Kiến thức của bà mẹ về NCBSMHT frong 6 tháng đầu
- Kiến thức về định nghĩa NCBSMHT
- Biết đúng thời gian NCBSMHT
- Biết cho con bú đúng cách
- Biết trẻ dưới 6 tháng tuổi nên bú duy nhất sữa mẹ
- Biết cần tiếp tục cho trẻ bú khỉ trẻ bị ốm
- Có nên cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống nước tráng miệng sau khi bú
- Thời gian bảo quản sữa vắt
- Tỷ lệ hiểu biết về thành phần sữa mẹ
- Tỷ lệ hỉểu biết về lợi ích của sữa mẹ đốỉ với trẻ
- Tỷ lệ hiểu biết về lợi ích của sữa mẹ đối với bà mẹ
- Tỷ lệ nhận một số lời khuyên khác nhau về NCBSM
- Nguồn nhận thông tín quảng cáo sữa công thức và thông tin về NCBSMHT trong 6 tháng đầu của ĐTNC
50 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 11556 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi và các yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của bà mẹ có con dưới 1 tuổi ở thành phố huế năm 2016, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện để bảo vệ con mình khỏi nhiễm khuẩn và vi rút [16]. Sữa mẹ là duy nhất và được sản sinh để đáp ứng nhu cầu của trẻ. Sữa mẹ thay đổi thành phần để đáp ứng nhu cầu thay đổi của trẻ trong các cữ bú. Khi đứa trẻ lớn lên, các thành phần của sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng những nhu cầu của trẻ đang lớn, điều mà các sản phẩm thay thế sữa mẹ không có được. Những trẻ được bú mẹ ít phải đến bệnh viện hơn hoặc ít phải uống thuốc, giảm nguy cơ lây nhiễm và mắc các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn đường hô hấp [16]. Kết quả phân tích từ 7 nghiên cứu thuần tập của Bachrach và cộng sự cho thấy rằng trẻ được nuôi bằng sữa công thức phải đối mặt với mối nguy nhập viện do nhiễm trùng đường hô hấp dưới trong năm đầu tiên của cuộc sống cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn hơn 4 tháng. Phần lớn các ca nhập viện hô hấp cho trẻ sơ sinh là kết quả của nhiễm Vi rút Hợp bào Hô hấp - Respiratory Syncytial Virus (RSV). Chất béo trong sữa mẹ có tác dụng kháng virus: chống lại RSV [19, 26].
Ngoài ra, việc trẻ không được bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, đái tháo đường type I và II cũng như bệnh tăng huyết áp và tim mạch. Nghiên cứu của Christopher G. Owen và cộng sự chỉ ra rằng những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành chỉ bằng 0,87 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa công thức [24]. Những đứa trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường type II chỉ bằng 0,61 lần so với những đứa trẻ được nuôi bằng sữa công thức [25]. NCBSM làm tăng chỉ số thông minh và cải thiện kết quả học tập sau này của trẻ. Trẻ bú mẹ càng lâu thì càng có khả năng trí tuệ cao hơn, điều này được thể hiện qua những kỹ năng vận động, kỹ năng ngôn ngữ và khả năng nhận thức hoàn thiện hơn, những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so với những đứa trẻ không được bú mẹ [22].
1.3.5. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với bà mẹ
Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng trứng, loãng xương và chứng trầm cảm sau khi sinh. Các bà mẹ cho con bú sẽ ít có nguy cơ bị thiếu máu và có hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm căng thẳng [21,23].
NCBSM cũng giúp các bà mẹ tránh thai tốt hơn, các bà mẹ cho con bú hoàn toàn thường không rụng trứng trong ít nhất sáu tháng sau khi sinh, trong khi đó đối vớicác bà mẹ không cho con bú thì quá trình này có thể xảy ra ngay sau sáu tuần kể từ khi sinh con [23]. Nghiên cứu chỉ ra rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong sáu tháng đầu và không có dấu hiệu có kinh nguyệt trở lại thì khả năng mang thai là dưới 2% [20]. Ngoài ra, NCBSM giúp gắn bó, tăng cường tình cảm mẹ con.
1.3.6. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ đối với gia đình, xã hội và doanh nghiệp
NCBSM giúp giảm thiểu các chi phí tốn kém của việc cho trẻ ăn sữa công thức. Ước tính trung bình mỗi gia đình tiêu tốn khoảng 800.000- 1.200.000 đồng mỗi tháng nếu cho trẻ ăn các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Chi phí này chiếm 53-79% thu nhập bình quân 1 năm của người Việt Nam (18.227.000 đồng) và một phần khá lớn trong tổng thu nhập của một gia đình [19]. Ngoài ra nhờ các lợi ích về mặt sức khỏe của NCBSM, các gia đình tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho việc khám chữa bệnh [23].
NCBSM không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe cho trẻ và mẹ mà còn mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 3,6 tỷ đô la mỗi năm trong việc chi trả gián tiếp cho chăm sóc sức khỏe nếu như có ít nhất 75% bà mẹ cho con bú sớm sau sinh và 50% bà mẹ cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi [28].
Tại Việt Nam, nếu các bà mẹ NCBSMHT trong 6 tháng đầu họ có thể tiết kiệm một khoản tiền tương đương 11.435.670.000.000 đồng từ việc không chi tiêu cho các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Tuy nhiên, một nửa của khoản tiền này đang bị lãng phí do tỷ lệ NCBSMHT thấp ở Việt Nam, điều này làm tăng chi phí y tế chung của quốc gia. Mỗi năm, Việt Nam phải chi khoảng 208.300.000.000 đồng cho khám chữa các bệnh do nuôi dưỡng trẻ nhỏ kém [17]. Bên cạnh lợi ích kinh tế mang lại cho gia đình NCBSMHT còn có lợi cho doanh nghiệp về mặt lâu dài vì các bà mẹ ít phải nghỉ làm để chăm con ốm, điều này cũng có nghĩa là tạo ra một lực lượng lao động ổn định [20]. Sữa mẹ cũng là một nguồn lực hữu ích đảm bảo an ninh thực phẩm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên toàn thế giới khi có thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Trong những trường hợp nguy cấp, NCBSM giúp bảo vệ trẻ khỏi các bệnh gây ra do nguồn nước nhiễm bẩn và có thể ngăn ngừa tình trạng thân nhiệt thấp [21].
2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và Việt Nam
2.1 Trên thế giới
Lợi ích và sự cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã hội đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ cho con bú sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông Âu-Trung Á, 33% ở các nước châu Á Thái Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh- Caribe -Bắc và Đông Phi là 50% [31]. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên thế giới là 39% và không đồng đều giữa các quốc gia [34], như vậy phần lớn số trẻ còn lại được nuôi bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa mẹ ngay từ những tháng đầu.
Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới từ năm 1996-2006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng từ 33% lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc Sahara-châu Phi với tỷ lệ tăng từ 22% -30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% -19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [14,30].
Theo số liệu tổng hợp của Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu là rất khác biệt giữa các nước và khu vực khác nhau, tỷ lệ này khá cao ở một số nước như Rwanda 83,3%, Uganda 63% nhưng lại thấp ở Nigeria 0,8% [33]. Tỷ lệ NCBSM tại Mỹ cũng có nhiều thay đổi tích cực trong những năm gần đây tỷ lệ bú sớm sau sinh tăng từ 74,6% năm 2008 lên 76,9% năm 2009, tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu tăng từ 44,3% năm 2008 lên 47,2% năm 2009 [32]. Tại Châu Á tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu cũng khá chênh lệch giữa các nước: Nepal là 68%, Ấn Độ là 46%, Campuchia là 68%, Philippin 33,5%, Bangladesh 43%...[14,33]. Tại Trung Quốc, tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa non trong 3 ngày đầu rất cao đạt 94%, tuy nhiên sau đó trẻ lại được cho uống nước, sữa bột, đường hoặc thức ăn thay thế khác, vì vậy mà chỉ có 35% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu và tại thời điểm 6 tháng thì tỷ lệ này chỉ còn 28% [35].
