Huy động vốn phát triển doanh nghiệp thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.
Chiến lược phát triển kinh tế xó hội 10 năm ( 2001-2010) của Việt Nam được Quốc Hội thông qua đó đặt mục tiêu tổng sản phẩm trong nước năm 2010 tăng ít nhất gấn 2 lần so với năm 2000. Giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng bỡnh quõn đạt 7,4%/ Mục tiờu cho giai đoạn 2006-2010 phải đạt tốc độ tăng trưởng bỡnh quõn là 8%. Với hệ số ICOR dự tớnh là 5.1%, thỡ tổng vốn đầu tư tương ứng sẽ phải ở mức 2.675.000 tỷ đồng ( bằng 40% GDP). Như vậy, vốn là một trong các nhân tố quan trọng, có tính chất quyết định trong việc mở rộng quy mô kinh doanh và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để có vốn kinh doanh, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ bên ngoài dưới nhiều hỡnh thức khỏc nhau như vay ngân hàng, thuê tài chính, phát hành trỏi phiếu doanh nghiệp .
Ở các nước có nền tài chính phát triển ,trong các hỡnh thức huy động vốn của doanh thỡ phỏt hành trái phiếu là công cụ chủ yếu để huy động nguồn vốn vay trung và dài hạn cho các dự án đầu tư . Đây là loại công cụ đáp ứng được nhu cầu của cả người phát hành và các nhà đầu tư do tính chất ổn định về nguồn vốn, có thể tính toán trước về mức lợi tức có thể mạng lại, đồng thời có tính thanh khoản do nó được tự do mua bán, chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán tập trung hoặc phi tập trung.
Ở nước ta hiện nay, hỡnh thức huy động vốn vay chủ yếu của các doanh nghiệp vẫn là từ hệ thống ngân hàng. Sự phụ thuộc quá mức của các doanh nghiệp vào nguồn vốn vay nợ ngân hàng đó dẫn đến sự mất cân bằng trong cơ cấu tài chính của cả 2 khu vực doanh nghiệp và ngõn hàng. Điều này dẫn đến tỡnh trạng: (i) Nhu cầu vay vốn đầu tư của nhiều doanh nghiệp không được đáp ứng; (ii) Rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng gia tăng do việc sử dụng vốn ngắn hạn để thực hiện cho vay trung và dài hạn( tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn dưới 1 năm của các tổ chức tín dụng hiện nay chiếm khoảng trên 80% tổng tài sản có, tuy nhiên tỷ lệ cho vay trung và dài hạn lại chiếm khoảng 40% trên tổng dư nợ)
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2878 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động vốn phát triển doanh nghiệp thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã phát hành ở mức lãi suất tương tự với công ty địa ốc Sài gòn thương tín.
Ngân hàng Á Châu(ACB) đã phát hành thành công trái phiếu kỳ hạn 3 năm với mức lãi suất chỉ cao hơn 48 điểm so với chính phủ. Vào tháng 9, họ phát hành hơn 2000 tỷ với chênh lệch là 50 điểm. Mức lãi suất chênh lệch thấp là do ACB được đánh giá là một ngân hàng tư nhân hàng đầu Việt Nam với mức lãi suất tương đương với mức AA ở Mỹ và Châu Âu.
Dưới đây là bảng danh sách các doanh nghiệp ngoài nhà nước phát hành trái phiếu trong giai đoạn hiện nay.
Bảng 8: Danh sách các doanh nghiệp ngoài nhà nước phát hành trái phiếu giai đoạn 2004 -2008
Nhà phát hành
Số lượng
tỷ đồng
Lãi suất (r)/ năm
Kỳ hạn
Năm phát hành
1.Công ty Minh Phú,
500
9,98%
5 năm
2007
2. Tổng công ty cổ phần Masan
600
3 năm
2007
3. Tổng công ty chứng khoán Thăng Long
300
9%
2 năm
2007
4. . Tổng công ty cổ phần xuất khẩu xây dựng Việt Nam (Vinaconex)
1000
3%
3 năm
2007
5. Vilexim
5
9,%
2 năm
2007
6. Tổng công ty địa ốc Sài Gòn thương tín
500
10%
5 năm
2007
7. Tổng công ty cổ phần xây dựng điện Việt Nam
500
10,15%
5 năm
2007
8. Ngân hàng ACB
1920
1300
8,7%
8%
3 năm
5 năm
2007
2008
Nguồn : Bộ tài chính
c. Nhậm xét chung
Từ các thực trạng trên có thể có một và nhận xét đối với việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Một là, số lượng trái phiếu phát hành của các doanh nghiệp nhà nước lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp ngoài nhà nước ( khối lượng phát hành của các doanh nghiệp nhà nước thường trên 1000 tỷ còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu dưới 1000 tỷ)
Hai là, kỳ hạn trái phiếu của các doanh nghiệp nhà nước thường dài hơn, có những trái phiếu có kỳ hạn 10 năm còn của doanh nghiệp ngoài nhà nước kỳ hạn này nhỏ hơn hoặc bằng 5 năm. Điều đó chứng tỏ tâm lý của nhà đầu tư đối với các loại hình doanh nghiệp là khác nhau.
Ba là, rõ ràng rằng, sự ra đời của nghị định 52/2006/NĐ-CP có ảnh hưởng tích cực đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào phát hành trái phiếu tăng lên rõ rệt, thể hiện ở chỗ năm 2004 -2006 không có doanh nghiệp tư nhân nào phát hành trái phiếu mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp lớn của nhà nước( như TCT điện lực, TCT Sông Đà, TCT Công nghiệp tàu thủy...) nhưng tới năm 2007 có tới 7 doanh nghiệp tư nhân phi ngân phát hành trái phiếu. ( bảng 8)
2.3.3.Thực trạng giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
Tình hình niêm yết giao dịch trái phiếu doanh nghiệp tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán
Từ năm 2000 tới năm 2005, tình hình niêm yết giao dịch trái phiếu doanh nghiệp tại các trung tâm giao dịch chứng khoán diễn ra khá ảm đạm do các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần phát hành trái phiếu đều chưa đảm bảo được các điều kiện niêm yết trái phiếu trên trung tâm GDCK.mà mới chỉ có trái phiếu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(BIDV) niêm yết và giao dịch trên trung tâm GDCK TPHCM. Mặc dù, trái phiếu Ngân hàng đầu tư đợt I và đợt II năm 2000 đã được UBCKNN cấp giấy phép niêm yết, tức là vào thời điểm Trung tâm GDCK TPHCM đi vào hoạt động, nhưng trên thực tế phải đến 5 tháng sau đó trái phiếu BIDV mới chính thức được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm GDCK do trái phiếu BIDV được phát hành với số lượng rộng rãi trên cả nước nên việc tập hợp danh sách những người sở hữu trái phiếu để đăng ký với trung tâm GDCK tốn nhiều thời gian.Khi được đưa vào niêm yết tại Trung tâm GDCK, tình hình giao dịch trái phiếu BIDV đợt I diễn ra tương đối thuận lợi, nhưng số lượng trái phiếu được giao dịch còn chưa nhiều. Tính đến ngày 31/12/2001, trái phiếu BIDV đã đạt tổng giái trị giao dịch là 14,7 tỷ đồng.
