Đề tài Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai

Việc hoàn thiện thủ tục giải quyết khiếu nại theo hướng trên sẽ khắc phục được các hạn chế, bất cập đang đặt ra trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay; bảo đảm sự tham gia của luật sư để bảo vệ quyền lợi của người khiếu nại; xác định rõ hơn địa vị pháp lý của người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại; đồng thời phát huy được vai trò của các tổ chức xã hội trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính. c/ Bảo đảm thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật Để các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh thì cần phải có cơ chế bảo đảm thi hành các quyết định này trên thực tế. Việc xác định rõ cơ chế bảo đảm thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại sẽ góp phần khắc phục tình trạng nhiều quyết định giải quyết khiếu nại đúng quy định của pháp luật, hợp lý, hợp tình, song quá trình thực hiện bị kéo dài hoặc không thực hiện được. Vì vậy, thời gian tới cần xác định rõ cơ chế này theo hướng: - Quy định trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; - Quy định rõ nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; - Quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;

docx43 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2936 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tinh thần Luật TTHC năm 2010 thì, khởi kiện là quyền tự “định đoạt” thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối với việc yêu cầu Toà án phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành chính mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi Ý chí hợp pháp của mình. Khởi kiện chính vì vậy là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa người khởi kiện với Toà hành chính thuộc Toà án nhân dân có thẩm quyền. Chức năng của Toà án nói chung và của Toà hành chính nói riêng là xét xử các vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người khởi kiện. Có thể khẳng định rằng, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động thụ lý của Toà án. Khởi tố vụ án hành chính là quyền của Viện Kiểm Sát. Việc khởi tố của cơ quan này cũng chính là hành vi tố tụng để mở đầu cho cả quá trình Toà án giải quyết vụ án hành chính.  Thứ hai: Việc khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính có được chấp nhận hay không lại phụ thuộc vào hoạt động thụ lý của Toà án. Toà án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi nó thoả mãn những căn cứ luật định. Toà án sẽ trả lại đơn kiện khi việc khởi kiện, khởi tố rơi vào một trong những trường hợp pháp luật quy định phải trả lại đơn kiện. Mặt khác, thông qua những trường hợp Toà án trả lại đơn kiện sẽ làm cho việc khởi kiện tuân thủ những quy định của pháp luật, hạn chế tình trạng khởi kiện tràn lan. Vị trí, vai trò của thụ lý vụ án hành chính trong thủ tục tố tụng hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai. Trong hoạt động tố tụng hành chính, khởi kiện và thụ lý vụ án được coi là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này, Toà án xem xét nội dung, thủ tục vụ án để quyết định có đưa vụ án ra Toà án xem xét hay không. Vì vậy, việc xét xử vụ án hành chính có đúng pháp luật hay không đúng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động thụ lý. Nếu không có việc thụ lý vụ án hành chính thì sẽ không có quá trình tố tụng hành chính tiếp theo. Hơn nữa, thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa pháp lý quan trọng, vì nó đặt trách nhiệm của Toà án là phải giải quyết vụ án trong thời hạn pháp luật quy định kể từ ngày thụ lý vụ án. Để hiểu rõ được vị trí, vai trò của thụ lý vụ án trong thủ tục tố tụng hành chính cần thiết nắm được quá trình tố tụng hành chính khi giải quyết một vụ án hành chính. Hoạt động tố tụng giải quyết các vụ án hành chính phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án. Đây là trình tự có tính chất bắt buộc trong việc giải quyết vụ án. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án. Nếu như khởi kiện, khởi tố vụ án hành chính là quyền của người khởi kiện và của Viện Kiểm Sát thì thụ lý vụ án hành chính được xem là quyền và nghĩa vụ của Toà án. Việc chấp nhận đơn của người khởi kiện, quyết định khởi tố của Viện Kiểm Sát và vào sổ thụ lý vụ án của Toà án có một ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ chính thức làm phát sinh trách nhiệm của Toà án trong việc giải quyết vụ án hành chính, mà còn giúp cho Toà án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng thụ lý những vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của mình, là cơ sở để Toà án nhân dân tiến hành việc giải quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Với ý nghĩa đó, thụ lý vụ án hành chính không chỉ có vị trí, vai trò trong giai đoạn này mà còn có vai trò, vị trí không thể thiếu trước khi tiến hành các giai đoạn khác của việc giải quyết một vụ án hành chính.   Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn tiếp theo sau khi có quyết định thụ lý vụ án hành chính của Toà án. Trong trường hợp Toà án trả lại đơn kiện thì sẽ không tồn tại giai đoạn này. Do đó, việc thụ lý vụ án hành chính là cơ sở cần thiết để Toà án có thẩm quyền tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết liên quan đến vụ án bằng những biện pháp khác nhau, bước đầu nhận định bản chất của quyết định, hành vi hành chính bị kiện để từ đó có thể ra mét trong các quyết định: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tiếp tục sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án có thẩm quyền. Trong giai đoạn này, những tình tiết, tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp từ giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án… sẽ là cơ sở quan trọng trong việc ra phán quyết về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và quyết định việc bồi thường thiệt