Đề tài Kiểm soát lạm phát ở việt Nam: Thực trạng và giái pháp

Chương 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách kinh tế. Nói đến lạm phát là một vấn đề cũ thì không có gì sai cả,bởi vì từ xưa đến nay, có rất nhiều nhà kinh tế đã gián tiếp hay trực tiếp đề cập đến nó, trong đó có những nhà trí tuệ vĩ đại như Các Mác. Fisher, Friedman . Song lạm phát lúc nào cũng là vấn đề mới cả, nó nóng bỏng đến từng ngày, từng giờ,nó thay đổi liên tục, có khi tạm ổn định, có khi giảm xuống, lại có khi lên cơn sốt một cách đột ngột. Cho nên bàn về lạm phát trong giai đoạn hiện nay tưởng chừng như quá muộn nhưng lại chưa trễ tí nào bởi vì trong mọi thời kì, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thì lạm phát lại có những sắc thái riêng, những biến động mang hương vị đặc trưng của mình và rồi để lại những âm hưởng khá lâu dài trong nền kinh tế. Một vấn đề mà chúng ta ai cũng nhận ra rằng, chẳng riêng gì các siêu cường kinh tế như Mỹ, Nhật, . mà với mọi quốc gia trên thế giới, lạm phát như là bóng ma cứ luôn ám ảnh làm chao đảo cho nền kinh tế và nỗi kinh hoàng cho mọi người. Ở Việt Nam cũng vậy, người dân vừa hứng chịu những hậu quả nặng nề của các đợt lạm phát vừa qua, tuy đã dịu đi một chút, nhưng vẫn để lại những dấu ấn trong lòng mỗi người một nỗi lo sợ rằng lạm phát sẽ bùng lên giống như những vết thương vừa khép miệng trong khi vẫn còn đang nhức nhối. Song vấn đề đặt ra là nếu lạm phát thấp thì tăng trưởng chậm, còn lạm phát cao thì chứa đựng các mầm mống có khả năng đe dọa đến tiến trình phát triển bền vững của nền kinh tế, chính vì vậy, cái khó mà mọi quốc gia hiện nay đang phải đối mặt là duy trì mức lạm phát như thế nào là hợp lý nhất ? Trong khi đó, để tránh khỏi tình trạng tụt hậu, Việt Nam phải duy trì tỷ lệ tăng trưởng xấp xỉ 10% trong vòng 20 năm tới. Mục tiêu tăng trưởng và vấn đề kiềm chế lạm phát luôn là một bài toán khó mà các cấp lãnh đạo và toàn thể nhân dân Việt Nam đang phải thật cố gắng để tìm lời giải cho nó? Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt thì để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên “thương trường”, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề kinh tế mới. Và một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan, là vấn đề của mọi thời đại, mọi nền kinh tế thị trường.Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế thị trường thì còn lạm phát. Người ta chỉ có thể kiềm chế lạm phát ở một mức độ sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế mà ít gây ảnh hưởng, tác hại. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế cũng như xã hội là rất lớn. Mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi tranh luận đặt ra: bản chất của lạm phát là gì? Các hình thức biểu hiện của nó ra sao? Nó có tác động nghiêm trọng như thế nào đối với nền kinh tế? Thực trạng của vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay đang diễn biến như thế nào? Chúng ta phải làm gì để điều tiết nền kinh tế và kiềm chế lạm phát? Hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát ra sao? Xuất phát từ yêu cầu thực tế cần thiết và cấp bách đó, cho thấy đề tài “Kiểm soát lạm phát ở việt Nam:Thực trạng & giái pháp 2011 901/01/2011-31/05/2011)” là cần thiết. Với tầm quan trọng và mang tính thời sự nóng bỏng của vấn đề, em tin rằng đề tài sẽ có giá trị thực tiễn rất cao. 2. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng lạm phát của Việt Nam trong các giai đoạn vừa qua, trên cơ sở đó đánh giá các biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ, cuối cùng là nhận định và đưa ra ý kiến của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Xuất phát từ lý do trên, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về các vấn đề sau: Thứ nhất, tìm hiểu một số lý luận chung về lạm phát như khái niệm, nguyên nhân, phân loại, các tác động và các mối quan hệ của lạm phát . Thứ hai, khái quát lại thực trạng của lạm phát của Việt Nam năm 2011 (01/01/2011-31/05/2011) Thứ ba, trên cơ sở diễn biến tình hình lạm phát đưa ra nguyên nhân ở từng giai đoạn, các giải pháp kiềm chế, đồng thời, xem xét hiệu quả của chính sách kiềm chế tác động đến nền kinh tế như thế nào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng lạm phát và hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 01/01/2011-31/05/2011. 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Thu thập số liệu Tham khảo các tài liệu, đề tài nghiên cứu trước đó,các luận văn của các Thạc sỹ kinh tế, từ sách báo, đặc biệt là từ Internet về cơ sở lý luận của lạm phát và thực trạng lạm phát và hiệu quả của chính sách kiểm soát lạm phát tại Việt Nam giai đoạn giai đoạn 01/01/2011-31/05/2011. 4.2. Phân tích số liệu Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh và đánh giá về những vấn đề chung của lạm phát: Phương pháp tổng hợp: sau khi thu thập những thông tin có liên quan đến lạm phát là giai đoạn tổng hợp lại những thông tin cần thiết để tiến hành phân tích. Phương pháp phân tích: từ những số liệu đã tổng hợp được bắt đầu phân tích những số liệu đó xem ý nghĩa của những số liệu đó như thế nào. Phương pháp so sánh: sử dụng biểu đồ để so sánh các số liệu thu thập được Phương pháp đánh giá: sau khi phân tích và so sánh, tiến hành đánh giá xem mức độ lạm phát ở mỗi giai đoạn có tác động như thế nào đến nền kinh tế 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Từ việc nghiên cứu các giai đoạn lạm phát trong lịch sử đến hiện nay để có cái nhìn tổng quát hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó đánh giá hiệu quả của các chính sách mà chính phủ đã đưa ra để từ đó đưa ra những đề xuất để có thể đối phó với tình hình phức tạp mà hiện nay lạm phát gây ra.