2.2. Tại Việt Nam
Mặc dù sữa mẹ là công thức hoàn hảo nhất cho 6 tháng đầu đời của trẻ, tuy nhiên thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy một thực tế là tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời chỉ đạt 19,6%.. Tỉ lện này thấp hơn nhiều so với tỉ lệ trung bình của Thế Giới – 35% bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Và tỷ lệ trẻ được bú tới 24 tháng tuổi (22%) vẫn còn thấp. Không cho con bú sớm, không cho con bú hoàn toàn và không cho con tiếp tục bú lâu dài cũng như thiếu chế độ ăn phù hợp dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe cho trẻ. Năm 2009, Việt Nam đứng thứ 13 trong danh sách các nước có số trẻ thấp còi trên toàn cầu, với 30% trẻ dưới 5 tuổi bị thấp còi (khoảng 2,5 triệu trẻ) và không đạt được sự tiềm năng phát triển tối ưu, cứ 5 trẻ thì 1 trẻ bị thiếu cân [8].
Tuy đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng phần lớn số trẻ tử vong dưới 1 tuổi vẫn xảy ra trong tháng đầu tiên, chiếm 60% các ca tử vong dưới 1 tuổi và 40% các ca dưới 5 tuổi. Nguyên nhân đáng chú ý của trẻ tử vong trong tháng đầu là vì nhiều phụ nữ sống ở miền núi, gia đình nghèo không tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đỡ đẻ, chăm sóc sau sinh, tiêm phòng và tiếp cận các được các dịch vụ chăm sóc và điều trị thường ngày. Ngoài ra tỷ lệ tử vong ở trẻ miền núi, nông thôn và gia đình nghèo vẫn cao hơn 3-4 lần so với miền xuôi, thành thị và các gia đình khá giả khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vấn đề tử vong ở trẻ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh cũng như NCBSM. Tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ còn thấp, chỉ khoảng 58% trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ trong giờ đầu và 17% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. [37]
Thực tế cho thấy trước nhiều thông tin quảng cáo về các chất bổ sung vào sữa bột giúp trẻ phát triển tốt về cân nặng và chiều cao, thông minh cùng với nhận thức chưa đúng của một số bà mẹ trẻ, gia đình khiến nhiều bà cho rằng sữa công thức có thể thay thế được sữa mẹ, thậm chí tốt hơn sữa mẹ. Kiến thức về nuôi dưỡng trẻ nhỏ của người dân bị ảnh hưởng bởi niềm tin, thói quen của cộng đồng và lời khuyên của cán Bộ y tế..
Báo cáo của UNICEFF cũng chỉ ra rằng, các bà mẹ làm việc ở bên ngoài thường gặp khó khăn trong việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu. Họ đi làm và cho trẻ ăn bổ sung sau khi hết thời gian nghỉ đẻ thường là 4 tháng. Trong Luật Lao động Việt Nam có quy định về nghỉ đẻ và NCBSM. Tuy nhiên, trên thực tế Luật Lao động chỉ áp dụng cho phụ nữ làm việc ở cơ quan tổ chức chính thống. Hơn nữa, nhiều bà mẹ đi làm ở khu vực thành thị có khả năng mua sữa bột và thương xuyên bị tiếp xúc với các hình thức quảng cáo về sản phẩm thay thế sữa mẹ. Các sản phẩm thay thế sữa mẹ xuất hiện nhiều ở các bệnh viện và rất ít nhân viên y tế nhận thức về lợi ích của việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.
Nhân viên y tế cũng chịu ảnh hưởng từ các công ty sữa, và chỉ cần thanh kiểm tra ở mức hạn chế cũng đã phát hiện nhiều vi phạm Luật quảng cáo sản phẩm thay thế sữa mẹ của Chính phủ trong năm 2007.
Nội dung nuôi dưỡng trẻ nhỏ được xây dựng dựa trên cơ sở kết luận và khuyến nghị của các chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng, với mục tiêu chủ yếu là bảo vệ, khuyến khích và hỗ trợ NCBSMHT trong 6 tháng đầu cho trẻ ăn bổ sung hoàn toàn, hợp lý và tiếp tục cho con bú tới 2 tuổi hoặc nhiều hơn.
Trên thực tế, còn nhiều trẻ nhỏ nuôi dưỡng không đúng cách. Nhiều bà mẹ dù bắt đầu cho con bú tốt nhưng sau đó vẫn cho trẻ ăn bổ sung sớm hoặc chi cho bú vài tuần sau đẻ. Có những trẻ phát triển tốt trong 6 tháng đầu nhưng cũng không nhận được đủ các thức ăn bổ sung. Hậu quả là trẻ là bị suy dinh dưỡng , một vấn đề đang gia tăng ở nhiều nước. Hơn 1/3 trẻ bị suy dinh dưỡng ở các thể gầy còm, còi cọc, thiếu vitamin A, sắt hoặc các vi chất khác; suy dinh dưỡng chiếm hơn một nữa trong số 10,5 triệu trẻ tử vong ở các nước đang phát triển hàng năm.
Theo đánh giá của bộ y tế và UNICEFF, 58% các bà mẹ cho con bú trong giờ đầu sau sinh và 88% bắt đầu cho bú trong vòng 24h giờ đầu. Tính trên toàn quốc, chỉ có 17% trẻ dưới 6 tháng tuổi được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ. Khoảng 70% trẻ từ 6-9 tháng được bú mẹ kết hợp với ăn bổ sung với thức ăn đặc hoặc loãng. Ở 12-15 tháng tuổi có 78% trẻ em vẫn bú mẹ. Trẻ em trai thường được bú mẹ hoàn toàn tới 6 tháng nhiều hơn trẻ em gái. [9]
Chế độ nuôi dưỡng trẻ nhỏ trong năm đầu đời cũng được đánh giá trong MICS 2006. Chế độ nuôi dưỡng được coi là đầy đủ khi trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn, trẻ từ 6-8 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất hai lần một ngày, và trẻ 9-11 tháng tuổi được bú mẹ kèm ăn dặm ít nhất 3 lần một ngày. Ở Việt Nam, chỉ có, 42% trẻ từ 0-11 tháng tuổi được nuôi dưỡng theo định nghĩa trên. Trẻ em trai bình quân được nuôi dưỡng đầy đủ hơn trẻ em gái (45% so với 38%) [12]
3. Các yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ đặc biệt là các yếu tố rào cản
3.1. Trên thế giới
Tại Trung Quốc năm 2012, tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn cho trẻ em dưới 6 tháng chỉ có khoảng 28%. Thực hành NCBSM bị cản trở bởi nhiều yếu tố: niềm tin truyền thống là sữa mẹ không đủ dinh dưỡng hoặc quan niệm sai lầm về sữa mẹ của bạn bè và gia đình; thiếu các phương tiện công cộng để giải thích tầm quan trọng của NCBSM; chế độ nghỉ thai sản chỉ có ba tháng và sự tiếp thị và sự phóng đại về lợi ích của sữa bột của các hãng sữa [36].
Theo một nghiên cứu năm 2013 tại Los Angeles, Mỹ: có gần 28% bà mẹ
ngừng cho con bú khi được 3 tháng, dừng lại bởi vì họ đã gặp khó khăn khi nuôi dưỡng em bé, 32,3% cho rằng sữa mẹ một mình không đáp ứng các em bé, 33,0% cho rằng họ không có đủ sữa cho con bú, và 14,3% nói rằng họ bị nứt, đau hoặc chảy máu núm vú khi cho con bú [38].
