MỤC LỤC
Lời Nói Đầu 1
Chương I: Hoạt động Kinh doanh của Công ty Toyota VIệt Nam trong môI trường VIệt Nam 3
I.1: Công ty Toyota Việt Nam: 3
I.1.1.Cơ cấu tổ chức : 3
I.1.2:Chiến lược và mục tiêu kinh doanh 3
I.1.3. Những sự kiện nổi bật của Toyota Việt Nam Qua những năm qua: 6
I.2: Ảnh hưởng của môi trường luật pháp tới hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam. 7
I.2.1:Toyota trước quy đinh về tỉ lệ nội địa hoá: 7
I.2.2:Toyota Việt Nam trước việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô: 8
Chương II: Hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam với sự thích nghi trong môI trường Luật pháp Việt Nam 9
II.1:Quan hệ thương mại VIệt –Nhật những năm qua: 9
II.2: Ngành Công nghiệp Ôtô của Việt Nam 11
II.3:Toyota Việt Nam –Những thích nghi trong môI trưòng Luật Pháp VIệt NAm 14
II.3.1:Vai trò của Toyota Việt Nam trong ngành công nghiệp Ôtô tại Việt Nam: 14
II.3.2:Tác động từ yếu tố Luật pháp Việt Nam(PLVN) 15
II.3.3: Chiến lược tiếp tục phát triển của Toyota tạI Việt Nam: 22
CHƯƠNG III: Giải pháp cho Toyota Việt Nam trong môi trường PLVN 24
III.1: Giải pháp từ phía Chinh phủ Việt Nam: 24
III.1.1: Giải pháp trong tình huống cua Toyota Viẹt nam nói rieng và ngành ôtô Việt Nam noi chung: 24
III.1.2: Nhưng cải cách nên có của chinh phủ : 25
III.2: Giải pháp từ phía Toyota Việt nam: 26
Kết Luận 28
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4704 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam với sự thích nghi trong môI trường Luật pháp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010, tầm nhỡn tới năm 2020.
Theo quy hoạch được phê duyệt, việc phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam phải dựa trên cơ sở tiếp thu và ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới, kết hợp với khai thác và từng bước nâng cao công nghệ và thiết bị hiện có, đáp ứng trên 80% nhu cầu trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ nội địa hóa 60% vào năm 2010. Riêng động cơ phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hóa 50% yà hộp số đạt 90%. Mục tiêu về loại xe phổ thông đáp ứng trên 80% nhu cầu trong nước về số lượng và tỷ lệ nội địa hóa đạt 60% vào năm 2010. Về xe chuyên dùng phải đáp ứng 60% nhu cầu và tỷ lệ nội địa hóa đạt 60% vào năm 2010. Xe cao cấp phải nội địa hóa 40-50%, đáp ứng 80% nhu cầu các loại xe tải, xe buýt cao cấp và đạt tỷ lệ nội địa hóa 35-40% vào năm 2010.
Đi chung cùng với đường lối chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, Toyota đang tích cực phát triển mạng lưới trong nước của mình. Hiện nay, Toyota đã có hơn 10 nhà cung cấp thiết bị phụ tùng trong nước và hiện đang có kế hoạch mở rộng hơn nữa. Với việc giới thiệu dự án 100% vốn của nước ngoàI Denso Việt Nam sản xuất kinh kiện phụ tùng ô tô để xuất khẩu tại khu công nghiệp Thăng Long – Hà Nội, tháng 3 năm 2003, Toyota khai trương nhà sản xuất thân xe ô tô đầu tiên tại Việt Nam, diều này thể hiện nỗ lực của Toyota trong việc thực hiện quá trình nội địa hoá tại Việt Nam .
Bên cạnh đó , Toyota còn rất chú trọng vào khâu đào tạo nguồn nhân lực , Toyota Việt Nam đã đầu tư khoảng 500 ngàn USD thành lập trung tâm Đào tạo vào tháng 4 năm 1997. Trung tâm có khả năng đào tạo tối đa 500 học viên mỗi năm. Năm 1995, khi Toyota Việt Nam ra đời, công ty mới chỉ có 9 kỹ sư và hai nhân viên của văn phòng đại diện, tổng số thành viên trong công ty mới chỉ có 11 người.Hiện nay ,đội ngũ nhân viên Toyota tại Việt Nam ngày càng lớn mạnh với tổng số nhân viên đã là 600 ( tính đến hết quí I năm 2003 ).
Tại Toyota ,nhân viên được đào tạo những kiến thức kỹ thuật theo tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế , đồng thời khuyến khích tính sáng tạo cá nhân và đề cao tinh thần làm việc tập thể . Chìa khoá để tạo cho sự thành công của công ty là phát triển nguồn nhân lực. Với việc thành lập Trung tâm đào tạo, Toyota hàng năm đào tạo khoảng 500 kỹ thuật viên trên nhiều lĩnh vực kỹ thuật ô tô tiên tiến. Bên cạnh đó cũng có nhiều thành viên được cử đI đào tạo tại nước ngoàI. NgoàI ra công ty đã đón hơn 240 chuyên gia Nhật, úc và các nước khác cho hoạt động chuyển giao công nghệ .
Tháng 9/2000, Toyota Việt Nam mở rộng Trung tâm đào tạo với trung tâm đào tạo thân và sơn xe (B/P). Trung tâm đào tạo sửa chữa thân xe và sơn xe này là một trong những trung tâm được trang bị những thiết bị hiện đại nhất trong các nước châu á và việc sử dụng tối đa trung tâm này đã cảI thiện các hoạt động đào tạo. Trung tâm được trang bị đầy đủ những thiết bị tiên tiến như máy hàn, thiết bị máy kéo nắn khung và buồng sơn. Đặc biệt thiết bị kéo nắn khung với các dụng cụ đo đạc đến chính xác là một thiết bị hiện đại trên thế giới và đây sẽ là chìa khoá để tiến hành các khoá đào tạo một cách chuyên nghiệp và hiệu quả cho các kỹ thuật viên sửa chữa thân vỏ và sơn.
Trong tương lai công ty sẽ tiếp tục chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực, một trong những nhân tố quan trọng trong sự phát triển của công ty nhằm cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất cho xã hội Việt Nam .
NgoàI những chiến lược phát triển kinh doanh như mở rộng thị trường, nội địa hoá sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực, Toyota còn chú trọng đến chính sách bảo vệ môI trường. Vì thế , Toyota Việt Nam là công ty đầu tiên trong các ngành công nghiệp then chốt đạt chứng chỉ ISO 142001. Chứng chỉ này là một trong hàng loạt các hoạt động của công ty được thực hiện theo khẩu hiệu “ Nghĩ tới chất lượng toàn diện “.
I.1.2.2 Mục tiêu phát triển của công ty :
Việt Nam đang ở giai đoạn lịch sử chứng kiến nhiều đổi thay và phát triển để xây dựng nền móng vững chắc cho đất nước, con người Việt Nam và thế hệ tương lai. Vinh dự được có mặt trong thời điểm lịch sử này, Công ty ôtô Toyota Việt Nam ý thức một cỏch sõu sắc trách nhiệm của hä đối với Việt Nam. Vỡ vậy, đường lối phát triển quan trọng nhất của Toyota là chia sẻ thành công với xó hội Việt Nam và Toyota Việt Nam hy vọng đạt được mục tiêu trên thông qua việc:
*Nỗ lực để mang lại sự hài lũng tuyệt đối cho khách hàng.
*Phấn đấu trở thành một công dân tốt với nhiều đóng góp xó hội để nâng cao chất lượng cuộc sống.
*Mang lại những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của nền công nghiệp trong nước.
*Bổ sung kiến thức, nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm quốc tế, đồng thời xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho các nhân viên Việt Nam làm việc tại Toyota.
*Phỏt triển cụng ty ngày càng lớn mạnh lõu dài và bền vững ở Việt Nam.
Với phương châm "Tăng trưởng, thách thức và phát triển", Công ty ôtô Toyota Việt Nam luôn phấn đấu để tiến xa vươn tới thành công và phát triển hơn nữa. Kể từ khi thành lập, Toyota ViÖt Nam luôn giữ vị trí dẫn đầu ở thị trường Việt Nam. Tuy vậy, Toyota VIÖt Nam luôn tự đặt mỡnh trờn con đường tỡm kiếm chất lượng tốt hơn với năng suất sản xuất cao hơn. Chính vỡ vậy, trang thiết bị cũng như công nghệ của Toyota luôn được đổi mới và cải tiến để phát triển một dây chuyền sản xuất tốt hơn.