doc39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3361 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm soát lạm phát ở việt Nam: Thực trạng và giái pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
D (chiếm 80% kim ngạch tăng thêm). Vậy đã đến lúc VN cần tính toán lại cơ cấu hàng hóa XK. Thực tế đây là câu hỏi cũ, nhưng lại trở nên rất nóng vào thời điểm này. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, những mặt hàng chiến lược hiện nay của VN như dầu thô, than đá, các loại tài nguyên, khoáng sản và nguyên liệu thô cần phải được hạn chế XK. Bởi nếu không thì chỉ trong 2 - 3 năm tới, VN đã phải NK trở lại than đá. Khi đó, VN sẽ phải trả nhiều tiền hơn để NK một lượng than ít hơn số đã bán đi. Tương tự theo dự tính thì cũng chỉ tương lai gần, VN cũng phải NK dầu thô để phục vụ các nhà máy lọc dầu, NK quặng để luyện thép... mà đi kèm với việc NK này là “nguy cơ kép” về giá cao và lượng thấp. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, 5 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt xấp xỉ 343.600 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu là con số dự báo của 6 tháng, khoảng 419.000 tỷ đồng, cũng tăng 14,2% so với cùng kỳ, thì cũng rất đáng khích lệ.Tuy nhiên, liên quan đến sản xuất công nghiệp, Thứ trưởng Cao Viết Sinh, trong rất nhiều phiên họp giao ban sản xuất - kinh doanh hàng tháng, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, đã luôn phải đặt câu hỏi về độ doãng ngày càng lớn giữa giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm. Câu hỏi này lại một lần nữa được đặt ra, nếu nhìn vào số liệu sản xuất công nghiệp 5 tháng và dự báo 6 tháng đầu năm.Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng khoảng 14,2% so với cùng kỳ năm 2010, thì GDP của cả khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ tăng 6,6%. Chi phí đầu vào tăng cao là một trong những lý do khiến hiệu quả sản xuất - kinh doanh không cao.Song đáng ngại hơn, theo các chuyên gia kinh tế, đó là dấu hiệu tồn kho cao đã bắt đầu xuất hiện. Theo thống kê của Vụ Thống kê công nghiệp (Tổng cục Thống kê), chỉ số tồn kho tại thời điểm ngày 1/5/2011 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo so với cùng kỳ năm trước tăng 14,6%. Trong đó, có những ngành có chỉ số tồn kho cao, như sản xuất bia và mạch nha (tăng 98,3%); sản xuất cáp điện và dây điện có bọc cách điện (tăng 75,9%); sản xuất đồ uống không cồn (tăng 49,5%); sản xuất giường, tủ, bàn ghế (tăng 45,6%)…Mặc dù, theo quan điểm của Thứ trưởng Cao Viết Sinh, quan trọng là phải xem tồn kho ở mặt hàng nào, song rõ ràng, tồn kho tăng cao là dấu hiệu cần tính đến. Bởi lẽ, tồn kho cao cũng phần nào cho thấy tốc độ tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa đang tăng chậm lại.Nếu liên hệ chỉ số tồn kho cao, với tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 5 tháng qua, càng có thể cho thấy điều này. Mặc dù, theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, xét cả về giá trị tuyệt đối và tốc độ tăng tương đối, thì chỉ số này đều có mức tăng cao (5 tháng đầu năm 2011, ước đạt trên 762,7 nghìn tỷ đồng, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2010), song nếu trừ đi yếu tố giá cả, thì chỉ còn khoảng 7,5%.Sức mua yếu là dễ hiểu, bởi khi lạm phát tăng cao, túi tiền của người dân thâm thủng và chính sách thắt lưng buộc bụng được thực hiện. Trong một nghiên cứu gần đây về những tác động của lạm phát đến người dân, nhóm chuyên gia đã chỉ ra rằng, chi cho lương thực, thực phẩm thậm chí đã chiếm tới 56% thu nhập của người dân và khi mà túi tiền hạn hẹp, thì không còn cách nào khác, họ chỉ lựa chọn chi tiêu những mặt hàng thiết yếu nhất cho cuộc sống.Mức tăng thấp của tổng mức bán lẻ, thậm chí thấp hơn con số trên 11,5% của năm trước, theo bà Loan, sẽ khiến doanh nghiệp bán lẻ đối mặt với khó khăn. Nhưng khó khăn của doanh nghiệp bán lẻ chỉ là một chuyện, chuyện khác - đó là sức mua, chính là động lực cơ bản cho sản xuất và nếu động lực này yếu đi, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sản xuất chung của toàn nền kinh tế. Đó là chưa kể, việc lãi suất tăng cao, chi phí đầu vào ngất ngưởng vẫn đã và đang gây khó cho sản xuất - kinh doanh.Lãi suất tín dụng bằng VND của hệ thông ngân hàng còn tiếp tục giữ ở mức cao hiện nay ít nhất đến hết quý 3/2011. Lãi suất cao khiến các ngân hàng đứng trước nhiều sức ép, trong đó có sức ép cạnh tranh sức hấp dẫn nhằm duy trì ổn định nguồn vốn huy động và tìm khách hàng đủ tin cậy và đủ sức chịu lãi vay cao. Trong bối cảnh đó, có nhiều khả năng dòng vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục bị dồn tụ, tập trung thái quá vào một số khách hàng và lĩnh vực kinh doanh, nhất là cho vay phi sản xuất. Theo báo cáo của NHNN, tính đến hết năm 2010, nhiều ngân hàng chủ yếu vẫn cho vay phi sản xuất. Chẳng hạn như, Ngân hàng Phương Tây có dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất tới 52,2%; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội cũng có mức dư nợ cao 47%; Ngân hàng TMCP Đông Nam Á 21%, Ngân hàng TMCP Nam Việt 