Đề tài Khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ LUẬN – NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương thức chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Bởi vậy xu thế này đang chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự do hoá nền kinh tế của một quốc gia hoặc việc tham gia của quốc gia này vào các cam kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau), khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý như khu vực Đông Nam á – ASEAN ), đa phương ở phạm vi toàn cầu như tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc gia hay tham gia các định chế khu vực và toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá thương mại, đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới. Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đối với nước ta, Đảng đã khẳng định: "Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Điều này chứng tỏ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu đất nước phải trải qua để tiến nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại, là con đường cả nước ta phải chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất. Bởi hội nhập kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận động, phải năng động, đây vừa thách thức và cũng là thời cơ lớn, nếu không tận dụng được thì đất nước tiếp tục lạc hậu, đói nghèo. Do vậy, tất yếu đòi hỏi Việt Nam phải xử lý thành công mọi thách thức và nắm lấy mọi cơ hội trên con đường hội nhập vào xu thế vận động của kinh tế thế giới ngày nay. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế chung trên toàn cầu, một thị trường thế giới chung. Quá trình này vận động trên nền tảng của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh càng phát triển, thì thị trường của nền kinh tế thế giới càng rộng, càng tự do. Thị trường càng rộng, càng thông thoáng thì những nước mạnh về vỗn, giàu kinh nghiệm quản lý, nhạy bén trong việc vận dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến càng có nhiều lợi thế, phần bất lợi thuộc về những nước đang phát triển, yếu về vốn, hạn chế về kinh nghiệm quản lý và nhất là không tận dụng được những lợi thế do toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ mang lại. Đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức phải vượt qua. Những nước phát triển và các tập đoàn kinh tế của họ đang chi phối quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Hố ngăn cách giữa nước giàu với nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo có nguy cơ ngày càng sâu rộng; giá trị bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng bị xói mòn; tính phụ thuộc một chiều của các nước nghèo vào các nước giàu ngày càng gia tăng nếu quốc gia đó không phát huy được hiệu quả nội lực và tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài, .v.v.

doc59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2660 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, trung bình 38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, so với mức 5% ở Ấn Độ hay 10% ở Hàn Quốc. Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ thì đổi mới công nghệ thuộc loại năng lực yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm cho doanh nghiệp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%). Nhìn chung, thiết bị và công nghệ của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là lạc hậu so với các nước. Ví dụ như trong nhiều doanh nghiệp vẫn còn sử dụng thiết bị và công nghệ của Liên xô, Trung Quốc như chè, dệt…..; ngành dệt - may, da giày chủ yếu là gia công, trong ngành dệt còn sử dụng thiết bị của Trung Quốc từ những năm 60….; ngành điện tử và tin học, mặc dù là ngành mới và có tốc độ phát triển nhanh (khoảng 20%/năm), có điều kiện tiếp cận với công nghệ mới nhưng trình độ công nghệ vẫn còn thấp, chủ yếu là lắp ráp CKD, chưa làm chủ được “kỹ thuật nguồn”. Theo các chuyên gia đánh giá thì công nghệ trong lĩnh vực này lạc hậu so với các nước trong khu vực khoảng 10 năm và một thế hệ 20 năm so với các nước phát triển trên thế giới. Mặc dù nhiều doanh nghiệp cũng đã cố gắng đầu tư đổi mới trang thiết bị và công nghệ cũng như nhận chuyển giao nhiều công nghệ mới nhưng mới ở từng phần, từng công đoạn chứ chưa đồng bộ. Nguyên nhân chính là do thiếu vốn, thêm vào đó cơ chế cho vay vốn chưa phù hợp với đầu tư công nghệ của các doanh nghiệp xuất khẩu như điều kiện thế chấp, mức lãi suất cao, thời hạn cho vay ngắn…. điều này dẫn đến doanh nghiệp không có khả năng đổi mới công nghệ, thiết bị một cách đồng bộ và toàn diện. Đánh giá chung thì trình độ công nghệ của của Việt Nam còn ở mức trung bình thấp, có nhiều lĩnh vực công nghệ lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với thế giới. Các nhà máy có quy mô nhỏ, sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín nhưng thiếu sự phân công hợp tác, chuyên môn hoá sản xuất giữa các doanh nghiệp. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc có trình độ công nghệ cao từ các nước tiên tiến tuy tạo khả năng cho các doanh nghiệp nói riêng và ngành công nghiệp của Việt Nam nói chung, nâng cao chất lượng, năng lực và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, nhưng cùng với khả năng hạn chế về trình độ sử dụng của đội ngũ công nhân và nguồn vốn còn hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt Nam thì cũng có thể sẽ tạo nguy cơ gia tăng khả năng lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài của Việt Nam. Và gánh nặng trả nợ vốn vay của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Đặc biệt, nếu sản phẩm sản xuất ra mà không giành được thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế thì không ít doanh nghiệp Việt Nam sẽ sa vào nguy cơ bị phá sản. 4. Khả năng thích ứng về quản lý và điều hành doanh nghiệp Theo kết quả điều tra của Cục xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại , có 40,6% doanh nghiệp đã áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong quản lý, giảm tối đa biên chế quản lý là 48,4%, tiết kiệm các chi phí gây lãng phí 73,7%, việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 9000 sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng qui trình công tác cho từng lao động và mối quan hệ dây chuyền giữa các lao động và bộ phận công tác nhằm hợp lý hoá sản xuất và quản lý, giảm biên chế hành chính, góp phần giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc thuê chuyên gia và đào tạo để ứng dụng ISO có thể đòi hỏi một số chi phí tương đối lớn ban đầu, coi như một khoản đầu tư để cải tiến quản lý. Có 32,0% doanh nghiệp đã quản lý doanh nghiệp theo tiêu chuẩn ISO. