Đề tài Hưởng của tình trạng dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam

Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách để phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối nhằm khắc phục tình trạng dollar hoá nền kinh tế. Việc lựa chọn tỷ giá thả nổi có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Vì chế độ tỷ giá cho phép chũng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường, vùa phát huy vai trò quản lý điều tiết linh hoạt của Nhà nước để đạt được các mục tiêu yêu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên để có chính sách tỷ giá hợp lý cần phải hoàn thiện các vấn đề có tính then chốt như: “củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH - một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều hành tỷ giá. NHNN phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Xác định được một cơ cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá ngoại tệ mạnh để làm căn cứ ấn định tỷ giá đồng Việt Nam chứ không nên chỉ neo giữ VND vào USD.

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2593 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hưởng của tình trạng dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 Ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam…....12 Tác động tích cực……………………………………………….12 Tác động tiêu cực……………………………………………….13 Phần III: các quan điểm và kiến nghị…………………………………….16 Quan điểm của Nhà nước về dollar hoá………………………………16 Các giải pháp kiến nghị………………………………………………..16 Một số giải pháp được đề xuất…………………………………16 Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất…………...17 Một số kiến nghị có khả năng thực hiện……………………….19 Kết luận……………………………………………………………………..22 DANH SÁCH NHÓM Họ và Tên MSSV Ghi chú Trần Trọng Dinh 10201041 Trần Thị Cẩm Tú 10280041 Nguỵ Ngọc Trường 10279041 Nguyễn Hoà Bình 10239631 Hà Quỳnh Duyên 10253731 Lê Thị Hồng Ngân 10229691 Trịnh Thị Nguyệt Thức 10243761 Nguyễn Thị Băng Tâm 10200541 Trần Thị Phương Duyên 10257451 Khổng Thị Kim Oanh 10240071 Phạm Thị Phương Tâm 10242911 Trịnh Thị Thuý Kiều 10136611 Nguyễn Thị Mai Hương 10051891 Cao Bé Liễu 10074421 Phạm Thị Vân 10136331 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... NỘI DUNG Phần I: VÀI NÉT VỀ DOLLAR HOÁ VÀ THỰC TRẠNG DOLLAR HOÁ TẠI VIỆT NAM 1.1. Khái quát về dollar hoá 1.1.1. Khái niệm dollar hoá. Thông thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Một khi nền kinh tế có tỉ lệ lạm phát cao, sức mua đồng bản tệ giảm xuống thì người dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như làm thước đo giá trị. Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc trong một số chức của tiền tệ thì có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá” hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do nó là một ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi lớn nên thuật ngữ “dollar hoá” được xem là đồng nghĩa với “ngoại tệ hoá”. Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một số nước có thể xác định qua các hình thức: Đồng dollar được xử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, trong công chúng qua các hành vi mua bán hàng hoá, trả phí dịch vụ, thanh toán nợ và tạo lập tài sản bằng đồng dollar. Hệ thống ngân hàng cho xử dụng rộng rãi các loại tiền gửi, tiền tiết kiệm, trái phiếu ngân hàng bằng đồng dollar và cho vay bằng đồng dollar 1.1.2. Phân loại dollar hoá Theo IMF, tỉ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ với các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng (M). Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi bị dollar hoá cao. Theo đánh giá của IMF quý I/2010, Việt Nam được xếp vào nước có mức độ “dollar hoá vừa phải” với tỉ lệ khoảng 16.5%-18%. Về cơ bản, dollar hoá gồm 3 loại chính là: Dollar không hoá chính thức (unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức (semioficial dollarization) và dollar hoá chính thức (official dollarization). Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nề kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ “Dollar hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản ở nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp. Ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản tại các ngân hàng nước ngoài trừ khi được cấp phép. Dollar hoá không chính thức có thể gồm các loại sau: Các trái phiếu phi ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài; Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài; Tiền gửi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước; Trái phiếu hay các giấy tờ có giá trị bằng ngoại tệ cất trong túi. Dollar hoá không chính thức được chia làm 3 giai đoạn: Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của dollar hoá không chính thức là giai đoạn “thay thế tài sản” (asset substitution). trong giai đoạn này, người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản xung công mà một số nước đã làm. Giai đoạn thứ hai của dollar hoá không chính thức được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ” (currency substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước (nếu được phép). Ngoại tệ vừa thực hện chức năng là phương tiện thanh toán vừa là phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hằng ngày như tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nội tệ, nhưng với các tài sản giá trị hơn như xe cộ, nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn cuối cùng của dollar hoá không chính thức, giá cả của hàng hoá được niêm yết bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái. Dollar hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển. VD: Ở thời điểm tháng 1/2000, hầu hết các nước Mĩ_LaTinh và Caribe như Argentina, Bolivia, Mecico, Peru, Trung Mĩ; hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ như Armenia, Azerbajian, Georgia, Nga và Ukraine; nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Romania, Thổ Nhĩ Kì và Việt Nam đều ở tình trạng dollar hoá không chính thức. Dollar hoá bán chính thức: khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “dollar hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành hai đồng tiền. VD: Bahamas, Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Liberia. Ở các nước này, đồng ngoại tệ là đồng lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong hệ thống tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và các chi tiêu hằng ngày. Không giống các nước dollar hoá chính thức, các nước dollar hoá bán chính thức duy trì Ngân hàng trung ương (NHTƯ) như một cơ quan tiền tệ có quyền hạng tương ứng để thực hiện các chính sách tiền tệ của họ. Dollar hoá chính thức: hay còn gọi là dollar hoá hoàn toàn (full dollarization) xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn là hợp pháp trong các khoản thanh toán của chính phủ. Nếu đồng nội tệ tồn tại thì nó chỉ là những đồng xu hay những đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường chỉ áp dụng dollar hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Dollar hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước dollar hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp, chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Petoza của Tây Ban Nha. Ở hầu hết các nước dollar hoá chính thức, các đối tác tư nhân được quyền kí kết hợp đồng bằng bất kì đồng ngoại tệ nào mà họ cùng đồng ý. Theo IMF, hiện có khoảng 14 nước được xếp là các nước dollar hoá chính thức. Theo nghiên cứu của cục dự trữ liên bang Mĩ, hiện tại, người nước ngoài nắm giữ khoảng 55% đến 70% số dollar Mĩ lưu hành. Còn theo ước tính của Bundesbank, người nước ngoại nắm ngữ khoảng 40% số dollar Mĩ được lưu hành. 1.2. Thực trạng dollar hoá ở Việt Nam Việc xuất hiện tình trạng dollar hoá ở Việt Nam ai cũng có thể nhận biết rằng, chỉ sau những năm đầu của cuộc đổi mới kinh tế, Nhà nước và nhân dân mới có dịp tiếp cận khá nhiều và thường xuyên sử dụng USD cho nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu của người dân. Cũng thời điểm đó, người ta mới bắt đầu làm quen với tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối, kinh tế ngoại tệ. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thực sự làm cho mọi cánh cửa để phát triển kinh tế, giao lưu kinh tế với nước ngoài được mở theo nhiều hướng, đa dạng và phong phú. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối, ngoại tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách mở cửa của nhà nước không chỉ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mà còn động viên, cổ vũ các nhà đầu tư trong nước. Đây chính là ngòi nổ, đột phá cho việc đẩy mạnh, phát triển và tăng cường mọi giao lưu kinh tế với bên ngoài. Do vậy, Luật Đầu Tư Nhà Nước ra đời, luật quản lý ngoại hối được thông qua đã mở cửa cho các đồng vốn nước ngoài và đồng USD nhanh chóng khẳng định vai trò của nó nhu có sẵn trên thị trường toàn cầu. Tình trạng dollar hoá ở Việt Nam có những biểu hiện chính sau: Thứ nhất: Hệ thống ngân hàng sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ bằng đồng dollar. Có thể nói dư âm của lạm phát cao trên thế giới cuối thập khỉ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư. Mặt khác, lãi suất tiết kiệm USD tăng dần khiến dân cư lựa chọn giải pháp an toàn là tiết kiệm bằng đồng ngoại tệ. Điều này làm làm cho tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng lên. Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3 VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Đơn vị: % (số liệu đến hết tháng 9 năm 2001) [Nguồn: báo cáo thường niên của ngân hàng nhà nước năm 1999 và thời báo ngân hàng năm 2000.] Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh toán cho các hoạt động buôn bán, các bên xuất - nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ đồng tiền của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông thường là các đồng tiền mạnh. Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của NH nhờ đó mà tăng hơn. Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Ngoại tệ 38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6 VND 61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Đơn vị: % (Số liệu tính đến hết tháng 10/2000) [Nguồn: tạp chí NH năm 2000, TTXVN.] Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế dollar hoá, các ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nên rủi ro phá giá cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy vay ngoại tệ của hệ thống NH Việt Nam đến năm 2000 chiếm chưa đến 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống NH. Như vậy, những biểu hiện của hiện tượng dollar hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái dollar hoá tiền gửi. Thứ hai: Các ngân hàng thương mại (NHTM) có khối lượng USD lớn ở các NH nước ngoài được xem như là “Xuất khẩu tư bản”. Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay bằng ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ được NH sử dụng để đầu tư kiếm lời cho mình thông qua các hoạt động trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống NH Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷ trọng 135 148 151 104 73 47 33 Đơn vị:% (Nguồn: tạp chí NH 2000, TTXVN, báo cáo thường niên của NHNNVN 1999) Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ trong giai đoạn 1994-1997, cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động của các NH, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp nguồn vốn thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các NH kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thương mại của cả nước là nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu cấp bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nước ngoài thì chúng ta gửi một khối lượng USD không nhỏ ở nước ngoài. Sự “đảo hối” này do chính sách tiền tệ và những chính sách kinh tế vĩ mô khác tạo ra là chưa hợp lý. Thứ ba: Xu hướng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa. đặc biệt dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lưu thông tiền tệ trong nước tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ tăng giá lớn hơn nhiều so với chỉ số giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là 145,4% và năm 1991 là 203,1%. Đáng quan tâm là năm 1999 và 2000 trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%) thì sức mua đối nội của VND tăng lên, nhưng sức mua đối ngoại lại giảm 4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000 giảm 3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến quý III/2001 tăng nhanh nhất nhưng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa trở lên hấp dẫn hơn. Thứ tư: Đồng USD được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam một cách tương đối phổ biến. USD được sử dụng để biểu hiện giá trị và đo lường giá trị của các hàng hoá dịch vụ. Giá cả hàng hoá được công khai ấn định bằng USD và được đăng tải trên các thông tin và giá cả thị trường. Thứ năm: Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành như một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với những tên gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1 vé). Hiện tượng này có thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ. Song song với việc tồn tại thanh toán bằng VND thì ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị, khách hàng kể cả người dân trong nước hay người nước ngoài đề có thể dễ dàng thanh toán bằng USD. Hiện tượng sử dụng USD đã xâm nhập vào mọi hoạt động của người dân Viêt Nam, từ việc mua kinh kiện máy vi tính cho đến phương tiện đi lại đều có thể dễ dàng giao dịch bằng USD. Ngoài ra, USD còn là phương tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp với các hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu. Phần II: NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG DOLLAR HOÁ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA DOLLAR HOÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Nguyên nhân của tình trạng dollar hoá Hiện tượng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua, các NH cũng như các nhà kinh tế học đã để xuất những ý kiến khác nhau về những nguyên nhân nào gây ra tình trạng dollar hoá. Họ đều phát hiện ra rằng hiện tượng dollar hoá thường xảy ra ở những nước có lạm phát cao và hậu quả của lạm phát. Tuy nhiên lạm phát không phải là nguyên nhân duy nhất giải thích hiện tượng dollar hoá trong thời kì hiện nay khi lạm phát đã được kiềm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp. 2.1.1. Nguyên nhân sâu xa Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới thì đó là: Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế đó. Dollar hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp, các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi qua nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát nhất là buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiểu ngạch. Trình độ dân trí, cùng tâm lý người dân. Các nước có trình độ dân trí chưa cao, người dân còn thói quen nắm giữ vàng và dollar thì thường là nền kinh tế có mức dollar hoá cao. Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh toán. Rõ ràng khi hoạt động NH còn non trẻ, hoạt động thanh toán chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường có tình trạng dollar hoá ở nền kinh tế. Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Nếu như đồng nội tệ ổn định, cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng dollar hoá nền kinh tế rất khó xảy ra. Khả năng chuyển đổi đồng nội tệ - đồng tiền của quốc gia đó. 2.1.2. Nguyên nhân trực tiếp Ngoài những nguyên nhân trên, tình trạng dollar hoá còn do những yếu tố sau: Biến động về ngoại tệ tại hệ thống NH trong những năm qua đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990, hay việc gia nhập WTO; sự tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Mĩ đã làm cho đồng dollar Mĩ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á xảy ra đã có những tác động nhất định làm giảm giá trị của đồng Việt Nam, và ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế trong nước. Trong khi đó, thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, với tâm lý muốn tiết kiệm để lo cho cuộc sống tương lai thì người dân lựa chọn những đồng tiền mạnh và ổn định. Đồng dollar được sử dụng khá tự do, trong cơ chế quản lý ngoại hối của nước ta hiện nay, người Việt Nam được nhận kiều hối, tiền của người thân gửi từ nước ngoài về bằng ngoại tệ không bắt buộc bán cho NH, nhận VND như trước đây. Trong bối cảnh VND liên tục giảm giá so với USD, lãi suất USD hấp dẫn nên rõ ràng họ không dại gì chuyển đổi sang đồng nội tệ-VND. Trước diễn biến về tỷ giá thị trường việc bán ngoại tệ thì dễ mà mua lại ngoại tệ của NH thì hết sức khó khăn. Trong khi đó tỷ giá các tháng lại liên tục thay đổi. Do đó, các doanh nghiệp sẽ hết sức tỉnh táo khi chỉ bán ngoại tệ theo tỷ lệ kết hối quy định, thậm chí còn chần trừ, trì hoãn việc bán mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu. Thu nhập USD trong tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là người Việt Nam làm việc ở công ty nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam đi xuất khẩu lao động hay đi du học, tiền kiều hối gửi về, tiền của người Việt Nam đi dự hội thảo hay làm việc ngắn hạn ở nước ngoài mang về. Người Việt Nam đi du lịch nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong nhưng năm gần đây. Các công ty du lịch đề niêm yết, thông báo, quảng cáo giá tour du lịch bằng USD. Do đó, muốn du lịch phải có ngoại tệ, phải tích trữ USD. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài phải đặt cọc một khoản bằng USD trong tài khoản NH, mà số lượng người này cũng tăng lên rất nhanh chóng trong thời gian qua. Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du học nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu là đi du học tự túc đang tăng lên gấp bội. Muốn được chấp nhận vào học ở nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được năng lực tài chính của mình, thể hiện bằng số dư ngoại tệ gửi ở các NH Việt Nam. Tiếp đến trong quá trình học, gia đình trong nước phải thường xuyên chuyển tiền cho con em mình theo học bằng USD thông qua các NH, do đó phải có số dư tiền gửi USD tại các NH để chuyển tiền ra nước ngoài cho con em du học. Cơ chế về lãi suất đã làm cho dollar hoá không giảm. Thể hiện ở chỗ, từ năm 1991 đến nay, trong công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam, lãi suất tín dụng NH (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) đã được điều chỉnh hạ thấp nhiều lần. Lãi suất tín dụng bằng VND luôn cao hơn lãi suất tín dụng bằng USD. Biên độ chênh lệch giữa lãi suất tín dụng bằng VND và USD tạo khe hở cho việc lợi dụng ăn chênh lệch lãi suất, nhất là đối với các doanh nghiệp vay vốn và kích thích vay vốn tín dụng bằng USD làm cho khuyng hướng dollar hoá không giảm đi. Với quy định số 08 NH/QĐ ngày 14/01/1991 và thông tư số 01/20000NHNN7 ngày 24/2/2000, quyết định số 180/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% xuống 50% các NHTM được nâng lãi xuất tiền tiết kiệm USD để thu hút ngoại tệ. Khi vốn ngoại tệ bị ứ đọng, các NHTM đã gửi vốn ra nước ngoài hưởng lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngoại tệ ở trong nước. Tất cả những điều chỉnh ấy đã kích thích người dân, các doanh nghiệp tìm kiếm nắm giữ ngoại tệ, chuyển dịch tài sản của họ từ VND sang USD bằng cách gửi tiết kiệm ngoại tệ vào NH để được hưởng lãi suất kép (lãi tiết kiệm và tỷ giá). Mệnh giá của tờ VND thấp (năm 2001, đồng 100.000đ chỉ khoảng 7 USD; năm 2011, đồng 500.000đ khoảng 24.5 USD), thực chất chỉ đáp ứng những nhu cầu lưu thông chi trả bình thường còn giá cả những mặt hàng thông thường phải sử dụng tới các mệnh giá cao nhất. Do đó việc sử dụng USD trở nên rất thích hợp, thuận tiện trên nhiều phương diện. Mệnh giá đồng tiền chỉ là vấn đề kĩ thuật của chế độ tiền tệ nhưng nếu không thích ứng cũng là một yếu tố để USD chiếm vị trí của đồng bản tệ và thúc đẩy qua trình dollar hoá. Thời kì từ năm 1992 đến 2001, khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, Chính phủ đã quyết định chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN. Nhưng trong thực tế, việc còn sử dụng vốn tiền phát hành và sử dụng một bộ phận USD của quỹ điều hoà ngoại tệ của NHNN để làm nguồn vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước hoặc vốn cho vay trung hạn của NHTM quốc doanh, thực chất vẫn là bù đắp thiếu hụt NSNN và là nguyên nhân thúc đẩy thêm quá trình dollar hoá ở Việt Nam. Hệ thống kho bạc nhà nước huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu (USD) để bù đắp thiếu hụt NSNN cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình dollar hoá ở Việt Nam. Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn lậu qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý khá lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các cửa hàng kinh doanh, các cửa hiệu vàng bạc bán hàng thu ngoại tệ, thu đổi ngoại tệ còn tuỳ tiện, diễn biến phổ biến. 2.2. Ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam Dollar hoá không chỉ là vấn đề ở Việt Nam mà là một vấn đề lớn đã và đang diễn ra trên thế giới. Với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay nhiều cuộc thoả luận về vấn đề dollar hoá chính thức nền kinh tế đối với các nước chậm phát triển đã được tổ chức. Tuy nhiên một hiện tượng nào cũng có 2 mặt của nó, có mặt tích cực và tiêu cực và hiện tượng dollar hoá cũng không phải là ngoại lệ. 2.2.1. Tác động tích cực Có một lượng lớn ngoại tệ, các NH có điều kiện mở rộng hoạt động của mình nhất là các hoạt động đối ngoại. Hơn nữa, sự tồn tại của các khoản tiền gửi bằng USD tại các NH trong nước tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế. Một lực lượng USD được gửi trong các NH tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế, hạn chế được việc đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay ngoại tệ của các NH gặp khó khăn, thì với việc lãi suất trên thị trường thế giới cao, các NH trong nước đem gửi ở nước ngoài. Rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà, các NH cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích như ở phần trên. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Thêm vào đó, thời kì cả cán cân thương mại và cán cân thanh toán đều thâm hụt nghiêm trọng việc thu hút mọi nguồn USD trôi nổi trên thị trường và các chính sách thu hút kiều hối qua NH là một giải pháp tích cực để đảm bảo nhiều cân đối vật chất khác của nền kinh tế. Một đất nước với một đồng tiền riêng thường được phát hành bởi NHTƯ- sẽ có chính sách tiền tệ riêng của nó. Trên lý thuyết thì điều này cho phép NHTƯ quản lý được mức cung tiền, lãi suất, tỷ giá nhằm đến mục tiêu chỉ vì lợi ích riêng của đất nước. Trên thực tế thì hầu hết các nước đang phát triển đã trải qua những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tiền tệ của họ - đó chính là việc các nước này thiếu rất nhiều những thể chế cũng như kinh nghiệm cần thiết về thiết kế, điều hành, thực thi chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh đó thì dường như việc dollar hoá là một bước tiến quan trọng trong việc ổn định giá cả trong nước, đặc biệt là những nước thường mắc phải những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ. 2.2.2. Tác động tiêu cực Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các kế hoạch kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tệ, nhất là khi có những cuộc khủng hoảng xảy ra. Dollar hoá làm giảm nhiệu quả điều hành chính sách tiền tệ: Gây khó khăn cho việc dự báo diễn biến tổng phương tiện thanh toán. Qua đó, việc quyết định tăng, giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. Dollar hoá cũng làm cho nhu cầu đồng Việt Nam nhạy cảm hơn đối với những thay đổi từ bên ngoài, những cố gắng trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc thay đổi lãi xuất cho vay trở nên kém hiệu quả. Tình trạng dollar hoá có tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Dollar hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước thiếu ổn định cho người cư trú có xu hướng chuyển tiền từ đồng nội tệ sang đồng dollar Mĩ làm nhu cầu dollar tăng mạnh gây sức ép lên tỷ giá. Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi dân cư bằng ngoại tệ cao như hiện nay, thì các NH sẽ gặp khó khăn trong khả năng thanh toán khi có những biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ trong khi số ngoại tệ này đã được cho NH vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó NHNNVN cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành dollar Mĩ. Các NHTƯ vốn có một chức năng lịch sử là chức người cho vay cuối cùng với các NHTM. Là người cho vay cuối cùng, NHTƯ sẵn sàng cung cấp các khoản cho vay thanh toán đối với hệ thống NH khi có sự tiền khỏi hệ thống NH một cách có hệ thống. NHTƯ thực hiện chức năng này chủ yếu bằng nguồn vốn tự có của mình để tạo ra khả năng thanh toán-một nghiệp vụ không thể có được trong hệ thống dollar hoá. Bởi vậy, dollar hoá sẽ hạn chế vai trò của NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Hạn chế các đặc quyền riêng của NHTƯ trong phát hành tiền tệ để mua ngoại tệ, tăng quỹ dự trữ ngoại tệ và sử dụng nó không chỉ với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ mà còn là mục tiêu tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước. Dollar hoá sẽ tăng hạn chế trong vai trò của tỷ giá hối đoái trong chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ. Nó có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Nhưng trong nền kinh tế bị dollar hoá, tỷ giá bị cố định, nên sẽ hạn chế việc thực hiện chính sách xuất khẩu, mặt khác lại khích thích nhập siêu (trong đó có cả nhập lậu) do VND chịu sức ép tăng giá so với USD. Dollar hoá trong xã hội đã như chất xúc tác giúp một bộ phận dân chúng quen thói làm ăn bất chính sử dụng USD vào việc buôn lậu hàng qua biên giới, tiếp tay cho một số Việt kiều làm ăn không đàng hoàng, tiến hành đầu tư chui đến nay vẫn chưa gỡ xong. Bên cạnh đó, tình trạng đào hố chảy máu ngoại tệ qua biên giới, cửa khẩu quốc tế, và nạn rửa tiền, ma tuý gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến tình trạng dollar hoá. Như vậy, khi nền kinh tế bị dollar hoá thì không tước được vũ khí lợi hại (USD) của các kẻ buôn lậu trên các tuyến, phá rối thị trường và làm cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước bị đình đốn. VND không làm được trọn vẹn các chức năng của mình và phải “cạnh tranh” trong thế yếu so với một đồng tiền mạnh, tự do chuyển đổi ở tất cả các nước. Từ đó mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không được coi trọng. Mọi người đều coi trọng đồng tiền của nước mình là biểu tượng chủ quyền dân tộc. Và khi một nước dollar hoá chính thức cũng tạo điều kiện cho các chính khách nước đó dễ dàng đổ lỗi cho chính sách tiền tệ của Mĩ hay nước nào đó mà đồng tiền đang sử dụng ở nước bị dollar hoá, khi mà họ vướng mắc những điều kiện khó khăn, bất ổn về kinh tế do việc điều hành, quản lý yếu kém. Đối với Mĩ, đây là vấn đề đầu tiên khi vấn đề dollar hoá nổi lên. Phần III: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ DOLLA HOÁ Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHNN trong vấn đề dollar hoá là “Xoá bỏ dollar hoá trong nền kinh tế-xã hội nước ta phải thực hiện từng bước từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước, phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế vùa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong quá trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ NH cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong chức năng thuộc tính của tiền tệ”. Giải pháp tại kì họp Quốc hội năm 2000 về vấn đề dollar hoá, Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý (1999-2007) nói: “tình trạng dollar hoá đang gia tăng, xử lý vấn đề này về hình thức có vẻ đơn giản nhưng trên thực tế thì rất khó. Đó là một cuộc chiến gay go và chắc chắn là chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều. Bởi vì mỗi người có góc độ lợi ích riêng của mình, cho nên cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng sẽ có nhiều giải pháp đụng đến thói quen ấy, nhất định sẽ có nhiều phản ứng. Mong được sự chia sẻ, đồng tình và hỗ trợ của Quốc hội”. Như vậy, quan điểm của Đảng và nhà nước trong vấn đề dollar hoá ở nước ta rất rõ ràng. Từ những nhìn nhận nói trên đặt ra trước mắt các nhà hoạch định chính sách, thiết lập cơ chế quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ ngoại hối cần có chung quan điểm thực tiễn và kiên trì để có đối sách đúng đắn và nhất quán trong việc xử lý vấn đề dollar hoá ở nước ta. Rõ ràng dollar hoá không còn là vấn đề kinh tế - tiền tệ - ngoại hối của riêng ngành NH phải giải quyết, mà còn là vấn đề chính trị, xã hội, vấn đề an ninh kinh tế và mặt nào đó cũng có tính chất quốc tế gắn với xu thế hội nhập trong điều kiện mới của thế giới hiện nay. 3.2. Một số giải pháp và kiến nghị 3.1.1. Một số giải pháp được đề xuất Vấn đề dollar hoá đã có những biểu hiện ở Việt Nam trong năm 2000 Thời gian qua trên các bài báo và tạp chí thuộc lĩnh vực kinh tế - tài chính - ngân hàng đã đăng nhiều bài viết tranh luận về vấn đề dollar hoá ở nước ta. Nhiều giải pháp giải quyết vấn đề này đã được đưa ra. Nhiều người đã đề xuất như sau: Xoá bỏ cơ chế đa sở hữu ngoại tệ; Không cho huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ để nhất quán với việc NHNN không thực hiện bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ; Không cho vay và bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để nhất quán với việc NHNN không cho NHTM vay chiết khấu bằng ngoại tệ; Thực hiện kết hối 100% ngoại tệ các doanh nghiệp có thu ngoại tệ phải bán hết cho NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ, mọi nhu cầu chi ngoại tệ hợp lý đều được mua tại NH theo kế hoạch dự trù và được NH thoả thuận. 3.2.2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ phải mở một tài khoản tại một NH được phép. Giải pháp này thực ra không phải mới mẻ đối với nước ta bởi trước đây trong quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như để thực hiện biện pháp kết hối theo kế hoạch, NH đã đưa ra giải pháp yêu cầu các doanh nghiệp phải mở một tài khoản ngoại tệ tại một NH. Quy định này đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp và tạo sự phản ứng mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp. Nếu quy định như vậy thì có nghĩa doanh nghiệp chỉ được quan hệ tín dụng thanh toán và sử dụng dịch vụ khác của NH khác từ một NH, không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng để nâng cao chất lượng dịch vụ NH , gây ra sự rủi ro mà doanh nghiệp sẽ gặp phải khi toàn bộ số vốn bằng ngoại tệ sẽ được gửi tại một NH gặp khó khăn về tài chính. Do đó biện pháp này hoàn toàn không khả thi. Tăng tỷ lệ kết hối lên 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai. Đây là một giải pháp mang nặng tính hành chính là hạn chế về ngoại hối trong các giao dịch vãng lai. Việc quy định bắt buộc phải kết hối 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai sẽ đẩy rủi ro về tỷ giá về các doanh nghiệp trong khi các công cụ chống rủi ro về tỷ giá của ta lại chưa phát triển. Về giải pháp chi trả kiều hối bằng VND và không cho cá nhân được gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ. Trước tiên, phải thừa nhận rằng đây là một giải pháp hành chính để giảm hiện tượng dollar hoá đang diễn ra ở Việt Nam. Nhưng một điều không thể phủ nhận rằng chính sách kiều hối của ta trong giai đoạn vừa qua đã thu hút một lượng đáng kể ngoại tệ chuyển về Việt