Đề tài Khái quát chung về quá trình Dollar hóa, thực trạng dollar hóa trong nền kinh tế Việt Nam và một số giải pháp

MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA 3 1.1 Khái niệm 3 1.2. Phân loại đô la hóa 3 1.2.1 Đô la hoá không chính thức 3 1.2.2 Đô la hoá bán chính thức 3 1.2.3 Đô la hoá chính thức 3 1.3. Nguồn gốc của đô la hoá 4 1.4. Những tác động của đô la hoá 7 Chương 2 : Thực Trạng Tình Hình ‘Đôla Hóa’ ở Việt Nam 10 2.1 Ảnh hưởng tích cực của tình trạng ‘Đôla hóa’ đến thị trường Việt Nam. 10 2.1.1 Giai đoạn trước khi gia nhập WTO (1985-2007) 10 2.1.2 Giai đoạn kể từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Quốc Tế WTO đến nay (2007-2009) 11 2.2 Ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng ‘Đôla hóa’ tại Việt Nam 13 2.2.1Việc sử dụng quá mức đồng Đô gây hiện tượng mất cân xứng giữa cung và cầu tiền(đặc biệt là cầu ngoại tệ). 13 2.2.2 Cũng từ việc ‘Đôla hóa’ quá mức như ở Việt Nam hiện nay làm thua lỗ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,hay dễ nhận thấy nhất là việc cho vay vốn từ các Ngân hàng. 14 2.2.3Khi tình trạng ‘Đôla hóa’ quá cao (ở Việt Nam trong vài năm gần đây) sẽ như một con dao hai lưỡi: 15 2.2.4 ‘Đôla hóa’ sẽ làm mất chủ quyền về tiền tệ 16 2.2.5 ‘Đôla hóa’ cũng làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam hoạt động kém hiệu quả 17 Chương 3 : Những Giải Pháp Chống ‘Đôla Hóa’ ở Việt Nam 20 3.1. Nguyên nhân tình trạng dollar hóa ở Việt Nam 20 3.2.Một số giải pháp giải quyết tình trạng dollar hóa ở Việt Nam 21 3.2.1 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân bằng nhiều biện pháp. 21 3.2.2 Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ. 22 3.2.3 Cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân. 23 3.2.4 Chính Phủ và Ngân Hàng Trung ương phải có những biện pháp quản lí ngoại hối thích hợp. 25 3.2.5 Chống Đôla Hóa bằng việc chống tham nhũng trong bộ máy quản lí Nhà Nước. 26 Kết luận 29 Tài liệu tham khảo 32 Phụ lục : Danh sách nhóm 33

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2717 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khái quát chung về quá trình Dollar hóa, thực trạng dollar hóa trong nền kinh tế Việt Nam và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. - Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất. Ch­¬ng 2 : Thùc Tr¹ng T×nh H×nh ‘§«la Hãa’ ë ViÖt Nam Đã từ lâu rồi từ ‘Đôla’ không còn gì xa lạ đối với bất cứ người Việt Nam nào.Đôla được sử dụng rộng rãi và được chấp nhận trong rts nhiều lĩnh vực từ nhà đất,ngân hàng,xuất nhập khẩu,và cả trong du lịch.Ngược với cảnh đồng USD trồi sụt trên thị trường thế giới, sự hấp dẫn quá mức của đồng USD tại thị trường Việt Nam (VN), đặc biệt là ở thị trường tự do đang cảnh báo nguy cơ “đô-la hóa”.Nhằm tìm hiêu rõ hơn những tác động tích cực cũng như tiêu cực của một đồng tiền rất mạnh trên thế giới này đối với thị trường Việt Nam nói riêng cũng như nước Việt Nam nói chung,chúng em xin đưa ra những cái nhin bao quát nhất về cái gọi là ‘Thực trạng Đola hóa’ ở Việt Nam. 2.1 Ảnh hưởng tích cực của tình trạng ‘Đôla hóa’ đến thị trường Việt Nam. 2.1.1 Giai đoạn trước khi gia nhập WTO (1985-2007) Hơn 20 năm kể từ Đại hội trung ương Đảng lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam,Nhà Nước và chính Phủ Việt nam có chủ trương chuyển đổi quản lí nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường;chuyển từ nền kinh tế đóng sang nền kinh tế mở nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới.Để thực thi được sự chuyển đổi này,hệ thống pháp luật và các hành lang pháp lí của Việt Nam có nhiều thay đổi mang tính Cách Mạng:Xây dựng và hoàn thiện hàng trăm bộ luật,hàng ngàn các văn bản dưới luật để vận hành nền kinh tế;đồng thời đó cũng thực thi rất nhiều biện pháp kinh tế vĩ mô nhằm ổn định và phát triển kinh tế.Một trong số đó là việc chấp nhận đồng ‘ĐÔ’ như một đồng tiền thứ 2 trong nền kinh tế sau VNĐ. VND được “neo” tự nhiên và ổn định vào USD từ cuối những năm 1980. Từ đó, USD được coi như một đồng tiền pháp định thứ hai, khiến tỷ lệ đô-la hóa luôn ở mức trên 20%, cao hơn nhiều so với Indonesia, Thái Lan, Malaysia... chỉ khoảng 7-10%. Có thể nói đồng Đô đã có những tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế,xin nêu ra vài điểm cơ bản sau: ● Đồng Đôla giúp chúng ta thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhiêu hơn: Nhờ tính lỏng và sức mạnh của mình mà đồng Đôla đã là một cầu nối rất hữu ich cho các doanh nghiệp trong nươcs.Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng qua, cả nước đã thu hút tổng cộng gần 5,3 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong tháng 11, đã có 36 lượt dự án tăng vốn, nâng tổng số lượt dự án tăng vốn đầu tư trong 11 tháng lên 439 dự án, với tổng vốn đầu tư tăng là 1,68 tỷ USD.Trong tháng 11, cả nước cũng có thêm 43 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép với tổng vốn đăng ký 623,7 triệu USD. Theo đánh giá của Cục Đầu tư, chất lượng các dự án mới và tăng vốn trong 11 tháng qua có chuyển biến tích cực, đã thu hút được một số dự án quy mô lớn, quan trọng, sử dụng công nghệ tiên tiến như dự án điện thoại di động CDMA, dự án sản xuất phụ. ● Đồng Đôla là nhân tố chính giúp chính phủ và Ngân hàng Trung Ương tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng.Có một thực tế là kể từ 1986 đến nguồn cung ngoại tệ vẫn không thể đủ đáp ứng được nhu cầu từ nhiều đối tác.Các ngân hàng không có Đola đẻ bán cà nếu có thì giá cao hơn mức trần do NHNN qui định.Doanh nghiệp muốn mua được ngoại tệ thì phải có kế hoạch từ trước mua đồng EURO rồi lại chuyển về đồng Đôla (USD).Từ đó có thể thấy rằng đồng USD đang có một vai trò vĩ mô trong việc bôi trơn các hoạt động thanh khoản cho các doanh nghiệp,điều tiết thị trường mới nổi như ở Việt Nam ,giữ vững được mức cân bằng giữa cung và cầu. ● “Đô-la hoá” có thể là yếu tố thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ.Việc đồng Đô có mặt trong hầu hết mọi hoạt động thanh toán của thị trường,và đặc biệt kể từ khi lượng người Việt kiều quan tâm đến thị trường mở ở Việt nam (sau 1990 FDI không chính thức từ những doanh nhân Việt kiều tăng lên chóng mặt).Có thể thấy rõ được vai trò của USD sẽ là một chiếc đòn bẩy cung cấp vốn cho các nhà đầu tư,cũng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . 2.1.2 Giai đoạn kể từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Quốc Tế WTO đến nay (2007-2009) Có thể nhận thấy rõ sau 2 năm gia nhập WTO nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn dưới ‘luồng chảy’ của đồng Đôla.Với tác động mạnh mẽ của mình trên toàn thế giới,USD đã giúp Việt Nam hòa nhập nhanh hơn vào sân chơi kinh tế rông lớn này.Số liệu từ tổng cục thống kê và BBộ công thương cho thấy :Hoạt động Xuất nhập khẩu tăng nhanh.Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với GDP thuộc loại cao so với thế giới:Thế giới bình quân tỷ lệ kim ngạch xuất khảu so với GDP là 22%.Còn ở Việt Nam 2006 là 64.9%,năm 2007 là 68.2%.Tốc độ xuất khẩu bình quân 2006 là 22.1%,năm 2007 là 21.9%. Ngoài những mặt tích cực nêu trên thì ‘Đôla hóa’ nền kinh tế Việt nam cũng góp phần làm tăng sự phát triển của một trong những ngành mang lại nhiều lợi nhất cho chúng ta-Du Lịch:Do được chấp nhận thanh toán bằng USD dưới nhiều hình thức kể cả Sec thì lượng du khách vào Việt Nam tăng khá nhanh nếu 1998 lượng du khách quốc tế tới Việ Nam là 1,520 triệu người thì năm 2006 là 3,583 triệu,năm 2007 là 4,22 triệu người. ►Tóm lại ‘Đôla hóa’ tại Việt Nam có thể đem đến những ích lợi sau đây: - Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. - Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. - Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. - Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách tiảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. - Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). 2.2 Ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng ‘Đôla hóa’ tại Việt Nam Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có hai mặt, không thể phủ nhận mặt tích cực của “đô-la hoá” trong nền kinh tế VN. Như đã nói ở trên một trong số đó là giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng. “Đô-la hoá” có thể là yếu tố thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ...Bên cạnh những mặt tích cực mà đồng đô la mang lại thì lại dấy lên những nỗi lo lắng mà hiện tượng này giáng xuống nên kinh tế nước ta. Các chuyên gia kinh tế mới đây lên tiếng báo động về tình trạng "đô la hóa" tại Việt Nam và lưu ý chính phủ về tác động của tình trạng này đối với nền kinh tế. 2.2.1Việc sử dụng quá mức đồng Đô gây hiện tượng mất cân xứng giữa cung và cầu tiền(đặc biệt là cầu ngoại tệ). Giữa lúc cơn bão kinh tế chưa lắng, Việt Nam được cảnh báo là mức độ "đô la hóa" không chính thức ngày càng cao. Theo nhiều nhà kinh tế, hiện tượng đồng USD được lưu hành nhiều hơn tiền đồng Việt Nam (VND) ngày càng trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam. Doanh nghiệp đã sử dụng USD nhiều hơn so với thời gian trước đây. Thậm chí, giao dịch bán lẻ cũng ngả theo xu hướng này. Nhiều  người dân tích trữ, gửi USD tại ngân hàng thay vì VND. Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy lượng ngoại tệ mà các tập đoàn kinh tế ký gửi đã tăng liên tiếp trong 4 tháng đầu năm nay, và số ngoại tệ ký gửi của cả nước tăng khoảng 3,35%.Tình trạng đô la hóa khiến lượng đô la được lưu hành không chính thức ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng cung vẫn chưa đủ cầu. Báo chí cho hay có những người phải chờ một tuần hay lâu hơn nữa mới có thể mua được số ngoại tệ cần thiết. Theo dự báo của giới đầu cơ, nguồn cung đô la sẽ giảm mạnh trong thời gian tới. Ngân hàng Trung ương vừa loan báo sẽ bán ngoại tệ nhằm ổn định thị trường.Theo hãng Reuters, giới hữu trách Việt Nam sẽ để cho tỷ giá hối đoái của VND giảm nhiều hơn trong nửa cuối năm nay để hỗ trợ xuất khẩu và góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt đô la trong nước. Theo báo cáo của Ngân hàng ANZ về tình hình tiền tệ Việt Nam trong tháng 5, nhu cầu đô la của các công ty nhập khẩu và những người mua bán vàng đã tăng mạnh trên thị trường không chính thức, khiến giá USD lên tới 18.250 VND, cao hơn nhiều so với tỷ giá chính thức là 17.780 VND. Bên cạnh đó, giới hữu trách Việt Nam có chủ trương trên nhằm giải quyết tình trạng mất cân bằng về cung-cầu USD trong nước.Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%. . 2.2.2 Cũng từ việc ‘Đôla hóa’ quá mức như ở Việt Nam hiện nay làm thua lỗ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,hay dễ nhận thấy nhất là việc cho vay vốn từ các Ngân hàng. Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song, hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá, 2.2.3Khi tình trạng ‘Đôla hóa’ quá cao (ở Việt Nam trong vài năm gần đây) sẽ như một con dao hai lưỡi: Đôla hóa có thể bôi trơn quá trình thanh toán nhưng cũng có thể gây ra những rủi ro về việc ‘Niêm yết giá trong nhiều ngành.Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN  và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.Thời gian gần đây, khi đi mua ô tô, mua các dòng xe nhập khẩu, thậm chí mua máy in ở siêu thị, mua hàng điện tử, điện lạnh ở phố Huế (Hà Nội)… người bán hàng đã yêu cầu khách hàng thanh toán bằng đô la Mỹ (USD). Thực tế này được các chuyên gia tài chính gọi là nền kinh tế đô la hóa ở mức cao. Trong những thời điểm cung cầu ngoại tệ trên thị trường mất cân bằng như một vài thời điểm trong thời gian vừa qua, tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại của thị trường ngoại tệ. Bởi đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ. → Thậm chí, đô la hoá đã làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi USD biến động bất thường. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàng hoá do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất. ►Phân tích 3 ảnh hưởng xấu trên:  Một thực tế là hiện nay đồng USD được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta. Tâm lý của người dân thích tích trữ tiền bằng ngoại tê, gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ bắt nguồn từ những cú sốc về tiền tệ trong khoảng 20 năm qua. Đồng tiền Việt Nam đãcó những đợt giảm giá rất mạnh vào những năm 1985 và những năm 1997-1998, khiến cho những người giữ tiền bị thiệt hại lớn. Hiện tượng lạm phát trong những năm cuối thập niên 80 và đầuthập niên 90 của thế kỷ trước cũng làm đồngnội tệ bị mất đi niềm tin của cả người sản xuất vàtiêu dùng. Tâm lý đó tạo thói quen mua bán, tích trữ bằng USD trở nên phổ biến. Đồng USD dần chiếm vị trí đáng kể trong các phương tiện thanh toán và tình trạng đôla hoá trở nên trầm trọng hơn. Hiện nay, ngoại tệ đổ vào nước ta theo rất nhiều nguồn: kiều hối, chi tiêu của người nước ngoài tại