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù đã có chủ trương xoá bỏ cơ quan chủ quản, nhưng hiện vẫn đang có quá nhiều cấp, ngành trực tiếp can thiệp công việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Việc phân cấp trên dưới, ngang dọc chưa rõ ràng đã gây ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cùng ra sức "tăng cường quản lý", công tác thanh tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp hoạt động. Cơ chế "bộ chủ quản", "cấp chủ quản" đang gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Việc phân chia "quốc doanh trung ương", "quốc doanh địa phương' đã tạo nhiều bất hợp lý, phân biệt đối xử, ảnh hưởng đến kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong nội bộ mỗi doanh nghiệp nhà nước, tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với doanh nghiệp ngoài nhà nước; nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính rườm rà chưa được sửa đổi đã làm cho doanh nghiệp không thể năng động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn chế trong tiếp cận với những kiến thức, với phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu tiếp cận với thị trường thế giới. Khả năng quản lý cả về kỹ thuật và kinh doanh kém. Thiếu đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, đây là một trong những tồn tại lớn đối với các doanh nghiệp hiện nay. Biên chế bộ máy quản lý của doanh nghiệp nhà nước gấp tới 2-3 lần so với doanh nghiệp ngoài nhà nước cùng ngành nghề và quy mô, cùng có số tài sản cố định như nhau, và doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động gấp 10 lần doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. 5. Khả năng thích ứng về nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, chỉ chưa đầy 10% số doanh nghiệp là thường xuyên thăm thị trường nước ngoài, chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, 42% số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có cuộc đì thăm thị trường nước ngoài, và khoảng 20% không một lần đặt chân lên thị trường ngoài nước. Các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân thì khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài hầu như không có. Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường và đã tiến hành nghiên cứu, song "lực bất tòng tâm", vốn ít, ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường rất hạn hẹp, khả năng thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn kém, hiệu quả không cao. Do khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của cán bộ còn yếu, lợi ích đem lại không đủ bù chi phí. Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Các doanh nghiệp còn rất hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học, thống kê trong nghiên cứu thị trường. Đa số các doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được họ tiến hành phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo. Các thông tin sơ cấp về thị trường không có đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ động, không chắc chắn. Về việc xác định thị trường mục tiêu: các doanh nghiệp thường lựa chọn thị trường mục tiêu theo cách phản ứng lại với thị trường, thấy cơ hội của đoạn thị trường nào hấp dẫn thì tập trung vào đoạn thị trường đó. Chẳng hạn, khi hạn hán mất mùa ở Inđônêxia làm xuất hiện nhu cầu nhập khẩu gạo thì họ tập trung vào đó. Cũng tương tự như với thị trường Irắc về đổi lương thực lấy dầu và trả nợ thì các doanh nghiệp lại tập trung vào đoạn thị trường này. Tình trạng phổ biến diễn ra là các doanh nghiệp không chủ động tiếp cận với thị trường để chọn ra cho mình một thị trường mục tiêu, để từ đó có kế hoạch thâm nhập, giữ vững hay mở rộng thị trường. Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh như nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế, ngân hàng dữ liệu... còn hạn chế. Trình độ khai thác và sử dụng thông tin của cán bộ còn thấp, sự quan tâm chưa đúng mức của lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức không tương ứng... Còn có những mặt hàng của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối (ưu đãi độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế...), thậm chí nhiều doanh nghiệp cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. 6. Khả năng hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp. Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hoá đặc thù như hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản phẩm nói chung thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ uống, sản phẩm thép và kim loại màu, ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa... cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cán, lốp xe các loại... Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái... Ngoài ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng sẽ làm. phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như, chi phí vận chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm.... Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp như: điện, viễn thông, cảng biển, vận tải ở Việt Nam cũng được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực. Ví dụ, cước viễn thông quốc tế Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực từ 80% - 50% (Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Xingapo), cước vận tải đường biển container cao hơn 40% - 50% so với Malaixia và Xingapo. Bên cạnh đó, ngoài các khoản chi phí cho dịch vụ vận tải và chi phí thông thường khác, một doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá qua đường biển hoặc đường hàng không phải chịu thêm khoảng 20 loại phí khác, với cách tính phí cũng khác nhau ở mỗi cảng và mỗi đại lý vận tải (ví dụ như: phí đại lý, phí dỡ hàng, phí nâng hạ và chuyển bãi container, phí lưu kho bãi...). Tất cả các khoản chi phí này đều có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp. Chiến lược phân phối. Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ thống phân phối hàng hoá đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương thức này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản ánh tình hình thị trường. Hiện nay, có một số doanh nghiệp đã tận dụng được các đại lý để phân phối bán lẻ, mà chưa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường gồm đặc tính của các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục tiêu, tiềm năng, đối thủ cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính mùa vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm...), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế, khả năng quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thông, vận chuyển..). Xác lập hệ thống này còn mang tính chất "phi vụ” chứ chưa hình thành được chiến lược về kênh phân phối chuẩn. So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, kênh phân phối vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu. Chiến lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng. Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với doanh nghiệp nước ngoài như Coca Cola là 20% và Sony là l0%, chất lượng quảng cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả điều tra của Cục xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại cho thấy, một số doanh nghiệp đã quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu, tuy nhiên mới chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu là vũ khí trong cạnh tranh, 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, còn 30% cho rằng thương hiệu sẽ giúp bán được hàng với giá cao hơn và đem lại tự hào cho người tiêu dùng. Trong khi đó có đến 90% người tiêu dùng lại cho rằng thương hiệu là yếu tố quyết định khi họ lựa chọn mua sắm. Mặc dù vậy, việc đầu tư cho thương hiệu của doanh nghiệp còn quá ít, có 80% doanh nghiệp chưa có bộ phận chức năng lo quản lý nhãn hiệu, 74% doanh nghiệp đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu, 20% không hề chi cho việc xây dựng thương hiệu. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp cũng gặp phải những khó khăn: 23% doanh nghiệp cho rằng có khó khăn về vốn và tài chính, nạn hàng giả và vi phạm bản quyền (19%), cơ chế, chính sách, thủ tục... (14%), nguồn nhân lực (11,8%), xây dựng chiến lược và cách thực hiện (8%), thủ tục hành chính (7,2%), giá dịch vụ (6,3%). Nhiều doanh nghiệp thường xem nhẹ vai trò của thương hiệu sản phẩm hoặc thương hiệu doanh nghiệp nên không đăng ký thương hiệu tại nước nhập khẩu. Điều đó đã làm cho doanh nghiệp bị mất thương hiệu trên thị trường thế giới đối với một số sản phẩm như: nước mắm Phú Quốc, bia Sài Gòn, may Việt Tiến, khoá Việt Tiệp, cà phê Trung Nguyên, Vinataba, Bia Hà Nội, Vifon... Báo cáo Thương mại điện tử năm 2005 của Bộ Thương mại trên cơ sở phân tích kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2005 cho thấy một tỉ lệ khá cao các doanh nghiệp được khảo sát đó cú những đầu tư bước đầu về ứng dụng CNTT, với 89% doanh nghiệp đó kết nối và sử dụng Internet. Tỷ lệ doanh nghiệp truy cập Internet bằng ADSL chiếm trên 70% năm 2005 tăng hơn hẳn 54% so với năm 2004. Trong số các doanh nghiệp được khảo sát có tới 46,2% doanh nghiệp đó thiết lập website. Cỏc doanh nghiệp được điều tra đều tập trung ở những thành phố lớn, nơi hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông phát triển hơn những địa phương khác, có thể ước tính tỉ lệ kết nối Internet của doanh nghiệp trên toàn quốc ở mức 50% - 60%. Với gần 160.000 doanh nghiệp hiện đăng ký kinh doanh tại Việt Nam, số lượng thuê bao Internet của khối doanh nghiệp theo tỷ lệ tương ứng sẽ vào khoảng 90.000-100.000, chiếm trên dưới 5% tổng số thuê bao quy đổi do VNNIC thống kê vào tháng 12/2004 (2.012.926 thuê bao cho mọi đối tượng khách hàng). Đây là một bước tiến lớn về trỡnh độ tiếp cận CNTT của doanh nghiệp trong năm 2003-2004 so với năm 2002, khi chỉ khoảng 30% doanh nghiệp được kết nối Internet và không đến 10% doanh nghiệp có website riêng giới thiệu về dịch vụ và các hoạt động của doanh nghiệp mỡnh. Việc quảng cáo thông qua các Công ty quảng cáo ở nước ngoài hầu như không được các doanh nghiệp sử dụng, hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ khả năng tài chính và chưa được trang bị công nghệ để quảng cáo ở nước ngoài. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp chưa tiến hành quảng cáo sản phẩm của mình vì nhiều lý do khác nhau. Trong đó, có 50% doanh nghiệp không quảng cáo vì lý do chi phí cho dịch vụ quảng cáo quá lớn, 25% doanh nghiệp không quảng cáo vì quy mô của doanh nghiệp nhỏ nên chưa có nhu cầu quảng cáo và 12,5% doanh nghiệp không quảng cáo vì không tìm được tổ chức cung cấp dịch vụ thích hợp. 8. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D) Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Qua điều tra, có 69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho R & D. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ cao nhất chiếm 84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. Thực tế là nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh, trong điều hành chủ yếu vẫn là "xử lý tình huống" với công việc hàng ngày, chưa thấy được yêu cầu của quản lý hiện đại nên chưa chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển. 9. Khẳ năng thích ứng với môi trường kinh tế đa văn hoá Những cách biệt về văn hoá trong quá trình hội nhập kinh tế đã được đề cập nhiều trong các tài liệu, các nghiên cứu về hội nhập. Văn hoá, nhất là văn hoá kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp hay văn hoá tổ chức được hiểu là một hệ thống các giá trị. các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do các thành viên trong doanh nghiệp đó sáng tạo và tích luỹ trong quá trình tương tác với môi trường bên ngoài và hội nhập bên trong tổ chức. Văn hoá này sẽ được dùng để đánh giá các hành vi, do đó, được chia sẻ và phổ biến rộng rãi giữa các thế hệ thành viên, giữa các doanh nghiệp như một chuẩn mực để nhận thức, tư duy và cảm nhận trong mối quan hệ với các vần đề mà họ phải đối mặt. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những cơ hội tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn nhưng cũng buộc các doanh nghiệp, cho dù ở các nước phát triển hay kém phát triển, phải đối mặt với một môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Khi đó mục tiêu của các doanh nghiệp sẽ là phát huy lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đổi mới và thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh nhằm giành được phần thắng trong hội nhập cạnh tranh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải tạo dựng được khả năng thích ứng tốt trong một môi trường kinh doanh luôn thay đổi.. Khả năng thích ứng của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào khả năng sáng tạo và đổi mới - bao gồm việc chủ động thay đổi chứ không vì sức ép từ bên ngoài, liên tục cải tiến hoặc áp dụng các phương pháp để thực hiện công việc, phản ứng nhanh chóng với đối thủ cạnh tranh và loại trừ những cản trở đối với sự đổi mới. Học hỏi lẫn nhau và học hỏi từ bên ngoài cũng tạo ra khả năng thích ứng của tổ chức. Sự biến động của môi trường kinh doanh, công nghệ và phương pháp thực hiện công việc là rất nhanh, đa dạng và phức tạp do đó học hỏi sẽ giúp cho doanh nghiệp duy trì được khả năng đổi mới. Muốn vậy, doanh nghiệp phải trở thành một tổ chức học tập trong đó, các thành viên phải coi học tập là một mục tiêu quan trọng hàng ngày, tinh thần chấp nhận rủi ro được khuyến khích, kiến thức thông tin được chia sẻ rộng rãi. Bên cạnh đó, các hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động đổi mới, phải luôn hướng theo khách hàng. Lợi ích của khách hàng luôn được tính đến trong các quyết định của doanh nghiệp. Tất cả các thành viên, từ lãnh đạo cấp cao cho đến người công nhân sán xuất hay tạp vụ, phải thấu hiểu nhu cầu của khách hàng của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích tất cả các thành viên trong doanh nghiệp có sự tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Đó là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho doanh nghiệp có thể bám sát và phản ứng nhanh chóng với sự thay đổi nhu cầu khách hàng. Đối với những đơn đặt hàng lớn, doanh nghiệp Việt Nam phải biết liên kết lại theo một tinh thần tương trợ và tôn trọng lẫn nhau. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Đây là thực trạng rất đáng buồn của văn hoá doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam. Nếu không thay đổi được cách suy nghĩ này, chỗ đứng của doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế sẽ chỉ là lời nói suông. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực và sẵn sàng chia sẻ quyền hạn và trách nhiệm xuống các cấp quán lý thấp hơn trong tổ chức cần phải được quan tâm một cách thích đáng. Phát triển nguồn lực con người sẽ giúp tăng cường khá năng giải quyết tốt hơn các vấn đề nội bộ của doanh nghiệp, khơi nguồn các ý tưởng sáng tạo nội bộ và tăng cường năng lực đổi mới của doanh nghiệp. Trong bối cảnh cạnh tranh đầy biến động như hiện nay, những quyết định tốt nhất để giúp cho doanh nghiệp có thể thích ứng nhanh chóng không phải là được đưa ra từ ban lãnh đạo cấp cao mà là từ nơi có sẵn thông tin. Điều đó có nghĩa là lãnh đạo cấp cao phải khuyến khích cấp dưới tham gia vào quá trình ra các quyết định chiến lược và tiến hành uỷ quyền mạnh mẽ và triệt để hơn cho các cấp quản lý thấp hơn. Phát triển nguồn nhân lực và uỷ quyền là hai hoạt động bổ trợ cho nhau. Việc uỷ quyền chỉ có hiệu quả khi doanh nghiệp có 1 một đội ngũ quán lý có đủ năng lực để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực chuyên môn của họ và những phạm vi lớn hơn - đó là kết quả của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Ngược lại, uỷ quyền là làm tăng mức độ tự chủ trong công việc và trách nhiệm của cấp dưới, do đó sẽ giúp cho các nhà quản lý ở cấp thấp hơn tích luỹ kinh nghiệm và phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định. Việc uỷ quyền sẽ đạt được hiệu quả cao nhất khi doanh nghiệp được phát triển theo mô hình nhóm công tác hoặc nhóm ra quyết định, và các nhóm này sẽ được uỷ quyền một cách rộng rãi để đảm bảo cho các nhóm có đủ thẩm quyền và nguồn lực để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi của nhóm. Sự kết hợp các yếu tố trên sẽ tạo ra một một nền văn hoá - một năng lực vượt trội - để giúp cho doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ trên đường đua đầy rẫy những vật cản và khó khăn. Xây dựng một nền văn hoá như vậy không phải là việc dễ làm. Nhưng nếu không làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị tiêu diệt trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt của thế kỷ 2l. Tóm lại, từ những nhận định trên, có thể nêu ra đây một cách tổng quát về khả năng thích của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trên thị trường trong và quốc tế còn thấp, nguyên nhân là do: (1) Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ thông tin về thị trường, ra quyết định theo kinh nghiệm và theo cảm tính là chủ yếu. (2) Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể thì 90% các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ). Hơn nữa, có quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động sản xuất kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp giảm sút. Tình trạng các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng xuất khẩu đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. (3) Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh. (4)Văn hoá doanh nghiệp, văn minh thương mại, hệ thống dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu và yếu. (5) Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng còn ít. (6) Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp. (7) Chi phí kinh doanh còn