Tại Toyota Việt Nam, ban l·nh ®¹o hiểu rằng một giải pháp toàn diện là cần thiết cho việc bảo vệ môi trường và Toyota ViÖt Nam là công ty đầu tiên trong ngành sản xuất xe hơi tại Việt Nam nhận chứng chỉ ISO 14001. Những nỗ lực cũng như thành công của Toyota ViÖt Nam đó được công nhận với nhiều giải thưởng và bằng khen của Chính phủ Việt Nam cũng như nhiều tổ chức.
Với tinh thần tăng trưởng, thách thức và phát triển trªn, Toyota tại Việt Nam tin tưởng chắc chắn rằng :“ Chúng tôi có mặt tại đây để chia sẻ thành công của Toyota và cùng Việt Nam tiến tới một tương lai tươi sáng hơn với. Sự phát triển hài hũa giữa cỏc nhõn tố con người, xó hội và mụi trường”.
I.1.3. Những sự kiện nổi bật của Toyota Việt Nam Qua những năm qua:
Sau 1 năm tích cực chuẩn bị, ngày 29 tháng 5 năm 1999, Công ty ô tô Toyota Việt Nam đó nhận được chứng chỉ chứng nhận hệ thống quản lý mụi trường của Toyota ViÖt Nam phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ISO14001 của QUACERT và AJA (QUACERT là cơ quan thuộc Bộ khoa học và công nghệ môi trường; AJA là một tổ chức quốc tế có trụ sở ở Anh chuyên về các hoạt động giám định và cấp chứng chỉ tiêu chuẩn quốc tế cho các hoạt động về quản lý môi trường, chất lượng).
Toyota Việt Nam đã vinh dự được nhận giải thưởng Rồng Vàng (giải thưởng của báo Thời báo kinh tế Việt Nam) cho sản phẩm chất lượng cao được người tiêu dùng ưa chuộng trong 2 năm liên tiếp 2001-2002.
Năm 2000, Toyota Việt Nam đó nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng vỡ đó cú thành tớch trong sự phỏt triển ngành cụng nghiệp ụ tụ Việt Nam và những đóng góp cho sự phát triển kinh tế văn hoá xó hội Việt Nam.
Cũng trong năm 2000, Bộ văn hoá thông tin tặng bằng khen cho Toyota Việt Nam và Toyota Nhật Bản vỡ đó cú nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp văn hoá của Việt Nam.
Thành công quan trọng nhất của Toyota VIệt Nam là trở thành Công ty có thị phần lớn nhất trong thị trưòng Ôtô của VIệt Nam vởi tốc độ tăng trưởng đạt đựoc lien tục la 45%,kể từ năm 1999 .Toyota Viện Nam đã thực sự góp phân không nhỏ vào sự phát triển của ngành công nghiệp Ôtô của VIệt Nam
I.2: Ảnh hưởng của môi trường luật pháp tới hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam.
Trong thời đạI toàn cấu hoá,việc phân công lao động ngày càng trở nên phổ biến.Trong bối cảnh đó hầu như không thể tập trung một lĩnh vực sản xuất từ khâu đầu đến khâu cuối ở một nước.LoạI hình tâp trung công nghiệp như vậy thực sự khó thực hiện ngay cả ở một quốc gia phát triển,thì như VIệt Nam là một quốc gia đang phát triển quả thực đIều đó là rất khó thực hiện.Việt nam với khá nhiều lợi thế và có lẽ con đương phat triên tốt nhất cho Việt Nam là thu hút FDI.
Nếu như trứoc đây giá nhân công rẻ,nguồn tàI nguyên thiên nhiên phong phú ,thị trường nội địa tiềm năng là những yếu tố quan trọng để thu hut FAI thì ngày nay chỉ những yếu tố trên thôI la chưa đủ mà phảI tạo lập dựoc môI trường luật phap hết sức thuân lợi và ổn định để làm an tâm các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khuôn khổ có hạn của bàI viết này,xin được lấy Toyota Việt Nam như là doanh ngiệp FDI đIển hinh để phân tich nhưng anh hưởng cua Pháp luật VIệt Nam tới hoạt đông kinh doanh cua công ty .BàI viết cung xin được nhân mạnh đến tinh không ổn định của Luật Phap Việt Nam có anh hương như thế nào qua phân tích hai sự kiện gần đây nhất la Quy định về tỉ lệ nội Địa hoá và Tăng thuế nhập khẩu linh kiện áp dung cho ngành ôtô và Toyota VIệt Nam đã có những động thái nhu thế nào
I.2.1:Toyota trước quy đinh về tỉ lệ nội địa hoá:
Như đã nêu ở trên,Toyota VIệt Nam hiện nay là daonh ngiệp sản xuất và lắp ráp ôtô có tỉ lệ nội địa hoá la 10% tuy chua phảI la lớn nhung đó là con số cao nhất trong ngành công nghiệp Ôtô cua VIêt Nam.Với việc trực tiếp đầu tư các công ty cung ưng vật tư ôtô,đồng thời có các đầu mối cung câp trong nứoc và trong tưong lai Toyota Việ nam đang nỗ lực kêu gọi các nhà đầu tư trong linh vực linh kiện vật liệu Ôtô đến thị trưòng Việt nam…Toyota Việt nam đã và đang cố gắng đẻ thực hiên tốt mục tiêu tăng tỉ lệ nội địa hoá như chiến lưocj mà chính phủ Việt Nam đang phấn đấu.Ông Lâm Chí Quang,Phó tổng giám đốc Toyota Việt Nam cũng đã phát biểu rằng mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng công ty này cũng đang có kế hoạch tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm của mình để thực hiện chiến lược phát truển công nghiệp Ôtô đến năm 2010 mà chính phủ Viêt Nam đã xây dựng.
Tuy nhiên bên canh đó còn rất nhiều bất cập mà Toyota Việt nam nói riêng cung như các daonh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô nói chung đang gặp phảI muôn kiên nghị để chính phủ xem xet cho có sự đIều chỉnh hợp lý.
I.2.2:Toyota Việt Nam trước việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô:
Có một thực tế là trong ngành công nghiệp Ôtô thì việc phát triển gắn liền với quy mô sản xuất và quy mô thị trường.Tronh những năm gần đây,ngành công ngiệp ôtô của Việt nam đang trên đà phát triển và Chính phủ xác định đây là một nganhf công nghiệp chủ chốt.Tuy nhiên sau khi Chính phủ phê duyệt quy định 146 về việc tăn thuế nhâp khẩu linh kiện ôtô thì đã tạo ra một cú sốc lớn cho các doanh nghiệp sản xuất ôtô.
Toyota Việt Nam cũng không đứng ngoàI vòng khó khăn đó.Mặc dù là một công ty lớn mạnh trong nganh công nghiêp này nhưng đứng trước biến đông đó Toyota Việt nam không khỏi không lo lắng.Nganh ôtô tăng trưởng và doanh số bán của Toyota trong những năm gần đay cảI thiện rõ rệt,nhu cầu sử dụng xe trong thị trương nội địa cũng bắt đầu tăng nhanh chong và theo các nhà ngiên cứu thì còn rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên có một vấn đè luôn đựoc nhắc đén là giá ôtô trong thị trương Việt Nam la rất cao thậm chi gấp 1,6 đến 1,9 lần các nước trong cùng khu vực và cao hơn cả trên thị trưòng các nước phát triển với sản phẩm cùng loại.Khi Chinh phủ áp đặt mức giá cao hơn dẫn đến một đIều tất yếu la Toyota VIệt Nam cũng như các hang ôtô khác trong thị trương VIệt Nam buộc phai tăng giá vì kinh kiện sản xuất trong nước thực sự chưa thể đáp ưng được các yêu cầu và nhu cầu cho sản xuất,nên linh kiện vẫn buộc phảI nhập khẩu .Và nếu như vậy thì khách hàng chỉ còn nước là lắc đầu nếu như không buộc phảI dùng tới ôtô.