41%,... Tổng dư nợ cho vay phi sản xuất toàn ngành ngân hàng khoảng 431.000 tỉ đồng, chiếm 18,7% tổng dư nợ toàn ngành. Việc tập trung trứng vào một giỏ kiểu đó sẽ khiến rủi ro tín dụng gia tăng và chủ trương tập trung cho vay sản xuất, nhất là cho vay tái cơ cấu, phát triển  nông nghiệp, công nghiệp phụ trơ, cũng như cho vay  DN vừa và nhỏ sẽ chỉ là lời hiệu triệu tốt đẹp. Trong điều kiện lãi suất vay trên 20%, chắc chắn đa số các DN vừa và nhỏ phải đối diện với áp lực ngày càng căng thẳng về trả lãi và thanh toán các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động, lợi nhuận và bộ máy sản xuất.Hơn nữa, ngay các nhà đầu tư trên thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán cũng không mấy ai dám “chịu chơi” vay lãi suất cao để đầu tư dài hạn. Nói cách khác, lãi suất cao cũng khiến cho bức tranh toàn cảnh thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản những tháng cuối năm 2011 không mấy sáng sủa, và sẽ kích đẩy các hoạt  động chủ yếu có tính “tạo sóng”  và “lướt sóng” mà thôi. Thậm chí, có khả năng nhiều nhà đầu tư không chịu nổi mức lãi suất vay cao, buộc phải “xả hàng và tháo chạy” khỏi thị trường, khiến giá chứng khoán và một số sản phẩm trên phân khúc thị trường bất động sản cao cấp có thể hạ giá khá ấn tượng trong những quý tới. Đến nay, tổng dư nợ của hệ thống tín dụng VN đang bằng khoảng 1,2 lần GDP VN, so với một số nước chỉ khoảng 0,6-0,7 lần GDP (theo TS Trần Du Lịch, từ năm 2007 đến năm 2010, bình quân mỗi năm để tăng GDP 1 đồng, thì dư nợ tín dụng VN đến gần 5 đồng, cá biệt năm 2009 cần đến 7 đồng; trong khi đó bình quân của giai đoạn 2001 - 2005 chỉ cần khoảng hơn 3 đồng. Hơn nữa, hiệu quả của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991 – 2009. Cụ thể,  nếu như trong giai đoạn 1991 – 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 – 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này giảm xuống còn 6,2; nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của VN gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ bằng một nửa. Trong khi đó, về nguyên tắc, một nền kinh tế tăng trưởng dựa vào phát triển theo bề rộng và tăng nợ luôn chứa đựng những bất ổn, trong đó kể cả đối với DN, cũng như với nhà nước. Bất ổn thị trường có nguy cơ lớn nhất và tai hại nhất- như kinh nghiệm các cuộc khủng hoảng gần đây ở  khu vực và thế giới cho thấy- sẽ là bất ổn trên thị trường tài chính-tín dụng, nhất là khi nợ công  vượt ngưỡng an toàn, cơ cấu dư nợ tín dụng phi sản xuất và có tính đầu cơ tăng cao. Đồng thời còn nhiều tổ chức tín dụng chưa đạt chuẩn tối thiểu về lành mạnh tài chính, cũng như được quản trị tùy tiện và giám sát lỏng lẻo bất chấp các nguyên tắc phát triển bền vững. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước thực hiện 73.300 tỷ đồng, bằng 39% kế hoạch năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2010. Vốn Trung ương quản lý đạt 15.123 tỷ đồng, bằng 36,1% kế hoạch năm và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là 2.456 tỷ đồng, bằng 33,3%, tăng 4%.Các Bộ Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa, Thể thao và Du lịch vốn đầu tư thực hiện đều giảm, đạt trên dưới 32% kế hoạch năm.Phần vốn địa phương quản lý đạt 58.236 tỷ đồng, bằng 39,8% kế hoạch năm và tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là Thủ đô Hà Nội đạt 6.096 tỷ đồng, bằng 30,4% kế hoạch năm và tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước; Thành phố Hồ Chí Minh 4.581 tỷ đồng, bằng 32,5% và tăng 9,5%; Đà Nẵng 3393 tỷ đồng, bằng 59,2% và tăng 14,2%Như vậy, trong bối cảnh cắt giảm đầu tư công đang được thực hiện quyết liệt nhưng tổng vốn cho đầu tư phát triển từ ngân sách ở cả Trung ương và địa phương đều tăng so với cùng kỳ, điều này đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương cần thực hiện mạnh mẽ hơn nữa trong những tháng tới. Sự  bất ổn thị trường (bao hàm cả về quy mô, khả năng cân đối cung cầu và mức giá cả hợp lý...) còn liên quan đến không chỉ tính độc quyền cao, kéo dài của một số nhà cung ứng “con cưng”, hay những “chiêu” gây nhiễu và tạo sóng của giới đầu tư có tính đầu cơ; mà còn liên quan đến xu hướng gia tăng tự do hóa thị trường cho đầu tư tư nhân nước ngoài trong các  lĩnh vực mà VN đã cam kết, trong đó có hệ thống bán lẻ và thu mua, chế biến xuất khẩu. Xu hướng bất ổn sẽ còn tiếp diễn trên các thị trường hàng lương thực, thực phẩm. Vì vậy,  trong thời gian tới, cần coi trọng an ninh lương thực với tư cách là lĩnh vực thiết thân, nhạy cảm và sống còn của quốc gia. Trong 6 nhóm của nghị quyết 11, việc tăng giá xăng dầu và giá điện đã được thực hiện xong. Vì thế xét vì khía cạnh ổn định vĩ mô thì chỉ có 3 nhóm giải pháp đầu tiên là đáng được quan tâm. Cả ba nhóm giải pháp này đều đã được nhiều chuyên gia và think tanks nêu ra, vì vậy Nghị quyết 11 không có yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên, có một số điểm quan trọng cần được nêu ra: Thứ nhất là Nghị quyết 11 không đề ra nhiều biện pháp mang tính hành chính. Nghị quyết này có nhắc tới việc áp dụng kết hối đối với DNNN cũng như việc quản lý giá. Tuy nhiên các chính sách này cũng vẫn thường được nhắc đến từ trước tới nay và ngôn ngữ trong Nghị quyết 11 cũng không cho thấy việc chính phủ muốn quyết liệt sử dụng các chính sách này như là các công cụ chủ chốt để bình ổn vĩ mô. Việc không dựa nhiều vào các biện pháp hành chính trong một