cao, năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tốt, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, công nghệ kinh doanh và khả năng tiếp cận đổi mới công nghệ kinh doanh còn lạc hậu,... (8) Nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp không xây dựng được mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài. (9) Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn phức tạp là một nhân tố dẫn đến hạn chế khả năng cạnh tranh. CHƯƠNG IV - ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TĂNG CƯƠNG KHẢ NĂNG THÍCH ƯNG CUa DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO VÀ AFTA Gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực là xu thế tất yếu hiện nay trên thế giới, tạo ra cơ hội mới để tiếp cận thị trường quốc tế nhưng phải đánh đổi bằng việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, mở cửa và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường nội địa. Cách thức để chúng ta có thể thành công trên con đường hội nhập là phải khai thác lợi thế tối đa, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, phát triển các ngành công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Chúng ta cần một cuộc cách mạng về phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phương thức điều hành hoạt động kinh tế thương mại của các cơ quan chức năng. Dưới đây là một số giải pháp để tăng cường khả năng thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. I. Các giải pháp đối với doanh nghiệp 1. Chủ động tiếp cận thông tin, tìm hiểu các cam kết để có chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp không chỉ chịu sự điều chỉnh về mặt luật pháp trong nước mà phải chấp nhận luật chơi của các tổ chức quốc tế. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải chủ động nắm thông tin về việc ban hành văn bản pháp lý mới trong nước, về các cam kết của trong hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các đối tác kinh tế, với các tổ chức kinh tế quốc tế và cần tìm hiểu định chế của WTO qua đó hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp, chủ động sắp xếp lại sản xuất và kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Những cam kết của Việt Nam đối với các đối tác và tổ chức kinh tế quốc tế khi nước tat ham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá cần quan tâm tìm hiểu là: - Hiệp định về thuế: quy định mức thuế và lịch trình cắt giảm thuế hàng hoá; - Hiệp định về hải quan: trị giá hải quan và giám định trước khi xếp lên tầu; - Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại; - Hiệp định về hàng hoá nhập khẩu; - Hiệp định về các biện pháp tự vệ; - Hiệp định về nông nghiệp; - Hiệp định về hàng dệt và may mặc, … Tuỳ vào lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà từ đó chủ động tìm hiểu thông tin. Năm 2006, thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với các nước Asean ở mức chung là 0 - 5%, các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của nước bạn ngay trên thị trường trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng có cơ hội tiếp cận thị trường các nước trong khu vực, nếu tìm hiểu kỹ luật chơi của AFTA, doanh nghiệp sẽ giảm bớt mức độ rủi ro khi thâm nhập thị trường. 2. Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khó có thể đáp ứng được những yêu cầu và những đơn hàng lớn có thể lên tới hàng trăm triệu USD. Vì vậy, cần phải mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế. Quá trình mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp có thể sẽ là quá trình tích tụ, tập trung vốn để hình thành nên công ty lớn, tập đoàn mạnh. Các công ty lớn có tiềm lực về vốn, về ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường và thường nắm giữ các luồng lưu thông hàng hoá chính. Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng điều chỉnh linh hoạt, tạo thành mạng lưới hoạt động rộng khắp trên thị trường cả trong và ngoài nước. Từ thực tiễn cho thấy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang hoạt động trong điều kiện không đủ vốn cần thiết, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có ít khả năng vay vốn từ ngân hàng thương mại mà chủ yếu phải dựa vào vốn tự có, huy động từ bản thân nhà quản lý, gia đình người thân và nhân viên. Nguyên nhân của tình trạng này một phần từ chính doanh nghiệp: một số doanh nghiệp cố ý làm trái pháp luật, giả mạo giấy tờ để vay vốn ngân hàng; nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ thống kê kế toán, phản ánh không chính xác tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, xây dựng báo cáo tài chính chỉ mang tính chất đối phó. Vì vậy, doanh nghiệp cần có hệ thống ghi chép và theo dõi hoạt động kinh doanh của mình, minh bạch tình hình tài chính sẽ tạo lòng tin và thuyết phục ngân hàng cho vay. Việc liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp không chỉ góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn, mà còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn trung thực, thực hiện tốt chế độ thống kê và báo cáo tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra để khác phục tình trạng thiếu vỗn, doanh nghiệp cần đa dạng hoá nguồn vốn bằng việc kêu gọi các thành viên tăng vốn góp, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá và tham gia vào thị trường chứng khoán. Sử dụng hiệu quả vốn huy động vào sản xuất kinh doanh, hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau nếu không các doanh nghiệp dễ bị các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần tham gia vào các Hiệp hội ngành nghề kinh doanh của mình vừa thu thập thông tin cần thiết về đối tác, thông tin thị trường, tiến bộ công nghệ và sản phẩm vừa tạo nên sự gắn kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ nhau về vốn, kinh nghiệm quản lý và ứng dụng công nghệ tiến tiến trong sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. 