Nhưng từ 2006 đến nay, với sự ra đời của nghị định số 52/2006/NĐ-CP, trên trung tâm giao dịch chứng khóan Hà Nội đã có 3 mã trái phiếu được niêm yết: Một là trái phiếu của tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam phát hành ngày 19/6/2006 với khối lượng là 365 tỷ đồng , kỳ hạn 3 năm và mức lãi suất là 9,05% và được niêm yết tại trung tâm chứng khoán Hà Nội vào ngày 12/7/2007( hơn 1 năm sau ngày phát hành); Hai là trái phiếu của tập đoàn điện lực Việt Nam phát hành vào ngày 20/7/2006 với khối lượng là 900 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm và lãi suất là 9,5% và được niêm yết tại trung tâm vào ngày 16/7/2007 ( 1 năm sau khi phát hành). Ba là trái phiếu của tổng công ty điện lực Việt Nam phát hành vào 1/9/2007 với khối lương là 600 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm và lãi suất là 9,5%, được niêm yết trên sàn giao dịch Hà Nội vào ngày 24/9/2007.
Tại sàn thành phố Hồ Chính Minh, vào ngày 8/5/2006 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TPHCM và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã tổ chức niêm yết và chính thức giao dịch 4 mã trái phiếu BIDV phát hành năm 2006. Bốn 4 mã trái phiếu gồm: trái phiếu ghi sổ phát hành đợt 1/2006 có kỳ hạn 3 năm, 5 năm; phát hành đợt 2/2006 kỳ hạn 15 năm và 20 năm. Tổng khối lượng trái phiếu niêm yết đợt này 2,04 triệu trái phiếu với giá trị 2.047 tỉ đồng, nâng tổng mức trái phiếu BIDV niêm yết trên thị trường đến nay là 4.251 tỉ đồng.
Giao dịch trái phiếu trên thị trường chứng khoán phi chính thức
Giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp chưa phát triển, các công ty tự bán qua lại với nhau nhưng khối lượng giao dịch này thường rất nhỏ. . Việc giao dịch các trái phiếu doanh nghiệp không niêm yết bao gồm cả các thương phiếu hiện chưa được quản lý ở Việt Nam. Giao dịch trái phiếu niêm yết trên thị trường phi chính thức, về nguyên tắc, không được phép thực hiện. Tuy nhiên, các nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch trên thị trường phi chính thức nếu lượng giao dịch lớn hơn 3000( giao dịch thoả thuận) và giao dịch đó phải được báo cáo cho TTGDCK.
- Đối với các định chế tài chính, trái phiếu phát hành trước khi luật chứng khoán có hiệu lực, thì người mua chủ yếu là dân chúng, một số ít là các định chế tài chính khác. Tuy nhiên, khi luật chứng khoán có hiệu lực thì người mua là các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm....Đối với trái phiếu chuyển đổi chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức và các nhà đầu tư các nhân trong nước mua.
Tuy nhiên việc mua lại trái phiếu doanh nghiệp giữa các nhà đầu tư với nhau là không phổ biến, do thị trường thứ cấp ở Việt Nam chưa phát triển.Vì vậy có thể nói, tính thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp hiện nay đang rất thấp. Hiện tại, có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động phát hành và mua bán trái phiếu doanh nghiệp ( nghị định 120/Cp ngày 17/9/1994 của chính phủ ban hành Quy chế tạm thời về viếc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN; thông ty 91/TC-KBNN ngày 5/1/1994 của Bộ tài chính hướng dẫn quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN; Quyết định 1179/TC-KBNN ngày 5/12/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành quy chế tạm thời đấu thầu trái phiếu chính phủ, trái phiếu DNN). Tuy nhiên, trong khung pháp lý vẫn thiếu các quy định điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp cũng như các quy định điều chỉnh các giao dịch trái phiếu trên thị trường trái phiếu thứ cấp. Nhiều văn bản trong số các văn bản pháp luật nêu trên có những quy định khác biệt về cùng một vấn đề.
2.4. Nhận định chung về thực trạng phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
2.4.1. Những mặt tích cực
- Về cơ sở pháp lý cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đã có những bước hoàn thiện rõ nét. Việc hoàn thiện môi trương phát lý dã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát hánh trái phiếu.. Với sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP quy định việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của các loại hình doanh nghiệp, theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay và các hoạt động phát hành trái phiếu phải đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Do vậy, trong vòng 2 năm trở lại đây, thị trường trái phiếu DN đã có những thay đổi đáng ghi nhận và việc phát hành trái phiếu đang trở thành sự lựa chọn hấp dẫn cho DN để huy động vốn tài trợ dự án và mở rộng hoạt động kinh doanh. Đây thực sự là kênh huy động vốn hiệu quả, đem lại nhiều lợi ích cho DN. Hiện nay, ngày càng có nhiều DN có nhu cầu phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng con số này nhìn chung là vẫn thấp.
- Quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ngày càng mở rộng: Năm 2004 đến hết tháng 12/2007, số tống công ty phát hành là vào khoảng 18 công ty (xem bảng 7 và 8). Số lượng DN phát hành trái phiếu tăng lên đáng kể, năm 2005 và 2006 có 3 DN phát hành( bảng 6 và 7), với giá tri lần lượt vào khoảng 1.400 tỷ đồng và 7.060 tỷ đồng( bao gồm: Tổng công ty tàu thuỷ phát hành với giá trị là 1000 tỷ đồng , tổng công ty điện lực là 200 tỷ đồng và tổng công ty sông Đà là 200 tỷ đồng). Năm 2007, số lượng này tăng lên là 18 DN, với 17 đợt phát hành đạt giá trị trên 14.000 tỷ đồng. Trong đó,Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ là công ty có số đợt phát hành nhiều nhất từ năm 2005 -2007 lên tới 11 đợt phát hành( năm 2005 có 3 đợt phát hành, năm 2006 có 5 đợt phát hành và năm 2007 có 3 đợt phát hành) và tổng giá trị phát hành lên tới 9800 tỷ đồng.
Với những dấu hiệu tích cực từ thị trường và sự hậu thuẫn từ các nhà tạo lập chính sách, trái phiếu DN sẽ trở thành công cụ huy động vốn dài hạn, trọng yếu của nền kinh tế và là sự lựa chọn hiệu quả của DN vì những ưu điểm sau:
Thứ nhất, trái phiếu mang lại chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với cổ phiếu và giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp trong thời gian ngắn hơn. Doanh nghiệp thường hứa với cổ đông mức cổ tức khoảng 12% -15%/năm, thậm chí 20%/năm. Để đảm bảo mức cổ tức trên thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp ít nhất phải đạt tối thiểu 20 - 25% trên vốn chủ sở hữu. Trong khi đó với việc huy động vốn bằng trái phiếu, mức lãi suất trả cho trái chủ chỉ dao động trong khoảng 9% -10%/năm. Hơn thế, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi cổ phiếu thể hiện sự sở hữu công ty một cách lâu dài nên doanh nghiệp có trách nhiệm với cổ đông trong suốt thời gian nó tồn tại.Khi doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ phiếu rộng rãi, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu..., thì việc huy động vốn thông qua trái phiếu giúp doanh nghiệp hạn chế khả năng bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Về phía nhà đầu tư, việc đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp cũng có nhiều lợi thế: trái phiếu doanh nghiệp thường có lãi suất cao hơn so với trái phiếu chính phủ; đối với trái phiếu chuyển đổi khi đến thời điểm đáo hạn có thể được chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu thường.