chừng mực nào đó cho thấy chính phủ chưa coi tình hình hiện tại là nghiêm trọng tới mức phải dựa vào mệnh lệnh hành chính để giải quyết bất ổn. Thứ hai là Nghị quyết 11 dẫn ra 3 lý do gây bất ổn vĩ mô của năm 2011: (1) tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp với nhiều mặt hàng thiết yếu/cơ bản tăng giá; (2) trong nước thiên tai, thời tiết tác động bất lợi và nhiều mặt hàng thiết yếu buộc phải điều chỉnh tăng giá; và (3) do việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa giai đoạn trước để ngăn chặn suy giảm kinh tế. Các lý do được dẫn ra này đều là yếu tố “khách quan”. Nói cách khác, trong ngôn ngữ của nghị định này, chính phủ không coi tình hình bất ổn hiện tại có nguồn gốc một phần vì những bất hợp lý trong quản lý và điều hành kinh tế trong thời gian vừa rồi. Nghị định 11 cũng không nhắc tới các yếu tố nội tại mang tính nền tảng khác gây ra bất ổn vĩ mô. Và điều này dẫn tới điểm quan trọng thứ 3: Thứ ba là các giải pháp được nêu ra đều là các giải pháp mang tính ngắn hạn và tình huống. Một số kinh tế gia cao cấp của Chính phủ khi bình luận về vấn đề này đã cho rằng khả năng các giải pháp này sẽ làm dịu bớt căng thẳng trong ngắn hạn nhưng câu chuyện về dài hạn thì vẫn không thay đổi. Thứ tư là từ chỗ chỉ đạo của thủ tướng tới việc thực hiện của các ban ngành và địa phương là một khoảng cách mênh mông. Thí dụ, từ nhiều năm trở lại đây chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng luôn luôn bị vượt quá, và vì thế không có gì bảo đảm chắc rằng tăng trưởng tín dụng của năm 2011 sẽ nằm dưới mức 20% như thủ tướng mong muốn. Việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên tới 10% trong 9 tháng tới cũng là một mục tiêu đầy tham vọng và khó có thể thực hiện được. Các nhóm chính sách khác như kết hối hay hạn chế nhập khẩu cũng có những khó khăn tương tự trong việc thực hiện. Có lẽ vì thế chính phủ nên tính tới một “kế hoạch B” trong trường hợp các nhóm giải pháp trên không vận dụng được, hoặc không được như mong muốn. Việc thiếu vắng kế hoạch B chính là điểm quan trọng Nghị quyết 11 đưa ra nhằm 2 nhóm chính sách lớn – thắt chặt tiền tệ và thắt chặt tài khóa. Về nguyên tắc 2 chính sách này có tính tiêu chuẩn. Nhưng luôn có 1 khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn. Lý do: - Khi NHNN quyết định giữ nguyên tốc độ tăng trưởng tín dụng 20%, áp cho tất cả các tổ chức tín dụng. Điều này đồng nghĩa những ngân hàng có rủi ro thấp, hoạt động lành mạnh chịu chung toa thuốc đắng với những ngân hàng tạo ra rủi ro cho nền kinh tế. Do đó, cần thiết phải phân loại ngân hàng thành các nhóm khi đó tốc độ tăng trưởng tín dụng không giới hạn ở mức 20% mà có thể cao hơn hoặc thấp hơn hoặc đưa vào diện kiểm soát đặc biệt tùy vào từng nhóm ngân hàng. - Căn nguyên xâu xa của lạm phát Việt Nam không phải nằm ở chính sách tiền tệ, nó nằm ở chính sách tài khóa, nằm ở chính sách đầu tư quá mức. ICOR cao hơn gấp rưỡi thậm chí gấp đôi so với khu vực. Do đó nếu không giải quyết tận gốc tính kém hiệu quả của nền kinh tế thi không thể tăng trưởng cao mà không gây lạm phát. Ưu tiên hàng đầu của Chính Phủ trong năm 2011 là bình ổn kinh tế vĩ mô. Bởi nếu không bình ổn vĩ mô, đà tăng trưởng chậm lại, niềm tin của nhà đầu tư sẽ bị suy giảm, đời sống của người dân sẽ khó khăn hơn. Bình ổn vĩ mô đồng nghĩa với chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ thắt chặt – Nghị quyết 11. NHNN giới hạn trần tăng trưởng tín dụng 20%, giới hạn trần tăng trưởng cung tiền 16%, lãi suất trần huy động USD 3%; và chính phủ quyết tâm cắt giảm ngân sách. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng, quyết tâm thắt chặt tài khóa của chính phủ chưa đủ mạnh, còn hạn chế. Cụ thể, nhìn vào Nghị quyết 11, theo ý kiến của Bộ Trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư không cắt đầu tư từ nguồn Ngân sách và nguồn Trái phiếu chính phủ - đây là 2 khoản lớn nhất của NSNN; cắt giảm 10% các khoản chi thường xuyên ngoài lương chiếm 20% chi thường xuyên, tương đương giảm 2% chi thường xuyên. Xem xét nhiều gốc độ khác nhau, khả năng cắt giảm ngân sách là rất khó. Tuy nhiên, có thể cắt giảm được 2 khoản: ứng trước cho các dự án đầu tư năm 2011 và khoản chuyển nguồn từ các năm trước. Sức ép lạm phát chi phí đẩy tăng nhanh trong những tháng cuối quý 1- đầu quý 2/2011 do gắn liền trực tiếp với tăng chi phí đầu vào của nhiều hoạt động sản xuất-kinh doanh và dịch vụ-tiêu dùng từ  cú sốc tăng tỉ giá và các đợt  điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện diễn ra liên tiếp trong tháng 3/2011. Từ sự gia tăng chi phí vốn gắn với cuộc đua lãi suất huy động và cho vay và từ tháng 5/2011 là việc điều chỉnh lương tối thiểu cho công nhân viên chức khu vực hành chính, sự nghiệp và các đối tượng hưởng lương từ ngân sách... Ngoài ra, đợt tăng giá dầu mỏ lên tới 50% (từ mức 80 USD/thùng lên mức 120 USD/thùng) chỉ trong vòng 5 tháng (11/2010-3/2011) cũng là một xung lực mạnh làm tăng áp lực lạm phát chi phí đẩy cả ở phạm vi quốc tế, cũng nhu ở VN. Tính chung, mức lạm phát cuối năm so cùng kỳ năm trước có nhiều khả năng đạt trên dưới 15%, tức cao hơn khoảng ¼  mức tương ứng năm 2010 và cao gấp đôi mức kế hoạch đặt ra đầu năm. Đồng thời, mức tăng trưởng GDP cả năm 2011 có thể  thấp hơn năm ngoái một chút do hạn chế động lực tăng trưởng từ thu hẹp nguồn đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ và thu hẹp dòng vốn đầu tư xã hội do lãi suất tín dụng cao. Tuy nhiên, trong thời gian tới cuối năm sẽ có sự hạ nhiệt ở một số thị trường cá biệt, như thị trường thép trong nước do giá phôi thép, thép phế trên thị trường thế giới có xu hướng chững lại và giảm; các DN cũng phải cạnh tranh với thép nhập khẩu từ Trung Quốc và Đông Nam Á; đồng thời do giảm nhu cầu thép xây dựng vì cắt giảm đầu tư công và lãi suất cho vay cao khiến xây dựng cơ bản thu hẹp quy mô. Chương 4: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHẠT Ở VIỆT NAM 4.1. Kinh nghiệm chống lạm phát trong những năm 80 thế kỷ trước Kể từ cuối năm 1986 khi Đảng ta bắt đầu lãnh đạo công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, tập trung quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế và ngăn chặn lạm phát. Việc nghiên cứu về lạm phát để từ đó có những giải pháp hữu hiệu kịp thời can thiệp vào thị trường là vấn đề hết sức quan trọng, nhất là trong tình hình hiện nay cả nước đang tích cực triển khai Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Với ý nghĩa đó, trong khuôn khổ bài viết này xin giới thiệu về kinh nghiệm chống lạm phát những năm 80 của thế kỷ trước để bạn đọc tham khảo. 4.1.1.Tình hình kinh tế, tài chính: Trong những năm 1980, kinh tế nước ta tiếp tục trong tình trạng phải khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại, kinh tế bị tàn phá nặng nề trong nhiều thập kỷ, ngoài ra còn bị cấm vận, hầu như cô lập với thị trường khu vực và thế giới. Do đó, những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại của cơ chế thị trường không có khả năng thâm nhập vào Việt Nam. Từ 1981- 1983 kinh tế có phục hồi đôi chút song tốc độ phát triển chậm, nét đặc trưng là hiệu quả thấp do chi phí sản xuất cao, công nghệ và thiết bị lậu hậu, trình độ tổ chức sản xuất và quản lý kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế mất cân đôi nghiêm trọng, lệ thuộc nhiều vào các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị sa xút, thế mạnh của sản xuất không được khai thác. Kinh tế nhiều thành phần chưa được chú trọng. Ngân sách nhà nước liên tục bội chi lớn phải dựa vào nguồn thu từ vay nợ và viện trợ. Quản lý tài chính còn lỏng lẻo mang nặng tính cấp phát, bù lỗ và trợ cấp, do đó không khuyến khích các đơn vị kinh tế quốc doanh nâng cao vai trò tự chủ kinh tế, phát triển sản xuất mà dựa vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc phát hành tiền trong lưu thông tăng cao. Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên, yêu cầu đổi mới các chính sách kinh tế vĩ mô là hết sức cấp bách, trong đó đột phá khẩu để xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung là cuộc cải cách đồng bộ giá lương tiền năm 1985. Diễn biến lạm phát từ 1985-1989: Do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, nền kinh tế từ tình trạng trì trệ theo một cơ chế quan liêu bao cấp đã phải đối mặt với việc điều chỉnh quá lớn. Chỉ số lạm phát luôn ở mức khá cao. Cụ thể: 1985 1986 1987 1988 Chỉ số giá cả năm %: 73,3 774,7 223,1 393,8 Về các biện pháp đã tiến hành trong giai đoạn này: Nhà nước đã tiến hành hàng loạt các biện pháp kinh tế vĩ mô nhằm từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ kém phát triển. Đối với giai đoạn 1985-1986: Về giá cả thực thi chính sách một giá, xoá bỏ chính sách 2 giá một cách phổ biến và triệt để; xoá bỏ giá cung cấp hàng tiêu dùng bán theo tem phiếu. Nâng mặt bằng giá lên tương ứng. Có thể nói, đây là sự thay đổi có tính chất cơ bản là bước ngoặt trong tư duy kinh tế. Điều chỉnh tỷ giá: Giữa đồng VND và Rúp từ 17đ/Rúp lên 180 đ/Rúp; Với đồng USD từ 12đ/USD lên 180đ/ USD. Về giá bán lẻ: Nhà nước thực hiện nhất quán cơ chế một giá bán lẻ; Trung ương xác định một giá kinh doanh thống nhất cho những mặt hàng thiếu yếu, tuy nhiên có sự phân biệt theo vùng, đặc biệt là đối với lương thực thực phẩm, một số loại vật tư hàng hoá đòi hỏi vận chuyển xa, chi phí vận tải lớn; xoá bỏ giá bán cung cấp hàng tiêu dùng bán theo tem phiếu. Do đó, mặt bằng giá được nâng lên tương ứng. Về tiền lương: Đã có sự cải tiến tiền lương, nâng mức lương tối thiểu từ 27,3đ lên 220 đ (tiền mới bằng 10 lần tiền cũ). Về tiền tệ: Tiến hành đổi tiền trên cả nước theo tỷ lệ 10 đ tiền cũ bằng 1 đ tiền mới. Nhìn chung, biện pháp giá – lương - tiền áp dụng trong các năm 1985-1986 là hiệu quả chưa cao, chủ yếu là do nền kinh tế ảnh hưởng nặng nề của cơ chế hành chính bao cấp cứng nhắc, sản xuất hiệu quả thấp. Giai đoạn 1987-1988: Trong giai đoạn này các biện pháp trọng tâm đều nhằm chấm dứt khủng hoảng kinh tế- tài chính- tiền tệ sau cuộc tổng điều chỉnh giá – lương -tiền. Về tỷ giá: Điều chỉnh tỷ giá kết toán nội bộ từ 18đ/rúp lên 150đ/rúp và 225đ/USD, đồng thời điều chỉnh hệ thống bán buôn vật tư lên tương ứng với mặt bằng tỷ giá trên; giữ ổn định giá bán lẻ những mặt hàng bán theo định lượng cho cán bộ công nhân viên và lực lượng vũ trang, các mặt hàng còn lại lưu thông trên thị trường tự do theo giá thị trường, khuyến khích nâng cao sản xuất đáp ứng tiêu dùng. Năm 1988 tiếp tục điều chỉnh giá vật tư lên theo tỷ giá 700đ/rup - 900đ/USD; xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ; thực hiện giá vật tư ổn định đối với mặt bằng hàng quan trọng phục vụ sản xuất, số còn lại lưu thông tự do theo giá thị trường. Tiền lương: Điều chỉnh tiền lương để đảm bảo đời sống của người lao động, trong đó khu vực