hại (nếu có) cho người khiếu kiện. Mặt khác, việc thụ lý đơn khiếu kiện hành chính còn làm phát sinh những quyền hạn cụ thể của Toà án trong xét xử hành chính. Toà án chỉ sử dụng những quyền hạn đó trong quá trình giải quyết những vụ án đã được thụ lý. Một khi đơn kiện đã được thụ lý thì cũng có nghĩa vụ án hành chính đã phát sinh và vụ án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Ngoài ra, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, việc thụ lý vụ án hành chính cũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan… Cũng cần bàn thêm rằng, trường hợp những bản án hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng bản án hay quyết định này bị Viện Kiểm Sát cùng cấp hoặc trên một cấp kháng nghị hoặc bị kháng cáo của những chủ thể có quyền theo quy định của Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và việc kháng cáo đó trong thời hạn pháp luật quy định,… thì Toà án cũng vẫn phải tiến hành thụ lý vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm (Tuy nhiên, ở cấp phúc thẩm, việc thụ lý này không tách riêng thành một giai đoạn độc lập như khi xét xử sơ thẩm vụ án hành chính).  Việc phân định các giai đoạn tố tụng của vụ án hành chính chỉ mang tính chất tương đối. Thực tế áp dụng các giai đoạn này diễn ra liên tục, tạo nên sự liên hoàn trong khi giải quyết vụ án hành chính. Như vậy, để đảm bảo cho việc ra được bản án hoặc quyết định của Toà án phù hợp với thực tế khách quan, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước cũng như của người khởi kiện, hoạt động thụ lý vụ án hành chính chiếm vai trò quan trọng, làm cơ sở pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hành chính. Mặt khác, thụ lý vụ án hành chính còn góp phần giảm bớt những mâu thuẫn, tranh chấp kéo dài trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin cho các cơ quan pháp luật nói chung và Toà án nói riêng. Điểm quan trọng nhất của thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án sau khi nhận được đơn kiện trong thời gian nhất định phải ra được một trong các quyết định: Quyết định thụ lý vụ án hoặc quyết định trả lại đơn kiện cho người khởi kiện khi có những căn cứ nhất định. Khi đã thừa nhận khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hành chính thì giai đoạn này bao giờ cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này được tính từ khi Toà án nhận được đơn kiện của người khởi kiện và thời điểm kết thúc được tính từ khi Toà án có một trong các quyết định kể trên. Tuy nhiên, còn có những Toà án chưa nhận thức hết vị trí, tầm quan trọng của thụ lý vụ án hành chính dẫn đến tình trạng thụ lý chậm, kéo dài, nhiều trường hợp nhận đơn khởi kiện  một vài tháng mới xem xét để thụ lý. Việc thụ lý chậm, kéo dài đã vi phạm các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức dễ dẫn đến bức xúc mà vi phạm hình sự. Thẩm quyền thụ lí vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai : Thẩm quyền chung Tòa án chỉ thụ lý các khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong các lĩnh vực sau đây: 1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; 2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; 3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; 4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; 6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 7. Thống kê, kiểm kê đất đai; 8. Quản lý tài chính về đất đai; 9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; 10. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; 11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; 12. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai; 13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công khai về đất đai Thẩm quyền theo cấp tòa án: Đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với các Quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đối với Tòa án cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với các Quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai của UBND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và của UBND xã, phường, thị trấn Thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết, vừa có đơn khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải quyết (hoặc Tòa án hoặc cơ quan quản lý về đất đai cấp trên); trường hợp người khởi kiện không làm được văn bản lựa chọn thì Tòa án phải lập biên bản về việc người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết. 2. Trường hợp QĐHC, HVHC chỉ liên quan đến một người: + Lựa chọn Tòa án giải quyết: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp trên giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án (nếu có) + Lựa chọn người có thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp trên giải quyết: Tòa án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 của BLTTHC trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo. Nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý và có đơn khởi kiện vụ án hành chính thì Tòa án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung. 3. Trường hợp QĐHC, HVHC có liên quan đến nhiều người + Chỉ có một người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền thuộc cơ quan hành chính cấp trên giải quyết khiếu nại, những người khác còn lại không khởi kiện, không khiếu nại thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trong trường hợp hai. + Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trong trường hợp 2. + Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết đơn khiếu nại, trong đó có một hoặc một số người lựa chọn Tòa án giải quyết và một hoặc một số người lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết phân biệt như sau: - Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với nhau thì người khiếu nại ở cơ quan nào thì cơ quan đó giải quyết (TA thông báo với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại). - Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện không độc lập với nhau thì TA giải quyết và thông báo...và yêu cầu chuyển hồ sơ giải quyết khiếu nại. Điều kiện thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai : Giống như đã nói ở trên, thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là một mảng trong thụ lý vụ án hành chính, do đó nó có đầy đủ các điều kiện thụ lý vụ án hành chính thông thường. Tòa án quyết định thụ lý VAHC khi có đủ các điều kiện sau (bao gồm cả việc bảo đảm điều kiện khởi kiện khởi tố VAHC): - Chủ thể khởi kiện VAHC phải có năng lực hành vi tố tụng hành chính. Căn cứ theo Điều 48 Luật TTHC năm 2010. 1. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 2. Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính. 3. Trường hợp đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. 4. Trường hợp đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. 5. Trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. - Việc thực hiện khởi kiện, khởi tố được thực hiện theo đúng hình thức, nội dung do pháp luật quy định. Tuy các yêu cầu về kết cấu nội dung và hình thức thể hiện của việc khởi kiện, khởi tố VAHC không phải là điều kiện quyết định đối với vệc phát sinh quyền khởi kiện hay khởi tố VAHC, nhưng các yêu cầu này lại có ý nghĩa thực tiễn pháp lí quan trọng trong việc khởi kiện, khởi tố và thụ lý giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả đúng pháp luật. Việc khởi kiện khởi tố VAHC vi phạm các yêu cầu về hình thức, nội dung vừa là hành vi trái pháp luật vừa là việc làm thiếu trách nhiệm của chủ thể khởi kiện, khởi tố VAHC trong việc biểu đạt chính thức và đầy đủ yêu cầu của mình trước Tòa án. Từ đây Tòa án không có đủ thông tin thực tiễn và căn cứ pháp lí để thụ lý giải quyết vụ án, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Căn cứ theo khoản 1 Điều 105 Luật TTHC năm 2010. 1. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính; c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện; d) Nội dung quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, nội dung giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri hoặc tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính; đ) Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có); e) Các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết; g) Cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. 2. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Do đó các yêu cầu về kết cấu nội dung, hình thức thể hiện của việc khởi kiện, khởi tố VAHC là căn cứ thụ lý VAHC không thể bỏ qua. Tuy nhiên việc vi phạm trên là do không hiểu biết pháp luật hoặc thiếu thận trọng và có thể khắc phục được. Chính vì thế, Tòa án không nên tùy tiện từ chối thụ lý VAHC mà cần hướng dẫn chủ thể khởi kiện, khởi tố thực hiện đúng các yêu cầu này để đảm bảo quyền khởi kiện khởi tố của các cơ quan tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật. - Vụ việc khởi kiện khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hay Tòa án khác theo sự phân định thẩm quyền do pháp luật quy định tại Điều 29, Điều 30 Luật TTHC năm 2010. Không thuộc thẩm quyền giải quyết của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hay tòa án khác không phải là điều kiện khởi kiện khởi tố VAHC nhưng lại là căn cứ thụ lý VAHC cần thiết để hạn chế tình trạng tại một thời điểm có nhiều cơ quan giải quyết cùng một vụ việc. Trong quá trình giải quyết VAHC theo thủ tục sơ thẩm nếu Tòa án phát hiện đây không phải là VAHC mà là vụ án khác (dân sự, kinh tế, lao động) và việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó, đồng thời thông báo cho các đương sự và VKSND cùng cấp biết. + Trường hợp trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì Thẩm phán được phân công giải quyết VAHC cần căn cứ vào khoản 1 Điều 32 của Luật TTHC xóa sổ thụ lý, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền , đồng thời thông báo cho các đương sự và VKSND cùng cấp biết. + Trường hợp sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì Tòa án phải mở phiên tòa và tại phiên tòa Hội đồng xét xử vận dụng khoản 3 Điều 139 của Luật TTHC ra quyết định đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Việc khởi kiện, khởi tố VAHC không thuộc trường hợp Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 109 Luật TTHC năm 2010. 1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây: a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; b) Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính; c) Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng; d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính; đ) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; e) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; g) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này; h) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 105 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 108 của Luật này; i) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án, trừ trường hợp có lý do chính đáng. 2. Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện, Toà án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. - Cuối cùng, người khởi kiện đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm, trừ trường hợp được miễn theo quy định của pháp luật(Khoản 1 Điều 111 Luật TTHC, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 10/2009/PL-UBTVQH10 ngày 27/02/2009). Tuy không phải là căn cứ thụ lí chi phối những vấn đề thuộc nội dung vụ việc nhưng việc xác định trách nhiệm nộp tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm của người khởi kiện phải được thực hiện trước khi Tòa án thụ lí VAHC là cần thiết để đề cao trách nhiệm của chủ thể khởi kiện, hạn chế việc khởi kiện tràn lan hay lạm dụng quyền khởi kiện VAHC. Thủ tục thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai : Theo Điều 111 Luật TTHC thì thủ tục thụ lý vụ án hành chính cũng như thụ lý vụ án hành chình trong lĩnh vự đất đai theo trình tự thủ tục sau: Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, nếu Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện xét thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí; trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì thông báo cho người khởi kiện biết về việc thụ lý vụ án. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thông báo cho người khởi kiện biết việc thụ lý. Luật TTHC không quy định trong thời hạn bao lâu, kể từ ngày khởi kiện nộp tiền tạm ứng phí, người khời kiện phải xuất trình biên lại nộp tiền tạm ứng án phí để Tòa án thụ lý VAHC. Như vậy, có thể xảy ra trường hợp sau một khoảng thời gian dài, kể từ ngày nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện mới xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, dẫn đến việc thời gian xử lý vụ việc kéo dài, ảnh hưởng đến việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án. Những trường hợp trả lại đơn khởi kiện : Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng do Tòa án có thẩm quyền thực hiện, tại khoản 1 Điều 109 Luật TTHC đã quy định về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện, có nghĩa là Tòa án vẫn có thể từ chối giải quyết khiếu kiện của cá nhân, tổ chức nếu có căn cứ để từ chối. Bao gồm : “1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây: a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; b) Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính; c) Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng; d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính; đ) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; e) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; g) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này; h) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 105 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 108 của Luật này; i) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án, trừ trường hợp có lý do chính đáng.” - Người khởi kiện không có quyền khởi kiện: Cá nhân, tổ chức chỉ có thể khởi kiện vụ án hành chính khi họ có quyền khởi kiện. Nếu họ gửi đơn khởi kiện đến Tòa án mà thẩm phán được phân công xem xét, nhận thấy đơn khởi kiện thiếu tính căn cứ pháp lý(người khởi kiện không có quyền khởi kiện) thì sẽ ra quyết định trả lại đơn khởi kiện. Ví dụ: A khởi kiện về hành vi hành chính của công chức hải quan (kiểm tra hàng hóa của du khách du lịch là Việt kiều tên B không đúng quy trình kiểm tra), A khởi kiện về hành vi hành chính không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. - Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính. Luật TTHC có quy định năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bao gồm năng lực hành vi và năng lực chủ thể: + Năng lực hành vi: là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính. + Năng lực chủ thể: đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Nếu chủ thể không có đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính thì không có quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Do đó Luật TTHC có quy định thêm khoản 4 Điều 48 Luật TTHC: “Trường hợp đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật” - Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng Thời hiệu khởi kiện là một căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định có thụ lý vụ án hay không , nếu thời hiệu này đã hết mà người khởi kiện không có lý do chính đáng thì Tòa án không thể thụ lý Vụ án hành chính mà sẽ trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. -Không đủ điều kiện khởi kiện Vụ án hành chính Đây là trường hợp cá nhân, tổ chức khởi kiện đã không thực hiện thủ tục tố tụng quy định tại Điều 105 Luật TTHC mà đã khởi kiện vụ án hành chính hoặc trường hợp pháp luật yêu cầu người khởi kiện phải có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của cơ quan có thẩm quyền mà người khởi kiện lại chưa có quyết định đó. - Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật Điều này có nghĩa là người khởi kiện đã tiến hành khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền với cùng một quan hệ, cùng một vấn đề cùng một yêu cầu mà đã có bản án hoặc quyết định giải quyết vụ việc đó và bản án hay quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật thì người khởi kiện không thể khởi kiện lại Vụ án hành chính được nữa. Nếu họ gửi đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền thì Tòa án căn cứ vào điểm đ, Khoản 1, Điều 109 Luật TTHC để trả lại đơn khởi kiện. Còn trường hợp người khởi kiện muốn khởi kiện Vụ án hành chính khác với vấn đề khác hoặc với yêu cầu khác thì Tòa án có thẩm quyền sẽ xem xét để giải quyết theo quy định của pháp luật. Sự việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án Trường hợp này chia làm hai loại: Thứ nhất, sự việc không thuộc thẩm quyền theo thẩm quyền chung như khiếu kiện về quyết định kỷ luật buộc thôi học đối với sinh viên....Thứ hai là những sự việc không thuộc thẩm quyền theo cấp lãnh thổ, tức là sự việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện mà người khởi kiện lại gửi đơn khởi kiện đến Tòa án cấp tỉnh và ngược lại. Khi gặp một trong hai trường hợp trên thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện tránh tình trang thụ lý sai. Trường hợp đã thụ lý Vụ án hành chính sau đó mới phát hiện sai sót thì Tòa án sẽ đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện( điểm đ khoản 1 Điều 120, Luật TTHC 2010). Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 109 Luật TTHC 2010 thì khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện, Toà án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp Cùng với việc trả lại đơn khởi kiện, Tòa án cũng trả lại toàn bộ những tài liệu, chừng cứ (nếu có) mà người khởi kiện đã gửi kèm theo (khoản 2 Điều 109 Luật TTHC). Luật TTHC cũng quy định: “ Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Toà án thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp là quyết định giải quyết cuối cùng” Điều kiện về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí Như đã phân tích ở mục 1.2.3. Điều kiện thụ lý vụ án hành chính Việc khởi kiện vụ án hành chính phải thỏa mãn các điều kiện trên thì mới được Tòa án thụ lý. Các điều kiện này giúp Tòa án xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của việc khởi kiện để quyết định có thụ lý vụ án hay không. Chương 2. Thực trạng và một số kiến nghị và thụ lý vụ án hành chính trong vấn đề đất đai. Thực trạng về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai Hoạt động quản lý nhà trong lĩnh vực đất đai luôn là “điểm nóng” của mọi hành vi khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức. Việc người dân khiếu nại kéo dài, vượt cấp đều xuất phát từ một nguyên nhân chính đó là: Việc giải quyết các tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân; giữa cơ quan Hành chính nhà nước với công dân, tổ chức khi thực hiện các chính sách thu hồi, đền bù, giải tỏa, tái định cư, bồi thường không thỏa đáng, thu thuế về đất đai,… không được các cơ quan Hành chính Nhà nước giải quyết kịp thời, thỏa đáng, nhiều trường hợp còn xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Bên cạnh đó là thái độ làm việc quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa dời dân chúng, gây bất bình trong quần chúng nhân dân của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay các cá nhân có thẩm quyền. Chính những điều này càng làm cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai càng gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Sở dĩ lĩnh vực quản lý đất đai tạo ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện là do xuất phát từ nguồn gốc sâu xa tại chính sách đất đai của nước ta trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn khác nhau đi kèm với nó chính là các quy định, hướng dẫn, đường lối giải quyết khác nhau, sự không thống nhất về đường lối giải quyết khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai đã đưa đến hệ quả là các vụ án hành chính trong lĩnh vực này luôn phức tạp, mất rất nhiều thời gian, công sức và hoạt động xử án hành chính trong lĩnh vực Hành chính chủ yếu là về lĩnh vực đất đai. Khi các tranh chấp đất đai không còn có thể xử lý, không còn thuộc thẩn quyền giải quyết của các cơ quan xét xử hành chính nữa thì các vụ án hành chính này người dân cũng không biết phải trông cậy vào ai? Dần dần, dân chúng mất niềm tin vào các cơ quan xét xử và tình trạng tồn đọng án cứ kéo dài mãi. Báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân với các quyết định hành chính về đất đai tại Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 18/9/2012 cho thấy thực trạng nhiều bất cập trong khiếu kiện hành chính về vấn đề đất đai ở nước ta hiện nay. Theo số liệu tổng hợp của Thanh tra Chính phủ, năm 2003 - 2010, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận và xử lý trên 1,2 triệu đơn thư khiếu nại, tố cáo trong đó số liên quan đến đất đai chiếm gần 70%. Số vụ khiếu nại đúng chiếm xấp xỉ 20%, có đúng có sai chiếm 28%, số vụ tố cáo đúng chiếm 16,2%, có đúng có sai chiếm 29,6%. Trong quản lý đất đai, nội dung khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính chủ yếu tập trung ở 3 nội dung, gồm khiếu nại các quyết định hành chính về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chiếm 70%; khiếu nại các quyết định hành chính về giao đất, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất chiếm 20%; khiếu nại các quyết định hành chính về cấp, thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 10%. Năm 2005 - tháng 6/2009, cả nước có hơn 3.800 đoàn khiếu nại, tố cáo đông người. Năm 2010 có trên 3.200 đoàn, năm 2011 có gần 4.200 đoàn. Trên 70% số vụ là khiếu nại, còn lại là tố cáo hoặc vừa khiếu nại, vừa tố cáo. Cũng theo báo cáo, từ năm 2004 đến năm 2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm 3.994 vụ, giải quyết 2.857 vụ chiếm 71,5%, trong đó: đình chỉ việc giải quyết vụ án: 1.130 vụ chiếm 39,6% các vụ giải quyết; đưa ra xét xử 1.727 vụ chiếm 60,4% các vụ giải quyết, với kết quả xét xử: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện 1.389 vụ chiếm  80,5% các vụ đưa ra xét xử, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện: 149 vụ chiếm 8,6% các vụ các vụ đưa ra xét xử, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện: 189 vụ chiếm 10,9% các vụ đưa ra xét xử. Cũng qua thống kê, tỷ lệ khởi kiện đúng và đúng một phần tại Tòa án nhân dân các cấp khoảng 19,5% các vụ được đưa ra xét xử. Như vậy, có thể thấy việc khiếu nại, tố cáo của công dân là có cơ sở, việc ra quyết định hành chính về đất đai của các cấp chính quyền còn nhiều sai sót. Năm 2012, báo cáo tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII về công tác của ngành, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cũng cho biết lượng án hành chính năm qua tăng đến 106%. Trong số các vụ kiện hành chính, chiếm một lượng không nhỏ là kiện các quyết định hành chính của chính quyền liên quan đến đất đai. Đây là lĩnh vực được coi là nóng bỏng nhất, nhiều khiếu kiện nhất. Và thực tế không chỉ công tác xử án hành chính mà qua giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực này cũng chứng minh, chính quyền cơ sở có nhiều lỗi trong việc ban hành quyết định hành chính, nhưng lỗi đó không được khắc phục kịp thời, vì thế cùng bất đắc dĩ người dân phải kiện ra tòa hành chính. Tuy nhiên, số vụ khởi kiện ra Tòa so với lượng đơn thư khiếu nại vẫn là khoảng cách khá xa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó không thể không kể đến là các quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, ngoài ra việc người dân còn thiếu kiến thức pháp lý cần thiết trong vấn đề giải quyết các khiếu nại, tố cáo, khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến vấn đề đất đai. 2.1.1. Thực trạng về quy định của pháp luật. Mặc dù Luật TTHC mới đã khắc phục nhiều bất cập trong cơ chế khởi kiện, tuy nhiên theo Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hà, Chánh án TAND tỉnh Nghệ An (2012) thì “ Luật TTHC mới có nhiều điểm vênh so với Luật Đất đai hiện hành”. Một trong những điểm vênh đó theo nhiều chuyên gia là việc trong khi cơ quan hành pháp cho rằng công dân có quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính giải quyết khiếu nại lần hai, thì cơ quan tư pháp lại không công nhận và không thụ lý đơn khởi kiện. Việc này gây khó khăn cho nhân dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại quyết định hành chính lần hai.   Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai vừa quy định về nội dung quản lý đất đai, vừa quy định về khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính dẫn đến chồng chéo với quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính về trình tự, thủ tục khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính.  Cụ thể, Điều 138 Luật đất đai quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, thời hiệu khiếu nại, thời hiệu khởi kiện và quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nhưng các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai lại quy định chỉ có 4 nhóm quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại thì giải quyết theo quy định tại Điều 138 Luật đất đai, còn các khiếu nại khác về quản lý đất đai thì giải quyết theo Luật khiếu nại, tố cáo. Nay Luật Khiếu nại và Luật tố cáo đã có hiệu lực nhưng quy định của pháp luật đất đai thì “vẫn còn nguyên”. chưa có hướng dẫn cụ thể về người có quyền khởi kiện. (Cơ sở pháp lý Điều 5 – Luật Tố tụng hành chính còn rất chung chung, mang tính chất mơ hồ.) pháp luật Hành chính hiện hành không có quyết định về ủy quyền khởi kiện – Đây là một thiếu sót lớn của Luật hành chính so với các bộ luật khác,ví dụ như: Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định rất chi tiết về quyền này tại Điều 161 2.1.2 Thực tiễn áp dụng việc khởi kiện và thụ lý trong xã hội. Theo quy định của pháp luật thì công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính đến cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính có quyết định, hành vi hành chính nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của mình. Người có quyết định hành chính bị khiếu nại là người giải quyết khiếu nại lần đầu. Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản và gửi quyết định này cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan... Cơ chế giải quyết khiếu nại như vậy là chưa phù hợp, bởi việc giao cho người ra quyết định hành chính bị khiếu nại giải quyết khiếu nại đối với quyết định đó là chưa đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết; làm người dân thiếu tin tưởng nên sau khi giải quyết vẫn tiếp tục khiếu nại lên cấp trên. Hơn nữa, pháp luật cũng quy định người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Với thủ tục này, việc giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kéo dài và trong thực tiễn là không cần thiết và nhiều trường hợp cũng không thực hiện được. Đối với trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai, pháp luật hiện hành quy định nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của người giải quyết khiếu nại lần đầu thì có quyền khiếu nại lên Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên của người đó. Pháp luật không quy định bắt buộc người giải quyết khiếu nại phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại nên nhiều quyết định giải quyết khiếu nại chưa thấu tình, đạt lý, thậm chí có biểu hiện thiên vị, bao che, dung túng cho cấp dưới khi có sai phạm.  Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước chưa đảm bảo tính khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch; chưa tạo ra cơ chế tranh luận bình đẳng trong quá trình giải quyết. Trong thực tế, cơ quan hành chính thụ lý, thẩm tra, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết một cách đơn phương, người khiếu nại hầu như ít có điều kiện tiếp cận các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc; vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính chưa được thể hiện đầy đủ. Các quy định hiện hành cũng chưa phân biệt rõ thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu với lần hai, giữa khiếu nại đòi huỷ bỏ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính với thủ tục giải quyết khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại. Một số quy định về thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại cũng chưa phù hợp với thực tiễn... Đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng nhiều vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền, song người dân vẫn không tin vào tính khách quan, công bằng của cơ quan hành chính đã giải quyết mà vẫn tái khiếu, tiếp khiếu vượt cấp lên trên.  Pháp luật hiện hành chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan hành chính, của Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, chưa quy định rõ các biện pháp chế tài xử lý đối với cơ quan hành chính, thủ trưởng cơ quan hành chính, cán bộ, công chức nhà nước để chậm trễ hoặc không giải quyết khiếu nại của người dân. Do vậy, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước ở một số địa phương chưa thực sự quan tâm tới việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại hành chính, còn thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo tiếp nhận và giải quyết khiếu nại kịp thời cho người dân nhưng không bị xử lý. Việc bảo đảm thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại hành chính đã có hiệu lực pháp luật gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì trách nhiệm thi hành các quyết định này chủ yếu thuộc về các cơ quan hành chính nhà nước, pháp luật lại chưa quy định cụ thể trách nhiệm, các biện pháp chế tài đối các cơ quan không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền. Do đó, hiệu quả việc thi hành các quyết định hành chính phụ thuộc vào sự tự giác của các cơ quan hành chính. Các biện pháp cưỡng chế hành chính không thể áp dụng được trong trường hợp các cơ quan này không chịu chấp hành. Thậm chí, nhiều vụ việc khiếu nại đã có chỉ đạo của Thủ tướng, nhưng các cấp chính quyền vẫn chưa thực hiện nghiêm.  