Theo báo cáo “Chăm sóc Mẹ & Con Philips - triển vọng toàn cầu cho con
bú năm 2011”, tại các nước Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Ai Cập, các rào cản chính dừng cho trẻ bú khi đang ở nhà là lượng sữa cung cấp giảm, việc cho trẻ bú khiến bà mẹ bị đau núm vú, thiếu thời gian cần thiết cho con bú, phải quay trở lại làm việc, tâm lý e ngại khi phải cho con bú bên ngoài nhà, không có thời gian cho con bú suốt cả ngày. Tính trung bình có 40% bà mẹ cảm thấy rằng lượng cung ứng sữa của họ giảm, tỷ lệ này ở các nước phát triển như Mỹ là 70% và Trung Quốc 58%, trái ngược với Nam Phi 9% và Ai Cập 17%. Lý do quan trọng khác là đau núm vú khi cho ăn (15%), đặc biệt là trong ba tháng đầu tiên. Có 7% bà mẹ trong nghiên cứu cho con bú sữa bằng bình. Lý do nổi bật khác bao gồm sự cần thiết phải trở lại làm việc (10%) và cảm thấy lúng túng cho con bú bên ngoài nhà (9%). Trong nghiên cứu này có 28% phụ nữ lấy lý do đi làm lại để dừng việc cho con bú. Các lý do dẫn tới việc này là tại nơi làm việc không có cơ sở vật chất tốt để vắt sữa, xấu hổ khi vắt sữa tại nơi làm việc [39].
Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh của Hoa Kỳ, hầu hết
phụ nữ ở Hoa Kỳ nhận thức được rằng con bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ sơ sinh, nhưng thường họ không được hướng dẫn về lợi ích cụ thể của nó và các rủi ro liên quan nếu không cho con bú. Các cán bộ y tế thường nhận được ít đào tạo, và nhiều người cảm thấy không tự tin để cung cấp thông tin hữu ích, chính xác để hỗ trợ bệnh nhân của họ. Bên cạnh đó là những rào cản về kỹ thuật cho con bú và việc kết hợp cho con bú và làm việc [40].
Yếu tố môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới cho con bú. Tại Hoa Kỳ, bú bình là vấn đề bình thường hoặc thích hợp để nuôi một trẻ sơ sinh. Nhận thức và thái độ về cho con bú không chính xác hoặc tiêu cực vẫn còn phổ biến trong cộng đồng và các phương tiện truyền thông. Thông tin sai lệch phổ biến là thông tin dinh dưỡng về sữa mẹ và các loại thực phẩm khác. Nhiều hãng sữa thổi phồng về lợi ích của sữa bột thay thế sữa mẹ. Mọi người tin rằng phụ nữ nên cho con bú kín đáo ở nơi công cộng, nhiều bà mẹ đã bị chỉ trích vì cho con bú ở nơi công cộng và bị yêu cầu ngừng cho con bú [41].
3.2. Tại Việt Nam
Mặc dù Bộ Y Tế đã khuyến cáo “sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ”, và theo công văn 1477/BHXH-CSXH có hiệu lực từ ngày 1/5/2013 thì thời gian nghỉ sinh con đã tăng lên 6 tháng để người mẹ có điều kiện nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu [42].Tuy nhiên tỷ lệ NCHTBSM vẫn thấp do một số rào cản vẫn tồn tại. Đó chính là nhận thức sai lầm cho rằng “bà mẹ chưa có sữa để có thể cho trẻ bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và không đủ lượng sữa để cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu” của người nhà và nhân viên y tế. Chính nhận thức này đã ngăn cản các bà mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa của mình theo khuyến cáo của WHO. Tại một số trung tâm y tế, thậm chí ở một số bệnh viện lớn vẫn tồn tại thực trạng các bà mẹ đang mang thai hoặc sau khi sinh được nhân viên y tế khuyên nên cho trẻ bú thêm sữa bột. Đem theo sữa bột khi đưa thai phụ sắp sinh đến bệnh viện là một hình ảnh quen thuộc của các gia đình Việt Nam. Quan niệm cho trẻ từ sau 2 tháng tuổi uống thêm nước lọc sau mỗi lần bú mẹ để “sạch miệng”, để “không bị đẹn” bởi nhiễm trùng do nấm candida albican của các bà mẹ khiến trẻ bị no lâu, không bú được đủ số lượng sữa mà trẻ có thể và cần được bú. Ngoài ra, tâm lý e ngại trẻ bú mẹ không đủ no, sữa mẹ không đủ chất dinh dưỡng đã khiến nhiều bà mẹ chuyển sang cho trẻ dùng sữa công thức, cho trẻ bú sữa bột pha với nước cháo, hoặc cho trẻ ăn dặm ngay khi mới 4 tháng tuổi. Việc làm này vừa làm tiêu tốn kinh phí của các gia đình vừa tước mất đi nguồn dinh dưỡng quý báu của trẻ [43].
Nhóm nguyên nhân cũng rất quan trọng đó chính là từ phía cộng đồng , ít người dân tin rằng bà mẹ có thể đủ sữa cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng, trong khi đó lại tin tưởng vào việc cho ăn bổ sung sớm sẽ làm cho trẻ cứng cáp.
Có 4 khó khăn được nêu ra làm cản trở việc NCBSMHT. Theo nghiên cứu của Lưu Ngọc Hoạt, những khó khăn cản trở NCBSMHT trong 6 tháng đầu là: mẹ phải đi làm sớm, mẹ thiếu sữa, bà mẹ cần sự hổ trợ của người thân để có thời gian nghỉ ngơi, điều kiện kinh tế tốt [44]. Khó khăn mẹ thiếu sữa có lẽ là vấn đề của nhiều địa phương chứ không riêng gì của mẫu nghiên cứu. Người thân có vai trò rất lớn trong việc hỗ trợ bà mẹ và đặc biệt là có tác động lớn đến quyết định nuôi dưỡng trẻ nhỏ của bà mẹ.
Bà mẹ không vắt sữa cho con bú khi đi làm nên phải tập cho con bú sữa bột. Nguyên nhân không tin tưởng sự an toàn của sữa vắt cũng được ghi nhận trong báo cáo của A&T, Chỉ có 5,1% số người tham gia nghiên cứu đồng ý rằng vắt và bảo quản sữa mẹ trong tủ lạnh dưới 3 ngày vẫn an toàn. Niềm tin này khiến 63% bà mẹ đồng ý rằng nếu bà mẹ đi làm sớm thì trẻ phải bú sữa bột [45]. Có lẽ thông tin và hướng dẫn bảo quản sữa vắt chưa đến được nhiều bà mẹ. Vấn đề này cũng còn chịu tác động của yếu tố văn hóa khi có quan niệm rằng việc trữ đồ ăn trong tủ lạnh sẽ làm mất ngon và mất chất. Một vấn đề cần được ghi nhận nữa là việc vắt sữa mẹ không được thuận tiện. Có lẽ với quảng cáo sữa bột được cho là ưu việt như hiện nay thì bà mẹ dễ dàng chọn lựa sữa bột cho con.
Nhìn chung, các rào cản khi NCBSM trên thế giới cũng như tại Việt Nam là rào cản từ cá nhân bà mẹ, những người thân xung quanh, chất lượng dịch vụ chăm sóc bà mẹ và các yếu tố từ môi trường.
