tư vào TPCP nhưng ở Việt Nam xu hướng này chưa có điều kiện hình
thành rõ, do đối tượng nhà đầu tư trái phiếu trong nước chưa đa dạng, chủ yếu
mới chỉ là các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm”.
Việc đẩy mạnh mua khối lượng lớn TPCP từ các nhà đầu tư nước ngoài
của các ngân hàng trong nước thời gian qua sẽ có thể dẫn đến khả năng tham
gia đầu tư vào trái phiếu của đối tượng này sẽ bị hạn chế trong năm 2009 vì lý
do thanh khoản và giới hạn đầu tư trên tổng tài sản. Ngoài ra, việc phát hành
và giao dịch TPDN cũng sẽ gặp nhiều khó khăn nếu thị trường TPCP không
phát triển và thu hút được nhà đầu tư vì trái phiếu chính phủ luôn được coi là
chuẩn cho trái phiếu doanh nghiệp. Một khi hệ thống thông tin và điều lệ phát
hành TPDN hoàn chỉnh, các doanh nghiệp sẽ có khả năng phát hành trái phiếu
như Chính phủ. Trong tương lai thị trường trái phiếu Việt Nam sẽ phát triển
tích cực, đặc biệt là khi thị trường đạt được những mức lãi suất hấp dẫn.
3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
của Chính phủ
Quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam của Chính phủ trong
thời gian tới là:
- Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam là một bộ phận trong sự phát
triển thống nhất của thị trường tài chính, trên cơ sở phối hợp đồng bộ với các
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 76
thị trường bộ phận khác nhằm đảm bảo hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực
tế và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Xây dựng, hoàn thiện và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ giữa thị trường
trái phiếu sơ cấp và thứ cấp, phát triển thị trường trái phiếu cả về quy mô và
chất lượng nhằm thúc đẩy thị trường phát triển một cách bền vững.
- Đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức TPCP, TPCQĐP, TPDN. Thị
trường trái phiếu phải đáp ứng vai trò là kênh huy động, chu chuyển vốn trung
hạn và dài hạn cho nền kinh tế.
- Học hỏi kinh nghiệm phát triển TTTP ở các quốc gia có thị trường tài
chính vững mạnh. Nâng cao và củng cố vị thế của TTTP Việt Nam trên
trường quốc tế trên cơ sở bảo đảm tính ổn định tài chính quốc gia.
- Tạo dựng nền tảng pháp lý thống nhất và chặt chẽ để thị trường trái
phiếu vận động và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư, cũng như có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia.
Định hướng phát triển
Định hướng phát triển thị trường trái phiếu của Chính phủ như sau:
- Ưu tiên phát triển thị trường trái phiếu nội tệ, phát triển thị trường TPCP,
nâng cao tính thanh khoản, mở rộng quy mô thị trường, xây dựng đường cong
lãi suất chuẩn làm nền tảng lãi suất cho TPDN cũng như các công cụ nợ khác.
Chỉ khi nào thị trường TPCP phát triển khi đó mới có thể khuyến khích sự
tham gia của các nhà đầu tư đối với thị trường TPDN, tạo động lực cho thị
trường TPDN phát triển.
- Chú trọng phát triển thị trường TPDN nhằm tạo thêm kênh huy động vốn
cho doanh nghiệp và tạo thêm sản phẩm cho TTCK, mặt khác làm giảm nhẹ
sự tập trung vay vốn ngân hàng góp phần tạo ra cấu trúc thị trường bền vững
thông qua việc:
Thứ nhất: Chính phủ đẩy nhanh thực hiện việc chuyển đổi DNNN theo
hướng đa sở hữu, với mục tiêu đại bộ phận các DNNN thực hiện cổ phần hóa.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 77
Thứ hai: Bên cạnh các quy định về phát hành TPDN đã thông thoáng hơn
cần có biện pháp kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lập phương án phát
hành, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhu cầu vốn rất cao nhưng vẫn
còn lúng túng trong việc xây dựng phương án phát hành trái phiếu cũng như
việc minh bạch các báo cáo tài chính.
Thứ ba: Mở rộng quy mô thị trường TPDN về số lượng và chất lượng, từng
bước hướng các doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu ra công chúng.
Thứ tư : Nâng cao kiến thức và nhận thức cho các nhà quản lý tài chính tại
các doanh nghiệp và cho nhà đầu tư về TPDN.
- Phát triển hệ thống định mức tín nhiệm trong nước. Tăng cường tính
minh bạch thông tin, bắt buộc các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải
định mức tín nhiệm.
- Thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như NHTM,
công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam,
quỹ đầu tư, công ty quản lý tài sản, công ty tài chính… Hình thành một hệ
thống các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp, tạo lập thị trường cho trái
phiếu trên thị trường thứ cấp.