Nam. Được chứng minh bằng số ngoại tệ chuyển về tăng qua các năm: năm 1997 là 400 triệu USD, năm 2000 gần 1.7 tỷ USD. Cho người Việt Nam nhận kiều hối là một giải pháp tình thế trước mắt góp phần không nhỏ giảm bớt sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trong thời gian qua. Trong khi giá trị VND còn chưa được ổn định bền vững và không thể quay lại việc điều hành tỷ giá theo cơ chế đa tỷ giá, đưa ra tỷ giá ưu đãi hơn đối với người Vệt Nam nhận tiền ở trong nước. Do trong thời gian qua lãi suất bằng USD trên thị trường quốc tế tăng, khi cục dự trữ liên bang Mĩ chỉ doạ tăng lãi suất 3 lần trong năm 2000 làm ảnh hưởng đến lãi suất huy động USD trong nước. Vì vậy, lượng ngoại tệ trong các NHTM năm 2000 chưa tăng nên. Giả sử giải pháp không cho cá nhân người Việt Nam gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ được áp dụng thì điều gì sẽ xảy ra khi người gửi tiền rút tiền mặt ngoại tệ ra khỏi hệ thống NH hoặc phải bán ngoại tệ cho các NH. lúc đó người gửi tiền sẽ dùng VND để mua lại ngoại tệ tại thị trường bên ngoài gây ra áp lực lên giá VND với USD và sẽ gây không ít khó khăn cho NHNN trong việc kiểm soát đối tương tiền tệ trong lưu thông. Mặt khác, biện pháp này sẽ làm kém đi việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nội lực trong nước khi nhìn tổng thể Việt Nam là một đất nước đang thiếu thốn. Kinh nghiêm của Trung Quốc cho thấy là một nước luôn đưa ra chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ, tuy có lượng ngoại hối tương đối lớn vào khoảng 150 tỷ USD (năm 2000, năm 2010 đã xấp xỉ 2.5 nghìn tỷ USD), đồng NDT luôn giữ ổn định giá trị, nhưng Trung Quốc vẫn cho phép nhân dân gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ. Bởi vậy đi đôi với việc huy động bằng ngoại tệ, chúng ta cần phải xem xét một cách đúng mức phạm vi cho vay ngoại tệ để đảm bảo cân đối nguồn huy động và cho vay bằng ngoại tệ của các NHTM. Dollar hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHTƯ trong vấn đề dollar hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ dollar hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ. Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam". Việc xoá bỏ dollar hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn dollar trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của dollar hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng dollar hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của dollar hoá. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng... Những biện pháp hành chính này qua thực tiến thực hiện đã chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới. 3.2.3. Một số kiến nghị có khả năng thực hiện Để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của dollar hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây: ª Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Tại môi trường đầu tư trong nước, tạo sự hấp thụ vốn ngoại lệ, tập trung vào đổi mới và cải cách các doanh nghiệp, cải cách hành chính. trước mặt mở rộng một số dự án đầu tư của chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực. Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu. Đa dạng các danh mục đầu tư trong nước. Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự trong sản xuất thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính NH. Kết hợp với kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Tình trạng nhập siêu kéo dài trong nhiều năm cần phải được hạn chế. Tiếp tục hạn chế nhập siêu các mặt hàng tiêu dùng bằng cách yêu cầu các NH không cho vay ngoại tệ cho nhu cầu thanh toán này. NH không cho vay ngoại tệ để nhập các mặt hàng tiêu dùng, cắt giảm hạng ngạch nhập khẩu các mặt hàng này. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một giải pháp tạm thời bởi xu hướng quốc tế hoá hiện nay, Việt Nam cũng phải dần dần tự do hoá thương mại. Về lâu về dài, một chính sách đa dạng hoá các mặt hàng, đa dạng hoá thị trường, xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao đi đôi với chính sách nhập khẩu có trọng điểm hướng tới tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cao. Để từ đó hạn chế nhập siêu để giảm sự mất cân đối về ngoại tệ. ª Trên góc độ ngành ngân hàng: Việc xử lý vấn đề dollar hoá ở nước ta không chỉ trách nhiệm riêng của ngành NH. Nhưng đứng trên góc độ ngành NH ta thấy vấn đề dollar hoá cũng do sự yếu kém của ngành NH, đặc biệt là hoạt động thanh toán chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu. Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Nếu như quản lý ngoại hối của ta chặt chẽ thì tình trạng dollar hoá thường khó xảy ra. Bởi vậy, là một ngành chủ đạo của ngành kinh tế, ngành NH cần thấy rõ trách nhiệm của mình trong xử lý vấn đề dollar hoá ở nước ta. Hệ thống NH không ngừng nâng cao và phát triển. Có một số đề nghị sau: Không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối, thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ. Về biện pháp tăng tỷ lệ kết hối là một giải pháp mang nặng tính hành chính và có những hạn chế như đã nêu trên, không được các doanh nghiệp yêu thích nhưng đến nay vẫn rất cần thiết và chưa có giải pháp lựa chọn nào khác trước tình hình những biểu hiện của dollar hoá chưa có dấu hiện thuyên giảm và sự mất cân đối trên thị trường ngoại hối, cần phải duy trì và thực hiện nghiêm quy định về kết hối để tăng nguồn cung trên thi trường. Tỷ lệ kết hối hiện nay của Việt Nam không phải là cao và ngay Trung Quốc có thời kì đã chiết hối 95% đối với tất cả các doanh nghiệp. Mặt khác, các quy định về về chiết hối cần xiết chặt hơn, tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại các NH cũng như doanh nghiệp. Vấn đề người dân gửi, rút tiết kiệm và kiều hối bằng ngoại tệ. Nó là hiện tượng lịch sử giải pháp tình thế. Vậy khi nào có thể chấm dứt vấn đề này, đó hoàn toàn do điều kiện kinh tế xã hội. Khi nền kinh tế nước ta phát triển ổn định, VND mạnh, có khả năng chuyển đổi, người dân thấy cất trữ bằng VND thấy thuận tiện và lợi ích hơn ngoại tệ thì sẽ không còn tình trạng như hiện tại. Vậy NH có thể mua với tỷ giá cao hơn đổi kiều hối, vì vậy số ngoại tệ này, NH không mất phí chuyển đổi từ tiền mặt sang chuyển khoản. Mặt khác, NHTM có thể chấp nhận thua lỗ khi mua bán ngoại tệ để thu lãi phí ở dịch vụ thanh toán quốc tế. Nếu như vậy thì lượng kiều hối bán cho NHTM sẽ tăng lên, thay vì yêu cầu nhận ngoại tệ tiền mặt để tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách để phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối nhằm khắc phục tình trạng dollar hoá nền kinh tế. Việc lựa chọn tỷ giá thả nổi có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Vì chế độ tỷ giá cho phép chũng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường, vùa phát huy vai trò quản lý điều tiết linh hoạt của Nhà nước để đạt được các mục tiêu yêu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên để có chính sách tỷ giá hợp lý cần phải hoàn thiện các vấn đề có tính then chốt như: “củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên NH - một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều hành tỷ giá. NHNN phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Xác định được một cơ cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá ngoại tệ mạnh để làm căn cứ ấn định tỷ giá đồng Việt Nam chứ không nên chỉ neo giữ VND vào USD. Những biểu hiện của dollar hoá trong thời gian qua là do lãi suất huy động tiền gửi của USD cao hơn VND. Mặc dù NHNN đã có những giải pháp tích cực điều chỉnh lại suất theo hướng có lợi cho VND. Tuy nhiên những giải pháp chưa thực sự mang tính chủ động của của NHNN nếu như không có những tác động từ các yếu tố khách quan bên ngoài. Ta thấy rằng việc lãi xuất huy động tiền gửi USD cao lên trong thời gian qua là một yếu tố khách quan do lãi suất ở Mĩ tăng và trên thị trường thế giới tăng. Do đó chúng ta phải có những nhìn nhận đúng về nguyên nhân của nó để có thể tìm ra các giải pháp đúng đắn. Trong những năm 1994-2001 lãi suất huy động tiền gửi VND thấp hơn USD một mặt là do NHNN chủ trương hạ lãi suất VND để kích cầu. Nhưng trên thực tế biện pháp này đã không cải thiện được tình hình. Chúng ta nên nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ, không nên đi theo một lối mòn để có những sự điều chỉnh phù hợp. KẾT LUẬN Ngày nay, chúng ta đang ở trong một xu thế khách quan - toàn cầu hoá gắn với sự phát triển của các quá trình đan xen, hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi quốc tế. Nhưng trong xu thế đó, rất nhiều người đang băn khoăn liệu có thực sự toàn cầu hoá hay “Mĩ toàn cầu” bởi sự phát triển các giá trị nước Mĩ trên phạm vi toàn cầu. Một biểu hiện rõ nét nhất mà chúng ta có thể nhận thấy được là tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như ở các nước đang phát triển. Như chúng ta đã biết, tiền tệ là vấn đề hết sức nhạy cảm, hơn thế lại có liên quan chặt chẽ đến ngành NH, một sự điều chỉnh của cục dự trữ Liên bang Mĩ (FED) có thể gây ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trong nước và từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh. Hiện trạng ứ thừa vốn ngoại tệ trong năm 1999, 2000, người dân liên tục thay đổi từ VND sang USD, NH gửi ngoại tệ ở nước ngoài để được hưởng lãi suất cao hơn. NHTƯ đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách tiền tệ của mình bởi dollar hoá, nên kinh tế cũng đã trải qua một giai đoạn khó khăn, “cầu đầu tư và tiêu dùng giảm sút”. Như vậy, dù liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề tiền tệ, tất cả mọi ngành mọi cấp mọi người dân nâng cao kiến thứ về dollar hoá và có cách thức hạn chế dollar hoá một cách có hiệu quả nhất. Lịch sử dân tộc đã để lại cho chúng ta những bài học quý báu để mở rộng giao lưu quan hệ với các nước, song vẫn giữ gìn được độc lập dân tộc, bảo vệ nét văn hoá truyền thống. Thực chất vấn đề dollar hoá ở Việt Nam là cuộc đấu tranh để VND có thể giữ được sự tin tưởng vững chắc trong lòng người dân so với USD; phấn đấu để đưa VND thành đồng tiền có thể chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế. Mở cửa với bên ngoài, làm bạn với các nước trên thế giới dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào khả năng bảo vệ giá trị của VND, bảo vệ một nét văn hoá lâu đời của dân tộc Mặc dù các số liệu và ý kiến được đưa ra cho thời kì 1994 đến 2001 nhưng đa số vẫn còn đúng và có giá trị trong thời điển hiện nay, thời điểm hậu gia nhập WTO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDolla hoa.doc
Luận văn liên quan