Việc thụ lý, giải quyết khiếu kiện hành chính của Toà án được thực hiện theo những quy định chặt chẽ, trình tự, thủ tục phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài... nên người dân có tâm lý ngại ra toà. Hơn nữa, nhiều vụ việc khiếu kiện nhưng không đủ các điều kiện về giấy tờ, nên không được Toà án thụ lý giải quyết Lực lượng thẩm phán bố trí cho Toà hành chính còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn việc giải quyết số lượng lớn các vụ án hành chính. hiểu biết về pháp luật của người dân một lần nữa mang tính quyết định, khi mà với họ việc thụ lý giải quyết hành chính về đất đai còn nhiều tâm lý lo ngại, sợ việc kiện tụng, sợ các quyết định không đúng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên đối với họ, phải “cùng đường” họ mới nhờ đến việc giải quyết của Tòa án còn không họ sẽ tự thỏa thuận giải quyết với nhau dù các thỏa thuận này nhiều khi sai trái với pháp luật. Mặt khác, quan hệ tranh tụng hành chính có đặc thù là tranh tụng giữa người dân với chính quyền nên cơ quan Tòa án (nhất là tòa án cấp huyện) thường ngại thụ lý, giải quyết và khi thụ lý, giải quyết thì thường bị tác động của các cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính đang bị khởi kiện. Người khởi kiện đa phần được xem là những người dân yếu thế, "thấp cổ bé họng". Trong khi đối tượng bị kiện là người nắm giữ quyền lực công, là một cơ quan nhà nước hoặc đại diện cho cơ quan nhà nước có uy thế, vị thế và có tầm ảnh hưởng nhất định  trong mắt mọi người, kể cả… quan tòa. Xét về mặt chủ quan, hiện vẫn tồn tại tình trạng Thẩm phán nể nang, ngại va chạm với chính quyền, tâm lý lo sợ không được tái bổ nhiệm khiến nhiều Tòa án, Thẩm phán “ngại” ngay từ khâu thụ lý vụ án hành chính, hoặc buộc phải thụ lý thì “kiểu gì cũng phải xử bác đơn” để được “an toàn”. Dường như với cơ chế như hiện nay, bổ nhiệm thẩm phán có một quy trình bắt buộc là phải xin ý kiến cấp ủy, mà cấp ủy thì bao giờ cũng có ông phó bí thư là Chủ tịch UBND- người có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện - không ít thẩm phán “khó xử” là vì lẽ đó. 2.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp pháp luật trong việc khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính trong vấn đề đất đai. Từ thực tế giải quyết khiếu nại hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước và của Toà hành chính trên đây cho thấy, chúng ta cần phải có giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, khắc phục các hạn chế, vướng mắc trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay, đồng thời kiện toàn về tổ chức và hoạt động, mở rộng phạm vi xét xử của Toà hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền khởi kiện hành chính, qua đó nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại hành chính trong thời gian tới. Trên cơ sở thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại hành chính, những hạn chế bất cập về cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính hiện nay, chúng tôi đề xuất việc hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng: chấn chỉnh và nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết các khiếu nại hành chính, nhất là trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu nại; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện theo hướng khách quan, công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm sự tham gia của luật sư và để người khiếu nại, người bị khiếu nại và những người có liên quan được đối thoại, tranh luận trong quá trình giải quyết khiếu nại. Hoàn thiện cơ chế và các bảo đảm cho việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật... Cụ thể như sau:  a/ Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính  Cần phải hoàn thiện thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng phân định rành mạch trách nhiệm, thẩm quyền của người ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính và thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên trong việc giải quyết khiếu nại hành chính. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, Thanh tra Chính phủ đã thấy rằng, cần đổi mới thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng sau: công dân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan đó xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính do họ ban hành nếu cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của mình. Việc xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính không phải là một cấp giải quyết khiếu nại mà là giai đoạn tự xem xét lại quyết định hành chính theo thủ tục hành chính thông thường. Nếu công dân không đồng ý với việc xem xét của cơ quan hành chính hoặc quá một thời hạn nhất định mà cơ quan hành chính không xem xét lại quyết định của mình, thì công dân có quyền khiếu nại lên thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên.  Cơ chế giải quyết này sẽ khắc phục được tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi còi trong giải quyết khiếu nại hành chính (người ra quyết định hành chính không phải là người giải quyết khiếu nại hành chính), đảm bảo được tính nhanh, gọn trong việc giải quyết khiếu nại (việc xem xét lại quyết định hành chính được thực hiện theo thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết khiếu nại), nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan hành chính khi ban hành các quyết định hành chính và bảm đảm quyền được tự sửa chữa các quyết định, hành vi hành chính sai sót của cơ quan hành chính nhà nước.  