Vậy thì Toyota VIệt Nam đã phải có những đối sách gì trước những biên động đó? Bài viết xin được phân tich sâu hơn ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TOYOTA VIỆT NAM VỚI SỰ THÍCH NGHI TRONG MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP VIỆT NAM
Hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam trên thị trưòng Việt Nam cũng la một kết quả tốt đẹp trong mối quan hệ thương mạI Việt Nam –Nhật bản. Mối quan hệ tốt đẹp này được gây dựng là cơ sở cho những thành công của các doanh nghiệp tạI Việt Nam có FDI của Nhật Bản
II.1:Quan hệ thương mại VIệt –Nhật những năm qua:
- Quan hệ thương mạI giữa hai nước Việt Nhật những năm qua nhìn chung vẫn đạt được sự tăng trưởng đáng kể , đã đóng góp tích cực vào sự phát triển và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình tăng trưởng. Kim ngạch Xuất Nhập Khẩu đã liên tục phát triển trong xu thế khả quan và theo những số liệu mới nhất (tính đén ngày 20 tháng 3 năm 2003) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), Nhật Bản là nhà đầu tư lớn thứ ba tại Việt Nam về số vốn đầu tư đăng kí (xấp xỉ 4,3 tỉ USD),chỉ đứng sau Singapore và ĐàI Loan,tuy nhiên đây lại là nước có số vốn đầu tư thực hiện lớn nhất(3,2 tỉ USD) mà hầu như không có dự án nào bị rút giấy phép.ĐIều đó thể hiện rằng Nhật Bản thực sự mong muốn hợp tác lâu daì và ngiêm túc tạI Việt Nam.Ông Phan Văn Thắng ,Vụ trưởng vụ Quản lý dự án (Bộ KH&ĐT) cho biết,Nhật Bản đang có khoảng 380 dự án còn hiệu lực tai VIệt Nam với nhiều dự án có quy mô vốn đầu tư lớn (21 dự án nhóm A có số vốn đầu tư khoảng 2,2 tỉ USD, bằng 53,4% tổng vốn đầu tư đăng kí).Hầu hết các tập đoàn lớn của Nhật Bản như Mitsubishi, Sumitomo, Toshiba,...và Toyota đều đã có mặt tạI Việt Nam.
Về lĩnh vực đầu tư,có tới 71,6% số dự án của các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực Công nghiệp và tập trung chủ yếu vào Hà Nội,Tp.HCM và Đồng Nai.
Và Việt Nam là quốc gia Châu á đầu tiên mà Nhật Bản lựa chọn kí kết HIệp dịnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư,Thủ tướng Phan Văn KhảI tiến hành đàm phán trong chuyến thăm và làm việc tai nước này. Hiệp định này nhằm khuyến khích đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong khi đó sẽ thảo ra các biện pháp về pháp lý để bảo vệ các công ty Nhật Bản.Các cuộc thương lượng song phương về hiệp định tương hỗ này đã bắt đầu hồi tháng 5/2002
_Sự cần thiết của việc thu hút FDI vào Việt Nam
Trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam-Nhật Bản,mỗi nước đều có nhu cầu trao đổi,bổ xung cho nhau về các lợi thế so sánh,các thế mạnh đó.Đối với Việt Nam thì có thể thấy sự cần thiết khi hợp tác với Nhật Bản một nước công nhgiệp phát triển mạnh với nền khoa học kĩ thuật tiên tiến để tiếp cận với những công nghệ tiên tiến,thiết bị máy móc hiện đạI,cách thức quản lí...tận dụng nguồn vốn đầu tư ,mà Việt Nam thực sự cần thiết trong quá trình Công nghiệp hoá,Hiện đạI hoá và phát triển kinh tế đất nước.
Như đã đề cập ở trên,đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng.Giáo sư Kenichi Ohno trong cuộc Hội thảo công bố bản báo cáo cuối cùng của dự án Hợp tác Viêt-Nhật đã khẳng định”Nền Kinh tế Việt Nam có tiềm năng để cất cánh và chìa khoá của thành công là thu hút vốn đầu tủ trực tiếp nước ngoàI(FDI) “.Và cũng theo các chuyên gia của Nhật Bản thì vấn đề quan trọng nhất đối với công nghiệp hoá của Việt Nam là thu hút khối lượng lớn FDI vào các ngành sử dụng nhiều lao động và cần có đầu tư kĩ thuật.Muốn thu hút được FDI thành công ,Việt Nam cần nhạy cảm với nhu cầu vốn đầu tư của nước ngoàI vầ thiết lập được môI trường đầu tư tốt vào loạI bậc nhất ở Đông Nam Á.
Có thể nhìn thấy một thực tế rằng,năm ngoáI tổng mức đầu tư của Nhật vào Việt Nam đạt trên 100 triệu USD.tức là chỉ bằng 1/10 so với thời kì “hoàng kim” khi có cả phong trào đến Việt Nam làm ăn của các doanh nghiệp Nhật Bản,”Đây là dấu hiệu đáng buồn “-ông Yoshihiko Sumi,Vụ chính sách thương mạI –Bộ Kinh tế thương mạI Nhật Bản ,đánh giá.Ông Sumi cũng khẳng định rằng,tuy Việt Nam đã có nhiều cảI thiện môI trường đầu tư nhưng so với các nước ASEAN thì chậm hơn,ông cũng giảI thích thêm rằng ,vì các chính sách ưu đãI của các nước ASIAN la “tám lang,nửa cân “, nên trong 1 vàI năm tới nếu Việt Nam không co cố gắng hoàn thiện Hành lang Pháp lí,các chính sach khuyến khích để thu hút các nhà dầu tư Nhật Bản thì sẽ rất khó đuổi kịp các nước ASEAN,thêm vào dó các nhà đầu tư Nhật Bản cũng không muốn mất nhiều thời gian để quyết định đầu tư.
Ông Atsushi Mise,Chủ tịch Hội công thương Nhật Bản tạI VIệt Nam cũng có ý kiến rằng Việt nam có một lợi thế lớn hơn hẳn các nước ASEAN là ở vị trí địa lí,như Việt Nam ở gần Trung Quốc .Hiện nay các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư ồ ạt vào miền Nam Trung Quốc nên rủi ro nhiều,nên Việt Nam là điẻm san sẻ rủi ro va cũng là cầu nối quan trọng lí tưởng của Nhật với ASEAN.Tuy nhiên đIều quan trọng la chính phủ VIệt Nam cần có những thay đổi hoàn thiện chinh sách cân thiết cụ thể không chung chung để an tâm các nhà đầu tư đã và sẽ đầu tư vào Việt Nam.
Hành lang Pháp lí của Việt Nam đã thực sự có những ảnh hưởng vô cùng lớn đến các doanh nghiệp nước ngoàI(DNNN) đầu tư vào VIệt Nam.Khi quyết định dầu tư, ngiên cứu môI trường đầu tư các DNNN nhìn nhân được những cảI thiện như: Xoá bỏ chế độ mua bán ngoạI tệ bắt buộc ,xoá bỏ thuế chuyển lợi nhuận,giảm cước truyền thông quốc tế ,có sự tiếp thu ý kiến của các bên liên quan khi đưa ra các quy phạm pháp luật...tuy nhiên Phap luật VIệt Nam còn có sự không ổn định với những thay đổi chi trong thời gian ngắn,đIều này thực sự là một khó khăn lơn cho các DNNN muốn làm ăn ổn định lâu dàI tạI Việt Nam.Các quy chế Phap luật cua Việt Nam khi thay đổi không cho các nhà kinh doanh kip thời gian chuân bị để cac các chiên lược đối phó kể cả khi sự thay đổi đó có tác động nhiều dến hiệu quả kinh doanh va các chiến lược cua công ty.Vì vậy đây cũng là đIêu làm các nhà đầu tư phai thực cư cân nhắc và rụt rè khi quyết định đầu tư vào VIệt nam,còn với nhưng doanh nghiệp đã đang hoat đông tạI Việt Nam thì cũng là cả một sự đau đầu khi cần chiến lược để ứng phó một cách phù hợp và có hiệu quả.
Trỏ lạI các nhà đầu tư Nhật Bản với môI trường Việt Nam,như đã thông kê thì chiếm tới 71,6% số dự án của Nhật Bản đầu tư vào VIệt Nam là về lĩnh vực Công nghiệp,trong đó có thể thấy ngành Công nghiệp Ôtô rất đáng được chú ý.