3.2. Bài học kinh nghiệm từ phát triển thị trường trái phiếu
một số nước trên thế giới
Trên thế giới hiện nay, từ các nước phát triển đến các nước đang phát
triển, thị trường trái phiếu luôn là một phương tiện huy động vốn hữu hiệu
phục vụ công cuộc phát triển kinh tế. Trong quá trình xây dựng và phát triển
TTTP Việt Nam, bên cạnh việc phân tích tình hình thực tế trong nước để tìm
ra các giải pháp phù hợp, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước
trên thế giới trong lĩnh vực phát triển TTTP cũng rất quan trọng và cần thiết
trong việc phát triển thị trường này ở nước ta.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 78
3.2.1. Thị trường trái phiếu Mỹ
Trước những năm 1970, TTTP Mỹ bị coi là kém nhộn nhịp so với thị
trường cổ phiếu đầy sôi động. Tuy nhiên, sau khi cuộc khủng hoảng nợ diễn
ra vào đầu những năm 1970 thì bộ mặt thị trường tài chính Mỹ đã biến đổi
hoàn toàn. Lúc này, TTTP Mỹ đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi hơn từ
phía các nhà đầu tư có tổ chức, đồng thời các tổ chức tài chính thuộc các cơ
quan Chính phủ cũng bắt đầu được thành lập và nhanh chóng tạo ra lượng vốn
lớn cho trên thị trường trái phiếu. Hiện nay, TTTP Mỹ được coi là thị trường
lớn nhất thế giới, sẵn sàng phục vụ người đi vay và người cho vay của bất kỳ
nước kinh tế phát triển nào. Điều này phản ánh đúng vị thế và mức độ của
một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Sự phát triển đa dạng của hệ thống thị
trường chứng khoán đã góp phần quan trọng cho hoạt động huy động vốn
bằng phát hành trái phiếu. Hầu hết việc mua bán trái phiếu Mỹ được thực hiện
trên thị trường phi tập trung (OTC). TTTP Mỹ vô cùng rộng lớn, sôi động và
đa dạng. Trong đó, TTTP Mỹ do Bộ tài chính Mỹ phát hành và được đảm bảo
bởi sự cam kết và tín nhiệm của Chính phủ Mỹ. Tổng giá trị trái phiếu phát
hành được quy định bởi Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định mức nợ tối
đa của quốc gia. TPCP Mỹ có độ rủi ro rất thấp, rủi ro được đánh giá gần
bằng 0. Do vậy, lãi suất TPCP Mỹ được coi là lãi suất chuẩn không chỉ trong
nền kinh tế Mỹ mà còn trên thị trường vốn toàn cầu. TPCP Mỹ thường được
phát hành theo phương thức đấu thầu, trong đó Cục dự trữ liên bang đóng vai
trò là cơ quan đại lý của Kho bạc trong việc tổ chức các đợt đấu thầu. Cục dự
trữ liên bang đặt ra các tiêu chuẩn và các điều kiện cần thiết để điều tiết thị
trường. Thị trường thứ cấp trái phiếu Chính phủ Mỹ được thực hiện chủ yếu
qua các nhà mô giới. Họ đã thể hiện vai trò rất lớn mang lại thành công cho
TTTP Mỹ. Đây là đặc điểm quan trọng bậc nhất của thị trường này và được
nhiều thị trường khác học tập. Hiện nay thị trường thứ cấp trái phiếu Chính
phủ Mỹ được đánh giá là có tính thanh khoản cao nhất thế giới. Tại Mỹ, thời
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 79
hạn của tín phiếu kho bạc là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm phát hành thông qua đấu
thầu hàng tuần được tổ chức vào thứ hai và được thanh toán vào thứ năm. Từ
năm 1929 trở đi, Mỹ không quy định lãi suất tín phiếu kho bạc cố định.
3.2.3. Thị trường trái phiếu các nước Đông Á
Trong suốt thập kỷ 90, Châu Á là tâm điểm của mọi sự chú ý, thập kỷ
này bắt đầu bằng những dấu hiệu tích cực đối với hầu hết các quốc gia trong
khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Đến năm 1997, khu vực này bị ảnh hưởng
của một cuộc khủng hoảng toàn diện khởi nguồn từ Thái Lan, sau đó lan sang
Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippine, Hồng Kông và Singapore cũng
chịu ảnh hưởng nhưng ở mức độ thấp hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến cuộc khủng hoảng này là tại phần lớn các nước Châu Á, ngân hàng giữ
vai trò chủ đạo trong việc rót những khoản tiết kiệm trong nước vào đầu tư,
khu vực này cung ứng khoản 80% nợ tài chính, trong khi thị trường trái phiếu
chiếm chỉ hơn 20% . Đối với những nước có nền kinh tế phát triển như Nhật,
Úc thì con số này là 30 - 40%, đặc biệt lên đến hơn 60% tại Hoa Kỳ (Nguồn:
vneconomy.vn/70490P7C708/thi-truong-trai-phieu-phat-trien-cach-nao.htm).
Dư nợ nước ngoài quá nhiều dẫn đến việc khi các nhà đầu tư này đồng loạt rút
vốn thì các nước ở châu Á không có tiền mặt để trả, điều này đã làm cho rất
nhiều ngân hàng rơi vào phá sản. Sau cuộc khủng hoảng các nước châu Á
nhận thấy cần phải có một thị trường vốn đa dạng hơn và đặc biệt là một thị
trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư
dài hạn cho nền kinh tế. Nhu cầu vốn dài hạn, tốt nhất nên được thoả mãn
bằng các khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay dưới dạng cổ phiếu
hay trái phiếu dài hạn. Với những nỗ lực cải cách và tái tổ chức hệ thống tài
chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống văn bản pháp lý, cải thiện chính sách
vĩ mô… TTTP Châu Á đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ sở hạ tầng của
TTTP thứ cấp ở các nước Đông Á đang được từng bước xây dựng và cải
thiện. Tuy nhiên, ở thị trường Đông Á giao dịch thứ cấp bị phụ thuộc nhiều
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 80
vào thị trường sơ cấp. Hoạt động của thị trường thứ cấp có xu hướng tăng
giảm theo thị trường sơ cấp. Trong những năm gần đây, các nước Đông Á đã
có sự tiến bộ về định chế thị trường. Ví dụ như tại Hông Kông đã sử dụng
một hệ thống đơn vị thị trường tiền tệ Trung ương để thực hiện chức năng
thanh toán bù trừ và quyết toán. Các công ty xếp hạng tín nhiệm cũng được
thành lập và đi vào hoạt động ở nhiều nước. Các nước đã xây dựng hệ thống
lãi suất chuẩn dựa trên TPCP (đặc biệt là lãi suất của các công cụ dài hạn).