Việc giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên được thực hiện theo một trình tự, thủ tục đảm bảo việc giải quyết khiếu nại được khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch và có sự đối thoại, tranh luận giữa các bên có sự tham gia của luật sư và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình giải quyết. Trường hợp cần thiết, thủ trưởng cơ quan hành chính thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết những vụ việc khiếu nại phức tạp. Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì công dân tiếp tục khởi kiện vụ án tại Toà án. Cơ chế này cũng giúp tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính, tạo sự đồng thuận trong quá trình giải quyết khiếu nại và thuận lợi cho việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại khiếu nại. b/ Thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính  Ngoài việc đổi mới về thẩm quyền giải quyết, để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại hành chính cần phải đổi mới thủ tục giải quyết nhằm đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch, dân chủ trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính; đổi mới, hoàn thiện thủ tục khiếu nại, giải quyết khiếu nại tạo thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại. Cụ thể là:  - Đơn giản hoá thủ tục khiếu nại, mở rộng các hình thức khiếu nại để tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại;  - Quy định bắt buộc đối thoại trong quá trình giải quyết khiếu nại thông qua việc xác định rõ những người tham gia đối thoại (người khiếu nại, người bị khiếu nại, luật sư, người đại diện...); trình tự, thủ tục đối thoại.  - Mở rộng vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính thông qua việc ghi nhận luật sư có quyền đại diện cho người khiếu nại, người bị khiếu nại. Trong trường hợp không có luật sư đại diện thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm mời đại diện của một hoặc một số tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp như: Hội Luật gia, Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... tham gia giải quyết để bảo vệ quyền lợi của người khiếu nại.  Xác định rõ nghĩa vụ chứng minh thuộc về các bên, đặc biệt là người bị khiếu nại. Trong đó, các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh nội dung vụ việc; trường hợp cần thiết cơ quan có thẩm quyền giải quyết có quyền thu thập thông tin, tài liệu có liên quan để giải quyết khiếu nại.  Đối với những vụ việc phức tạp, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết khiếu nại. Hội đồng tư vấn có trách nhiệm nghiên cứu vụ việc và tham mưu giải quyết nội dung khiếu nại. Thành phần Hội đồng do người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định.  Việc hoàn thiện thủ tục giải quyết khiếu nại theo hướng trên sẽ khắc phục được các hạn chế, bất cập đang đặt ra trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay; bảo đảm sự tham gia của luật sư để bảo vệ quyền lợi của người khiếu nại; xác định rõ hơn địa vị pháp lý của người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại; đồng thời phát huy được vai trò của các tổ chức xã hội trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính.  c/ Bảo đảm thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật  Để các quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh thì cần phải có cơ chế bảo đảm thi hành các quyết định này trên thực tế. Việc xác định rõ cơ chế bảo đảm thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại sẽ góp phần khắc phục tình trạng nhiều quyết định giải quyết khiếu nại đúng quy định của pháp luật, hợp lý, hợp tình, song quá trình thực hiện bị kéo dài hoặc không thực hiện được. Vì vậy, thời gian tới cần xác định rõ cơ chế này theo hướng:  - Quy định trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;  - Quy định rõ nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;  - Quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;  Quy định cơ quan thanh tra giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật;  - Quy định các biện pháp bảo đảm việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, trong đó tập trung quy định việc công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, quy định chế tài đối với hành vi không thực hiện hoặc gây cản trở việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật...  - Nghiên cứu giao cơ quan thi hành án dân sự nhiệm vụ thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại hành chính có hiệu lực pháp luật.  d/ Hoàn thiện tổ chức và hoạt động, mở rộng phạm vi xét xử của Toà hành chính thuộc Toà án nhân dân  Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính, một mặt phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, mặt khác phải củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Toà hành chính, mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các vụ việc khiếu nại hành chính. Trước hết cần phải mở rộng thẩm quyền các Toà hành chính trong việc giải quyết các vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai nhằm từng bước mở rộng thẩm quyền để tiến tới Toà án có khả năng đảm nhận việc xét xử tất cả các khiếu kiện hành chính, bảo đảm nguyên tắc mọi khiếu nại của công dân đều được xem xét, giải quyết tại Toà án. Đồng thời, đổi mới thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính theo hướng đơn giản, nhanh gọn, công khai, minh bạch, khách quan, dân chủ, tạo thuận lợi cho người dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện của mình. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxkhoi_kien_vu_an_hanh_chinh_trong_linh_vuc_dat_dai_2298.docx