hành chính tăng 10,68 lần; khu vực sản xuất kinh doanh tăng 13,15 lần so với mức lương quy định khi cải tiến năm 1985. Về biện pháp cân đối cung cầu: Thực hiện việc quản lý vật tư hàng hoá, ngoại tệ xuất nhập khẩu và quản lý thị trường nhằm hạn chế tình trạng xuất nhập khẩu tràn lan gây rối thị trường. Bên cạnh đó, các biện pháp khác cũng được thực hiện như: Nông nghiệp thực hiện khoán theo Chỉ thị 100/CT nhằm khuyến khuyến khích sản xuất; Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý sản xuất, giao quyền tự chủ cho giám đốc xí nghiệp theo quyết định 217/HĐBT nhằm sắp xếp lại tổ chức, phát huy quyền làm chủ của giám đốc xí nghiệp. Với các biện pháp nêu trên, lạm phát vẫn còn cao nhưng đã tạo ra sự chuyển đổi trong nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, xử lý được vấn đề giá, xoá bỏ bao cấp. Sản lượng lương thực đạt trên 19 triệu tấn. Về các biện pháp tài chính: Tập trung tăng nguồn thu ngân sách nhà nước để giảm bội chi. 4.1.2.Bài học kinh nghiệm chống lạm phát: Bài học kinh nghiệm lớn nhất trong việc kìm chế lạm phát giai đoạn này là các biện pháp đưa ra đều nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của sản xuất. Việc điều chỉnh giá – lương - tiền không đồng loạt mà theo bước đi đã định trước, vừa làm vừa điều chỉnh. Đáng chú ý là, sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương đi đôi với việc tăng cường kỷ cương kỷ luật, đổi mới cơ chế quản lý. Nhìn chung, trong giai đoạn 1985-1989 nền kinh tế đang ở thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Tuy các biện pháp chưa thực sự giải quyết được những yêu cầu cấp bách của nền kinh tế nhưng đã làm nền tảng cho việc thực hiện tiếp ở giai đoạn sau. - Kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các chính sách tài chính trong quá trình đổi mới kinh tế. -         Môi trường luật pháp tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động là vấn đề cấp bách để chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thi trường. -         Ngân sách nhà nước phải bố trí lại cơ cấu thu chi hợp lý, đặc biệt là việc bố trí nguồn tài chính cho dự trữ vật tư hàng hoá thiết yếu, kịp thời can thiệt vào thị trường khi có sự biến động của giá cả. -         Giảm và tiến tới chấm dứt phát hành cho chi tiêu ngân sách nhà nước. Thực hiện việc huy động tiền nhàn rỗi trong dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. -         Việc điều hành giá vàng và tỷ giá VND/USD những năm này được đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ nhận thức về chức năng thực tế của vàng và USD là phương tiện lưu thông tiền tệ, nó sẽ phát huy chức năng khi đồng tiền trong nước bị mất giá. Sự biến động giá vàng và USD sẽ đẩy lạm phát trong nước tăng lên. Do đó, trong thời kỳ lạm phát cao cần phải đặt mục tiêu giữ ổn định giá vàng và USD. Vấn đề là tạo lập quỹ dự trữ vàng và ngoại tệ để can thiệp thị trường, sử dụng quỹ này một cách linh hoạt, ngoài ra cần kết hợp khéo léo với các biện pháp hành chính, thông tin tuyên truyền rộng rãi để góp phần ổn định giá trong nước. Tóm lại, toàn bộ các biện pháp thực hiện trong thời gian này đều nhằm tập trung giải quyết các vấn đề về tiền lương- giá cả- tài chính – tín dụng - tiền tệ là nhưng khâu chủ yếu của nền kinh tế thị trường, bước đầu đã tác động tới việc chuyển đổi phương thức sản xuất kinh doanh, nhằm tạo điều kiện tiền đề cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các biện pháp tiến hành tuy chưa giải quyết được dứt điểm vấn đề lạm phát song đã tạo ra những nhận thức mới trong tư duy kinh tế và đem lại nhiều bài học quý báu cho công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước trong  những năm  tiếp theo.  4.2.Nhóm giải pháp 4.2.1.Nhóm giải pháp cơ bản chiến lược Một là, về quan điểm chung đối với các nhà lập chính sách phải kết hợp đồng bộ các chính sách tiền tệ, tài khoá, tỉ giá với chính sách cơ cấu lại ngành hàng, cơ cấu xuất - nhập khẩu theo hướng tăng cường các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp liên doanh, giảm bớt cơ chế ưu đãi cho khu vực FDI… để nâng cao hiệu quả đầu tư của mọi thành phần kinh tế, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại (do thiếu vốn) và doanh nghiệp (do lãi suất đi vay quá cao), bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng thích hợp, kịp thời để mở rộng đầu tư khi có phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, làm cho việc chống lạm phát có hiệu quả nhưng không gây ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng GDP và tạo việc làm cho xã hội. Hai là, thắt chặt tiền tệ có điều kiện. Các biện pháp dành cho chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay cần phải được áp dụng một cách linh hoạt, có đối tượng và cơ chế cụ thể. Xuất phát từ nguyên lý căn bản và không thể biện minh là lạm phát bao giờ cũng có nguyên nhân tiền tệ, tức là có sự xuất hiện lạm phát khi và chỉ khi lượng tiền trong lưu thông tăng (bên cạnh một số nguyên nhân khác), do đó cần kiểm soát chặt chẽ lượng tiền trong lưu thông bằng cách: Kiểm soát các hệ số tăng M2 và hệ số tăng tín dụng, từ đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần chủ động, đồng thời có thông điệp rõ ràng về việc tăng các lãi suất điều tiết, gồm: lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, công bố hạn chế mức tăng tín dụng, tăng cường hoạt động nghiệp vụ thị trường mở (OMO), thậm chí ngoài các