Singapore phát hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào năm 1998, Hàn Quốc phát
hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào năm 2000, Trung Quốc phát hành trái
phiếu kỳ hạn 20 năm vào năm 2001. Tuy có nhiều kỳ hạn đối với trái phiếu
nội tệ, song tính thanh khoản hướng vào tập trung vào các trái phiếu có kỳ
hạn ngắn [15; trang 46].
Sự tăng trưởng nhanh chóng được dự đoán của TTTP Đông Á tuỳ thuộc
vào việc tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chính sách
kinh tế vĩ mô vững chắc và các biện pháp cải cách về định chế.
Từ thực trạng phát triển TTTP của Mỹ và các nước Đông Á cho thấy mặc
dù mỗi nước có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có những điểm mạnh
nói chung mà nước ta cần học hỏi kinh nghiệm:
- Kết cấu hạ tầng cơ sở của TTTP hiện đại, nguồn nhân lực, trình độ
quản lý và tốc độ thanh toán cao, phát triển lớn mạnh TTTP trên cơ sở phát
triển đồng bộ thị trường sơ cấp lẫn thứ cấp nhằm phát triển tính thanh khoản
của trái phiếu.
- TPCP nắm giữ vị trí chủ lực trên TTTP, hình thành lãi suất chuẩn, phản
ánh cung cầu thực tế về nhu cầu vốn trên thị trường, làm cơ sở tham chiếu
cho các loại lãi suất khác trên thị trường tài chính. TPCP được xếp hạng tín
nhiệm cao nhất , mức rủi ro gần bằng 0. Độ an toàn của trái phiếu ưu việt sẽ
hấp dẫn nhà đầu tư nhằm phân tán rủi ro danh mục đầu tư.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 81
- Sự gia tăng các nguồn vốn nước ngoài đổ vào đầu tư chứng khoán dựa
trên uy tín quốc gia, thị trường vốn mở, tỷ giá hối đoái ổn định, tình hình
kinh tế vĩ mô, thành tích trong thanh toán nợ nước ngoài, tiềm năng tăng
trưởng của quốc gia.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển và nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các công ty xếp hạng tín nhiệm và các tổ chức đầu
tư phi ngân hàng, nâng cao hiệu quả hệ thống thanh toán…
3.3. Một số đề xuất nhằm phát triển thị trường trái phiếu Việt
Nam.
3.3.1. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khuyến khích tiết kiệm, đầu tư
Để thúc đẩy đầu tư trên thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường
chứng khoán nói chung, trước hết, Chính phủ phải ổn định được nền kinh tế
vĩ mô. Môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát sẽ tạo tâm lý yên
tâm cho toàn thể công chúng đầu tư trong xã hội. Người dân có thể ổn định
được cuộc sống, kinh doanh buôn bán, nâng cao đời sống của mình. Từ chỗ
ổn định được cuộc sống hàng ngày, họ sẽ có thể tăng cường tiết kiệm thông
qua gửi ngân hàng hay đem đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu, qua đó thúc đẩy
sự phát triển của thị trường. Môi trường ổn định, hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp cũng thuận lợi hơn, doanh nghiệp sẽ có nhu cầu
về vốn lớn hơn, thúc đẩy họ đa dạng hoá các kênh huy động vốn, một trong
những kênh đó là thị trường trái phiếu. Điều này đặc biệt quan trọng trong
giai đoạn nền kinh tế thế giới và Việt Nam đang phải đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính như hiện nay.
Để ổn định được nền kinh tế vĩ mô Nhà nước cần có các chính sách kinh
tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp với từng thời kỳ, thúc đẩy phát triển
kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm và kiềm chế lạm phát.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 82
Nhà nước cũng cần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính
thông qua việc phát triển hệ thống thông tin để cung cấp thông tin kịp thời
giữa người có vốn và người cần vốn; từng bước chuyển các nguồn lực từ hệ
thống ngân hàng, các tổ chức tài chính sang thị trường vốn; tăng cường năng
lực cung cấp dịch vụ và khả năng tài chính của các trung gian tài chính; nới
lỏng các quy định chặt chẽ về kiểm soát luồng chu chuyển vốn để luồng vốn
có thể dịch chuyển đến những lĩnh vực đầu tư có hiệu quả nhất, mang lại lợi
ích cho cả người đi vay và người cho vay.
3.3.2. Đa dạng hoá các các loại trái phiếu, nâng cao tính thanh khoản
cho thị trường
Trái phiếu đa dạng đảm bảo những lợi ích khác nhau cho nhà đầu tư, sẽ
tạo nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, trên cơ sở đó nhà đầu tư so sánh, phân
tích, đánh giá và đi đến quyết định đầu tư. Điều này sẽ kích thích và thu hút
nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường trái phiếu thêm sôi động.