Thứ hai, phát hành trái phiếu có lợi hơn so với vay ngân hàng. Lãi suất cho vay bình quân của khối NHTM hiện vào khoảng 11% - 15%/năm đối với các kỳ hạn trên 1 năm tuỳ từng đối tượng khách hàng. Trong khi đó, lãi suất coupon trái phiếu có kỳ hạn 5 năm cao nhất hiện nay trên thị trường là 10,5%/năm (trái phiếu Sông Đà phát hành tháng 8/2006), thấp nhất là 8,15%/năm (trái phiếu BIDV phát hành tháng 7/2007). Như vậy, phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn có chi phí lãi suất thấp hơn so với vay ngân hàng thông thường. Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu, nếu thực hiện được, sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng nguồn vốn ổn định và dài hạn hơn so với đi vay ngân hàng. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn 1 năm, nhưng với các dự án lớn, ngân hàng lại bị giới hạn mức cho vay (không quá 15% vốn điều lệ vào một doanh nghiệp).
Thứ ba, việc phát hành trái phiếu đòi hỏi thời gian ít hơn so với thời gian đi vay hoặc phát hành cổ phiếu. Thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ khâu chuẩn bị đến khi hoàn tất giao dịch mất bình quân khoảng 8 tuần. Trong khi đó, nếu đi vay ngân hàng hay phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp sẽ mất nhiều thời gian hơn cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ. Ngoài ra, một ưu điểm khác của trái phiếu là, trong một số trường hợp, cho phép doanh nghiệp huy động được khối lượng vốn lớn dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, với việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí vốn do lãi suất trả cho trái chủ hàng năm được tính như một khoản chi phí của doanh nghiệp (chi phí tính thuế), từ đó giảm được thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
2.4.2.Các tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại đó.
a. Tồn tại:
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong những năm qua tuy có những bước phát triển nhất định xong nhìn chung thị trường vẫn ở mức độ phát triển thấp do một số hạn chế sau:
-Thông tin về các tổ chức phát hành còn quá thiếu và độ tin cậy thấp để có thể tiến hành phân tích, đánh giá, làm căn cứ đưa ra quyết định đầu tư;
- Các tầng lớp dân cư chưa quen với TPCTy do uy tín của các công ty chưa cao, tính hấp dẫn và thanh khoản của trái phiếu kém ;
- Doanh nghiệp quen huy động vốn bằng hình thức vay vốn tín dụng từ ngân hàng,chưa quen với việc huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu;
-Khuôn khổ pháp lý chưa khuyến khích doanh nghiệp phát hành TPCTy;
-Thị trường thứ cấp còn kém phát triển;
b. Nguyên nhân của một số tồn tại nói trên có thể là do:
- Môi trường kinh tế vĩ mô chưa thuận lợi. Nền kinh tế nước ta tuy đạt mức tăng trưởng khá trong những năm gần đây, nhưng vẫn thuộc nhóm những nước nghèo có nền kinh tế kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người và tỷ trọng nguồn vốn tiết kiệm để đầu tư còn rất thấp, đồng tiền chưa ổn định vững chắc, lạm phát đã được kiềm chế nhưng chưa được loại bỏ, những quan hệ kinh tế vĩ mô còn mất cân đối lớn. Cũng do năng lực quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay chưa tốt, chưa đủ điều kiện để phát hành trái phiếu, chưa đủ khả năng để huy động, tình hình hoạt động nhìn chung là chưa tốt vì vậy chưa tạo được lòng tin trong dân chúng.
-Hệ thống chính sách luật pháp thuộc lĩnh vực huy động vốn mới được xây dựng và đang trong thời kỳ thử nghiệm, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Tính hiệu lực và hiệu quả còn thấp, không ít trường hợp mâu thuẫn, xa rời thực tiễn, khó hướng dẫn thực hiện.
-Thị trường thứ cấp của trái phiếu doanh nghiệp kém phát triển, chủ yếu là giao dịch qua thoả thuận không có sự quản lý và kiểm soát của nhà nước dẫn đến tính thanh khoản của trái phiếu này thấp.
-Thị trường vốn, thị trường chứng khoán mới ra đời, đang trong giai đoạn thử nghiệm. Các thành viên tham gia thị trường đang trong giai đoạn tìm hiểu, thăm dò. Đầu tư kinh doanh tài chính là lĩnh vực thực sự mới mẻ nên các nhà đầu tư còn e ngại, thận trọng cân nhắc, chưa có phong cách, bản lĩnh kinh nghiệm vững vàng của nhà đầu tư tài chính. Mạng lưới các tổ chức tài chính trung gian hiện nay còn quá mỏng, kinh nghiệm quản lý kinh doanh chưa nhiều, trong tổ chức và hoạt động của họ bị vướng nhiều về cơ chế và chính sách.
Hiện nay các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm nhiều đến việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng tiểu cực đến thị trường này. Có một vài nguyên nhân dẫn đến mức độ kém quan tâm của các doanh nghiệp đến phương thức huy động này như là :
+ Do hiểu biết về công cụ trái phiếu của giới doanh nghiệp chưa cao, nên các doanh nghiệp chưa nhìn thấy hết được lợi thế của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
+ Nhiều doanh nghiệp chưa tạo được uy tín và độ tin cậy cho nhà đầu tư, nên trái phiếu doanh nghiệp được xem là có độ rủi ro cao. Đây cũng chính là một nhược điểm cơ bản của trái phiếu doanh nghiệp khiến nhiều nhà đầu tư lo ngại, khiến cho trái phiếu doanh nghiệp khó phát hành.
+ Chưa có mặt bằng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp, khiến cho doanh nghiệp khó xác định lãi suất khi phát hành. Bản thân thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa có một "sức bật" ban đầu, do môi trường để giao dịch trái phiếu doanh nghiệp gần như chưa có, tính thanh khoản thấp, lại chưa được định hạng bởi các tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp có uy tín.
+ Các định chế tài chính trung gian chưa quan tâm nhiều đến việc tạo lập thị trường cho trái phiếu doanh nghiệp. Các tổ chức tài chính cũng chưa đầu tư nhiều trong việc giới thiệu, thuyết phục doanh nghiệp huy động vốn bằng phát hành trái phiếu.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP THÔNG QUA THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước giai đoạn 2001-2010: để thực hiện mục tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2001 gấp 2 lần năm 2000 và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7.2% năm như Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 10 đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền xản xuất xã hội rất lớn, hàng năm phải đạt trên 40% GDP. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, hệ số giữa tốc độ gia tăng vốn đầu tư với tốc độ gia tăng GDP (ICOR) ở nước ta đạt khoảng 5,1% thì tổng vốn đầu tư tương ứng sẽ phải ở mức 2.675.000 tỷ đồng.