3. Chủ động nắm thông tin và những biến động trên thị trường, chiếm lĩnh thị trường nội địa, ra sức thâm nhập thị trường thế giới. Doanh nghiệp cần phải chủ động tìm hiểu nắm thông tin về thị trường nhất là những thông tin liên quan đến những sản phẩm và đối tác của doanh nghiệp mình từ đó có những chiến lược kinh doanh, cạnh tranh thích hợp. Sử dụng công nghệ mới, tăng tính cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng trí thức cao, giảm giá thành, xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống phân phối cho sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, quán triệt triết lý khách hàng, tức là khách hàng cần gì, cần thoả mãn nhu cầu thế nào và ở đâu thì đáp ứng yêu cầu đó. Cùng với việc phát triển thị trường nội địa mỗi doanh nghiệp đều hướng tới mở rộng thị trường kinh doanh. Các quốc gia đều có sự khác biệt về chính trị, kinh tế…, chịu sự tác động của nền kinh tế thế giới ở mức độ khác nhau, doanh nghiệp cần thường xuyên theo dõi, phân tích biến động thị trường, giá cả hàng hóa cả trong và ngoài nước, cân nhắc kỹ để điều hòa hợp lý hoạt động kinh doanh sao có lợi cho doanh nghiệp. 4. Đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực Con người chính là nhân tố trung tâm quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, do vậy, doanh nghiệp cần có chiến lược đào tạo để có một đội ngũ cán bộ và lực lượng lao động lành nghề, có trình độ cao thích ứng với hội nhập quốc tế. Trước hết, muốn tồn tại và thành công trên thương trường mà đặc biệt là thị trường nước ngoài đòi hỏi phải có nhà quản trị doanh nghiệp giỏi, có tầm nhin chiến lược và quản lý chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả, có khả năng xử lý tình huống kinh doanh tốt. Tuy nhiên, đa phần đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp nước ta còn yếu kém cả về kiến thức hội nhập, pháp luật quốc tế và trình độ ngoại ngữ. Doanh nghiệp cần có chương trình, kế hoạch đào tạo, đồng thời, nâng cao hiệu quả đào tạo, học tập kinh nghiệm của các chuyên gia nước ngoài hình thành đội ngủ các nhà quản trị không chỉ giỏi trong việc xây dựng các chiến lược ngắn và dài hạn mà còn có khả năng tổ chức triển khai thực hiện những chiến lược đã được lập ra. Ngoài ra, doanh nghiệp cần quan tâm lợi ích chính đáng của lao động, giải quyết tốt quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Có chính sách thu hút và đối đãi đối với nhân tài, xây dựng một đội ngũ lao động chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo. Tạo điều kiện có lao động trẻ - lực lượng lao động quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - phát huy năng lực. 5. Đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp nhằm tăng hiệu quả quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm, sử dụng tối ưu các nguồn lực hiện có Trình độ khoa học công nghệ, khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ là một trong yếu tố nhằm tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp nào biết tận dụng điều kiện vốn có, cải tiến kỹ thuật để tăng nhanh tốc độ nghiên cứu và triển khai sản xuất sản phẩm mới sẽ thúc đẩy năng lực cạnh tranh, tạo động lực phát triển của doanh nghiệp. Nhìn chung, nhiều mặt hàng của Việt Nam còn bị hạn chế về chất lượng, giá cả, mẫu mã hàng hoá, ứng dụng khoa học công nghệ giúp doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng sản phẩm lạc hậu mang tính kết cấu, nâng cao chất lượng và phát triển tính năng của sản phẩm. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin và sự phát triển hết sức nhanh chóng của thương mại điện tử, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài đều áp dụng thương mại điện tử hoặc áp dụng những phương tiện công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp Việt Nam muốn hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài bắt buộc phải sử dụng công nghệ thông tin và áp dụng thương mại điện tử. 6. Xây dựng văn hoá kinh doanh và phục vụ khách hàng Văn hoá kinh doanh đó là văn hoá được hình thành và phát triển trong hoạt động kinh doanh bao gồm văn hoá thương nhân, văn hoá thương trường và văn hoá trong doanh nghiệp. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng văn hoá kinh doanh là đòi hỏi tất yếu, nó chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng pháp luật, đặt chữ tín lên hàng đầu. Nâng cao tầm văn hoá kinh doanh của các doanh nhân, hình thành văn hoá kinh doanh trong các doanh nghiệp, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả, có năng lực cạnh tranh cao, tôn trọng luật pháp, bảo đảm nghĩa vụ đối với Nhà nước, đoàn kết gắn bó trong mỗi doanh nghiệp, gắn bó doanh nghiệp với cộng đồng và xã hội. II. Các giải pháp đối với các cơ quan nhà nước 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ sở pháp lý nhất là các luật liên quan tới thương mại và đầu tư Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã đẩy nhanh chương trình xây dựng pháp luật, một mặt đáp ứng nhu cầu hội nhập mặt khác tạo một cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh lành mạnh. Để tiến tới tự do hoá thương mại, nước ta cần phải cụ thể hoá hơn nữa các nguyên tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia, xây dựng các trình tự, điều kiện, thủ tục áp dụng các chế độ này trong quan hệ thương mại, có chiến lược để cạnh tranh dành lợi thế khi không có điều kiện bảo bộ, đảm bảo các mục tiêu: thứ nhất, hoàn thiện cơ chế điều hành thương mại của Việt Nam để phù hợp với hội nhập quốc tế và các cam kết hội nhập; thứ hai, bảo vệ thị trường trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp nước ngoài; thứ ba, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch… 1.1 Khẩn trương rà soát văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh những quy định chưa phù hợp, bổ sung các quy định còn thiếu, chưa rõ ràng, dần xoá bỏ và sửa đổi những quy định hạn chế cạnh tranh, phân biệt đối xử không còn phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế, tiến hành xây dựng pháp luật dựa trên cơ sở nhu cầu đã được đánh giá. Tham gia vào các tổ chức thương mại thế giới và khu vực, việc bảo trợ, phân biệt đối xử giữa các loại hình, thành phần kinh tế sẽ dần xoá bỏ. Vì vậy, các quy định cần xác định cụ thể đối tượng áp dụng luật, tránh tình trạng chồng chéo nhiều văn bản áp dụng cho một đối tượng về một vấn đề lại đang nằm rải rác tại các văn bản luật khác nhau để tiến tới hình