Đối với trái phiếu Chính phủ
Đa dạng hóa hình thức TPCP, đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành
nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa
dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi
TPCP. Bên cạnh những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần phát triển
thêm một số một số loại trái phiếu:
- Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là
loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận
tích lũy dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
- Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau.
- Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất
được thanh toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần
theo định kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm
thiểu rủi ro tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 83
- Trái phiếu quyền chọn: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi
nợ đối với người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và
điều chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo
lãi suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất. Loại trái phiếu này sẽ
thu hút nhà đầu tư hưởng lãi suất vừa thu hút nhà đầu tư hưởng chênh lệch giá
thúc đẩy thị trường TPCP hoạt động sôi nổi.
Phương thức phát hành: Kế hoạch phát hành TPCP cần được xây dựng
một cách thống nhất, khoa học và tránh sự chồng chéo triệt tiêu lẫn nhau giữa
các đợt phát hành hay giữa các phương thức phát hành với nhau. Đẩy mạnh
phát hành TPCP qua phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên
nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ hạn
trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau làm giảm
hiệu quả của các đợt phát hành. Mặt khác, khi phát hành TPCP theo phương
thức đấu thầu qua TTCK, cần hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan.
Bên cạnh đó, để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, cần lập
chương trình kế hoạch phát hành TPCP, chọn loại TPCP có thời hạn phù hợp
để tập trung phát hành lô lớn tạo nên TPCP phát hành chuẩn và hình thành
đường cong lãi suất chuẩn, tạo nền tảng cơ bản lãi suất chuẩn cho các công cụ
nợ. Đẩy mạnh việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP
lưu hành trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian
dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại TPCP. Đồng thời giảm dần
đến chấm dứt việc phát hành bán lẻ qua hệ thống KBNN.
Cơ chế lãi suất, Chính phủ nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP.
Để tăng tính hấp dẫn của TPCP nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát
và áp dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ… để
nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây
dựng một cơ chế lãi suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 84
phát hay thiểu phát nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa
với lợi ích của Chính phủ.
Đối với trái phiếu doanh nghiệp
Thực tế cho thấy thị trường TPDN chỉ chiếm hơn 10% thị trường trái
phiếu Việt Nam. Việc tham gia thị trường trái phiếu của các doanh nghiệp
trong nước mới chỉ là những bước đi đầu tiên với quy mô nhỏ lẻ, nên bước
đầu các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ phát hành trái phiếu ra thị trường nội
địa và chủ yếu là chọn hình thức phát hành riêng lẻ, tức là doanh nghiệp có
thể thương lượng trực tiếp với người cung cấp vốn. Các quy định về điều kiện
để doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng đơn giản hơn việc doanh
nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng. Hiện tại, các trái phiếu
doanh nghiệp được phát hành có 2 loại chính: lãi suất cố định, trả lãi hàng
năm (lãi suất coupon) và lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường. Trừ trường
hợp một số ngân hàng phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu
như Ngân hàng Quân đội hay Ngân hàng Ngoại thương. Trong điều kiện nền
kinh tế Việt nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, chịu tác
động ngày càng nhiều của các biến động kinh tế vĩ mô từ nền kinh tế Mỹ hay
các nước Châu Á, thì việc đảm bảo sự ổn định tương đối của giá trái phiếu là
điều kiện quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Để phát triển thị trường TPDN
cần có những cải cách từ phía Chính phủ và cả doanh nghiệp.
Bộ Tài chính cần phải có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về cơ chế
chính sách và kỹ thuật để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chú trọng việc tuyên
truyền phổ biến và đào tạo cho các doanh nghiệp về cách thức huy động vốn,
kinh nghiệm quản lý quỹ... Để phát triển thị trường TPDN trước hết phải phát
triển thị trường TPCP.
Nhà nước đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cần
có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái phiếu
để huy động đầu tư vốn dài hạn phục vụ đổi mới công nghệ và tạo hàng hóa
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 85
cho TTCK. Trước mắt, các lĩnh vực như hàng không, điện lực, dầu khí, bưu
chính viễn thông là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện đang rất cần tăng
cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công nghiệp hóa.
Về phía các doanh nghiệp để thành công trong việc phát hành trái phiếu,
doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hiệu quả
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và tạo sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư
cũng như đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp
cần thực hiện tốt một số vấn đề:
- Trước hết, doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển dài
hạn trong đó gồm cả việc huy động vốn. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu
và mục đích huy động vốn, cần gắn việc huy động với việc sử dụng vốn.
- Thứ hai, việc quản lý tốt ngân quỹ là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp
phải giải quyết cùng lúc việc thu hút một lượng vốn lớn; phải trả được các
khoản nợ và phải có tiền để sản xuất kinh doanh hoặc để đầu tư.
- Thứ ba, việc công bố thông tin liên quan đến việc phát hành trái phiếu
phải đảm bảo tính công khai minh bạch tạo lòng tin đối với nhà đầu tư.