II.2: Ngành Công nghiệp Ôtô của Việt Nam
Thị trường ôtô của Việt Nam bắt dầu được mở rộng đặc biệt là từ năm 2000,chỉ riêng số lượng xe ôtô do Hiệp hội các nhà sản xuất xe ôtô Việt Nam(VAMA) bán ra đã đạt gần 14000 xe tăng gấp đôI so với 7000 xe năm 1999.Số xe năm bán ra tiếp tục tăng lên đến gần 19500 xe năm 2001 và khoảng gần 26000 xe năm2002.Các con số nói lên sự tăng trưởng rất đang mừng cho ngành Ôtô Viêtn Nam nói riêng và cho nền kinh tế của Việt Nam nói chung.Đòng thời cũng cho thấy hương đI đúng của những chính sách Chính phủ đưa ra đặc biệt là trong luật đàu tư và luật doanh nghiệp.Thêm vào đó là sự cảI thiện đang kể trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và mức sông của ngưòi dân nên nhu cầu sử dụng ôtô ngày càng tăng.Mặc dù vậy quy mô thị trường ôtô trong nước cũng như nước ngoàI của Việt Nam vẫn còn quá nhỏ bé so với các nước trong cùng khu vực và thế giới,sự cách biệt lên đến khoảng hàng trăm ngàn xe, trong nền công nghiệp Ôtô thì khả năng cạnh thanh phụ thuộc rất nhiều vào quy mô sản xuất cũng như quy mô thị trường. Một điều hiển nhiên là muốn phát triển ngành công nghiệp ôtô bao gồm cả ngành công nghiệp phụ trợ th́ cần phải có một thị trường đủ lớn để hấp dẫn các nhà đầu tư.
Hội thảo về định hướng và các chính sách của Việt Nam cho ngành ôtô trong giai đoạn gia nhập AFTA, ông Tsutmoto Kagawa, cố vấn cao cấp của Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Nhật Bản đưa ra một ý kiến lạc quan: ''Thị trường Việt Nam tiêu thụ ở mức 50.000 xe mới/năm. Nếu kinh tế Việt Nam tăng trưởng khoảng 7% năm cùng với mức thu nhập cá nhân ngày càng tăng, thị trường ôtô Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 100.000 xe vào năm 2010 và khoảng 300.000 xe vào năm 2020. Con số này có thể đạt đến 400.000 xe nếu kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh hơn nữa. Khi thị trường đạt đến quy mô này thỡ Việt Nam đó vượt quy mô hiện tại của thị trường Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Năm 2001, thị trường ôtô Thái Lan đạt 250.000 xe, Indonesia đạt 300.000 xe và Malaysia đạt 350.000 xe''.
Tuy nhiên theo như con số thông kê thì ta thấy trong năm 2001, Việt Nam đó bỏn ra 20.000 xe ụtụ nhưng mới đạt 50% số lượng dự đoán và tiềm năng của thị trường.
Nguyên nhân của doanh số thấp có nhiều nhưng chủ yếu là do thu nhập bỡnh quõn đầu người cũn thấp, khoảng 420 USD/người/năm. Mà theo tính toán, thu nhập bỡnh quõn 1.000 USD/người/tháng mới đảm bảo cho thị trường ôtô phát triển bền vững và 3.000-4.000 USD/người/tháng mới đảm bảo cho trị trường phát triển mạnh. Hà Nội và TP.HCM cú thể cú GDP bỡnh quõn 2.000-3.000 USD/người/năm trước năm 2005, nhưng khó khăn khác là đường sá nhỏ hẹp, bói đỗ thiếu thốn đó cản trở thị trường này. Thêm vào đó, thị trường du lịch trong nước chưa phát triển, thói quen sử dụng xe máy cũng làm hạn chế nhu cầu sử dụng ụtụ cỏ nhõn.
Hiện nay, lắp ráp trong nước mới chỉ dừng lại ở xe du lịch và mới chỉ lắp ráp được 50 chủng loại xe. Tỡnh trạng nhập khẩu xe nguyờn chiếc vẫn tăng mỗi năm khoảng 85%. Hiện có rất ít nhà sản xuất trong nước có khả năng sản xuất phụ tùng ôtô, ngành công nghiệp liên quan đến ôtô cũng rất yếu kém.
Chính phủ xác định rừ việc phỏt triển ngành cụng nghiệp ụtụ là ngành cụng nghiệp chủ chốt và định hướng cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Mục tiêu của ngành này là đáp ứng được nhu cầu nội địa trong khoảng 2010-2015, thay thế xe nhập khẩu và từng bước xuất khẩu linh kiện và các loại xe rẻ tiền. Năm 2010, nhu cầu xe ôtô sẽ vào khoảng 80.000-100.000 xe/năm. Ngoài loại xe du lịch của nhiều liên doanh, các nhà sản xuất trong nước cũng cần cho ra các loại xe thông thường để đáp ứng nhu cầu nội địa.
Sự tăng trưởng nhìn thấy của ngành ôtô có được do chinh sách đúng đắn của chinh phủ, tuy nhiên không thê không kê đến vai trò của các doanh ngiêp liên doanh trong lĩnh vưc này,là những ngưòi trực tiếp làm nên sự tăng trưởng đó.Chinh vì do các doanh nghiêp trong nước còn thực sự yéu kém trong linh vực này cho nên một lân nưã lai phảI nhân mạnh sự cần thiết trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoàI vao VIệt Nam.Và yêu tố Phap lý của nhà nước co tinh chât vô cùng quan trong trong viêc hấp dẫn và duy trì đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Gần đây chinh phủ ban quyết định 146 về việc tăng thuế nhập khẩu linh kiên ôtô và về tỉ lệ nội địa hoá bắt buộc đã thực sự gây hoang mang,lo lắng cho các doanh nghiệp sản xuất ôtô và đã có những ảnh hưởng không tốt cần phải xem xét.
Định hướng của chính phủ xác định ngành công nghiệp ôtô la ngành chủ chốt, vậy nhưng vẫn còn có nhiều ý kiến của những người trong cuộc là các nhà đầu tư,nhưng người trưc tiếp “ăn ôtô,ngủ ôtô vá sống vì ôtô..” thực sự đã chịu nhưng ảnh hưởng không nhỏ khi có sự thay đổi về các chính sách trong việc muốn “bảo hộ và nội địa hoá nền công nghiệp Ôtô “ của chính phủ VIệt Nam ,cho rằng có thể sẽ làm cho diễn biến trái ngược với định hướng đó Các nhà đầu tư thực sự quan tâm tới thị trường Ôtô được xem la thực sự co triển vọng cua VIệt Nam,và ngày càng có nhiều nhà đầu tư đền VIệt Nam trong lĩnh vực này.
Không thể không nhắc đến những nhà đầu tư Nhật Bản vì trong tổng số 22 công ty nước ngoàI tham gia đầu tư vào sản xuất và lắp rắp ôtô thì có tới 13 công ty của Nhật Bản:Toyota Motors,Suzuki Motors,Hino Motors,Daihatsu Motors,Isuzu Motors,Mitsubishi Motors,Sumitomo Corp,Itochu Corp,Nichimen Corp,Mitsubishi COrp,Nissho Iwai Corp,Kanematsu Corporation,Ssaeilo Machinery.
Toyota Motó la nhà đầu tư đIển hình trong ngành ôtô đến Việt Nam với chiến lược mong muốn làm ăn lâu dàI và hợp tác thực sự,và trong bước đương của mình Toyota đã lam đựoc gì và đã “đI trong hanh lang Phap luật của VIệt Nam “ có những thuân lợi và khó khăn gì ,xin đựoc đề cập tới trong phần tiêp theo sau đây
II.3:Toyota Việt Nam –Những thích nghi trong môI trưòng Luật Pháp VIệt NAm
II.3.1:Vai trò của Toyota Việt Nam trong ngành công nghiệp Ôtô tại Việt Nam:
Kể từ khi thành lập từ năm1995,Toyota Việt Nam đã đạt được những thành công lớn góp phần vào sự tăng trưởng của ngành ôtô Việt Nam.Toyota Việt Nam luôn là công ty dẫn đầu trong thị trường ôtô ở Việt Nam.Từ năm 2000,thị trường ôtô nói chung ở VIệt Nam đêu tăng trưởng ,nhờ đó Toyota Việt Nam đã mở rộng được sản xuất và tăng doanh số bán hàng .Toyota Việt Nam đã tung ra được 5 model mới cùng với tốc độ tăng trưởng đạt đến 45% ,chiếm thị phần lớn nhờ chật lương xe ban ra và các dich vụ hậu mãI,chăm sóc khách hàng tốt mà làm hàI lòng khách hàng từ đó doanh số cứ tiếp tuc tăng.
Không chỉ là doanh số bán mà còn nhắc đến công ty Toyota Việt Nam là một doanh nghiêp có chế độ đãI ngộ tốt đối với các lao động địa phương.Toyota Việt Nam từ nhưng ngay đầu vào VIet Nam chi tuyển chọn co 9 kĩ sư với 2 chuyên gia la tông cộng co 11 người nhưng hôm nay lên đến 600 lao đông làm việc tai đó.