Mục tiêu chính sách đầu tư của Ngân sách nhà nước giai đoạn 2001-2010: Trong các nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng nhằm phát triển những ngành, lĩnh vực, công trình kinh tế trọng điểm, tạo ra cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Để đảm bảo các mục tiêu kinh tế xã hội trong giai đoạn 2001-2010, đồng thời để thực thi vai trò và phát huy vị thế quan trọng của tài chính Nhà nước thông qua công cụ ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tỷ lệ vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước hàng năm phải đạt trên 30% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội
Nhu cầu huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là khả năng huy động vốn để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại hay mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh còn rất hạn chế, số lượng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn rất ít kể cả các công ty cổ phần hay các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, do thị trường tài chính ở Việt Nam chưa phát triển, hầu hết vốn nợ của các doanh nghiệp là nợ ngân hàng và chủ yếu là nợ ngắn hạn.. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp cho thấy nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp chủ yếu là để bổ sung vốn lưu động, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. Với mục đích sử dụng vốn như vậy, thì cần phải có nguồn vốn dài hạn mới đáp ứng nhu cầu thực tế. Hiện nay, nguồn vốn vay chủ yếu của các doanh nghiệp là vay ngân hàng ( có 206 doanh nghiệp trả lời là vay vốn ngân hàng trong tổng số 289 doanh nghiệp điều tra, chiến 71,28%). Trong khi đó, hiện nay hệ thống ngân hàng đang đứng trước yêu cầu tổ chức lại, nâng cao chất lượng tín dụng và củng cố môi trường phát lý do vậy việc tiếp cận tín dụng ngân hàng sẽ còn khó hơn trước. Bên cạnh đó, việc vay nợ nước ngoài thông qua tín dụng thương mại hoặc vay ngắn hạn chứa đựng rủi ro hối đoái rất lớn và sẽ bị quản lý chặt chẽ hơn. Đối với nguồn vốn huy động từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu còn rất hạn chế ( dưới 20% tổng số doanh nghiệp điều tra).
Cũng theo số liệu điều tra mẫu 289 doanh nghiệp có 187 doanh nghiệp trả lời với tổng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp thì từ 2001 đến năm 2005, nhu cầu cho hoạt động kinh doanh của 187 doanh nghiệp này là trên 83000 tỷ đồng, tính bình quân mỗi doanh nghiệp là khoảng 88 tỷ đồng. Tính từ năm 2005 đến 2010 thì con số này vào khoảng trên 163 tỷ đồng, tức là trung bình mỗi doanh nghiệp cần khoảng 87 tỷ đồng.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp bách phát triển thị trường vốn nhằm huy động và phân bổ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, trong đó huy động bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng.
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Từ cơ sở lý luận và thực trạng hiện nay, để đẩy mạnh huy động vốn của doanh nghiệp qua hình thức phát hành trái phiếu cần thực hiện một số giải pháp mang tầm vĩ mô và vi mô như sau:
3.2.1 Nhóm giải pháp vĩ mô
3.2.1.1 Xây dựng chính sách khuyến khích phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Để có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp thì bên cạnh các hình thức vay vốn ngân hàng, phát hành cổ phiếu… thì việc phát hành trái phiếu đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, các văn bản luật hiện hành vẫn còn nhiều vấn đề chưa được hoàn thiện; chưa đồng bộ và thiếu chặt chẽ nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành. Vì vậy, cần phải khắc phục các hạn chế trong khung pháp lý, đơn giản hóa các tiêu chuẩn niêm yết trái phiếu để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng, bên cạnh đó cũng cần có một số biện pháp cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp củng cố và nâng cao hình ảnh, uy tín và hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các nhà đầu tư trên thị trường vốn nói chung, trái phiếu doanh nghiệp nói riêng; đồng thời trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ dần cơ chế bao cấp về vốn, bao cấp qua giá và bao cấp qua bù lỗ sản xuất kinh doanh, bù lỗ xuất nhập khẩu,… tạo ra sự bình đẳng thực sự cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại thành phần kinh tế. Bên cạnh đó cần có chính sách nâng cao sự tự chủ của các doanh nghiệp trong việc tự huy động các nguồn vốn, cho phép các doanh nghiệp được chủ động sử dụng linh hoạt các loại vốn, các quỹ để phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Trong thời gian đầu xây dựng và phát triển thị trường vốn, chúng ta cần miễn giảm các loại thuế, phí và lệ phí phát hành ( như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, phí lưu ký,phí niêm yết…) đối với các tổ chức phát hành trái phiếu ra công chúng.
Đối với các ngân hàng thương mại là những tổ chức đã từng phát hành nhiều loại trái phiếu với khối lượng lớn trong thời gian qua để huy động vốn từ các tổ chức đầu tư, các tầng lớp dân cư, cần phải tiếp tục khuyến khích các tổ chức này phát hành trái phiếu ra công chúng, vì trái phiếu ngân hàng là công cụ đã trở nên khá quen thuộc với người đầu tư Việt Nam, tuy nhiên các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu với khối lượng lớn chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại quốc doanh, thời gian tới cần thiết phải tạo điều kiện cho một số ngân hàng thương mại cổ phần đủ điều kiện được đăng ký lại để niêm yết. Theo đó, chúng ta cần xây dựng và chỉnh sửa một số văn bản pháp lý liên quan đến việc phát hành trái phiếu của các ngân hàng như Quyết định 212/QĐ-NH1 ngày 22/9/1991 của thống đốc NHNN về thể lệ về thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng phát triển và đầu tư, đảm bảo các điều kiện cho trái phiếu ngân hàng được chuẩn hoá để có thể đưa vào giao dịch tại Trung tâm GDCK, cũng như cho phép sửa đổi điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần về những nội dung liên quan đến việc huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu và niêm yết trên Trung tâm GDCK phù hợp với quy định của luật pháp hiện hành
3.2.1.2.Cải cách thị trường trái phiếu sơ cấp
Trước hết, cần nâng cao hiệu quả phát hành, đồng thời tháo gỡ các vướng mắc trên thị trường thứ cấp mà chúng có nguyên nhân từ thị trường sơ cấp. Việc phát hành trái phiếu lô lớn được kỳ vọng là tạo ra trái phiếu chuẩn trên thị trường với khối lượng lớn ( ít nhất 1000 tỷ đồng) và giao dịch tập trung. Đây là điều kiện cần thiết để phát triển thị trường thứ cấp.
+ Cần sớm tạo dựng các nhà giao dịch sơ cấp chính PDs như ngân hàng, các tổ chức tài chính có tiềm lực… Nhiều tổ chức quốc tế như IMF, WB… rất quan tâm hỗ trợ Việt Nam về vấn đề này. Các nhà giao dịch sơ cấp chính phải tham gia tất cả các đợt phát hành trái phiếu với khối lượng cam kết tối thiểu. Họ có tiếng nói, có trọng lượng trong tư vấn phát hành với Chính phủ, được hưởng một số ưu đãi về chính sách, thông tin… Việc quan tâm để tạo dựng các nhà giao dịch sơ cấp chính là vô cùng cần thiết để tạo ra thị trường trái phiếu thứ cấp có chất lượng cao này.