Ngoài ra, để tăng tính hấp dẫn và đa dạng, doanh nghiệp có thể phát
hành trái phiếu có chuyển đổi thành cổ phiếu hay trái phiếu gắn với quyền
mua; đảm bảo sự ổn định trước biến động của nền kinh tế, doanh nghiệp có
thể phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng hay lãi suất thực được
đảm bảo dương trong trường hợp lạm phát cao để thu hút nhà đầu tư. Việc
phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa đối với các doanh
nghiệp trong việc nâng cao năng lực huy động vốn, tăng khả năng linh hoạt
trong quản trị vốn, đồng thời tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối
nguồn vốn có chi phí rẻ cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 86
3.3.3. Phát triển các nhà tạo lập thị trường nhằm thúc đẩy hoạt động của
thị trường trái phiếu
Trong điều kiện TTTP còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các
nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực
làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các
kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm
năng tài chính đủ mạnh, sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định
khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các NHTM và
các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia.
Có thể nói rằng, các ngân hàng thương mại hiện vẫn được xem là nhà tạo
lập thị trường chính trong tương lai, bên cạnh các công ty bảo hiểm hay công
ty chứng khoán. Hiện tại, các ứng viên này vẫn đang bận mải với các hoạt
động môi giới hay tự doanh chứng khoán hay tư vấn cổ phần hóa doanh
nghiệp. Họ vẫn chưa tìm thấy động lực để trở thành nhà tạo lập thị trường trái
phiếu. Các văn bản pháp luật cần được ban hành nhằm khuyến khích các ứng
viên này trở thành nhà tạo lập thị trường. Trong bối cảnh thị trường chứng
khoán đang chìm sâu xuống đáy trong mấy tháng gần đây, việc thúc đấy sự
phát triển của thị trường trái phiếu đang “ngủ yên“ càng trở nên cấp bách.
Các chuyên gia cũng có thể trở thành "nhà tạo lập thị trường" đối với
một loại chứng khoán cụ thể trong điều kiện phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ.
Sự kiểm soát này sẽ hạn chế được các sai phạm nếu họ lạm dụng quyền hành
độc quyền của mình tại Sở giao dịch. Bên cạnh đó, các nhà tạo lập thị trường
có xu hướng cạnh tranh với nhau do luôn có nhiều nhà tạo lập thị trường đối
với một chứng khoán, do đó thị trường OTC được đánh giá là có khả năng tự
điều chỉnh tốt hơn thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Cả chuyên gia
chứng khoán và nhà tạo lập thị trường đều được tiếp cận với các thông tin đặc
biệt do họ thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các thông tin trên sổ lệnh, vì
vậy họ có nhiều khả năng bị "rò rỉ" thông tin khi có sự biến động thị trường.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 87
Nếu không bị cấm, các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường có thể sử
dụng các thông tin này (bao gồm các thông tin nội bộ) để thực hiện kinh
doanh cho chính họ nhằm thu lợi nhuận. Đó cũng chính là lý do tại sao những
đối tượng này bị kiểm soát chặt chẽ. Một yêu cầu khác nữa là họ phải công
bằng với tất cả các nhà đầu tư, không được phép thiên vị bất cứ bên nào.
Ngày nay, trên thế giới có nhiều loại thị trường mới ra đời như thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tương lai, thị trường quyền chọn...
cùng với sự hỗ trợ của các phương thức giao dịch đa dạng đã không ngừng
thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường chứng khoán, góp phần vào sự
công bằng, hiệu quả và trật tự đối với các giao dịch tại các thị trường này... Vì
vậy vai trò của các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường là luôn được
khẳng định. Trong tương lai không xa, để thị trường chứng khoán Việt Nam
nói chung đi vào vận hành ổn định nên cần sớm tính đến việc xây dựng một
đội ngũ các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường đủ năng lực tác nghiệp trên
thị trường. Cần hình thành các nhà tạo lập thị trường và các đại lý. Đây sẽ là
những nhà phân phối trái phiếu thường xuyên, có nghiệp vụ và có thể đưa trái
phiếu giao dịch trên thị trường.
Ngoài ra để thúc đẩy các nhà tạo lập thị trường, Việt Nam cần phát triển
các công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu để giúp các nhà tạo lập thị
trường có thêm nhiều công cụ để đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Đầu tư
chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng luôn chứa đựng rủi ro,
việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro trong quá trình đầu tư là điều cần thiết.
Mặt khác, khi TTTP phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình
thành các sản phẩm phái sinh liên quan đến trái phiếu nhằm đa dạng hoá và
đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm
thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay, thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam
khá đơn điệu, dừng lại ở nghiệp vụ mua bán trái phiếu giao ngay, làm hạn chế
mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Cần phát triển các sản phẩm
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 88
chứng khoán phái sinh liên quan đến trái phiếu như: quyền chọn mua, bán
chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm từ chứng
khoán hóa tài sản và các khoản nợ... Hệ thống ngân hàng thương mại phải
đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh cho thị
trường chứng khoán. Ngoài ra, nghiệp vụ mua lại (repo) trái phiếu tạo tính
thanh khoản rất cao cho thị trường trái phiếu.
Các công cụ phái sinh nói chung được đánh giá là rất hữu hiệu trong
phòng ngừa rủi ro, giúp nhà đầu tư tự tin hơn khi tham gia thị trường. Tuy
nhiên, các công cụ này cũng có tính hai mặt, để áp dụng vào thị trường chứng
khoán Việt Nam cần xây dựng khuôn khổ pháp luật cho hoạt động này, các cơ
quan quản lý có thể đưa ra các quy định về số lượng quyền chọn tối đa của
các nhà đầu tư để hạn chế tình trạng lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, cần
thực hiện đồng bộ với việc phát triển quy mô thị trường, hệ thống giao dịch,
hệ thống tài chính ngân hàng, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán của
công chúng đầu tư và tăng cường khả năng giám sát thị trường của cơ quan
quản lý.