Hàng năm Toyota Việ Nam tổ chức đào tạo các khoá cho khoang 500 nhân viên tiêp cận với cácư kĩ thụt tiên tiến trong ngành ôtô,Việc đó góp phần không nho đóng góp cho nền công nghiệp ôtô của Việt Nam vì yêu tố con người nói chung và tri thức nói riêng la sự quyết định cho thành công của mọi lĩnh vực và mọi quốc gia.
Toyota liên tục cảI tiến và tìm tòi nhưng mẫu mã mới ,hương đến thị hiếu nhu cầu vá ý thich của thị trưòng.Có thể lấy cụ thể như việc Toyota Viêt Nam ngày 6-8 vừa chính thức giới thiệu ra mắt loạI xe Vios 4 chỗ (công suất 1,5 lít,giá 19800 USD) nhưng do nhu cầu lớn nên khach mua phai chờ đến tháng 11 mới có hàng.Ông M.Sasagawa –Tổng giám đốc Toyota VIệt Nam –dự đoán Vios sẽ bán được không dưói 200 xe/tháng.Những dự đoán này của Toyota hoàn toàn có cơ sở vì : Chỉ trong vòng 3 tuần từ ngày 12/7 khi Toyota bắt đầu thông báo tới các đạI lí về sự xuất hiện của laoi xe này thì đã có tới hơn 200 khách đặt cọc tiền để đựoc lây xe sớm nhất có thể.LoạI xe Vios hướng tới các khách hàng mục tiêu là lớp trẻ và những ngưòi năng động.Lựa chon kiểu dang và chất lương thich hợp cung với chiến dịch quang cáo rầm rộ lấy hình ảnh ca sĩ trẻ xinh đẹp Britney
Spear đã cho Toyota một niêm tin thực sự vào thanh công của loạI xe này
Sau hơn 7 năm hoat đông kinh doanh tại Việt Nam ,Toyota Việ Nam đã thu được một số nhưng thành công nhất định ,và Toyota VIệt Nam trở thành doanh ngiêp co thi phần lớn nhất trong thi trường ôtô VIệt Nam
II.3.2:Tác động từ yếu tố Luật pháp Việt Nam(PLVN)
Như đã viết ở trên,nhờ nhưng chính sách khuyến khích,đinh hương đúng đắn từ phía chính phủ VIệt Nam cùng với nỗ lực của doanh nghiệp mà Toyota Việt Nam cùng với ngành công nghiệp Ôtô đã đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên như đã nêu lên ở Chương I,vẫn còn có những tồn tạI trong môI trương LPVN thực sự đặt doanh nghiệp trứoc những khó khăn .
Trong khuôn khổ của bàI viết,xin đựoc phân tich sau đây hai biến động mới nhất của LPVN anh hương đến hoat độnh kinh doanh của Công ty Toyota
VIệt Nam.
II.3.2.1:Toyota VIệt Nam với việc thực hiện tỉ lệ nội địa hoá:
Toyota VIệt Nam là doanh ngiệp đầu tiên cam kết thực hiện tỉ lệ nội địa hoá và cho đến nay, chỉ có Toyota Việt Nam đạt được tỷ lệ nội địa hóa khoảng 10%, còn phần lớn các LD đều chưa thực hiện đúng cam kết của mỡnh.
_Những cố gắng cua Toyota VIệt Nam trong việc nâng cao tỉ lệ nội địa hoá:
Toyota Việt Nam quyết tâm thực hiện tỉ lệ nội địa hoá hợp lí nên đã có nhiều chiến lựoc cu thể. Như vừa qua Toyota Việt Nam và tập đoàn Toyota đã tổ chức Hội thảI về công nghệ sản xuất phụ tùng ôtô tại Việt Nam ,Hội thảo đựoc tổ chức tai Nagoya(Nhật),tham dự diễn đàn có hơn 70 nhà cung cấp phụ tùng ôtô Nhật Bản.Với mục đich kêu gọi sự tham gia của các nhà sản xuất phụ tùng ôtô Nhật vào Việt Nam sản xuất ,hội thảo đã giới thiệu thị trường và chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoàI vào trong nước của chính phủ Việt Nam.Để thuyết phục các nhà đầu tư ,Toyota Việt Nam đã trình bày những kinh ngiệm thực tế tạI thị trường tiềm năng này.
Hiện nay Toyota Việt Nam đang có các vệ tinh cung cấp phụ tùng như:Công ty Takanichi VIệt Nam (ghế trước,tấm ốp cửa,giá đỡ lốp dự phòng,thanh phân cách);Công ty thưong mạI và phát triển kỹ thuật Tân Đức (radio);và Công ty TNHH Yazaki FDS Việt Nam và công ty TNHH Sumi Hanel (dây đIện);và Công ty TNHH Harada Việt Nam (ăng ten)....
Và ngày 7/3 vừa qua,đúng một năm sau khi xây dựng, công ty Toyota Việt Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà máy sản xuất chi tiết thân xe đầu tiên ở Việt Nam tạI xã Phúc Thắng,HUyện Mê Linh ,Tỉnh Vĩnh Phúc .Với nhà máy này,Toyota VIệt Nam trở thành nhà tiên phong trong việc giới thiệu quy trình dập chi tiêt thân xe tạI VIệt Nam trong khi các liên doanh khác ở VIệt Nam mới chỉ áp dụng 3 quy trình :hàn,sơn và lắp ráp).
Dự lễ khai trương Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung HảI đã phát biểu:
“Dự án này cua Toyota Việt Nam góp phần phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam thông qua việc taưng giá trị nội địa hoá,tạo thêm công ăn việc làm và thúc đẩy chuyển giao công nghệ mới”
Gần đây nhất vào ngày 9/10, Công ty Toyota Motor Việt Nam cũng đă khởi công xây dựng trung tõm xuất khẩu linh kiện ụtụ. Với dự ỏn này, Toyota VIệt Nam đó mở rộng hoạt động kinh doanh từ sản xuất và tiờu thụ ụtụ sang xuất khẩu linh kiện, phụ tựng ụtụ.
Với trung tâm mới này, Toyota sẽ đặt hàng gia công và mua từ các nhà cung cấp trong nước bao gồm các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng ôtô; sau đó, gia công, đóng gói ghi nhón và xuất khẩu hơn 80%. Phần linh kiện cũn lại sẽ được sử dụng cho nhu cầu sản xuất ôtô Toyota tại Việt Nam…
Trung tâm này được đầu tư 5,2 triệu USD và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào 6/2004. Giai đoạn đầu, Toyota VIÖt Nam sẽ đặt hàng linh liện từ nhà máy Denso Việt nam và Harada Việt Nam với tổng sản lượng đạt 1.065.000 linh kiện/năm.Toyota chú ý đến xuất khẩu linh kiện ôtô 13:50', 9/10/ 2003 (GMT+7)
Nhìn nhân rằng Toyota Việt Nam đã rất cố găng để tăng tỉ lệ nội đia hoá, tuy nhiên, tốc độ tăng tỷ lệ nội địa hóa không phụ thuộc hoàn toàn vào nhà sản xuất và lắp rỏp ụtụ. Vì vậy còn một số khó khăn đang phảI đối măt.
b/Nhưng khó khăn gặp phảI:
Trước hết, mỗi nhà sản xuất ôtô có quan hệ với hàng chục nhà cung cấp linh kiện, nên việc thay đổi không hẳn là dễ dàng.
Thờm vào đó, dung lượng thị trường có ý nghĩa quyết định đối với việc nội địa hóa. Các nhà sản xuất linh kiện chỉ có thể đầu tư vào một thị trường nếu họ thực sự thấy thị trường đó giàu tiềm năng, nói cách khác là có sức tiêu thụ đủ lớn. Quy mô thị trường Việt Nam cũn quỏ nhỏ, khụng thể hấp dẫn cỏc nhà đầu tư.
Chính vì thế cho nên cho dù Toyota có hết cức cố gắng kêu gọi các nhà sản xuất linh kiện ôtô vào VIệt Nam thì cũng vân còn rất nhiều đIều khó khăn.Nếu như không có các chính sách nhưng đIều kiện phát lí hỗ trợ thêm thì thức sự là khó thu hút.