Việt Nam, thu nhập của người Việt Nam từ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đầutư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và thông qua xuất, nhập khẩu… Kinh tế đấtnước càng phát triển , hội nhập kinh tế càng sâu rộng thì nguồn ngoại tệ càng dồi dào. Chỉ riêng số vốn FDI thu hút đượctrong năm 2007 đãlên đếnhơn 20 tỷ USD, vượt chỉ tiêu đặt ra từ 6-7 tỷ USD. Lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng đángkể, theo Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài, năm 2007 Việt kiều đãchuyển về nước hơn 5 tỷ USD tăng 1 tỷ USD so với năm 2006. Tuy nhiên theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nếu tính cả các kênh không chính thức, thì nguồn kiều hối năm 2007 có thể lên đến10 tỷ USD. Nguồn cung ngoại tệ dồi dào cũng là một trong những nguy cơ của tình trạng đôla hoá nếu không được xử lý hài hòa với đồng tiền Việt Nam. 2.2.4 ‘Đôla hóa’ sẽ làm mất chủ quyền về tiền tệ Ngược với cảnh đồng USD trồi sụt trên thị trường thế giới, sự hấp dẫn quá mức của đồng USD tại thị trường Việt Nam (VN), đặc biệt là ở thị trường tự do đang cảnh báo nguy cơ “đô-la hóa”. Tại sao người dân VN thích sử dụng USD trong thanh toán và cất giữ? Muốn lý giải được, phải đi ngược về 20 năm trước. Những cú sốc về tiền tệ khiến người dân có cảm giác quá rủi ro khi cất giữ VND. Cộng vào đó là những thời kỳ lạm phát phi mã, làm VND càng thêm mất giá nhanh. Hơn nữa, chỉ số VND/USD đang ngày càng tăng khiến mọi người thêm ngần ngại trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó. Không chỉ có người dân ưa chuộng USD, ngay cả các ngân hàng thương mại cũng có hiện tượng này. Nhiều ngân hàng có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng “thiếu tiền, thừa vốn”. USD thừa nhưng thiếu trầm trọng euro, NDT, yên - đồng tiền của các đối tác thương mại đang chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu của VN. Trong khi đó, nguồn ngoại tệ ở VN không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USD vì trong quá trình phát triển, ngoại tệ từ kiều hối, đầu tư từ nước ngoài, viện trợ, thu từ xuất khẩu... không ngừng ồ ạt đổ về, buộc VN phải đứng trước tình trạng “đô-la hóa” ngày càng trầm trọng. Tất nhiên, chẳng có quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng nội tệ của mình. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước VN đã đặt ra mục tiêu, đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ “đô-la hoá” xuống dưới 15%. Hơn nữa, các chính phủ đều không muốn có tình trạng “đô-la hoá” trong nền tài chính tiền tệ vì không muốn đánh mất ưu quyền tiền tệ. 2.2.5 ‘Đôla hóa’ cũng làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam hoạt động kém hiệu quả Các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ sẽ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. “Đô-la hoá” làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Nhà nước không những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về dài hạn, “đô-la hoá” có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng. Một nền kinh tế bị “đô-la hoá” cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng ngoại tệ phụ thuộc trên thế giới, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu, thép… ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp trước tiên. Chẳng hạn, giá cà phê giảm mạnh, xuất khẩu cũng giảm, kéo theo nền kinh tế phát triển chậm lại. ►Tóm lại tình trạng ‘Đôla hóa’ quá mức như ở Việt Nam hiện nay đã gây ra cho chúng ta khá nhiều điều bất lợi: - Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế. - Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : • Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thong kém chính xác và kịp thời. • Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. • Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. • Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. - Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất. Kết Luận: Như vậy, việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề vô cùng phức tạp. Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có một mặt tích cực nào đấy, nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá, tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là đồng tiền Việt Nam. Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị đô la hoá, như tại Trung Quốc, các ngân hàng không được phép quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la.Thông thường đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là yếu kém, và đồng đô la được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy nhiên, không phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền yếu đều bị đô la hoá trực tiếp. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như ở Trung Quốc, Thái Lan, Braxin... không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng đô la. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô la hoá. Như trên đã phân tích, nếu tình hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính vào một thời điểm nào đấy, thật là vô cùng nguy hiểm. Ch­¬ng 3 : Nh÷ng Gi¶i Ph¸p Chèng ‘§«la Hãa’ ë ViÖt Nam 3.1. Nguyên nhân tình trạng dollar hóa ở Việt Nam Từ thực trạng của hiện tượng ‘Đôla Hóa’ tại Việt Nam trong những năm gần đây (tỷ lệ đôla trên 20%) ta có thể rút ra vài nguyên nhân của hiện tượng kinh tế trên như sau: ●Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USĐ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó. ●Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ: Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài  cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ. Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác. Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý. Do đóVới lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng. 3.2.Một số giải pháp giải quyết tình trạng dollar hóa ở Việt Nam Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được.Do đó chúng em xin nêu ra một vài biện pháp sau nhằm xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.Đôla hóa cũng là vấn đề mang tính hai mặt của nó,do đó để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây: 3.2.1 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân bằng nhiều biện pháp. • Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng. • Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế. • Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước. Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân. 3.2.2 Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ. • Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế. • Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn. • Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các dnb trong nước khác vay các ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để mở LC thanh toán. • Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó thành sở hữu riêng. • Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như lãi suất, dự trữ bắt buộc...) để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không thay đổi, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động đồng Việt Nam. ► Phân tích cơ chế gửi tiền bằng đồng nội tệ có lợi gì? Vào đầu năm 2001, nếu có 1 đồng Việt Nam (VNĐ) đem gửi ngân hàng với lãi suất khoảng 8%/năm thì đến thời điểm hiện, sẽ có được 1,47 đồng. Nhưng nếu đem số tiền này đi mua đô la Mỹ (USD), sau đó gửi vào ngân hàng với lãi suất bình quân 3%/năm cộng với phần tăng giá của đồng đô la so với đồng tiền Việt Nam trong 9 năm qua khoảng 9% thì số tiền nhận được chỉ là 1,26 đồng. Làm một phép tính ngược lại, vào đầu năm 2001, nếu có 1 USD đem gửi ngân hàng, sau 5 năm chỉ nhận được 1,16 USD, nhưng nếu đổi ra VNĐ đem gửi ngân hàng, thì con số này là 1,35 USD. Từ hai ví dụ trên cho thấy, trong 9 năm qua, gửi tiết kiệm bằng tiền đồng có lợi hơn rất nhiều so với gửi bằng đồng đô la. Tuy nhiên, vào ngày 31/12/2005, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ chỉ vào khoảng 4,5 tỷ USD, chiếm 23,7% tổng phương tiện thanh toán của toàn nền kinh tế, nhưng đến ngày 31/12/2008, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ đã hơn 7 tỷ USD (hiện nay khoảng 8 tỷ), chiếm 23,9% tổng phương tiện thanh toán. Điều này có nghĩa là trong 5 năm qua, mức độ đô la hoá của nền kinh tế có xu hướng tăng lên. Đó là chưa kể xu hướng sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ cũng ngày một phổ biến hơn. Nếu tính được số tiền mặt bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) đang lưu hành trong nền kinh tế thì mức độ đô la hoá còn trầm trọng hơn nhiều. 