3.3.4. Xây dựng và phát triển hệ thống ĐMTN ở Việt Nam
Tính minh bạch về thông tin là một trong những điều kiện để phát triển
thị trường vốn nói chung và TTTP nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, dịch vụ
đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho
các cơ quan giám sát thị trường chứng khoán và các cơ quan quản lý tài chính
công cụ để quản lý và giám sát; cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu
tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh; đồng thời đối với nhà
phát hành nó được dùng như một chiến lược huy động vốn. Do đó, việc xây
dựng hệ thống ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết.
Để tổ chức ĐMTN tồn tại và phát triển trong giai đoạn thị trường trái
phiếu Việt Nam còn non trẻ cần chú trọng các vấn đề sau:
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 89
Nhanh chóng xây dựng khung pháp lý về hoạt động ĐMTN, có một
khung pháp lý sẽ tạo điều kiện cho các công ty định mức tín nhiệm trong
nước ra đời, vừa tạo điều kiện để thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức
uy tín trên thế giới.
- ĐMTN được nhắc đến trong Nghị định 52/NĐ-CP nhưng chỉ dừng
lại ở mức độ mở ngoặc “nếu có”. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định mức tín nhiệm,
trước tiên phải mang tính chất tiền đề, là những cơ sở pháp lý cơ bản nhất để
điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực ĐMTN, đồng thời định ra
hướng đi đúng cho cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật
quy định.
- Luật chứng khoán cần bổ sung một phần quy định về những vấn đề
chung nhất trong hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm như: khái niệm,
địa vị pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức ĐMTN...
- Bên cạnh những vấn đề chung, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt
động ĐMTN, Chính phủ cần ban hành các Nghị định để chi tiết hóa và hướng
dẫn thi hành các điều khoản này. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hoạt
động ĐMTN là lĩnh vực hoàn toàn mới mẽ; hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện,
ta chưa lường trước được hết những phát sinh và tính phức tạp của hoạt động
này. Việc sửa đổi bổ sung để hoàn thiện trong quá trình điều hành là điều
không thể tránh khỏi, nếu ở mức Nghị định vừa đảm bảo được hiệu lực pháp
lý vừa có thể sửa đổi bổ sung kịp thời. Do đó trong giai đoạn đầu Chính phủ
ban hành ở mức Nghị định là hợp lý. Cùng với sự phát triển của thị trường
vốn và trong quá trình điều hành hoạt động ĐMTN đã rút tỉa được kinh
nghiệm nếu xét thấy cần thiết thì ban hành luật hoạt động ĐMTN.
- Hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ
với hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể
tham gia thị trường, do đó cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 90
quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Cần giám sát
và có qui định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra
các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực.
Tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Một tổ
chức ĐMTN phụ thuộc vào sự sẵn có các thông tin chính xác tin cậy về các
doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mặt khác, các cơ quản lý không chỉ dừng
lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà phải thông qua việc ban hành
các quy định về ĐMTN bắt buộc, yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết trên
TTCK phải thực hiện ĐMTN, nhất là các doanh nghiệp phát hành trái phiếu
dù chào bán ra công chúng hay chào bán riêng lẻ. Minh bạch hoá thông tin
vừa tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư vừa tạo uy tín cho bản thân các doanh
nghiệp phát hành. Một trở ngại cho sự phát triển của các tổ chức ĐMTN là có
quá ít công cụ nợ để định giá, do đó cần mở rộng quy mô cung chứng khoán
đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp.
Cần nâng cao nhận thức của nhà phát hành và nhà đầu tư về ĐMTN.
Để làm được điều này, cần phải làm cho các nhà đầu tư, các tổ phát hành trái
phiếu và các tổ chức trung gian thị trường hiểu được những lợi ích mà ĐMTN
mang lại. Bên cạnh đó, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm
từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo nguyên tắc hoạt
động tính tin cậy, tính độc lập, tính khách quan và chuyên nghiệp.
Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn
khổ chính sách dẫn dắt, có thể thực hiện các bước đi sau:
- Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN
nổi tiếng trên thế giới. Vai trò của các tổ chức ĐMTN quốc tế, ngay cả trong
giai đoạn đầu, cần được xem xét một cách phù hợp. Bên cạnh đó, sự hiện diện
của các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ gia tăng sự lựa chọn và chất lượng của các
dịch vụ cung cấp cho các tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Áp lực cạnh tranh
từ các tổ chức ĐMTN quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức ĐMTN trong nước
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 91
tăng cường chất lượng và tính cạnh tranh về dịch vụ của họ. Tuy nhiên, với
mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên
hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ
trợ thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác chỉ
nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó
phải được minh bạch và có độ tin cậy cao.