+ Theo quyết định số 2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006, kể từ ngày 11/7/2006, toàn bộ hoạt động đấu thầu và giao dịch trái phiếu niêm yết được giao cho TTGDCK Hà Nội. Thành viên thị trường đấu thầu là các công ty chứng khoán, NHTM, tổ chức tín dụng, công ty bảo hiển, quỹ đầu tư… Hàng hoá là trái phiếu phát hành qua TTGDCK gồm: Trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu đô thị
Điều này đặt ra nhiều vấn đề của nội bộ TTGDCK về mô hình tổ chức, phương thức giao dịch, tổ chức hệ thống giao dịch, lưu ký, đăng ký thanh toán bù trừ , công bố thông tin… đối với trái phiếu. Vì vậy, các nỗ lực thực sự của TTGDCK Hà Nội chính là điều kiện tổ chức thị trưòng trái phiếu suôn sẻ, mà điều này lại liên quan đến công nghệ, con người,tài chính, luật pháp… hỗ trợ từ Chính phủ và Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Về phương thức phát hành: Nên thực hiện rộng rãi hình thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành với nhiều kỳ hạn khác nhau. Xu hướng phát hành qua bán lẻ tại Kho bạc Nhà nước, được chính phủ bảo lãnh… nên ngày càng thu hẹp lại do sự phân tán, gây khó khăn trong quản lý, tiến tới là chấm dứt trong thời gian tới. Việc tập trung đầu mối phát hành và quản lý qua TTGDCK đối với trái phiếu trung, dài hạn sẽ tạo điều kiện tốt cho điều hành thị trường trái phiếu nói riêng, chính sách tiền tệ nói chung khi mà đối tượng trái phiếu đáo hạn dưới 1 năm nhiều và đa dạng hơn.
Sớm thành lập các tổ chức hỗ trợ thị trường như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, phát triển tư vấn phát hành, xác định giá trị doanh nghiệp( công ty chứng khoán), giúp cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện phát hành trái phiếu. Trước mắt nên tập trung vào các doanh nghiệp lớn, các công ty đại chúng, mà cho đến nay đã có khoảng 1.000 công ty đại chúng đăng ký với uỷ ban chứng khoán nhà nước, hỗ trợ họ trong phát hành trái phiếu doanh nghiệp để tạo đà cho thị trường này.
3.2.1.3. Phát triển thị trường thứ cấp
Hàng hoá của thị trường trài phiếu thứ cấp chính là các loại trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ,( trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết).
Phương thức giao dịch: nên sử dụng chủ yếu là giao dịch thoả thuận theo mô hình đa định chế.
Các thị trường chứng khoán tập trung thực hiện giao dịch từ xa với đội ngũ các nhà tạo lập thị trường như ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán…
Sớm tạo dựng các nhà tạo lập thị trường thực sự như NHTM, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán… Với các NHTM, công ty bảo hiểm, Nhà nước cần có chính sách cho phép họ được kết hợp với nghiệp vụ thị trường mở của NHNN một cách linh hoạt để phục vụ cho các mục đích tài chính công. Ngoài ra cần xây dựng các nhà giao dịch trái phiếu chuyên nghiệp, hoạt động tại TTGDCK Hà Nội là nơi giao dịch trái phiếu chuyên nghiệp. Họ là các NHTM, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán.. Vì vậy, đội ngũ các trung gian tài chính này có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển thị trường trái phiếu nói chung.
Để đáp ứng nhiệm vụ này, hiện nay TTGDCK Hà Nội đã chuẩn bị các điều kiện cho thị trường trái phiếu tại TTGDCK, thể hiện trong các đề án của TTGDCK. Hy vọng rằng, với những nỗ lực đó, một thị trường trái phiếu riêng biệt sẽ sớm hoạt động có hiệu quả
Sớm hoàn chỉnh thông tin cho thị trường trái phiếu, các thông báo về giao dịch cũng như các thông tin về phát hành, chiết khấu đối với trái phiếu đáo hạn dưới 1 năm, mua bán trái phiếu trước hạn tránh tình trạng mua bán trái phiếu ngoài thị trường như hiện nay.
Bên cạnh đó, để phát triển thị trường thứ cấp thì việc phát triển các hình thức tổ chức trên thị trường giao dịch là cần thiết. Trước hết là việc thành lập Sở giao dịch chứng khoán. Chuyển trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh thành Sở GDCK vào năm 2007 để thực hiện niêm yết và giao dịch chứng khoán của ác tổ chức phát hành có đủ điều kiện. Thực hiện tăng số lần khớp lệnh giao dịch chứng khoán tại trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh lên 4 lần vào cuối năm 2007; khớp lệnh liên tục từ năm 2010. Tiếp đó là phải nâng cấp thị trường giao dịch thỏa thuận tại Hà Nội. Nâng cấp trung tâm GDCK Hà Nội cả về cơ cấu tổ chức và chức năng để thực hiện các nhiệm vụ: (1) Đấu giá các DNNN cổ phần hóa và đăng ký giao dịch các cổ phiếu đã phát hành; (2) Phát hành và giao dịch các loại cổ phiếu của doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp vừa và nhỏ ( theo nguyên tắc thỏa thuận); (3) Phát hành và giao dịch các loại trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp; (4) Giao dịch các công cụ phái sinh : Phương thức giao dịch tại trung tâm GDCK Hà Nội bao gồm: giao dịch theo phương thức thỏa thuận và giao dịch qua hệ thống các nhà tạo lập thị trường; Tập trung phát triển giao dịch trực tiếp giữa nhà đầu tư với nhà đầu đầu tư và giữa nhà đầu tư với các công ty chứng khoán tại các địa điểm giao dịch của các công ty chứng khoán.
3.2.1.4. Hoàn thiện khung pháp lý cho việc phát hành, niêm yết, giao dịch trái phiếu
Khung luật pháp cho việc phát hành, niêm yết và giao dịch trái phiếu ở Việt Nam bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý để thị trường trái phiếu hình thành và hoạt động, tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa nguyên tắc bảo vệ người đầu tư, đưa ra các quy tắc và kỷ luật của thị trường và ngăn chăn các hành vi gian lận, loại bỏ các quy định còn mâu thuẫn giữa các văn bản pháp lý hiện hành gây trở ngại cho quá trình thực hiện. Luật pháp về thị trường trái phiếu cần được hoạch định như một bộ phận trong một thể thống nhất của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Theo đó, chúng ta cần rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời những nội dung còn thiếu sót, tồn tại và chưa hợp lý các văn bản luật hiện hành, có kế hoạch soạn thảo bộ luật về phát triển thị trường vốn hay thị trường chứng khoán, trong đó, có thị trường trái phiếu để thống nhất quản lý việc phát hành và niêm yết, giao dịch chứng khoán. Các điều kiện phát hành, niêm yết và việc quản lý các thành viên thị trường cũng phải được mở rộng về đối tượng, nâng cao tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán nợ, năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thị trường của các cơ quan quản lý… Bên cạnh đó, cần đồng bộ hoá các quy định trong các văn bản pháp luật có liên qua như luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, chế độ tài chính kế toán có liên quan phù hợp mục tiêu xây dựng và phát triển thị trường vốn.