4. Những nghiên cứu trước đây về nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
4.1. Trên thế giới
Từ lâu NCBSM đã được sự quan tâm ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1979 trong một nghiên cứu của Annie Cherian về thái độ thực hành cho trẻ ăn ở Zaria, Nigeria cho thấy hầu như tất cả các đứa trẻ đều được bú ngay sau sinh, 34% các bà mẹ tin tưởng vào sữa của mình, tuy nhiên có một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ cho con bú muộn hơn vì họ cho rằng sữa non là không tốt cho sức khỏe sơ sinh [46].
Năm 1987 điều tra ở Bangkok (Thái Lan) thời gian cho con bú trung bình là 4 tháng, trong khi đó ở nông thôn là 17 tháng [53]. Theo báo cáo của WHO (1993): Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu là 13% ở Srilanca, bú mẹ hoàn toàn ở thành thị thấp hơn ở nông thôn (7% và 14%). Ở Châu Âu đã có xu hướng tăng cường NCBSM. Tỷ lệ các bà mẹ NCBSM ở các nước Bungari, Đức, Hungari và Thụy Sỹ dao động quanh 90%. NCBSM ở các nước Tây Âu thấp hơn, ví dụ: 67% ở Anh, 50% ở Pháp, 35% ở Ireland [54]. Gần đây vấn đề NCBSM vẫn được nhiều nước quan tâm nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu năm 2006 ở Australia cho thấy: tỉ lệ bắt đầu NCBSM là 93%, nhưng khi được 6 tháng tuổi thì chưa được một nửa số trẻ được nuôi bằng sữa mẹ (45,9%) và chỉ có 12% được bú mẹ là chủ yếu [50,51].
Ở một bệnh viện của Mỹ, các nghiên cứu được tiến hành trong ba năm liên tiếp từ 1999 đến 2001 cho thấy: tỷ lệ cho con bú sữa mẹ sớm vẫn duy trì được ở mức cao: 87% (1999), 82% (2000), 87% (2001). Tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn có sự khác nhau: 34% (1999), 26% (2000), 25% (2001) [47]. Trong một nghiên cứu dọc tại Anh cũng chỉ rõ NCBSM giảm dần trong 3 tháng đầu, sang tháng thứ 4 và 5 thì giảm đột ngột: 1 tháng (54,8%), 2 tháng (43,7%), 3 tháng (31%), 4 tháng (9,6%), 5 tháng (1,6%) [48].
Ở Trung Quốc, tỷ lệ NCBSM giảm xuống trong những năm 70, xuống đến mức thấp nhất trong những năm 80 và sau đó bắt đầu tăng trở lại trong những năm 90. Các chỉ số về NCBSM ở khu vực thành thị luôn thấp hơn so với khu vực nông thôn [49]. Một nghiên cứu gần đây tại tỉnh Thượng Hải – Trung Quốc cũng cho thấy tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn có sự khác nhau giữa các vùng thành phố, ngoại ô và nông thôn. Đặc biệt tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn ở vùng ngoại ô và nông thôn cao gần gấp 2 lần so với ở thành phố (63,4% và 61% so với 38%). Tỷ lệ NCBSM ở cả 3 vùng trên tương ứng là 96,5%, 96,8% và 97,4% [52]. Một nghiên cứu khác đã so sánh NCBSM giữa những năm 1994-1996 và 2003-2004 ở một vùng thuộc Tây Bắc của Trung Quốc cho thấy trong tháng đầu tỷ lệ NCBSM năm 2003-2004 giảm hơn so với năm 1994-1995. Tỷ lệ NCBSMHT ban đầu cao, nhưng sau 3 tháng thì tỉ lệ này giảm hơn rõ rệt. Mục tiêu quốc gia của Trung Quốc về NCBSM đều không đạt được trong cả hai giai đoạn nghiên cứu [49].
4.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu của tác giả Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy và Erika Lutz về thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc 6 tỉnh dự án IFEN II Hội Chữ thập đỏ Việt Nam năm 2005 và xã Dân Hòa tỉnh Hà Tây năm 2006 cho thấy: tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh tại cảc tỉnh dự án cũng khá chênh lệch nhau: Nghệ An (21,8%), Hà Tĩnh (62,3%), Quảng 13 Bình (72,7%), Quảng Ngãi (38,2%), Điện Biên (48,1%), Lai Châu (32,1%) và tỷ lệ chung của 6 tỉnh là 45,8%, riêng kết quả điều tra ở Hà Tây năm 2006 là 69,4%. Tỷ lệ trẻ được bú hoàn toàn sữa mẹ tại 6 tỉnh dự án 45,5%, trong khi ở Hà Tây nơi không có dự án là 38,5%. Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là tỷ lệ mong muốn theo khuyến nghị của WHO và UNICEF. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu như 100% bà mẹ tiếp tục cho con bú kéo dài 6-11 tháng và 12-17 tháng [57].
Năm 2006, tác giả Đinh Thị Phương Hòa tiến hành nghiên cứu tại 4 bệnh viện ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết và thực hành cho con bú trong vòng 1 giờ sau sinh chỉ là 44,1%, có 78,3% bà mẹ biết về sữa non và 64% bà mẹ thực hành cho con bú sữa non trong vài ngày sau sinh [56]. Bên cạnh đó việc ăn dặm của trẻ là phổ biến trong 6 tháng đầu tăng từ 16,4% vào tuần 1 lên 56,5% lúc 16 tuần và gần 100% ở tuần 24. Nghiên cứu của Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh tại Yên Bái năm 2008 cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 30 phút đầu sau sinh khá cao (gần 90%). Tuy nhiên trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 4 tháng chỉ dao động từ 17,8% đến 23% và 6 tháng là 18,3% đến 19,8% [60]. Cũng vào năm 2008, một nghiên cứu khác của tác giả Lê Thị Hương tiến hành cắt ngang trên 400 cặp bà mẹ, trẻ em dưới 2 tuổi tại 5 xã thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng nửa giờ đầu sau sinh là 88%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 4 tháng là 27,5% và đến 6 tháng là 18,3%. Bên cạnh đó, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi là 31,9% [59].
Năm 2008, tác giả Từ Mai tiến hành nghiên cứu tìm hiểu“Thực trạng NCBSM và một số yếu tố liên quan tại Trung tâm khám tư vấn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng”. Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 300 bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi đến khám lần thứ nhất. Ket quả cho thấy: tỷ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 16,2%, trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu là 28,4%. Tỷ lệ trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh là 49,3%, trong đó có 34,3% trẻ được bú mẹ trong vòng nửa giờ đầu sau khi sinh. Nghiên cứu cũng cho biết một số yếu tố ảnh hưởng đến NCBSMHT như: thời gian nghỉ đẻ quá ngắn (61,3% bà mẹ phải đi làm trước 4 tháng sau khi sinh con); Bà mẹ thiếu kiến thức về sữa mẹ: vai 14 trò của sữa mẹ, các biểu hiện của trẻ khi bú đủ sữa mẹ, chỉ có 10,6% bà mẹ biết vắt sữa để ở nhà cho con bú khi mẹ phải đi làm [61].
Năm 2009, nghiên cứu về kiến thức và thực hành NCBSM của Bùi Thu Hương tại 2 phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà Nội cũng cho thấy, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh là 30%, tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu là 23%, ngoài ra có 28% các bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu [12]. Cũng trong năm này, nghiên cứu của Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh tại Bệnh viện Phụ sản Nhi đồng bán công Bình Dương cho tỷ lệ trẻ bú mẹ trong giờ đầu chỉ là 29,7%, tỷ lệ đối tượng NCBSMHT trong thời gian nằm viện sau sinh là 19,8% và có tới hơn 75% số đối tượng nuôi con bằng cả 2 loại sữa: sữa mẹ và sữa thay thế trong thời gian nằm viện sau sinh [64].