- Trong điều kiện hiện tại của VN, có một số lý do không ủng hộ việc
cho phép các công ty định mức tín nhiệm tư nhân hoạt động. Thứ nhất, các tổ
chức tư nhân này thường có quy mô nhỏ. Thứ hai, có rủi ro là một số tổ chức
phát hành có thể thành lập các công ty định mức tín nhiệm của chính mình để
đạt được những kết quả sai lệch về tình hình tín dụng của họ. Mặc dù vậy, các
tổ chức ĐMTN nhà nước cũng vẫn có những điểm yếu, vấn đề phức tạp nhất
có thể xảy ra là sự can thiệp của Chính phủ đối với kết quả định mức tín
nhiệm. Để đảm bảo chất lượng định mức tín nhiệm, việc thực thi công tác
kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng.
Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải
xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết... Trong giai đoạn đầu
có thể thành lập một tổ chức ĐMTN thuộc sở hữu nhà nước và sau đó có thể
cho phép chuyển thành sở hữu tư nhân.
3.3.5. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và nhà đầu tư về thị
trường trái phiếu
Con người là một nhân tố đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động.
Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần
quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Để phát triển thị
trường chứng khoán nói chung và TTTP nói riêng Nhà nước cần chú trọng
hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho
các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp
và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 92
như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ
thống thông tin trực tuyến internet đã góp phần tuyên truyền cho doanh
nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán
trong đó có thị trường trái phiếu. Điều này đã giúp các doanh nghiệp nhận
thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu; nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích
của việc đầu tư trái phiếu.
Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng là
lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn cao,
nhưng hiện nay còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, việc đào tạo phải gắn
kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế đào tạo nguồn
nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường. Hoạt
động đào tạo chứng chỉ hành nghề chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua chủ
yếu vẫn do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý và đào tạo nên công tác
đào tạo thời gian qua thực sự gặp nhiều khó khăn và không thể đáp ứng nhu
cầu đào tạo của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Trong năm 2007, đã mở rộng 5
tổ chức khác được phép liên kết đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên,
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chỉ nên quản lý về mặt chuyên môn, chương
trình giảng dạy, các tổ chức khác có đủ điều kiện về giảng dạy sẽ đảm nhiệm
công tác giảng dạy nhằm tránh độc quyền mà vẫn đảm bảo chất lượng đào
tạo.
3.3.6. Hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động của thị
trường trái phiếu
Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn
thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh
bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 93
Hiện nay, hoạt động của thị trường trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn
bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP
(quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy
định về chứng khoán và thị trường chứng khoán) và một số các văn bản pháp
quy khác có liên quan. Bên cạnh việc đã thông qua Luật Chứng khoán, Quốc
hội cần từng bước hoàn thiện Luật Chứng khoán cho phù hợp với tình hình
đặc thù của TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập, đồng thời
phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp
luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn.
Các quy định về đấu thầu TPCP và việc công khai hóa thông tin của
Chính phủ về TPCP cần được thể hiện trong Luật Chứng khoán, không nên
quy định riêng lẻ trong các văn bản dưới Luật như hiện nay. Chính phủ cần
đưa ra các quy định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên tham
gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành, cũng như xây dựng cơ sở pháp lý cho
hoạt động công bố thông tin, nền tảng là Luật Chứng khoán và Luật Kế toán.
Vấn đề tranh chấp, kiện tụng trong giao dịch là điều khó có thể tránh khỏi
trong hoạt động của các thị trường còn non trẻ như ở Việt Nam, vì thế Chính
phủ cần đưa ra các quy định pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh khi
có tranh chấp xảy ra.
Hiện nay, hoạt động của thị trường OTC không trái với pháp luật hiện
hành, tuy nhiên Luật Chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có những điều khoản
về thị trường OTC. Các đối tượng tham gia thị trường đang đứng trước nguy
cơ phải gánh chịu rủi ro nếu không được bảo vệ bởi bất kỳ khung pháp lý nào,
do đó trong các văn bản pháp lý liên quan đến hoat động của thị trường chứng
khoán cần có các quy định rõ ràng để bảo vệ các đối tượng tham gia thị
trường. Cụ thể trong Luật Chứng khoán cần quy định rõ đối tượng được phép
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 94
thành lập, thủ tục thành lập, cơ cấu điều hành Trung tâm OTC, quy định đối
với trường hợp giải thể trung tâm OTC…
Bộ Tài chính cần ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các
công ty chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng
lưới cung cấp dịch vụ và đưa ra những cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ
đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện cải cách sâu rộng các quy định
pháp lý về quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát phù hợp với thông
lệ quốc tế, nhằm thực hiện quản lý theo chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế
quản lý bình đẳng; nâng cao hiệu quả giám sát từ phía Nhà nước.
Kết luận chương 3
Chương 3 trình bày một số đề xuất nhằm phát triển TTTP Việt Nam trên
cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tuy nhiên việc phát triển thị trường
trái phiếu cần đặt trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống tài chính. Ngoài
các biện pháp vĩ mô từ phía Nhà nước như ổn định nền kinh tế, khuyến khích
tiết kiệm đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp lý, thì việc đa dạng hoá các loại
trái phiếu phát hành nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, phát
triển đội ngũ nhà tạo lập thị trường cũng như các công ty đánh giá mức tín
nhiệm là yêu cầu rất cần thiết để TTTP hoạt động hiệu quả hơn. Để thị trường
trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, Chính phủ cần có những giải pháp
mang tính đồng bộ, cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ, Chính quyền
địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đồng thời xây dựng lộ
trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường
trái phiếu.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 95
Kết luận
Sau khi gia nhập WTO, các nguồn vốn từ các nền kinh tế dường như đã
dễ dàng luân chuyển từ quốc gia này qua quốc gia khác. Đây cũng là một
thuận lợi trong việc huy động nguồn lực cho phát triển nhưng cũng tiềm ẩn
những rủi ro về an ninh tài chính của quốc gia. Cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ Châu Á năm 1997 diễn ra là một minh chứng rõ nét cho vấn đề này.