3.2.1.5. Thúc đẩy thị trường giao dịch trái phiếu tập trung ( tại trung tâm GDCK)
Một vấn đề quan trọng trong việc thúc đẩy giao dịch trên thị trường tập trung là không được có bất cứ khó khăn nào trong việc tìm ra đối tác giao dịch. Nhà đầu tư phải có khả năng gửi và xác nhận lệnh tới Thị trường giao dịch tập trung thông qua công ty môi giới của họ và có được giá niêm yết và các thông tin giao dịch kịp thời, Vì vậy, nhất thiết phải có hệ thống truyền lệnh được vi tính hoá và thệ thống thực hiện giao dịch kết nối với tất cả các hãng thành viên. Nhà đầu tư có thể dễ dàng có được các thông tin với chi phí thấp. Thị trường giao dịch tập trung phải yêu cầu các thành viên báo cáo các giao dịch của mình trên thị trường OTC và công bố thông tin không chỉ cho các thành viên mà còn thông báo cho các tổ chức đầu tư. Để cung cấp tỷ lệ lãi suất chuẩn có thể tin cậy được và kiểm soát thị trường trái phiếu có hiệu quả thì Thị trường giao dịch tập trung phải thiết lập hệ thống có thể sử dụng tốt nhất các ưu điểm của thị trường OTC trong đó hai bên thoả thuận với nhau về các điều khoản của giao dịch như khối lượng, giá cả và phương pháp thanh toán…
Bên cạnh đó, việc áp dụng chệ thống các nhà giao dịch cũng là một nhân tố thúc đẩy thị trường giao dịch tập trung. Khi có biến động lớn về giá trái phiếu do giá trị giao dịch thấp, hệ thống các nhà giao dịch giảm bớt các biến động về lãi suất . Nếu thị trường Thị trường giao dịch tập trung trở thành cơ cấu thị trường nhà giao dịch Thị trường giao dịch tập trung cần yêu cầu các thành viên báo cáo tất cả các giao dịch trên thị trường OTC và công bố các thông tin cho công ty môi giới và nhà giao dịch để giúp đỡ việc ra quyết dịnh giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung của nhà đầu tư. Khi nhà giao dịch cần có tính thanh khoản, nhà môi giới sẽ cung cấp hệ thống phân phối giữa các nhà giao dịch. Tất cả các quy định về giao dịch giữa các nhà giao dịch thông qua màn hình của nhà môi giới phải được thiết lập để cung cấp tính thanh khoản cao nhất.
3.2.1.6. Xây dựng đề án đưa trái phiếu giao dịch tại thị trường phi tập trung (Thị trường OTC).
Do bản chất nội tại của thị trường thứ cấp, giao dịch trên thị trường OTC quan trọng hơn giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung rất nhiều. Các lý do chính để có giao dịc trên thị trường OTC là:phương pháp giao dịch trái phiếu rất phức tạp, không phù hợp với Thị trường giao dịch tập trung thông thường. Vì vậy giao dịch thoả thuận phổ biến hơn giao dịch cạnh tranh. Các nhà môi giới có thể mua hoặc bán chứng khoán với tư cách là nhà môi giới của khách hàng, hay đại lý hoặc nhà giao dịch cho chính mình. Nhà môi giới khi nhận được lệnh từ khách hàng hoặc khi giao dịch cho khách hàng của công ty môi giới, trở thành nhà tạo lập thị trường và đặt mức giá hiện tại của tất cả các chứng khoán OTC dưới hình thức của nhiều nguồn thông tin, ví dụ như hệ thống trồng thông điện tử và thông báo ra công chúng hàng này. Tuy vậy, đối với tất cả các giao dịch trái phiếu nguồn thông tin tốt nhất bao gồm các mối quan hệ của họ trong hoạt động kinh doanh.Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có rnột thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm của các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức của công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ điều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán.
3.2.2 Nhóm giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Phát triển các tổ chức tài chính trung gian, phụ trợ, bảo lãnh phát hành, định mức tín nhiệm, đại diện người sở hữu trái phiếu
Có thể nói, chúng ta không thể phát triển thị trường vốn mà không có các tổ chức tài chính trung gian, với các chức năng chủ yếu là môi giới chứng khoán, quản lý đầu tư, mua bán chứng khoán cho chính mình, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư…. . Vì vậy việc phát triển các định chế trung gian đóng một vai trò khá quan trọng. Để phát triển các định chế này cần phải tái cơ cấu các công ty chứng khoán theo hướng tăng quy mô vốn,mở rộng phạm vu và mạng lưới cung cấp dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực; xây dựng và phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường, hệ thống cá nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp; như khuyến khích thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư vốn của nhà nước (SCIC); thành lập trung tâm lưu ký chứng khoán theo mô hình công ty trong đó có vốn của Nhà nước để tiếp quản các nghiệp vụ lưu ký , thanh toán do các trung tâm giao dịch chứng khoán đảm nhiệm; phát triển mạng lưới thành viên lưu ký chuyên cung cấp các dịch vụ lưu ký. Hiện nay, ở Việt Nam mới có công ty tài chính, công ty chứng khoán với tiềm lực tài chính còn hạn chế. Để các tổ chức tài chính có thể hình thành và hoạt động, bên cạnh việc thúc đẩy thị trường phát hành chứng khoán, cần phải có một khuôn khổ pháp lý rõ ràng để điều chỉnh hoạt động của các tổ chức này. Sự có mặt của cá nhân và tổ chức này góp phần quan trọng tạo ra cung trái phiếu thông qua hoạt động tư vấn, hỗ trợ hoặc bảo lãnh cho nhà phát hành, mặt khác các tổ chức tài chính trung gian còn thúc đẩy cầu chứng khoán thông qua chức năng quản lý vốn và tư vấn đầu tư cho các tổ chức và cá nhân, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, ít hiểu biết. Trong chức năng tư vấn đầu tư, vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm là đặc biệt cần thiết đối với cả người phát hành lẫn người đầu tư ngay trong giai đoạn đầu thị trường.
3.2.2.2. Nâng cao vai trò và hiệu quả trong phối hợp của các cơ quan quản lý thị trường trái phiếu ( bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban chứng khoán nhà nước, Trung tâm giao dịch CK)
Bộ tài chính: là cơ quan hoạch định chính sách, đưa ra mô hình thị trường trái phiếu và phát triển thị trường vốn Việt Nam. Quốc hội quy định tổng nợ mà Bộ Tài chính có thể phát hành và quản lý các loại công cụ nợ mà Bộ ban hành. Bộ tài chính cố gắng duy trì lượng cung trái phiếu ở các thời gian đáo hạn khác nhau ở mức tương đối ổn định thay vì phân bổ lượng cung theo dự đoán thị trường. Bộ Tài Chính thường xuyên tổ chức các cuộc họp với các nhà giao dịch để có thể cập nhật bất cứ vấn đề gì có thể ảnh hưởng đến đấu thầu.