giấy có giá theo thông lệ sử dụng làm hàng hoá trên OMO, NHNN cũng có thể dùng ngoại tệ như một loại giấy có giá trên thị trường này để vừa can thiệp thị trường tiền đồng, vừa can thiệp tỷ giá. Ngoài ra, khi cần NHNN phải thông báo và thực hiện quyền công bố tăng dự trữ bắt buộc để vừa bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời tạo sức ép tiết giảm chi phí, tránh tăng lãi suất cho vay nền kinh tế trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Về trung và dài hạn, cần chuyển toàn bộ mô hình NHNN trực thuộc Chính Phủ như hiện nay sang mô hình NHTW độc lập với Chính phủ - Là kênh có đủ quyền lực về nghiệp vụ và vật chất để tác động vào tổng cầu của nền kinh tế mà hầu như không phải dùng mệnh lệnh hành chính. Ba là, về chính sách tài khóa, cần phải thực hiện từng bước kế hoạch để giảm thâm hụt tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ, gồm: kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu tiêu dùng Chính phủ. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả theo hướng Nhà nước chỉ đầu tư vào những dự án công trình hay ngành nghề mà người dân không làm được, doanh nghiệp không muốn tự làm và/hoặc dự án thuộc nhóm bí mật quân sự quốc gia… Bốn là, sử dụng công cụ tỷ giá. Nên điều chỉnh tăng nhẹ giá trị của VND so với USD, bằng cách NHNN chưa vội mua vào USD và hoặc mua vào nhưng bán ra ngay, hoặc chuyển đổi ngoại tệ cho các địa chỉ thích hợp với mức ngang giá, thậm chí bù lỗ bằng nguồn bình ổn giá của Chính phủ hoặc từ quĩ nghiệp vụ của NHNN. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm, tăng nguồn cung có chọn lọc cho thị trường, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND hợp lý cũng góp phần bảo vệ sức mua đối nội của đồng nội tệ là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của mọi NHTW, đồng thời trước mắt sẽ kìm giữ được giá luơng thực (chiếm trên 40% quyền số trong rổ hàng hoá tính CPI của nước ta) hiện đang tăng quá cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị trường thế giới về nhóm hàng có thuộc tính phụ thuộc vào thời tiết này. Ngoài ra, tiếp theo các thành công của việc điều hành tỷ giá vừa qua, đây là thời điểm rất tốt để gắn việc điều hành tỷ giá trong khuôn khổ chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước theo lộ trình chống đô la hóa, giảm dần, tiến tới giảm triệt để tín dụng ngoại tệ trong nước, sớm thống nhất một loại tỷ giá, khuyến khích phát triển thị trường ngoại tệ đa dạng, đa phương thức và điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thả nổi, có kiểm soát, tiến tới thả nổi có điều kiện, chuyển ngoại tệ về thị trường ngoại hối và tách chúng ra khỏi thị trường tín dụng. Năm là, kiểm soát chặt chẽ và hạn chế sự phát triển tràn lan của khu vực FDI, nhưng khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân trong nước phát triển vào những ngành công nghiệp phụ trợ và đầu tư liên doanh với nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng và tăng cường khả năng chuyển giao công nghệ trong tương lai nhằmvừa chủ động chống lạm phát, vừa tránh bị sập bẫy thu nhập thấp bởi lao động làm thuê, tay nghề thấp và công nghệ thứ cấp trong thị trường nội địa. 4.2.2.Nhóm giải pháp cấp bách trước mắt Nghị quyết 11 vẫn còn tồn tại tập trung ở một số vấn đề: Thứ nhất, Nghị quyết 11 cần được thực thi đầy đủ và quyết liệt hơn. Ưu tiên kiểm soát  lạm phát cần tiếp tục được khẳng định mạnh mẽ mà chưa nên nói đến tăng trưởng trong lúc này. Thứ hai, Chính phủ nên quan tâm hơn đến đối tượng người nghèo và có những trợ giúp cho những người rất nghèo. Chúng tôi quan ngại những người nghèo di cư không tiếp cận được với các trợ giúp này. Thứ ba là mạng lưới trợ giúp xã hội. Thứ tư, cần làm sáng tỏ quyết định cắt giảm 10% chi tiêu ngân sách thường xuyên sẽ nhằm vào những khu vực hay lĩnh vực nào? Đồng thời, cần đảm bảo tính hiệu quả lớn hơn của hoạt động đầu tư công trên tất cả các lĩnh vực.Chính phủ Việt Nam để kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô thìThứ nhất, Nghị quyết 11 là một gói giải pháp tốt nhưng cần thực hiện quyết liệt, không nên chuyển mục tiêu chống lạm phát quá nhanh. Cần phải tiếp tục chiến đấu với lạm phát trong vài tháng tới cho đến khi thực sự giảm nhiệt.Thứ hai, tiếp tục hạn chế ảnh hưởng của lạm phát bằng cách giúp đỡ người nghèo.Thứ ba, đầu tư công cần được tư nhân hóa.Thứ tư, thông tin đến công chúng cần minh bạch, rõ ràng: chính sách này là gì, tại sao phải tiến hành chính sách đó. Cần thông tin cho các gia đình Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là thông tin minh bạch đến người dân để giảm lạm phát kỳ vọng. Chính phủ cần cởi mở và minh bạch hơn trong các thảo luận về chính sách, tại sao các chính sách được áp dụng. Thêm vào đó, áp lực liên quan đến việc giảm tỷ giá hối đoái giữa VND và ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ thấp và thâm hụt thương mại cao vẫn là những mối quan ngại lớn. Ngành tài chính - ngân hàng tiếp tục là một ngành có nguy cơ cao, do tăng trưởng tín dụng ở mức rất cao và tình trạng này cần được kiềm chế một cách cẩn trọng. Mục tiêu giảm tăng trưởng tín dụng xuống 20% cần đặt ra một chỉ tiêu thấp hơn, cụ thể hơn và cần đặt trọng tâm vào việc giảm tăng trưởng tín dụng ở các doanh nghiệp nhà nước chứ không phải ở khối doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chu trình giảm lãi suất huy động VND và ổn định tỷ giá