Thêm vào đó, độ lớn thị trường cũn quyết định khả năng đầu tư cho nội địa hóa của các nhà sản xuất lắp ráp, bởi yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô sản xuất, giá thành, giá bán và doanh số của các DN. Tại những thị trường lớn, nhà sản xuất có thể mở rộng quy mô sản xuất, giảm giá thành nhờ tận dụng tính kinh tế, do đó giảm giá bán lẻ và nâng doanh số. Sau một thời gian tích luỹ, họ mới có thể tái đầu tư và nghĩ đến việc tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Ngay như Toyota VIệt Nam khi đầu tư xây dựng nhà máy dập thân xe ôtô đầu tiên ở VIệt nam đã được nhắc ở trên,nhà máy có vốn đầu tư ban đầu là 7 triệu USD cho một kiểu xe Corolla,bao gồm việc xây dựng nhà xưởng,trang bik máy dập .nhà máy không những yêu cầu thực hiện những tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe trong việc xây dựng nhà xưởng ,lắp đặt máy, bảo dưỡng các khuôn dập,gia tăng thêm khối lượng công việc hàn ,quản lí chất lượng sản phẩm mà còn đội ngũ kĩ sư bảo dưỡng máy dập,khuôn dập và đồ gá có tay nghề cao.
Và theo ông Sagawa,Tổng giám đốc ToyotaVIệt Nam ,thì với quy mô sản xuất nhỏ như tạI nhà máy Toyota VIệt Nam,việc đưa nhà máy này vào hoạt động không đem lạI nhiều lợi ích kinh tế nhưng Toyota Việt Nam vẫn quyết định thực hiện.
Hơn nữa , khi khởi động quá trỡnh đầu tư, các nhà sản xuất ôtô cho rằng thị trường Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, điều đó đó khụng xảy ra. Sức tiờu thụ sản phẩm ụtụ của khỏch hàng Việt Nam hiện vẫn quỏ yếu so với tớnh toỏn của họ, do đó, việc mở rộng sản xuất và đầu tư cho nội địa hóa không hề dễ dàng.Và thực sự là các liên doanh ôtô đều cho rằng việ nội địa hoá là không thể thực hiện được trong “một sớm ,một chiều”.
II.3.2.2: Toyota Việt Nam lo lắng trước quyết đinh tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô:
A/Khó khăn trước mắt:
Việc “đột ngột” tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô cua chính phủ đã tạo ra những khó khăn có thể thấy như sau:
-Giá xe ôtô sẽ tăng dẫn đến việc người tiêu dùng VIệt Nam phai chịu một mức giá “cắt cổ”
-Hậu quả tất yếu la nhu cầu sử dụng xe sẽ giảm xuống keo theo sự thu hẹp thị trường ảnh hương nhieèu tới sự tăng trương đang trên đà của ngành công nghiệp ôtô
-Thị trượng bi thu hẹp dân đến các nhà san xuất và lắp ráp ôtô trên thị trường Việt Nam không dám mở rộng quy mô sản xuất,không tích luỹ được để táI đầu tư cũng như đầu tư sản xuất linh kiện giup năng cao tỉ lệ nội địa hoá.
-Việc thay đổi chinh sách đột ngột không làm yên lòng các nhà đầu tư có ý định đến Việt Nam và môtj loạI những dự án lớn chuẩn bị vào Việt NAm lai phảI gác lại.....
ĐIểm qua những khó khăn đó cho thấy viêc cần xem xét lai quyết đinh và cach thức ra quyết định cuả chính phủ Việt Nam.
BàI viết xin được làm rõ hơn vân đề như sau.:
"Xe ụtụ giờ đă đắt rồi, nếu c̣n tiếp tục tăng giá th́ thật khó hiểu, có lẽ thôi không mua nữa vậy" - anh Chung (Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội), một khách hàng đến xem ôtô đã “ngán nhẩm” nhận xét.
Đúng như vậy,có thể lấy ví dụ,giá của loạI xe Land Cruiser tăng từ 56500 USD lên đến 59000USD/xe,tăng khoảng 4,4%.Thật là một con số cần xem xét.Đó là phản ứng do việc ra Quyết định 146 về việc tăng mức thuế nhập khẩu linh kiện ôtô.
Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô đang rất lo lắng trước việc từ 1/1/2003, xe và phụ tùng ôtô nhập khẩu sẽ bị đội thuế lên hơn nhiều so vớI hiện nay. Oái ăm hơn là từ thời điểm Bộ Tài chính ra quyết định này đến ngày thực hiện chỉ vẻn vẹn có 4 tuần.
Tại cuộc hội thảo chuyên đề về chiến lược, chính sách phát triển công nghiệp ôtô Việt Nam do Bộ Công nghiệp tổ chức cuối tuần qua, quyết định tăng thuế nhập khẩu một loạt các loại xe ôtô của Bộ Tài chính là đề tài tranh luận căng thẳng giữa các đại biểu. Theo đó, sang năm tới, ôtô đă qua sử dụng phải chịu thuế nhập khẩu tăng gấp rưỡi, xe lắp ráp thuế nhập khẩu tăng từ 20% lên 40% vào năm 2003, và 70% vào năm 2004. Đặc biệt, quyết định này gây “sốc” mạnh cho doanh nghiệp ôtô khi họ không hề được hỏi ư kiến cũng không được báo trước.
“Không thể hiểu được về chủ trương của Bộ Tài chính khi Chính phủ Việt Nam vừa thông qua chiến lược khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất phụ tùng ôtô, th́ ngay sau đó, Bộ Tài chính đă có một quyết định gần như trái ngược”, ông Jung In Kim, Tổng giám đốc Vidamco, Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (Vama), bức xúc.
Theo tính toán của Vama, nếu triển khai thực hiện quyết định tăng thuế, năm 2003, giá bán xe ôtô sẽ tăng khoảng gần 20%, năm 2004 tăng gần 40%, thị trường thu hẹp c̣n một nửa và nhiều doanh nghiệp sẽ ngừng hoạt động. Chính v́ vậy, hiệp hội đang chuẩn bị tŕnh Chính phủ xem xét lại quyết định của Bộ Tài chính.
Ông Ono, đại diện của Tổ chức Jica (Nhật Bản), nói: “Rồi đây Nhật Bản cũng phải xem xét lại chính sách đầu tư vào Việt Nam, khi mà ngay sau sự kiện xe máy lại tiếp tục có một sự kiện ôtô!”.
Quả thực việc ra quyết đinh tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô của chính phủ đã làm ngỡ ngàng các nhà sản xuất và lắp ráp ôtô trong thị trường Việt Nam.
Phản ứng cua Toyota cũng như các doanh nghiệp ôtô khác đó là tăng giá bán cua ôtô.Toyota VIệt Nam đI đầu trong đợt tăng giá này.Toyota Việt Nam quyết định tăng giá khoảng từ 2,5% đến 4%.Như vậy nguy cơ là người tiêu dùng trong thị trường Việt nam có nguy cơ sẽ phảI mua xe ôtô với mucs giá cao hơn .ĐIều naỳ quả thực là vô lý vì giá xe ôtô ở Việt nam hiện tạI cũng đang ở mức cao nhất thế giới rồi(đắt hơn khoang 70% so vơí Châu Âu và 30% so với Châu á).
Đồng thời, với việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện lắp ráp ôtô, có nghĩa là giá xe ôtô sẽ tăng ,chắc chắn nhu cầu mua ôtô sẽ giảm sút. Như vậy, quy mô thị trường nếu không bị thu hẹp thỡ cũng khụng thể phỏt triển mạnh mẽ được. Các nhà sản xuất ôtô do đó càng khó thực hiện nội địa hóa.
Trước tình hình như vậy,ông Lâm Chí Quang –phó Tông giấm đốc Công ty Toyota Việt NAm cũng nhận đinh rằng chính do việc các chinh sách không ổn định,thuế luôn luôn thay đổi theo chiều hướng không có lợi mà một loạt những dự án lớn chuẩn bị đầu tư sản xuất phụ tùng ôtô đều tạm gác lại.
B/Doanh nghiệp lên tiếng
Nhận xét cho rằng viẹc tăng thuế nhập khẩu linh kiện ôtô có thể đẩy ngành công nghiệp ôtô Việt Nam rơI vào tình trang phá sản.
Tronh tình hình này buộc những người trong cuộc phai lên tiếng.
Ông Lâm Chí Quang - Phó tổng giám đốc Toyota Việt Nam đã nhận đinh về tình hình trên như sau:
- Công nghiệp ôtô Việt Nam c̣n quá non trẻ, phát triển mới chỉ có 5-7 năm. Đó không phải là quá tŕnh dài, tất cả các nguyên liệu hầu như không có, chúng tôi phải nhập khẩu. Thực chất việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cũng phải dần dần. Chẳng hạn như Toyota hiện nội địa hóa khoảng 15-16%. Chúng tôi đang chuẩn bị hoàn chỉnh một nhà máy dập vỏ ôtô, đầu tư 7 triệu USD. Quyết định trên coi lắp ráp sản xuất ôtô trong nước như nhập khẩu xe IKD, có nghĩa đầu tư của chúng tôi là quá tải. Đây thực sự là một cú sốc với chúng tôi.