Ngân hàng nhà nước: quản lý các hoạt động của các tổ chức tài chính như: quản lý hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ, cấp phép và quản lý các tổ chức thực hiện các họat động trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động môi giới tiền tệ... quản lý các khoản nợ của tư nhân và công chúng trong chính sách quản lý tính thanh khoản và lạm phát; Giám sát và quản lý giao dịch trái phiếu chính phủ, chấp thuận các trái phiếu do các tổ chức tài chính phát hành và các chứng khoán của các quỹ đầu tư, và nếu cần thiết quy định tỷ lệ lãi suất tối đa của trái phiếu tài chính.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước: phải là một cơ quan của Chính phủ với đầy đủ tư cách pháp nhân, giám sát và quản lý tất cả các doanh nghiệp trong thị trường chứng khoán Việt Nam. UBCKNN chịu trách nhiệm ban hành các chính sách vĩ mô liên quan đến thị trường chứng khoán. Vai trò chính của UBCKNN trong thị trường trái phiếu là (i) Quản lý phát hành và giao dịch chứng khoán; (ii) giám sát và quản lý phát hành ra công chúng; (iii)Quản lý khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành và các điều khoản phát hành bằng cách quy định giới hạn số lượng trái phiếu phát hành hàng năm ;(iv) Giám sát và quản lý công ty chứng khoán, các tổ chức lưu ký và các tổ chức thanh toán và chuyển giao và các chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán, các tổ chức này là các tổ chức mà UBCKNN có thể quản lý dễ dàng mà không xung đột với ngân hàng nhà nước; (v) thiết lập các tiêu chuẩn niêm yết và các cấp phép phát hành chứng khoán; (vi) và giám sát các hoạt động của Thị trường giao dịch tập trung chứng khoán và hệ thống yết giá tự động.
Trung tâm giao dịch chứng khoán: kiểm soát các công ty thành viên và các công ty niêm yết để duy trì thị trường công bằng và có trật tự. Đồng thời, Thị trường giao dịch tập trung cũng quản lý các giao dịch trái phiếu có niêm yết và không niêm yết trên thị trường OTC, thiết lập tiêu chuẩn niêm yết quản lý biến động giá, công bố thông tin về các công ty niêm yết để bảo vệ các nhà đầu tư. Hơn nữa, Thị trường giao dịch tập trung còn có chức năng kiểm soát các mối quan hệ có liên quan đến đầu tư vào trái phiếu, giải quyết các xung đột giữa các thành viên, các nhà đầu tư và thanh tra thị trường để hạn chế các hoạt động giao dịch không công bằng, hoặc không hợp tác.
3.2.2.3. Thành lập các tổ chức tín nhiệm ở Việt Nam
Để tạo điều kiện cho việc phát hành rộng rãi các loại trái phiếu doanh nghiệp nói chung và nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể phát hành trái phiếu được thị trường chấp thuận, cần xây dựng 1-2 công ty định mức tín nhiệm do Nhà nước hỗ trợ, với sự tham gia vốn của các định chế tài chính. Các tổ chức này phải đảm bảo khả năng chuyên môn và tính khách quan trung thực trong việc đánh giá mức độ tín nhiệm của người phát hành Thành lập công ty định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Công ty này có trách nhiệm đánh giá các tổ chức phát hành trên thị trường, giúp các nhà đầu tư đánh giá, nhận định cơ hội đầu tư trái phiếu, đồng thời giúp các doanh nghiệp và các tổ chức trung gian thị trường xác định mức lãi suất phù hợp thị trường. Định mức tín nhiệm các công cụ tài chính cung cấp cho nền kinh tế bằng cách gia tăng hiệu quả hoạt động của cả thị trường tiền tệ lẫn thị trường tài chính. Trong khi việc định mức tín nhiệm các công cụ tài chính ngắn hạn quan trọng đối với toàn bộ hiệu quả của các thị trường tài chính, định mức tín nhiệm các công cụ tài chính dài hạn hơn (như tín phiếu và trái phiếu) là tối quan trọng cho sự phát triển của thị trường trái phiếu. Về mặt bản chất các công cụ thị trường vốn, rủi ro của một sự thay đổi trong độ tin cậy tín dụng của một người phát hành lớn hơn nhiều so với trường hợp của các công cụ tài chính ngắn hạn. Ngoài ra, khó khăn hơn cho nhà đầu tư để cân đo các rủi ro này trong thời hạn dài hơn mà không có sự phân tích chuyên gia định mức tín nhiệm.
Trong một thị trường chứng khoán đang nổi, một tổ chức dịnh mức tín nhiệm có thể mở rộng thị trường cho các công cụ nợ bằng cách mang đến cho thị trường những nhà đầu tư mới chưa được khai thác, bao gồm các nhà đầu tư tổ chức trong và ngoài nước mà có lẽ không thể mua một công cụ thị trường tiền tệ, hoặc trái phiếu trong sự thiếu vắng định mức tín nhiệm của công cụ đó. Cũng còn có thể kỳ vọng chi phí phát hành giảm bằng cách cung cấp lợi thế về quy mô trong việc thực hiện các chức năng điển hình gắn liền với một tổ chức định mức tín nhiệm – tìm kiếm thông tin, phân tích, công bố và theo dõi. Bởi vì sự gần gũi của chúng và thị trường, các tổ chức định mức tín nhiệm có thể thúc đẩy việc đối thoại chính sách với các cơ quan quản lý pháp luật thích hợp liên quan đến phát triển, hoạt động, và quản lý thị trường tiền tệ và trái phiếu. Một định mức tín nhiệm còn có thể giảm chi phí vốn bằng cách hỗ trợ công bố thông tin về người phát hành ra thị trường và trong việc thúc đẩy các tiêu chuẩn kế toán và công bố thông tin.
3.2.2.4.Đa dạng hoá hình thức trái phiếu và phương thức phát hành trái phiếu
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới chỉ ra rằng, động lực quan trọng để thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển là phải đa dạng các loại hình dịch vụ trên cơ sở nhu cầu của thị trường. Điều này có nghĩa là thị trường cung cấp các loại hình dịch vụ tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng trên thị trường trên cơ sở tiếp cận dễ dàng và được sử dụng. Về cung cấp dịch vụ chứng khoán, hiện nay hầu hết các công ty chứng khoán đều được cấp phép tham gia tất cả loại hình kinh doanh chứng khoán theo quy định hiện hành; môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá sẽ từng bước tiến tới hình thành đội ngũ nhân viên có chuyên môn sâu từng lĩnh vực. Ngoài các dịch vụ hiện nay, tuỳ theo nhu cầu phát sinh, công ty chứng khoán cần phải chủ động tìm kiếm các hình thức dịch vụ phù hợp cung ứng cho khách hàng nhưng phải dựa trên nguyên tác tuân thủ các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó. việc đa dạng hoá các hình thức trái phiếu giúp cho nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận với kênh huy động này,qua đó tăng khả năng huy động vốn qua thông thị trường trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp hiện nay. Đa dạng hoá phương thức phát hành giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng lựa chọn và sử dụng công cụ này một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao dịch trái phiếu nhằm tao điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường thứ cấp, tăng khối lượng giao dịch trên thị trường này, góp phần phát triển và củng cố thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
3.2.2.5. Phát triển hạ tầng thị trường giao dịch
Nâng cấp hệ thống giao dịch điện tử, công bố thông tin hiện có
Hệ thống giao dịch được nâng cấp để đáp ứng nhu cầu tăng thời gian giao dịch, số lần khớp lệnh và nhu cầu thực hiện các giao dịch thỏa thuận của khách hàng. Thực hiện mua bản quyền phần mềm giao dịch, kết hợp với chuyển giao toàn bộ công nghệ sử dụng để hoàn toàn chủ động trong quá trình vận hành; Thiết lập đường truyển dẫn riêng, trực tuyến giữa các công ty chứng khoán thành viên với Sở giao dịch và trung tâm giao dịch chứng khoán; Thực hiện cơ chế công bố thông tin tự động định kỳ hoặc tức thời cho các nhà đầu tư.