thành một luật thống nhất chung. Lấy ví dụ, các doanh nghiệp được phân theo loại hình và có luật tương ứng quy định, tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp trực thuộc tổ chức đoàn thể, hiệp hội… lại không được xếp là đối tượng điều chỉnh của luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã hay luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh, hay các cá thể kinh doanh lại do luật thương mại, luật hình sự điều chỉnh. Nguyên tắc xây dựng văn bản pháp lý của Việt Nam là xây dựng khung, vì vậy cần có những nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, việc ban hành văn bản bao giờ cũng có độ trễ, để giảm tình trạng văn bản hướng dẫn, luật điều chỉnh đi sau thực tiễn kinh tế, những nhà làm luật cần nắm rõ nhu cầu, tìm hiểu, lấy ý kiến và xây dựng những quy định điều chỉnh thích hợp cả về nội dung và thời điểm ban hành. 1.2 Xây dựng môi trường pháp lý thống nhất, cạnh tranh lành mạnh bằng việc đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính, tập trung đơn giản hoá các thủ tục hoàn thuế, hải quan, đất đai, xây dựng phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Nhà nước đóng vai trò là người hướng dẫn đảm bảo thông thoáng cho các nhà đầu tư. Thủ tục hành chính đang là vấn đề gây cản trở đối với việc đăng ký và mở rộng kinh doanh. Quy trình thực hiện có quá nhiều khâu, thủ tục phiền hà làm các nhà đầu tư nản lòng, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh gây thiệt hại không chỉ cho nhà đầu tư mà cho cả nền kinh tế đất nước. Trong những năm gần đây, thủ tục hành chính đã đơn giản hoá đi nhiều nhưng vẫn còn cần phải tiếp tục sửa đổi, giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần đào tạo nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ công chức hành chính, ngăn chặn hiện tượng tiêu cực, phiền hà sách nhiễu. 1.3 Tăng cường sự phối hợp quản lý Nhà nước theo cả chiều dọc và chiều ngang Hiện nay, để hội nhập kinh tế quốc tế, cần có sự phối hợp giữa Nhà nước, các Bộ ngành, địa phương trong việc thu hút và nâng cao khả năng cạnh tranh. Để đảm bảo tính định hướng của toàn bộ nền kinh tế đất nước, Nhà nước cần phối hợp với các địa phương xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương, quy định quyền hạn và chức năng của các cơ quan Nhà nước tại địa phương về việc phê duyệt và cấp phép đầu tư. Địa phương cần chủ động quảng bá hình ảnh thu hút đầu tư theo đúng định hướng đã được cơ quan trung ương phê duyệt Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước, đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, nhằm khắc phục tính cục bộ trong hoạt động xây dựng, kiểm tra việc thực hiện các chính sách đảm bảo chất lượng và tính khả thi của chính sách, tránh khả năng để xảy ra sai trái, khiếm khuyết của văn bản, bảo đảm tiến độ của hoạt động quản lý Nhà nước. Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương, tháo gỡ những trở ngại đối với doanh nghiệp, xác định và khắc phục các trở ngại về mặt thể chế đối với sự phát triển của doanh nghiệp, của thị trường các yếu tố sản xuất. 2. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về thông tin, dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu Thông tin là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, song những thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin pháp luật không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận và cập nhật dễ dàng. Nhà nước cần hoàn toàn có thể hỗ trợ, cung cấp những thông tin đó bằng việc khẩn trương ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý Nhà nước, xây dựng phát triển mạng lưới cung cấp thông tin, dự báo thị trường hỗ trợ doanh nghiệp trên mọi mặt: * Hỗ trợ về pháp lý: - Công bố đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật và thủ tục hành chính. - Công khai và hỗ trợ thực hiện các thủ tục hành chính liên quan tới thành lập, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, chuyển đổi doanh nghiệp, thủ tục giải thể, phá sản… - Cung cấp các văn bản pháp luật theo yêu cầu của doanh nghiệp * Hỗ trợ về kinh doanh và phát triển cơ hội đầu tư: - Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa chọn hình thức đầu tư và địa bàn đầu tư - Hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận các nguồn công nghệ tiên tiến - Cung cấp thông tin về cơ chế tài chính, đất đai, thị trường cho các doanh nghiệp - Cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp về thương hiệu như tham gia giải quyết tranh chấp vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế…, xây dựng các chương trình phát triển thương hiệu hàng Việt Nam. * Hỗ trợ xúc tiến thương mại: Tổ chức hội thảo, đối thoại và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường trong và ngoài nước thông qua việc tham gia các hội trợ triển lãm trong và ngoài nước, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, du lịch và đầu tư Tóm lại, để có thể chủ động đối phó với sự thay đổi chính sách của các nước, Nhà nước cần phải thông tin đầy đủ kịp thời cho các doanh nghiệp để chuẩn bị. Không những thế các cơ quan thông tin đại chúng và các cơ quan nghiên cứu, đào tạo cần phải phổ biến, hướng dẫn một cách cụ thể các biện pháp đối phó có hiệu quả. 3. Phát triển đồng bộ các loại thị trường đặc biệt phát triển vững chắc thị trường tài chính Phát triển đồng bộ các loại thị trường đó là sự ăn khớp giữa các thị trường về loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một hệ thống thị trường hoạt động nhịp nhàng. Hệ thống thị trường này bao gồm đầy đủ các loại hình: thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ… chúng vừa độc lập vừa liên hệ với nhau. Mỗi loại đều có cung – cầu, giá cả, người mua – người bán đặc thù, có quy luật vận hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Nhưng để tạo nên sự cân bằng, đồng bộ, ăn khớp và hợp lý cần có vai trò điều tiết và tạo điều kiện của Nhà nước, hay nói cách khác, bằng các công cụ quản lý vĩ mô Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, các thị trường của Việt Nam cũng có những thay đổi lớn trong nhưng năm qua. Thị trường hàng hóa dịch vụ hoạt