Thực tế cho thấy, tác động xấu nhất mà Toyota Việt Nam cùng các nhà sản xuất và lắp ráp ôtô khác đang phai đương đầu là kế hoạch sản xuất bị đổ vỡ. Với diễn biến thị trường thuận lợi năm qua, hầu hết các hăng đă có kế hoạch tăng sản lượng, các hợp đồng nhập khẩu linh kiện đă kư kết và thậm chí đang trên đường vận chuyển, phải lập lại kế hoạch tài chính để có thêm tiền nộp thuế nhập lô hàng này. Sau đó, lượng lớn linh kiện đă mua sẽ bị tồn đọng v́ lượng tiêu thụ xe giảm do tăng giá. Những hăng không đủ tiềm năng tài chính có thể sẽ phá sản trong biến động này.
Trước tình hình trên,Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA)đã phảI gửi kiến nghị yêu cầu Chính phủ xem xét lai việc ban hành luật thuế này
Ông Lâm Chí Quang đã phảI “thốt” lên rằng “Nếu kiến nghị này không được chấp nhận ,các công ty sản xuất ôtô sẽ chết”
Xin đựoc trich dẫn một đoạn của bản kiến nghị đó như sau:
-Qua lá thư này, chúng tôi muốn bày tỏ sự lo ngại sâu sắc về việc từ ngày 1/1/2003 Chính phủ sẽ tăng thuế nhập khẩu linh kiện CKD lên cao gấp nhiều lần mức thuế hiện nay, theo Quyết định số 146/2002/QĐ/BTC kư ngày 4/12/2002 của Bộ Tài chính. Tất cả các thành viên của VAMA hết sức bàng hoàng và sửng sốt khi đọc quyết định này. Chúng tôi không thể hiểu được tại sao Chính phủ một mặt tuyên bố khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô, mặt khác các chính sách của Chính phủ lại đang t́m cách loại bỏ nó.
Quyết định tăng thuế nhập khẩu linh kiện CKD này chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng giá bán xe ôtô và hậu quả là làm thu hẹp đáng kể thị trường ôtô vốn đă quá nhỏ bé của Việt Nam. Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi, giá bán lẻ xe ôtô do VAMA sản xuất sẽ tăng ít nhất là 15% vào năm 2003 và thị trường sẽ thu hẹp lại c̣n dưới 50% so với hiện nay. Và vào năm 2004, giá bán lẻ sẽ tăng 35% và chắc chắn rằng đa số các doanh nghiệp sản xuất ôtô ở Việt Nam sẽ phải đóng cửa nhà máy của ḿnh.
- Với Quyết định số 146/2002/QĐ/BTC của Bộ Tài chính, Chính phủ lại một lần nữa cố gắng làm tăng giá bán xe thông qua việc tăng thuế nhập khẩu CKD. Việc này sẽ làm cho thị trường ôtô bị thu hẹp đáng kể và sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô. Thông qua việc loại bỏ loại h́nh lắp ráp IKD như đă nêu trong quyết định này, Chính phủ dường như thôi không khuyến khích các nhà sản xuất nội địa hóa phụ tùng ôtô đặc biệt là phụ tùng thân vỏ xe.
Tóm lại, qua các xu hướng nói trên chúng tôi có thể kết luận rằng Chính phủ đang t́m mọi cách ngăn cản sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong khi vẫn tuyên bố là “Cải thiện môi trường đầu tư” và “Khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô”.
Trứoc những ý kiến của các nhà sản xuầt ôtô,thật may măn là chính phủ đã chính thức tuyên bố là sẽ xem xét và đIều chỉnh lạI cho hợp lí quyết đinh 146.
II.3.3: Chiến lược tiếp tục phát triển của Toyota tạI Việt Nam:
Ông Lâm Chí Quang, Phó Tổng Giám đốc khẳng định “ Toyota Việt Nam dù gặp rất nhiều khó khăn bởi sự không ổn định trong các chính sách thuế của Việt Nam, Toyota Việt Nam vẫn cố gắng theo đuổi một chiến lược làm ăn lâu dài tại Việt Nam’’. Nhưng cũng như các doanh nghiệp ôtô khác, Toyota Việt Nam hy vọng Chính phủ ghi nhận và có cái nh́n tích cực hơn đối với quá tŕnh nội địa hoá của các nhà sản xuất ôtô ở Việt Nam.
Ngày 11 tháng 10 năm 2002,Toyota Việt Nam đã tổ chức buổi họp báo tập trung đè cập đén những nỗ lực của Toyota VIệt Nam trong việc thực hiện kế hoạch toàn diện để phát triển mình nói riêng và xây dựng ngành công nghiệp ôtoo Việt Nam nói chung.
Trên tinh thần mong muốn được đầu tư lâu dàI và chia sẻ thành công với đất nước Việt Nam,ngành công nghiệp Việt nam và những khách hang cua Toyota,Toyota Việt Nam đã xây dựng 4 chương trình trong Chiến lược tiếp tục phát triển của Toyota tạI Việt Nam bao gồm:
-1: Là nhà sản xuất ôtô thực sự tạI Việt Nam:
Toyota táI đầu tư vào cơ sở sản xuất với việc đầu tư xây dựng nhà máy với dây chuyền dập thân xe dầu tiên tạI Việt Nam.Với việc này Toyota Việt Nam đã đẩy mạnh được việc chuyển giao công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
-2: Dẫn đầu về phát triển hoạt động sản xuất phụ tùng tạI Việt Nam:
Toyota VIệt Nam nhân thức được rằng ngành công nghiệp phụ tùng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô.Toyota Việt Nam đã có những bước đI ban đầu trong việc kêu gọi các nhà đầu tư sản xuất phụ tùng ôtô vào Việt Nam với dự an Denso Việt Nam và tổ chức hội thảo xúc tiến đầu tư vào Việt Nam diễn ra tạI Nhật..Thêm vào đó Toyota Việt Nam quyết tâm đẩy mạnh hoạt động nội địa hoá.
-3:Tiên phong trong các hoạt động đóng góp xã hội:
Bên cạnh các hoạt động đóng góp cho giáo dục,văn hoá,thể thao,Toyota Việt Nam tiếp tục giới thiệu một số dự án về môI trường ....
-4:Mở rộng thị trường thông qua việc cảI tiến sản phẩm va đIều chỉnh giá: Xuất phát từ thực tế là ngành công nghiệp ôtô hiện đạI không thể tách rời với quy mô sản xuất lớn.Toyota Việt Nam hương tới phục vụ khách hang ngày một tốt hơn để mở rộng thị trường tạo đIều kiện ho sự phát triển trong ngành công nghiệp của mình
Để thực hiện thành công chien lựoc cua mình,Toyota Việt Nam ngoàI sự nỗ lực chủ quan thì Ban Lãnh đạo Công ty cũng rất nhấn mạnh tới sự ghi nhận và tạo đIều kiện cua Chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong việc ra các chinh sách trong khuôn khổ Hành lang Pháp lý cua Việt Nam.Chỉ có như vậy Toyota Việt Nam mới thực sự có thể phát triển và tiếp tục những đóng góp quan trong cho ngành Công nghiêp ôtô đầy tiềm năng cua Việt Nam
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO TOYOTA VIỆT NAM
TRONG MÔI TRƯỜNG PLVN
III.1: Giải pháp từ phía Chinh phủ Việt Nam:
III.1.1: Giải pháp trong tình huống cua Toyota Viẹt nam nói rieng và ngành ôtô Việt Nam noi chung:
Trong những vấn đề mà Toyota VIệt Nam nói riêng và ngành công nghiêp ôtô của Việt Nam nói chung đang phảI đối mặt thì Chính phủ cần nên xem xét đến những đIểm sau:
-Do các chính sách của Chính phủ luôn luôn thay đổi nên các doanh nghiệp không thể lập được kế hoạch phát triển dài hạn cho ḿnh. Điều này là không thể chấp nhận được trong môi trường kinh doanh nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng.
CHÍNH VÌ THẾ CHÍNH PHỦ CẦN CÂN NHẮC SAO CHO CÓ SỰ ỔN ĐỊNH NHẤT ĐỊNH TRONG HỆ THÔNG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA MÌNH.