Thiết lập cơ chế ngừng giao dịch tự động
Trong trường hợp xảy ra các biến động mạnh về giá và khối lượng giao dịch của từng loại cổ phiếu, trái phiếu tại từng thời kỳ, hệ thống giao dịch sẽ tự động ngừng giao dịch để ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra do các nguyên nhân khách quan, chủ quan trong quá trình thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán
Đảm bảo yêu cầu cho ác giao dịch trực tuyến qua mạng
Để đảm bảo khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi của công chúng và tạo tiện ích cho các hoạt động giao dịch trái phiếu, cổ phiếu cần mở rộng các hoạt động giao dịch trực tuyến qua mạng của các nhà đầu tư trên cơ sở xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tổ cho các hoạt động giao dịch và đảm bảo tính bảo mật, an toàn trong việc đặt lệnh mua, bán chứng khoán của các nhà đầu tư.
Đảm bảo an toàn hệ thống
Hệ thống sao lưu dữ liệu được thiết lập và vận hành song song với hệ thống giao dịch chính, có chức năng sao lưu toàn bộ các dữ liệu phát sinh. Hệ thống sao lưu dữ liệu được tổ chức riêng cho Sở giao dịch, trung tâm giao dịch chứng khoán và trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán để đảm bảo mọi giao dịch đều được xác nhận và thực hiện khi có các rủi ro hệ thống hoặc rủi ro do các nguyên nhân khách quan ( thiên tai, bão lụt...) xảy ra.
3.2.2.6. Một số giải pháp khác
Để từng bước triển khai phát hành trái phiếu doanh nghiệp , đồng thời xây dựng và phát triển thị trường này ngoài các giải pháp trên còn một số các giải pháp khác như là:
Phát triển thị trường trái phiếu theo hướng xây dựng đường cong lãi suất chuẩn để làm cơ sở lãi suất cho các thị trường tài chính khác bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ với nhiều kỳ hạn khác nhau, trước hết là ngắn hạn (tức là tín phiếu kho bạc) với các kỳ hạn ngắn như 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng... Khi đó, đường cong lãi suất được xây dựng trên giao điểm của các kỳ hạn và lãi suất tương ứng. Mức lãi suất chuẩn này cộng với các chi phí khác của các kỳ hạn khác khi vay vốn sẽ tạo ra lãi suất vay vốn trên thị trường tín dụng, tái cấp vốn. Như vậy, hình thành lãi suất chuẩn trái phiếu Chính phủ (TPCP) làm cơ sở xác định lãi suất phát hành TPCTy trên thị trường. Với việc hình hành đường cong lãi suất chuẩn, các doanh nghiệp có thể dựa vào đó để đưa ra mức lãi suất đối với trái phiếu phát hành của họ. Đường cong lãi suất càng chuẩn sẽ càng tạo được lòng tin cho công chúng đầu tư và các chủ thể phát hành.
Phát triển nhà đầu tư: Phải tập trung phát triển nhà đầu tư chuyên nghiệp có tiềm lực tài chính, khuyến khích các tổ chức này thành lập công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho công chúng qua đó nâng cao hiểu biết của công chúng về vai trò, lợi ích, rủi ro của hình thức đầu tư chứng khoán.
Xây dựng các thể chế thị trường trong việc giám sát nguồn vốn phát sinh từ trái phiếu, minh bạch hóa các thông tin về tổ chức phát hành.
Áp dụng quy chế quản trị công ty thống nhất đối với tất cả các công ty đại chúng, bao gồm cả công ty đã niêm yết và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các tổ chức tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo chuẩn mực của thị trường quốc tế và các khuyến cáo của tổ chức quốc tế IOSCO trên cơ sở một hệ thống kế toán, kiểm toán tốt.
Nâng cao trình độ nhìn nhận lợi ích của việc phát hành trái phiếu công t y.
Tóm lại, phát hành TPCTy là lĩnh vực tuy còn mới mẻ và còn nhiều khó khăn nhưng đây lại là hình thức giúp doanh nghiệp tiếp cận nhiều hơn với nguồn vốn trung và dài hạn, bên cạnh nguồn vốn trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng đang dần bị quá tải. Do vậy, theo tác giả, để có thể từng bước phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cần phải có những giải pháp mang tính đồng bộ và những nỗ lực từ nhiều phía./.
Kết luận
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển so với các nước trên thế giới, việc huy động vốn thông qua thị trường này chưa được các doanh nghiệp đánh giá cao do một vài bất cập như thị trường trái phiếu tuy đã có khung khổ pháp lý cần thiết để hoạt động nhưng còn chưa đồng bộ với các văn bản pháp lý liên quan, chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế, cơ chế huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chưa thông thoáng và chưa đáp ứng nhu cầu, việc triển khai thực hiện còn chưa thống nhất, chưa tạo tiền đề cho thị trường thứ cấp phát triển….
Tuy nhiên, với tình hình kinh tế-xã hội hiện nay, việc huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua các kênh huy động truyền thống như vay từ các vay thương mại, khấu hao và đặc biệt là vay từ các ngân hàng không còn là lựa chọn tối ưu của doanh nghiệp nữa bởi vì chi phí từ các kênh này khá cao và chưa đáp ứng được nhu cầu vay dài hạn của doanh nghiệp; tình hình lạm phát gia tăng khiến cho các ngân hàng phải thắt chặt tín dụng; đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Vì vậy phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một trong những phương thức huy động vốn mới và mang lại hiệu quả cao, cung cấp một nguồn vốn lớn và dài hạn đối với doanh nghiệp. Để phương thức huy động này được phổ biến và được các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn đòi hỏi phải có những giải pháp vừa tổng thể vừa chi tiết dựa trên sự nghiên cứu tương đối toàn diện về thị trường trái phiếu đặt trong chiến lược phát triển thị trường vốn, thị trường tài chính ở nước ta.
Do đó, Đề tài “ Huy động vốn phát triển doanh nghiệp thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.” đã đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng và giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, trên cơ sở đó tạo ra một kênh huy động vốn mới, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Danh mục tài liệu tham khảo
*********
Thị trường tài chính Việt Nam. Thực trạng, vấn đề và giải pháp – CEM
Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Tạp chí ngân hàng số 7 năm 2007
Sổ tay trái phiếu doanh nghiệp
Báo cáo của tổng cục thống kê 2000-2003
Báo cáo của tổng cục thống kê 2004-2006
Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát triển thị trường trái phiếu ở Việt Nam
Các website :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Huy động vốn phát triển doanh nghiệp thông qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp.doc