3.2.3 Cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân. • Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ. Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam. • Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu. • Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam. Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền để cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá trên thị trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ. ► Phân tích xu hương thích giữ đồng ngoại tệ của người dân Tại sao người ta vẫn thích gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, thích giữ ngoại tệ trong túi? Phải chăng công chúng là những người duy ý chí hay không thể tính toán thiệt hơn trong việc giữ nội tệ hay ngoại tệ? Chắc chắn, ở đây không có vấn đề duy ý chí hay chưa biết tính toán thiệt hơn. Mà nguyên nhân chính là do những cú sốc về tiền tệ trong khoảng 20 năm qua. Cụ thể là việc phá giá VNĐ vào những năm sau 1985 và những năm 1997-1998. Sau hai đợt phá giá này, những người giữ tiền đồng cảm thấy bị thiệt hại rất lớn so với việc giữ bằng đồng ngoại tệ. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 càng góp phần làm cho VNĐ mất giá quá nhanh và làm cho người giữ tiền cảm thấy bị thiệt thòi nhiều hơn nữa. Rõ ràng, những cú sốc liên tục xảy ra đã làm cho người ta cảm thấy rủi ro rất lớn khi chuyển từ ngoại tệ sang VND. Hơn thế nữa, gần đây, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá có dấu hiệu gia tăng bất thường càng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Đây là minh chứng cho thấy lòng tin của công chúng vào chính sách kiểm soát lạm phát, quản lý tỷ giá của Nhà nước chưa cao. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy, mới đây đã phải thừa nhận với giới truyền thông rằng "Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của mình, thậm chí có khi còn lấn lướt. Có nghĩa là anh không đủ hiệu lực trong thực thi chính sách tiền tệ." Đó là khía cạnh tiền gửi tiết kiệm. Khía cạnh thích sử dụng đồng USD thì dễ giải thích hơn nhiều. Nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng ơ rô chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Hơn thế nữa, một vài trăm triệu, nếu dùng tiền đồng thì phong bì nào cho vừa. Nhưng, đối với ngoại tệ, chỉ cần một chiếc phong bì nhỏ nhỏ xinh xinh là đủ. Vừa gọn gàng, vừa lịch sự mà cũng không bị coi là nhà quê. Ngoài ra, trong hơn 30 tỷ USD nhập khẩu hàng năm, lượng hàng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Do khi mua hàng từ nước ngoài phải trả bằng ngoại tệ, nên khi bán, mặc dù có thể trả bằng tiền đồng, nhưng giá vẫn được yết bằng USD để tránh rủi ro tỷ giá. Và, nếu ai đã từng một lần ghé qua các trung tâm đào tạo có yếu tố nước ngoài thì học phí cũng đều phải tính bằng USD. Chính những điều này đã tạo ra tâm lý cho rằng việc mua bán được thực hiện bằng USD chứ không phải tiền đồng. Chừng đó nguyên nhân thôi cũng đủ để đồng đô la chiếm lĩnh một vị trí đáng kể trong các phương tiện thanh toán và làm cho tình trạng đô la hoá ngày một trầm trọng hơn. 3.2.4 Chính Phủ và Ngân Hàng Trung ương phải có những biện pháp quản lí ngoại hối thích hợp. Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế. Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải. Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ. Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đã có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm. Tại Việt Nam tình trạng Đôla hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đôla và từ chối thanh toán bằng nội tệ! Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đôla hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu VND". Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp Luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của Việt Nam. 3.2.5 Chống Đôla Hóa bằng việc chống tham nhũng trong bộ máy quản lí Nhà Nước. Rất khó có thể thực hiện một nghiên cứu để xác định chính xác ở đâu trong nền kinh tế sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ nhiều nhất. Nhưng ở Việt Nam, ngoài kinh tế ngầm không thể kiểm soát như các nước khác thì tiền mặt bằng ngoại tệ được sử dụng để "bỏ phong bì" là một con số đáng kể. Do đó, giảm tham nhũng đôi khi lại là một giải pháp hữu hiệu nhất để hạn chế tình trạng "đô la hoá" của nền kinh tế. Hai nhóm giải pháp cơ bản cần quan tâm đó là làm sao để công chúng chuyển từ tiền gửi bằng ngoại tệ sang VNĐ và cần phải giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ. Đối với nhóm giải pháp thứ nhất, việc tạo lòng tin về một mức lạm phát ổn định và một tỷ giá ngoại hối linh hoạt là điều vô cùng quan trọng. Nếu không, với những biến động phập phù của lạm phát, sự kiểm soát tỷ giá tạo ra khoảng cách giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen hiện nay sẽ làm cho công chúng luôn lo sở rủi ro về tỷ giá và lạm phát cao. Khi đó rất khó thuyết phục để công chúng chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Đối với nhóm giải pháp thứ hai, ngoài việc xây dựng một hệ thống ngân hàng, hệ thống đại lý đổi ngoại tệ rộng khắp, mang lại sự tiện lợi cho công chúng, áp dụng những biện pháp hành chính mạnh đối với những nơi vi phạm quy định yết giá... một giải pháp quan trọng khác là cần giảm lượng cầu về ngoại tệ. Rất khó có thể thực hiện một nghiên cứu để xác định chính xác ở đâu trong nền kinh tế sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ nhiều nhất. Nhưng ở Việt Nam, ngoài kinh tế ngầm không thể kiểm soát như các nước khác thì tiền mặt bằng ngoại tệ được sử dụng để "bỏ phong bì" là một con số đáng kể. Do đó, giảm tham nhũng đôi khi lại là một giải pháp hữu hiệu nhất để hạn chế tình trạng đô la hoá của nền kinh tế. ► Những giải pháp trên nhằm mục tiêu đẩy lùi ‘Đôla Hóa’ trong thị trường đang ngày một hội nhập như ở Việt Nam.’Dôla Hóa’ như một con dao hai lưỡi do đó việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Kết Luận: Đô-la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của nội tệ, thói quen về sử dụng quá nhiều tiền mặt trong giao dịch,... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được. Khó có thể sử dụng biện pháp hành chính cực đoan để cấm đoán được, mà chắc chắn còn có tác dụng ngược với nhu cầu thu hút vốn bên ngoài và cho phát triển kinh tế. đô-la hoá có những mặt lợi và bất lợi của nó. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn USD trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội hay đầu tư trên thị trường tiền gửi theo thông lệ quốc tế mà Luật các tổ chức tín dụng của nước ta cho phép. Thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Các dòng chu chuyển vốn linh hoạt, khi lãi suất trên thị trường quốc tế cao, vốn USD trong dân được huy động gửi tạm thời và có kỳ hạn ở nước ngoài, khi lãi suất xuống thấp và nền kinh tế có các dự án khả thi thì lại rút về đầu tư trong nước. Thà chấp nhận đô-la hoá tiền gửi và dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng, Nhà nước còn quản lý chặt chẽ được, còn hơn là để trôi nổi trong dân. Theo đó, cần linh hoạt giảm thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ để nó tác động tích cực đến lãi suất USD. Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu loại này trong nước, huy động vốn USD của dân. Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá Đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế. Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát buôn lậu. Thắt chặt quy định niêm yết bán hàng hoá và dịch vụ thu bằng ngoại tệ, xử lý nghiêm minh vi phạm quy định này. Đặc biệt là cần có quan điểm và nhận thức mở, tích cực về đô-la hoá trong hệ thống ngân hàng, từ đó giảm đi sức ép về dư luận và tâm lý đến điều hành chính sách kinh tế có liên quan. Kết luận Như vậy, các kết quả xem xét và nhận định đã cơ bản cho thấy rằng hiện tượng dollar hóa trong nền kinh tế Việt Nam là có thực và đang gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh, bền vững cũng như tính độc lập của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai không xa. Qua tiểu luận, ta có thể đưa ra vài kết luận như sau VN là một nền kinh tế đôla hóa một phần trong đó hệ thống tiền tệ sử dụng song song hai đồng tiền là VND và USD. Tuy nhiên, mức độ chính xác của đôla hóa rất khó xác định. Hiện tượng nền kinh tế VN sử dụng rộng rãi đồng USD trong giao dịch, buôn bán... bắt đầu được chú ý từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng USD. Đến năm 1992, tình trạng đôla hóa đã tăng mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD (xem biểu đồ). Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước VN đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hóa nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống 20% đầu năm 1997. Nhưng cũng trong năm này cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến đồng VND giảm giá trị và VN lại đứng trước sức ép tiếp tục chống đôla hóa. Cuối năm 2003, tỉ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng trên 23%. Một khi bị đôla hóa, câu hỏi lớn nhất mà nền kinh tế VN, đặc biệt là các ngân hàng, phải giải đáp là: làm gì với những đồng USD hiện có. Để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn USD gửi ra các ngân hàng nước ngoài, nhất là Singapore và Hong Kong, để kiếm lãi suất cao. Nhưng điều này chỉ làm tình hình thêm xấu hơn vì những đồng USD đã không được đầu tư trong nước. Năm 2002 lãi suất USD giảm mạnh, các ngân hàng VN không thể thu lợi từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, khoảng 3 - 4 tỉ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003. Biểu đồ: tỉ lệ tiền gởi bằng đồng USD trên tổng lượng tiền gởi vào các ngân hàng VN (tính bằng %). (Nguồn: nghiên cứu điều tra về tiền tệ, ngân hàng Nhà nước VN) Nhưng đến đây các ngân hàng VN lại phải tìm cách làm gì đó với khoản tiền USD này để sinh lợi. Họ đã cho các doanh nghiệp trong nước vay. Mức tăng tín dụng ngoại tệ đạt mức cao điểm 41% vào năm 2003. Điều này trước tiên xem ra có vẻ ổn đối với các ngân hàng vì họ nhận tiền gửi và cho vay đều bằng USD nên ít rủi ro. Nhưng xem kỹ lại chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp đi vay USD sẽ gặp khó khăn như thế nào nếu VND bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng VND nhưng phải trả nợ bằng USD! Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỉ giá giữa USD và VND mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Nếu đồng USD tăng giá, nhiều doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán nợ. Các ngân hàng chắc chắn bị ảnh hưởng và dẫn đến nền kinh tế bị khủng hoảng. Theo tôi được biết, tính đến cuối năm 2003 khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng USD chiếm đến 28% một tỷ lệ khá nguy hiểm. Việc sử dụng đồng USD như thế nào cho thật hiệu quả là điều vô cùng phức tạp. VN không còn chọn lựa nào khác ngoài việc tìm mọi cách có thể được nhằm chống lại tình trạng đôla hóa, từ đó chỉ có một tiền tệ duy nhất được lưu hành là VND.Có thể khái quát những giải pháp cụ thể đã được trình bày trong chương 3 thành những điểm lớn như sau (1) Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân (2) Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ với mục tiêu hạn chế sự lưu thong dễ dàng của dollar Mỹ (như quy định đối tượng được vay USD, thay đổi cơ chế tỷ giá neo đồng Việt Nam vào giá dollar Mỹ...) (3) Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Trên đất nước Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam" Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền để cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá trên thị trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ. Như vậy, qua nghiên cứu, tiểu luận này đã trình bày một cách sơ lược, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan nhất về Dollar hóa ( Dollarization) và thực trạng quá trình này tại Việt Nam, những nguy hiểm của nó mang lại cũng như một số giải pháp nhất định để ngăn chặn và đẩy lùi tình trang dollar hóa tỏng nề kinh tế Việt Nam. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, tiểu luận không thể không có những thiếu sót, không chính xác cũng như chủ quan về nhận định, kính mong thầy có những nhận xét để chúng em có thể hoàn thiện được kỹ năng cũng như hiểu biết của mình trong những tiểu luận sau. Chúng em xin chân thành cám ơn. Hà nội, ngày 14/06/2009 Tài liệu tham khảo tailieu.tapchithoidai.org/Fighting_inflation_in_dollarized_economy_JCE.pdf Danh sách nhóm Phạm Hoàng Anh stt 05-Anh 5-K46C-KTĐN Nguyễn Tuấn Anh stt 02-Anh 5-K46C-KTĐN Nguyễn Hữu Toản stt37-Anh 5-K46C-KTĐN Nguyễn Đình Cường stt –Anh 5-K46C-KTĐN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhái quát chung về quá trình Dollar hóa, thực trạng dollar hóa trong nền kinh tế Việt Nam và một số giải pháp.doc
Luận văn liên quan