-Nên có sự lăng nghe ý kiến của các nhà ngiên cứu có chuyên môn và đặc biệt là của những chủ thể la cá đối tượng trực tiếp liên quan đến vấn đề đIều chỉnh.Như trong trương hợp của ngành ôtô Viêt Nam thì VAMA cũng có đễ xuất là:
Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp hợp tác với Viện nghiên cứu kinh tế Nhật Bản sẽ hoàn thành đề tài nghiên cứu chung về định hướng và chính sách phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam. Nghiên cứu của cả hai viện đều đi đến kết luận là để phát triển ngành công nghiệp ôtô cần phải mở rộng thị trường tiêu thụ. VAMA hy vọng rằng Chính phủ sẽ lắng nghe những lời khuyên bổ ích của các chuyên gia nước ngoài, ví dụ như Viện nghiên cứu kinh tế Nhật Bản.
Để phát triển ngành công nghiệp ôtô, các doanh nghiệp và các cơ quan của Chính phủ, cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau t́m ra con đường tốt nhất để phát triển kinh tế và đưa Việt Nam lên vị trí quan trọng trong nền kinh tế khu vực cũng như thế giới. Nếu Chính phủ tiếp tục đề ra những chính sách bất hợp lư và không ổn định th́ Việt Nam sẽ măi măi mất đi cơ hội phát triển ngành công nghiệp ôtô thực sự của ḿnh. Hơn nữa, điều này sẽ gây ấn tượng không tốt về Chính phủ Việt Nam dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như của các thành phần kinh tế khác.
-Về vấn đề tỉ lệ nội địa hoá thì Chinh phủ nên cân nhắc :
Tỷ lệ nội địa hoá ôtô được đặt ra từ khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực, nhưng không thể áp dụng cứng nhắc tỷ lệ 10% nội địa hoá bởi có doanh nghiệp chỉ sản xuất một loại phụ tùng nhưng nhiều đến mức có thể xuất khẩu hoặc đổi lấy các loại phụ tùng khác thỡ việc tớnh tỷ lệ nội địa hoá nên chăng cần linh hoạt hơn?
Thêm vào đó nữa như đã phân tich ở Chương II,việc nội địa hoá không chỉ phụ thuộc vào riêng doanh ngiệp sản xuất ôtô,mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa .Cho nên Chính phủ cần có sự linh hoat trong quy đinh này.
-Một vấn đề nữa là khi có sự thay đổi,các doanh nghiệp cần có thời gian chuẩn bị để tìm ra chiến lược mới thich hợp.Cho nên Chinh phủ nên tránh thay đổi quá đột ngột dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực cho các doanh nghiệp.Như trong trường hợp tăng thuế nhập khẩu linh kiện từ ngày ban hành cho tới ngày thực hiện chỉ vẻn vẹn trong vòng 3 tuần khiên cho các doanh nghiệp sản xuất ôtô không kịp chở tay chỉ còn biết kêu,kiến nghị Chinh phủ ,nếu không thành công thì không ít doanh nghiệp sẽ rơI vào tình trạng phá sản ,đIều đó kéo theo nguy cơ phá sản cả của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.
III.1.2: Nhưng cải cách nên có của chinh phủ :
Từ những khó khăn mà Công ty Toyota Viẹt Nam noi riêng cũng như ngành ôtô Việt Nam nói chung gặp phảI thì có lẽ Chính phủ nên cân nhắc hôn trong việc ban hành những quyết đinh và đinh hướng
Cũng theo như phân tich ở Chương II thì sự thu hút FDI là rất quan trọng,nên theo nhân dịnh của một số nhà ngiên cưu ,có một số đề xuất giảI phap về phía chính phủ như sau:
-Mặc dù chính phủ đó tiến hành cỏc biện phỏp nhằm xua tan những mối lo ngại của cỏc nhà đầu tư song vẫn cần phải thêm các biện pháp khác nữa.
Nhưng Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để cải thiện môi trường đầu tư và buôn bán ở một số lĩnh vực cụ thể như hệ thống pháp lý và chấm dứt sự phõn biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.(áp dụng chế độ hai giá...)
-Những quyết định điều chỉnh thuế cần phải được xem xét trên một chiến lược phát triển tổng , như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài.
-Chiến lược nội địa hoá phảI được cân nhắc kĩ vì chưa làm ttót đựoc sự phân công lao động cần thiết nên chưa lương được khả năng của quốc gia mình dẫn đên việc không thành công.
-Cần tạo ra cá chính sách ổn đinh và thông thoáng:
Cần xoá bỏ các rảo cản như:không có chiến lược dáI hạn và nhất quán;hệ thống hành chính trì trệ kém hiệu quả;luật lệ quy đinh chồng chéo;sự phức tạp và thiếu minh bạch trong việc tinh toán các mức thuế;thủ tục hảI quan phức tạp;quy định về giao dịch hối đoáI;quy định về tỉ lệ nội địa hoá;hạn chế xuát nhập khẩu linh ,phụ kiện;vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
III.2: Giải pháp từ phía Toyota Việt nam:
Tuy Toyota Việt Nam đã có những thành công nhất định ,như việc đã dẫn đầu trong việc đạt tỉ lệ nội địa hoá,và đã có sự tiếp tục đầu tư theo đinh j hương sẽ nâng cao tỉ lệ nội địa hoa theo chiến lược phát triển ngành ôtô noi chung của VChính phủ VIệt Nam.
Nhưng để có thể đạt được kết quả tốt hơn trong hoạt động kinh doanh tạI thị trường Việt Nam cũng như trong môI trường luật pháp của Việt Nam thì Bna lãnh đạo công ty cũng có những giải pháp tình thế trước những biếh động không thể dự kiến trước như:
-Cần phảI đưa ý kiên trình lên chính phủ với những vấn đề mà công ty bị ảnh hưởng với tư cách là người trong cuộc để chính phủ xem xét có sự đIều chỉnh hợp lý.
-Thiết lập những chiến lược phát triển lâu dàI nhưng cần có độ linh hoạt cao vì để đáp ứng được thực tế là Công ty Toyota VIệt Nam đang kinh doanh trong một môI trường kinh tế cũng như Luật pháp của Việt Nam là một môI trường đang trên đường hoàn thiện nên còn có sự chưa ổn định.
-Nỗ lục kêu gọi các nhà đầu tư linh kiện đến thị trường Việt Nam nhiều hơn,đông thời có chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa.
Và cũng như Ban giám đốc cua Toyota Việt Nam đã khẳng định ,Toyota Việt Nam sẽ cố gắng khắc phục những khó khăn với quyết tâm thực hiện chién lược phát triển lâu dàI tạI thị trường Việt Nam với mục tiêu phát triển cùng gới nền kinh tế của đát nước Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp ôtô Việt Nam noi riêng
KẾT LUẬN
Qua nhưng ngiên cứu viết ở trên một lần nữa xin được khẳng định lai tính chất quan trong của việc kết hợp hàI hoà giữa Chính sách của chính phủ với lợi ich cua doanh nnghiệp là yếu tố tiên quyết tới sự thành công của một nền kinh tế
Trong bối cảnh kinh té hội nhập và toàn cầu hoá ,việc thu hút FDI luôn đựoc đặt lên hàng đầu đối với những quốc gia như Việt Nam.
Và các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trưòng Việt Nam nên ngiên cưu kĩ tìm hiểu những thuân lợi và khó khăn từ môI trương kinh doanh này,đặc biệt là về yếu tố Luật pháp từ đó tìm ra những đối sach,chiến lược cho công ty mình
Như Toyota Việt Nam là minh chứng khẳng định những mặt được của thị trưòng Việt nam nếu các doanh nghiệp biết gắn lợi ich và chiến lựoc của công ty mình với sự phat triển chung và định hướng của Chính phủ Việt Nam
Về phía Chính phủ Việt Nam nên chăng là cần hoàn thiẹn hơn nữa hệ thống chính sách để đạt đựoc tính ổn đinh cao hơn.Đồng thời nên lắng nghe từ phía các doanh nghiệp và những nhà ngiên cưu có liên quan để câc nhắc trước nhưng thay đỏi có tinh quyết định .
Bài viết khép lại ,chỉ mong mang đến một cáI nhìn vừa tông quan vừa cụ thể đến một vấn đề, một tình huống trong hiên trạng nền kinh tế muôn mầu sắc của Việt Nam.
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***-------
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề tài:
TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ LP VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY TOYOTA VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn
:
PGS.TS. Nguyễn Thị Hương
Sinh viên thực hiện
:
Trần Thu Hiền
Lớp
:
QTKD Quốc tế
Khoá
:
42
Hệ
:
Chính quy
HÀ NỘI - 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoạt động kinh doanh của Toyota Việt Nam với sự thích nghi trong môI trường Luật pháp Việt Nam.doc