Năm 2011, tác giả Hà Thị Thu Trang và Trần Thị Phúc Nguyệt tiến hành nghiên cứu tìm hiểu một số tập tính NCBSM của các bà mẹ dân tộc Dao có con dưới 24 tháng tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Kết quả nghiên cứu cho biết có 47,5% bà mẹ cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ dùng thức ăn hoặc đồ uống khác trước khi cho bú lần đầu là 22,5% [63].
Một nghiên cứu khác của tác giả Trần Thị Phúc Nguyệt và cộng sự thực hiện tại xã Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà Nội năm 2012 trên 220 bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn bà mẹ bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả cho thấy có 42,3% các bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh. Thức ăn/ đồ uống trước khi cho bú lần đầu bao gồm sữa bột (86,6%), sữa bò (10%) và nước đường (3,4%). Tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho con bú lần đầu tiên là 10%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 15,5%. Trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn vì mẹ không đủ sữa (61,3%) và mẹ phải đi làm (57,5%) [62].
Cũng trong năm 2012, tác giả Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 370 trẻ dưới 24 tháng tuổi và các bà mẹ của trẻ ở huyện Tam Nông, Phú Thọ nhằm mục tiêu mô tả thực trạng dinh dưỡng và đánh giá thực hành nuôi tò của bà mẹ theo các chỉ số IYCF-2010. Ket quả nghiên cứu cho thấy: có 94,3% trẻ đã và đang được bú mẹ; 46,7% trẻ được 15 bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 27,8% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn; tại thời điểm 1 tuổi có 60,6% trẻ tiếp tục còn được bú sữa mẹ, tại thời điểm 2 tuổi có 11,1% trẻ tiếp tục còn được bú sữa mẹ; và tỷ lệ trẻ được cho ăn bổ sung đúng thời điểm là 65,2% [55].
5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu ( thành phố Huế )
5.1 .Vị trí địa lý
Thành phố Huế nằm ở toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh Đông. phía Bắc và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 101 km, cách biển Thuận An 14 km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km.
Diện tích tự nhiên 71,68 km2, dân số năm 2012 ước là 344.581 người[65].
5.2 . Đặc điểm kinh tế ,văn hoá ,xã hội
a. Kinh tế
Thừa Thiên-Huế là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung. Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm thời kỳ 2001 - 2008 đạt 11%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp (năm 2008, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 36,5%, ngành dịch vụ 45,3%, ngành nông nghiệp giảm còn 18,2%). Thu ngân sách tăng bình quân đạt 18,3%/năm. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt trên 12%, xếp thứ 20/63 tỉnh, thành cả Việt Nam. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành dẫn đầu toàn quốc. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh từ vị thứ 15 (năm 2007) đã vươn lên đứng thứ 10 toàn quốc trong năm 2008. GDP bình quân đầu người năm 2009 vượt qua 1.000 USD/năm [65].
Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị
b. Văn hoá
Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hoá lớn và đặc sắc của Việt Nam. Thừa Thiên Huế có 2 di sản văn hoá thế giới là:
• Quần thể di tích Cố đô Huế.
• Nhã nhạc cung đình Huế.
c.Xã hội
Nhiều chỉ tiêu về xã hội đạt và vượt mức bình quân chung của cả nước như tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Có nhiều tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, đô thị phát triển. Bên cạnh những ưu điểm trên còn những mặt tồn tại, hạn chế như sau:
Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với yêu cầu. Kinh tế phát triển tích cực nhưng còn yếu tố chưa thực sự bền vững; tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào phát triển theo chiều rộng, trình độ công nghệ còn lạc hậu; năng suất lao động xã hội còn thấp (năm 2009 năng suất lao động bình quân đạt 10,5 triệu đồng (giá so sánh), bằng 93% so bình quân chung cả nước). Nguồn thu ngân sách chưa ổn định; cơ cấu thu phụ thuộc vào một số ít doanh nghiệp lớn, riêng bia và xi măng chiếm khoảng 36% tổng thu nội địa, thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác chỉ chiếm 21% [65].
Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa.
Còn một số vấn đề bức xúc: Kết quả giảm nghèo chưa thật vững chắc, số hộ cận nghèo còn lớn; nhiều hộ có nguy cơ tái nghèo cao, nhất là vùng thường xuyên bị thiên tai; Sức ép về việc làm còn lớn, nhất là trong thanh niên. Tỷ lệ lao động phổ thông còn cao, xuất khẩu lao động chưa đạt kế hoạch. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Chưa thực sự trở thành động lực phát triển.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính.
2. Biến số nghiên cứu
2.1. Thông tin chung và các đặc điểm nhân khẩu học
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Năm sinh
Dân tộc
Nghề nghiệp
Trình độ học vấn
Quy mô gia đình
Số con trong gia đình
Thu nhập bình quân đầu người
Trình độ học vấn
Tình trạng sức khỏe bà mẹ sau sinh
Thông tin chung về trẻ
Thứ tự của trẻ
Nhóm tuổi
Giới tính
2.2. Kiến thức, thái độ, hành vi của bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi
2.2.1. Kiến thức về NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Kiến thức của bà mẹ về cho trẻ bú sớm sau sinh
Thời điểm cho trẻ bú me sau khi sinh
Vắt bỏ sữa non
Lợi ích của sữa non
Kiến thức của bà mẹ về NCBSMHT frong 6 tháng đầu
Kiến thức về định nghĩa NCBSMHT
Biết đúng thời gian NCBSMHT
Biết cho con bú đúng cách
Biết trẻ dưới 6 tháng tuổi nên bú duy nhất sữa mẹ
Biết cần tiếp tục cho trẻ bú khỉ trẻ bị ốm
Có nên cho trẻ dưới 6 tháng tuổi uống nước tráng miệng sau khi bú
Thời gian bảo quản sữa vắt
Tỷ lệ hiểu biết về thành phần sữa mẹ
Tỷ lệ hỉểu biết về lợi ích của sữa mẹ đốỉ với trẻ
Tỷ lệ hiểu biết về lợi ích của sữa mẹ đối với bà mẹ
Tỷ lệ nhận một số lời khuyên khác nhau về NCBSM
Nguồn nhận thông tín quảng cáo sữa công thức và thông tin về NCBSMHT trong 6 tháng đầu của ĐTNC
2.2.2. Thái độ NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Bà mẹ có muốn cho con bú không
Việc cho con bú sữa non có cần thiết không
Việc cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu có cần thiết không
2.2.3. Hành vi NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Thời gian bà mẹ cho con bú lần đầu sau sinh
Lý do bà mẹ cho con bú muộn
Thời gian bà mẹ bắt đầu cho con ăn thức ăn ngoài sữa mẹ
Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn ngoài sữa mẹ trước 6 tháng
Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm trở lại
2.3. Một số yếu tố liên quan tới thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và NCBSMHT trong 6 tháng đầu
Yếu tố cá nhân
Yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán
Thu nhập gia đình
Số con trong gia đình
Nơi đẻ: bệnh viện, TYT, tại nhà; Phương pháp đẻ: đẻ thường, đẻ mổ
Chế độ nghỉ thai sản
Hỗ trợ chăm sóc trẻ sau sinh từ gia đình
Chính sách thai sản
Điều kiện làm việc: khoảng cách nơi làm, thời gian làm việc sau sinh, chăm sóc trẻ khi phải đi làm
Tiếp cận với CBYT
Tiếp cận thông tin
3. Đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ có con dưới 1 tuổi tuổi ở TP. Huế.
Tiêu chuẩn loại trừ: những bà mẹ gặp khó khăn về nói và trả lời, bị bệnh tâm thần và những đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu.
4. Địa điểm nghiên cứu
Thành phố Huế.
5. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức sau:
n = Z21-α/2p(1-p)d2×DE
Trong đó:
n: Là cỡ mẫu tối thiểu.
p: Là tỷ lệ % ước tính bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Trong nghiên cứu này chúng tôi lấy kết quả thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời đạt 19,6% vào năm 2012[9].
1 - p = 0,804
Z1-α/2: mức ý nghĩa thống kê α = 0,05, ứng với độ tin cậy 95%, Z1-α/2 = 1,96.
d: độ chính xác tuyệt đối của p bằng 5%(0,05).
DE: Vì nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu chùm do đó sai số lớn, để khắc phục nhược điểm này nên chọn hệ số thiết kế nghiên cứu ( = 2)
Thay vào công thức, tính được n = 485 ≈ 500. Do vậy lấy cỡ mẫu cần nghiên cứu là 500.
6. Phương pháp chọn mẫu
6.1. Nghiên cứu định lượng
Chọn cụm
Lập danh sách 27 phường của Tp. Huế(An Cựu, An Đông, An Hoà, An Tây, Hương Long, Hương Sơ, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú Hậu, Phú Hiệp, Phú Hoà, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận Hoà, Thuận Lộc, Thuận Thành, Thuỷ Biều, Thuỷ Xuân, Trường An, Vĩnh Ninh, Vĩ Dạ, Xuân).
Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn chọn ra 10 cụm đưa vào nghiên cứu.
Tại mỗi cụm chọn 500:10=50 bà mẹ để điều tra.
Chọn hộ gia đình
Lập danh sách tất cả các hộ gia đình có trẻ dưới 1 tuổi của cụm đã chọn. Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn chọn ra 50 hộ gia đình/cụm.
6.2. Nghiên cứu định tính
Thảo luận nhóm tập trung: chọn 2 nhóm, mỗi nhóm 6 - 8 bà mẹ có con dưới 1 tuổi. Các bà mẹ đáp ứng các tiêu chuẩn được chọn.
7. Kỹ thuật thu thập số liệu
7.1. Nghiên cứu định tính
Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ tại hộ gia đình bằng phiếu điều tra thiết kế sẵn dưới dạng những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu. Thời gian phỏng vấn trong khoảng 30 phút.
Điều tra viên: 8 sinh viên lớp YHDP3C
7.2. Nghiên cứu định lượng
Thảo luận nhóm tập trung: được thực hiện tại trạm y tế xã sau khi thu thập các thông tin nghiên cứu định lượng.
Thời gian thảo luận: 60 - 90 phút
1 thư ký ghi chép, ghi âm và sau đó đánh máy nguyên văn để phân tích.
1 người hướng dẫn thảo luận: giới thiệu về nghiên cứu và dẫn dắt các thành viên tham gia thảo luận.
Buổi thảo luận được dẫn dắt theo một dàn ý câu hỏi tập trung quanh chủ đề chính: quan niệm về NCBSM, kiến thức về NCBSM, tiếp nhận thông tin về NCBSM, tiếp nhận thông tin quảng cáo của các hãng sữa, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ thai sản ảnh hưởng như thế nào tái thực hành NCBSM
8. Phương pháp phân tích số liệu
8.1. Phương pháp định lượng
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
8.2. Phương pháp định tính
Các nội dung của cuộc phỏng vấn được ghi chép lại. Các thông tin chính được lựa chọn một cách có để phân tích phát hiện ra những vấn đề nổi bật.
9. Đạo đức nghiên cứu
Những đối tượng tham gia vào nghiên cứu là những người hoàn toàn tự nguyện, và họ không chịu bất kỳ tác động nào từ bên ngoài hay từ chính nhóm nghiên cứu. Tất cả các đối tượng tham gia đều được giải thích rõ ràng, cụ thể về mục đích, nội dung nghiên cứu. Đối tượng tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và được quyền dừng ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình phỏng vấn.
Tất cả các thông tin thu được chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu mà không phục vụ cho mục đích khác. Sự riêng tư và bí mật của cá nhân được đảm bảo:
- Việc đảm bảo riêng tư và bí mật cá nhân của đối tượng điều tra luôn được nhấn mạnh với điều tra viên trong quá trình tập huấn.
- Điều tra viên đọc bản đồng ý tham gia nghiên cứu cho tất cả đối tượng tham gia.
- Tất cả các cuộc phỏng vấn đều được tiến hành ở nơi đảm bảo bí mật và riêng tư.
- Tất cả các câu hỏi hoàn thành đều được lưu trong tủ có khóa, chỉ nghiên cứu viên chính mới được phép tiếp cận.
- Nhóm nghiên cứu hạn chế tối thiểu các nguy cơ tiềm ẩn với đối tượng tham gia nghiên cứu.
CHƯƠNG 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ, BÀN LUẬN, KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Dự kiến kết quả
Sau khi nghiên cứu được triển khai và thu về được kết quả, nhóm nghiên cứu sẽ mô tả thực trạng NCBSM ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi; mô tả và phân tích các rào cản khi NCBSM ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại TP. Huế năm 2016.
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Một số thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (1)
Đặc điểm
n
Trung bình
Trung vị
Min
Max
Tuổi mẹ
Số con
Tuổi trẻ(tháng)
Bảng 2: Một số thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (2)
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Dân tộc
Kinh
Khác
Trình dộ học vấn
Không đi học
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Cao đẳng, đại hoc, sau đại học
Nghề nghiệp mẹ
Nông dân
Cán bộ, viên chức
Công nhân
Tiểu thương/ Nghề thủ công/
Buôn bán/ Dịch vụ/ Nghề tự do
Nội trợ/ Sinh viên/ Học sinh
Quy mô gia đình
Truyền thống
Hạt nhân
Thu nhập bình quân
≤500.000 đồng/người/tháng
>500.000 đồng/người/tháng
Bảng 3: Thông tin về trẻ nghiên cứu
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Thứ tự của trẻ
Con đầu
Con thứ
Giới tính
Nam
Nữ
Mô tả kiến thức, thực hành của bà mẹ về NCBSM
+ Kến thức
Bảng 4: Kiến thức của bà mẹ về cho trẻ bú sớm sau sinh
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Thời điểm cho trẻ bú mẹ sau khi sinh
Trong vòng 1 giờ đầu
Từ 1 giờ đến 24 giờ
Sau 1 ngày
Không nghĩ trẻ cần phải được bú mẹ ngay sau sinh
Không biết
Vắt bỏ sữa non
Có vắt bỏ
Không vắt bỏ
Không biết
Lợi ích của sữa non
Phòng chống dị ứng và nhiễm khuẩn
Đào thải phân su
Giảm mức độ vang da
Giúp phát triển ruột
Không biết
Bảng 5: Kiến thức của bà mẹ về NCBSM trong 6 tháng đầu
Đặc điểm
Tần số
Tỷ lệ
Kiến thức về định nghĩa NCBSMHT
Chỉ cho bú mẹ và không cho ăn uống một thứ gì khác kể cả nước
Cho trẻ bú sữa mẹ và nước
Cho trẻ bú sữa mẹ và một ít chất lỏng khác
Không biết
Biết đúng thời gian NCBSMHT
Bú sớm hơn 6 tháng
Trong 6 tháng đầu
Trên 6 tháng
Biết cho con bú đúng cách
Bú mỗi bên một ít
Bú hết một bên rồi chuyển sang bên kia
Không biết
Biết cần tiếp tục cho trẻ bú khi trẻ bị ốm
Có
Không
+ Thực hành
Bảng 6: Thời gian bà mẹ cho con bú lần đầu sau sinh
Thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh
Tần số
Tỷ lệ
Trong vòng 1 giờ
Từ 1 giờ đến 24 giờ
Sau 24 giờ
Không nhớ
Bảng 7: Thời gian bà mẹ bắt đầu cho con thức ăn ngoài sữa mẹ
Thời gian cho trẻ bú thức ăn ngoài sữa mẹ
Tần số
Tỷ lệ
Dưới 3 tháng
3 tháng
4 tháng
5 tháng
Chưa cho trẻ ăn thức ăn ngoài
Không nhớ
Bảng 8: Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm trở lại
Thực hành nuôi dưỡng trẻ khi mẹ đi làm
Tần số
Tỷ lệ
Cho trẻ bú sữa mẹ
Cho trẻ bú sữa bột
2. Bàn luận
Có thể nói, sữa mẹ giúp ích cho sự phát triển của trẻ, tiết kiệm chi phí hơn, giúp cho sự gắn bó mẹ con và làm phát triển tốt mối quan hệ gần gũi, yêu thương. Tuy nhiên, những quan niệm, văn hóa, những rào cản về kinh tế, xã hội, sẽ khiến vấn đề NCBSM trở nên khó khăn. Chỉ khi những rào cản đó có được giải quyết cùng với sự phối hợp song song giữa bản thân người mẹ, gia đình và ngành y tế nói chung sẽ cung cấp kiến thức, chia sẻ hiểu biết kĩ năng cho phụ nữ để nuôi con khôn lớn, khỏe mạnh.