động rất sôi động, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục với tốc độ tương đối cao, mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư. Thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán… ra đời đảm bảo lưu thông hàng hóa, tiền tệ và tạo vốn cho các hoạt động nền kinh tế. Thị trường lao động cũng phát triển và được mở rộng ra nước ngoài. Thị trường mua bán công nghệ được hình thành và phát triển với tốc độ cao đáp ứng nhu cầu đổi mới, hoàn thiện và nâng cao trình độ công nghệ của các nhà sản xuất kinh doanh…. Vì vậy, để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần cân đối tổng cung tổng cầu hàng hóa, kích thích tăng hoặc kìm hãm lượng hàng hóa lưu thông theo các thời hạn khác nhau. Nhà nước cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Đồng thời, xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học công nghệ, đầu tư… tạo hợp lực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường. Phát triển đồng bộ các loại thị trường vừa là vấn đề cấp bách vừa là vấn đề lâu dài, chủ động tạo môi trường vĩ mô và khuyến khích mọi thành phần, mọi nguồn lực tham gia thị trường là vấn đề then chốt cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam. 4. Hình thành sự gắn bó chặt chẽ giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập quốc tế Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và tiến trình hội nhập, các hình thái tổ chức và phương thức hoạt động thương mại đã thay đổi. Thương mại điện tử ra đời và phát triển mạnh mẽ, hoạt động thương mại diễn ra trên phạm vi rộng lớn hơn, mạng lưới kinh doanh rộng khắp trên cả thành phố, nông thôn và miền núi, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ, hàng hoá với thị trường, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Trong thời gian tới, cùng với xu hướng phát triển khách quan của thị trường, Nhà nước cần có chính sách quản lý về thương mại nhằm tổ chức tốt thị trường trong nước, các kênh lưu thông hợp lý, phát triển mạng lưới kinh doanh phù hợp với quy hoạch phát triển dân cư, quy hoạch phát triển đô thị. Đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước nhất là thị trường nông thôn. Phát triển làng nghề, gắn kết các vùng chuyên canh, xây dựng mạng lưới bán hàng nông sản hướng tới xuất khẩu không chỉ thị trường trong nước mà hướng tới xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Cần coi trọng chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, nâng cao tỷ trọng hàng hoá tinh chế giảm dần tỷ trọng hàng hoá sơ chế và hàng hoá bán qua trung gian. Chú trọng phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất sản xuất hàng xuất khẩu. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế “hướng tới xuất khẩu”. Chủ động xây dựng các chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp và nền kinh tế. 5. Phát triển hạ tầng kinh tế, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vào hạ tầng giao thông, năng lượng Tăng trưởng nền kinh tế đồng nghĩa với việc cơ sở hạ tầng bị quá tải, cơ sở hạ tầng kém có thể hạn chế kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không giải quyết được vấn đề giao thông, năng lượng và các cơ sở hạ tầng khác thì sẽ rất khó khăn trong việc thu hút đầu tư, làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh và giải quyết vấn đề tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai. Huy động mọi nguồn lực cho phát triển giao thông nông thôn và đô thị hình thành mạng lưới lưu chuyển hàng hoá thông suốt nhất là ở những vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Phát triển và đầu tư xây dựng các công trình phục vụ thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng kho ngoại quan, phòng trưng bày sản phẩm tại một số thị trường lớn ở nước ngoài phục vụ xuất, nhập khẩu. 6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý Chuyển dịch cơ cầu đầu tư và cơ cấu kinh tế: giảm dần tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP Hình thành các khu chuyên canh tập trung gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường để nâng cao giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tổ chức hệ thống doanh nghiệp theo ngành hàng, gắn liền sản xuất – chế biến với thị trường, bên cạnh đó hình thành các doanh nghiệp cung ứng và dịch vụ. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng, khôi phục các làng nghề truyền thống. Hình thành và phát triển các hợp tác xã thương mại và dịch vụ trên cơ sở liên kết các chủ trang trại trong việc cung ứng vật tư, nguyên – nhiên – vật liệu và tiêu thụ sản sản phẩm. Đẩy mạnh đầu tư vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cán bộ cho hoạt động khuyến nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển công nghiệp tiểu thụ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả trong nông nghiệp, tăng nhanh giá trị sản lượng và doanh thu của từng lao động. Đổi mới nhận thức cho nhân dân trong việc định hướng nghề nghiệp, đặc biệt coi trọng các ngành lao động kỹ thuật. Chuyển lao động trồng trọt sang chăn nuôi, chuyển lao động nông nghiệp sang các ngành nghề công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ 7. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực công nghệ cao Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố có vai trò quyết định trong bối cảnh kinh tế hội nhập. Việc đào tạo cần tập trung vào năng lực quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng những biện pháp sau: - Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo nghề khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cầu đào tạo. - Đa dạng hoá hình thức giải quyết việc làm, khuyến khích mọi tầng lớp dân cư và doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. - Đầu tư xây dựng trung tâm đào tạo nghề có chất lượng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội - Cải cách chế độ tiền lương nhằm nâng cao khả năng sáng tạo của người lao động. Ban Nguồn và Phát triển thông tin – Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhả năng thích ứng của doanh nghiệp việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.doc
Luận văn liên quan