Qua cuộc khủng hoảng, các quốc gia Châu Á nhận ra vai trò quan trọng của
việc phát triển kinh tế bằng chính các nguồn lực trong nước. Mặt khác, Việt
Nam đang trong giai đoạn hội nhập phát triển, nhu cầu vốn cho đầu tư là rất
lớn. Huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu là một kênh hiệu quả giúp
cho Chính phủ và các doanh nghiệp giải quyết được nhu cầu này.
Qua phân tích thực tế hoạt động thị trường trái phiếu Việt Nam, cho thấy
TTTP nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ dư nợ trái phiếu/GDP vẫn còn thấp
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. TPCP chiếm phần lớn trên thị
trường, trong khi TPDN chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Thị trường trái phiếu Việt Nam
mới dừng lại ở hoạt động phát hành, còn hoạt động giao dịch tạo ra tính thanh
khoản của trái phiếu thì vẫn chưa phát triển. Nguyên nhân do thị trường trái
phiếu còn khá non trẻ, với quy mô nhỏ, tính cạnh tranh của trái phiếu còn
thấp, chưa xây dựng được hệ thống định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, thiếu
đội ngũ tạo lập thị trường, khung pháp lý và hệ thống quản lý chưa được hoàn
thiện, nhận thức và kiến thức của doanh nghiệp và công chúng đầu tư còn
kém, dẫn đến tâm lý lo ngại về rủi ro khi phát hành hay đầu tư vào trái
phiếu…
Vấn đề cần đặt ra đối với TTTP hiện nay là từng bước khắc phục các
nguyên nhân dẫn đến tình hình kém phát triển và đưa ra các giải pháp thúc
đẩy thị trường. Trong bài khoá luận này em đã đưa ra một số đề xuất nhằm
phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong thời gian, góp phần giải quyết
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 96
bài toán về vốn cho nền kinh tế hiện nay cũng như giai đoạn phát triển tiếp
theo. Các giải pháp cần được thực hiện một cách đồng bộ để chúng ta có thể
nhìn thấy một thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển trong một thời gian
không xa.
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 97
Tài liệu tham khảo
1. ADB - Asia Bond Monitor 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, quý I-2009
2. BIDV, Báo cáo kinh tế Việt Nam tháng 2 – 2009
3. Bùi Văn Thạch, Nguyễn Thị Lan, “Các định chế tài chính trung gian ở Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương,
số 245-249, tháng 1/2009, trang 60
64 và số 250-252, tháng 2/2009, trang
33
35
4. Công ty chứng khoán Biển Việt, Summary of 6 Years Development of
Vietnam Listed Bond Market
5. Đào Lê Minh chủ biên (2002), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
6. Lê Hoàng Nga (2008), Thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính
7. Lê Hoàng Nga , “Thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Tổng quan và một
số giải pháp đề xuất”, Tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 3
125
- tháng
3/2009, trang 6
10
8. Lê Thị Mai Linh (2003), Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia
9. Lê Tiến Phúc, “Mối quan hệ giữa lãi suất với hoạt động của thị trường
chứng khoán”, Tạp chí Tài chính, số 3
533
- tháng 3/2009, trang 41
44
10. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo thường niên năm 2006, 2007
11. Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
12. Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Đức Hiển (2003), Những vấn đề cơ bản về
phát triển và đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản Tài chính
13. Quyết định số 171/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2006 về việc phát
hành và sử dụng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 – 2010 do thủ tướng
chính phủ ban hành
Trường Đại học Ngoại Thương Khoa Quản trị Kinh doanh
Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển 98
14. Trần Đắc Sinh (2003), Định mức tín nhiệm tại Việt Nam, Nhà xuất bản
Tp. Hồ Chí Minh
15. Trần Xuân Hà - Luận án tiến sỹ kinh tế (2004) “Sử dụng công cụ trái
phiếu chính phủ để huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam”, Học
viện Tài chính
16. Vũ Như Thăng, “Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam: Định hướng
hoàn thiện”, Tạp chí Tài chính, số 2
532
- tháng 2/2009, trang 33
37
Các trang web
1. atpvietnam.com/vn/thuctechoick/13826/index.aspx
2. cafef.vn/20081230092426727CA31/khoi-thong-kenh-huy-dong-von-trai-
phieu.chn
3. dddn.com.vn/20081216025043465cat91/Tin-hieu-tu-thi-truong-von-trai-
phieu.htm
4. Org.vn
5.hbgin.com/hbgin/th%E1%BB%8B-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-tri-
phi%E1%BA%BFu-vi%E1%BB%87t-nam/
6.laodong.com.vn/Home/Thi-truong-trai-phieu-Viet-Nam-van-hap-
dan/200811/116552.laodong
7. saga.vn/Taichinh/Thitruong/Tongquanthitruongtaichinh/13844.saga
8. vneconomy.vn/70490P7C708/thi-truong-trai-phieu-phat-trien-cach-nao.htm
9.
10
11.
12. vdf.org.vn/Doc/2008/VDFConf_WIPTuVie.pdf
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4384_7977.pdf