3. Kết luận
Mô tả thực trạng NCBSM ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại TP. Huế năm 2016.
Mô tả và phân tích các rào cản khi NCBSM ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tuổi tại TP. Huế năm 2016.
4. Khuyến nghị
Dựa trên kết quả nghiên cứu sẽ đưa ra những khuyến nghị phù hợp.
CHƯƠNG 4
KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
1. Kế hoạch công việc
STT
Các công việc/nội dung
Thời gian(ngày)
Người thực hiện
1
2
3
4
5
6
7
8
1
Đọc tài liệu tham khảo
×
Cả nhóm
2
Xác định vấn đề nghiên cứu
×
Cả nhóm
3
Tổng quan tài liệu
×
Phan Việt Sáng, Đậu Bảo Quốc, NguyễnVăn Phú, Ngô Thị Quí Phương, Trần Xuân Thao
4
Hình thành mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
×
Trương Thị Oanh, Hoàng Ngọc Thanh, Trần Ngọc Ny
5
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu
×
Trương Thị Oanh
6
Nội dung nghiên cứu,thu thập số liệu
×
Hoàng Ngọc Thanh, Phan Việt Sáng, Đậu Bảo Quốc, NguyễnVăn Phú, Ngô Thị Quí Phương, Trần Xuân Thao
7
Phân tích số liệu
×
Cả nhóm
8
Dự trù kinh phí
×
Trương Thị Oanh
9
Viết đề cương nghiên cứu
×
Cả nhóm
10
Tổng kết, báo cáo, trình bày powerpoint
×
Trương Thị Oanh, Ngô Thị Qúi Phương,Hoàng Ngọc Thanh
2. Kế hoạch tiến hành và sử dụng kết quả nghiên cứu
Sau khi thảo luận và trao đổi thống nhất và đã hoàn thành đề cương nghiên cứu, chúng em sẽ tiến hành như sau:
Nhóm các bạn: Ngọc Thanh, Việt Sáng, Bảo Quốc, Xuân Thao, Nguyễn Văn Phú, Qúy Phương sẽ tiến hành đi điều tra thu thập số liệu tại địa phương, sau đó sẽ xử lý và phân tích các số liệu thu thập được.
Nhóm các bạn Ngọc Ny, Trương Thị Oanh sẽ giám sát, theo dõi, đánh giá các bạn kia xem có thực hiện tốt công việc của mình không, có thực hiện đúng tiến độ công việc được giao không, kịp thời đưa ra ý kiến đóng góp để giúp các bạn kia hoàn thành tốt công việc được giao và sửa chữa những điều chưa phù hợp trong đề cương, đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật để có được một kết quả nghiên cứu kịp thời, ít sai số và có tính khả thi.
Những người có thể sẽ sử dụng kết quả nghiên cứu là:
Sinh viên.
Phụ nữ đang trong độ tuổi sinh sản.
Những người nghiên cứu về chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
3. Dự trù kinh phí
STT
NỘI DUNG
DIỄN GIẢI
THÀNH TIỀN (đồng)
1
Thu thập thông tin ban đầu
20.000đ/người/ngày x 04 người x 02 ngày
160.000đ
2
Nhân lực đi điều tra
50.000đ/người/ngày x 8 người x 03 ngày
1.200.000đ
3
Làm việc nhóm, phân tích xử lý số liệu nghiên cứu
10.000đ/người/ngày x 8 người x 05 ngày
400.000đ
4
In ấn
500 Bộ câu hỏi + Báo cáo nhóm
400.000đ
5
Văn phòng phẩm
20.000đ
Tổng cộng
2.180.000đ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Huy Khôi và Từ Giấy (2005), Dinh dưỡng hợp lý và sức khoẻ, Nhà xuất bản Y học, Hà nội.
2. UNICEF (2007), Breastfeeding within one hour of birth can significantly reduce infant mortality in Viet Nam.
3. Owen, C. G. et al. (2006), Does breastfeeding influence risk of type 2 diabetes in later life? A quantitative analysis of published evidence, American Journal Clinic Nutrition, 84(5), pg. 1043-54.
4. Bộ Y tế - Chương trình Nuôi con bằng sữa mẹ (2005), Tư vẩn nuôi con bằng sữa mẹ, Hà Nội.
5. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, Hà Nội.
6. Hồ Sĩ Hoàng (2010), "Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ", Sở Y tế Bình Dương.
7. WHO (2013), "10 facts on breastfeeding".
8. UNICEF Việt Nam (2011), "Truyền thông Đại chúng về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và ăn bổ sung nhằm giảm tỷ lệ thấp còi và suy dinh dưỡng ở Việt Nam".
9. Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế (2012), "Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010".
10. Ngày 22/07/2009.
11. WHO (2006), Tư vấn và nuôi dưỡng trẻ nhỏ, bản dịch tiếng Việt của Tổ chức Y tế Thế giới.
12. Phan Thị Tâm Khuê (2009), Khảo sát kiến thức,thái độ thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sau sinh tại Khoa Sản Bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Huế, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại Học Y Dược Huế, Huế.
13. Bộ Y tế và Trường Đại học QueensLand Australia (2006), Hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ.
14. USAID, UNICEF và WHO (2010), "Indicators for assessing infant and your child 42 feeding pratices, Malta".
15. WHO (2008), "Indicators for assessing infant and young child feeding practices, Washington D.C."
16. WHO (2009), "Infant and young child feeding, Geneva.
17. PepsiCo và Nhóm chính sách Y tế toàn cầu (2010), Tổng quan về chính sách Y tể công cộng của Việt Nam về nuôi dưỡng trẻ nhỏ.
18. Agampodi, s., Agampodi, T. and Piyaseeli, U.K. (2007), Bresatfeedng practices in a public health field practice area in Sri Lanka: a survivalanalysis, International breastfeeding Journal, 2(1), pg. 13.
19. Bachrach, V. R., Schwarz, E. and Bachrach, L. R.(2003),Breastfeeding and the risk of hospitalization for respiratory disease in infancy: a meta¬ analysis, Arch Pediatr Adolesc Med, 157, pg. 237-243.
20. Ball, T. M. and Bennett, D. M. (2001), The Economic Impact of Breastfeeding, Pediatric Clinics of North America, 48(1).
21. IBFAN (2007), Issue Scientific breastfeeding, Access date 29/12/2013, from
22. Kramer, M. S., Aboud, F., Mironova, E. and et al. (2008), Breast-feeding and child cognitive development: new evidence from a large randomized trial, Arch Gen Psychiatry, 65, pg. 578-584.
23. Naylor, A. J. and Wester, R. A. (2013), Lactation Management Self-Study
Modules Level I, Wellstart International.
24. Owen, C. G. et al. (2005), Effect of Infant Feeding on the Risk of Obesity Across the Life Course: A Quantitative Review of Published Evidenc, Pediatrics, 15, pg. 1367-1377.
25. Owen, C. G. et al. (2006), Does breastfeeding influence risk of type 2 diabetes in later life? A quantitative analysis of published evidence, American Journal Clinic Nutrition, 84(5), pg. 1043-54.
26. Stuebe, A. (2009), The Risks of Not Breastfeeding for Mothers and Infants, Rev Obstet Gynecol, 2(3), pg. 222-231.
27. The Lancet (2008), Maternal and Child Undernutrition.
28. Weimer, J. (2012), The Economic Benefits of Breastfeeding: A Review and Analysis,Access date 23/12/2013, from
29. WHO (2003), Global Strategy for Infant and Young child feeding, Geneva.
30. WHO, UNICEF and USAID (2008), Indicators for assessing infant and young child feeding practices, Washington D.c.
31. Baltimore, M. D. (2009), Better breastfeeding, healther lives, Report Series L.14, USA.
32. CDC (2012), Breastfeeding Report Card - United States, 2012, Access date
26/12/2013, from
33. Mukuria, A. G., Kothari, M. T. and Abderrahim, N. (2006), Infant and Young child feeding update.
34. Xiaodong Cai, Wardlaw, T. and Brown, D. w. (2012), Global trends inexclusive breastfeeding, International Breastfeeding Journal 2012, 7(12).
35. Zhang, Jingxu. et al. (2009), An infant and child feeding index isassociated with child nutritional status in rural China, Early human development, 85, pg. 247-252.
36. UNICEF (2012), "Social media campaign offers critical support to breastfeeding.
37. Báo Lao Động (2012) “Khoảng 80% số trẻ “đói”sữa mẹ”.
38. Janice I. French và Sharlene Gozalians (2013), "Breastfeeding in Los Angeles.
39. Marko de Jager và các cộng sự. (2011), "Barriers to Breastfeeding – A Global
40. Centers for Disease Control and Prevention United States (2013),
"Breastfeeding Report Card ".
41. Margaret L. Vaaler và các cộng sự. (2011), "Men’s AttitudesToward Breastfeeding: Findings from the 2007 Texas Behavioral Risk Factor Surveillance System", Maternal and Child Health Journal 15(2), tr. 148-157.
42. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2013), "Công văn 1477/BHXH-CSXH hướng dẫn thực hiện chế độ thai sản theo quy định của Bộ luật Lao động 10/2012/QH13".
43. Huệ Anh, "Làm thế nào để phá bỏ rào cản trong việc nuôi con bằng sữa mẹ", Mạng thông tin y tế thành phố Hồ Chí Minh.
44. Lưu Ngọc Hoạt, Lê Thị Hương, Lê Thị Thanh Xuân, Neymat Hajeebhoy (2010) "Kiến thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ Hà Nội năm 2010 - Các rào cản và yếu tố thúc đẩy". Tạp chí Y học Thực hành, Bộ Y tế, số 6 (723), tr.43-47.
45. Alive and Thrive, Viện nghiên cứu Y - Xã hội học (2012) Nghiên cứu đánh giá Nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ Việt Nam, tr. 40-98.
46. Annie Cherian (1980): Attitudes and practices of infant feeding in Zaria, Nigeria ( Received Oct 20, 1980. In final from May 20, 1981). Pg. 51, 75-77.
47. Barbara L.Philipp, Kirsten L.Malone, Sabrina Cimo and Anne Merewood.(2003): Sustained Breastfeeding rates at a US BabyFriendly Hospital. 3: 234-236.
48. David Pontin, Pauline Emmett, Colin Steer, Alan Emond and the AJSPAC study team ( 2007): Patterns of breastfeeding in a UK longitudinal cohort study. Maternal and Child Nutrition, 3: 2-9.
49. Fenglian Xu, Xiaoxian Liu, Colin W Binns, Cuiqin Xiao, Jing Wu and Andy H Lee (2006): A decade of change in breastfeeding in China’s far north-west. International Breastfeeding Journal 2006. 10
50. Jane A.Scott, Colin W Binns, Wendy H.Oddy, Kathleen I. Graham (2005): National targets for breastfeeding at hospital discharge have been achieved in Perth. Acta Paediatr 2005, 94 (3): 352-356.
51. Jane A.Scott, Colin W Binns, Wendy H.Oddy, Kathleen I. Graham.(2006): Predictors of Breastfeeding Duration: Evidence from a cohort study. Pediatrics. 10: 646-654.
52. Liqian Qiu, Yun Zhao, Colin W Binns, Andy H Lee and Xing Xie (2008): A cohort study of infant feeding practices in city, suburban and rural areas in Zhejiang Province, PR China.
53. Napaporn Chayovan, John Knodel and Kua Wongboonsin (1990): Infant feeding practices in Thailand: An update from the 1987 Demographie and Health Survey. Studies in Family plantning 1990. pp 40.
54. WHO (1993): Breastfeeding – The technical basis and recommentdation for action Geneval 1993, 1-12,113.
55. Huỳnh Văn Dũng, Huỳnh Nam Phương và Cs (2014), Tĩnh trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 24 tháng tuổi và thực hành nuôi trẻ của bà mẹ tại huyện Tam Nông, tỉnh Phủ Thọ năm 2012, Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, 10(4), trề 116-123.
56. Đinh Thị Phương Hòa (2006), Kiến thức, thực hành của bà mẹ về giữ ẩm và cho trẻ bú sớm ngay sau khi đẻ, Bộ Y tế, Hà Nội.
57. Phạm Văn Hoan, Vũ Quang Huy, Erika Lutz (2006), Thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi tại một sổ xã thuộc Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Lai Châu, Điện Biên năm 2005 và Hà Tây năm 2006, Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, 2(3+4), tr. 43-48. 86
58. Bùi Thu Hương (2009), Kiến thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ tại phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà Nội năm 2009, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
59. Lê Thị Hương (2008), Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, 4(2), tr. 40-48.
60. Lê Thị Hương và Đỗ Hữu Hanh (2008), Kiến thức, thực hành của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi tại huyện Văn Yên, Yên Bải, Tạp chí Y học thực hành, số 643, tr. 21-27.
61. Từ Mai (2009), Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ và một sổ yếu tổ liên quan của các bà mẹ đến khám tại Trung tâm khám tư vẩn dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội, Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, 5(2), tr. 39-47.
62. Trần Thị Phúc Nguyệt và Hà Minh Trang (2014), Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh Hà, huyện Thường Tín, Hà Nội, Tạp chí Dinh dưỡng & Thực phẩm, 10(3), tr. 117-122.
63. Hà Thị Thu Trang, Trần Thị Phúc Nguyệt (2012), Một số tập tỉnh nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ dân tộc Dao có con dưới 24 tháng tại xã Tân Cương, huyện Chợ Mới, tỉnh Bẳc Kạn, Tạp chí Nghiên cứu Y học, 80(3B), tr. 266-271.
64. Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh (2010), Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong thời gian nằm viện sau sinh tại bệnh viện phụ sản nhi đồng bán công Bình Dương năm 2009, Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 14(2), tr. 366 -370.
65. Cổng thông tin điện tử - Bộ kế hoạch và đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_moi_1_3392.docx