VND/USD phải bắt đầu từ việc giảm lãi suất huy động USD và giảm kỳ vọng lạm phát.Hiện lãi suất huy động bằng tiền đồng (VND) khó có thể giảm xuống do tác động của việc tăng tỷ giá VND/đô la Mỹ (USD) và lãi suất tiền gửi USD, do tác động của các hành vi và lực đẩy đưa đến ngang bằng lãi suất giữa lãi suất VND và lãi suất USD trong nền kinh tế Việt Nam đang bị đô la hóa trầm trọng: Lãi suất VND = lãi suất USD + độ điều chỉnh kỳ vọng (%) của tỷ giá VND/USD. Lấy thí dụ của việc điều chỉnh tỷ giá 9,3% của NHNN (thay đổi tỷ giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đô la lên 20.693 đồng) sáng 11-2 vừa qua, ta có thể thấy công thức trên dự đoán khá chính xác mức thay đổi của tỷ giá từ vài tháng qua: Lãi suất huy động VND (14%) = lãi suất USD (4%-5%) + điều chỉnh tỷ giá đã xảy ra (9,3%). Một cách gián tiếp, ta cũng có thể hiểu rằng lãi suất VND phụ thuộc lãi suất USD và kỳ vọng về mức lạm phát vì khi lạm phát cao hơn có nghĩa là VND sẽ phải mất giá và USD lên giá. Lạm phát gần 12% ở Việt Nam năm 2010 đã cao hơn lạm phát ở Mỹ khoảng 10% và điều chỉnh tỷ giá 9,3% là suýt soát mức khác nhau về lạm phát.Trong sáu tháng cuối năm 2010, NHNN tăng cung tiền và tín dụng nhanh chóng để làm giảm lãi suất VND, nhưng tác dụng thực tế lại trái ngược vì tăng tiền lại làm tăng kỳ vọng lạm phát cũng như gây thêm áp lực lên tỷ giá trên thị trường tự do. Ngoài ra lãi suất huy động USD lại tăng trong mấy tháng qua do nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đô la hóa đang rất cao, kết quả là lãi suất huy động VND vẫn khó giảm xuống dưới mức 12-17% của quí 3 năm ngoái.Ngoài ra, việc sử dụng vốn không hiệu quả và các khó khăn tài chính của các tập đoàn lớn trong thời gian qua làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều này cũng làm cho lãi suất trái phiếu khó điều chỉnh giảm.Nói chung nếu áp lực lên tỷ giá không được ngăn chặn bởi sự giảm bớt tăng cung tiền và tín dụng sẽ khó lòng giải quyết được các bế tắc hiện tại của thị trường tín dụng và hệ thống lãi suất để "khai thông" cho các thị trường chứng khoán và nhà đất cũng như của cả nền kinh tế năm 2011. Chưa kể là tỷ giá của VND nếu lại vượt qua xa mức tâm lý 21.000 đồng/USD có thể làm niềm tin của dân cư, nhất là giới đầu tư, sa sút và có thể tạo ra các thiệt hại tài chính lớn hơn nhiều do "dòng xoáy" lạm phát - tỷ giá gây ra.Thí dụ với các dữ kiện thống kê của năm 2010 vừa qua, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng khởi đầu là 6,5% và kiềm chế lạm phát ở mức được Quốc Hội duyệt lại là 8% (lúc đầu là 7%), theo tính toán của chúng tôi, NHNN chỉ cần tăng cung tiền M2 là 20% và tín dụng trong khoảng 22-23%. Cuối năm 2010, mức tăng thật sự của tín dụng do NHNN mới công bố là trên 29,8% và cung tiền M2 là 27% đã có tác dụng không nhỏ (tác dụng cầu kéo - demand pull) đến mức lạm phát là 11,75% cho năm ngoái, ngoài các yếu tố tăng giá từ bên ngoài (tác dụng chi phí đẩy - cost push) do giá nhập khẩu cũng tăng nhanh trong quý 4. Chúng ta cần xét khung kinh tế vĩ mô cơ bản dưới đây cho một nền kinh tế để xác định mối tương tác giữa 4 khu vực chính và tính toán mức cung cho tổng phương tiện thanh toán (M2-money supply) và tín dụng (DC-domestic credit) cần thiết để thực hiện các mục tiêu vĩ mô thông dụng: tăng trưởng (GDP thực), lạm phát (CPI) và cán cân thanh toán (mức tăng hay giảm lượng dự trữ ngoại hối):Khu vực sản xuất kinh doanh( GDP, Giá cả),Khu vực Tài khoá(các tài khoản của Chính phủ),Khu vực tiền tệ:  Dòng tài chính M2 và DC, Khu vực kinh tế đối ngoại(Cán cân thanh toán, Nợ công, mức Dự trữ ngoại hối). Đặc biệt cho lưu tâm của chúng ta là các dòng tài chính trong khu vực tiền tệ và tác động lên các khu vực khác được chỉ ra một cách đơn giản như sau: cung tiền hay tín dụng được tăng nhanh thái quá trong năm so với GDP thực sẽ gây áp lực lên giá cả và làm tăng nhu cầu nhập khẩu, từ đó sẽ gây ra thâm hụt trong cán cân thương mại và vãng lai và sau đó là thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế gây nên mất bớt dự trữ ngoại hối. Việt Nam cần phải giải quyết một số vấn đề như: cần phối hợp các chính sách, có thêm các nguyên tắc trong đầu tư công, giải quyết các thách thức thuộc về cấu trúc nền kinh tế và phải đặc biệt chú ý tới vấn đề hiệu quả đầu tư. Việt Nam đang có ICOR rất cao, cần giải quyết vấn đề này bằng cách tăng cường hiệu quả đầu tư và thúc đẩy tiến trình tư nhân hóa mạnh hơn.Việt Nam hiện đã trở thành nước có thu nhập trung bình, các bạn đã làm rất tốt, nhưng rõ ràng hiện mới là mức đầu của giai đoạn thu nhập trung bình. Vì vậy, cần đảm bảo tất cả các khoản đầu tư phải đúng chỗ và đạt hiệu quả cao nhất.Nghị quyết 11 ngày 24-2-2011 của Chính phủ ban hành “gói giải pháp” kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tuy hơi chậm so với yêu cầu của tình hình nhưng có thể xem là “liều thuốc mạnh” không chỉ mang tính chất tình thế mà còn có ý nghĩa, tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế - tài chính hướng đến một nền kinh tế vĩ mô ổn định cho những năm sau. Trong 6 nhóm giải pháp, có thể nói 2 nhóm giải pháp về tiền tệ và tài khóa đóng vai trò quyết định đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát.Hai nhóm giải pháp trên nhằm giảm tổng cầu của nền kinh tế, nên sẽ tác động làm giảm lạm phát và dĩ nhiên cũng sẽ kéo giảm tốc độ tăng GDP. Trước mắt giải quyết “bộ ba”: Lạm phát - tỷ giá và lãi suất, nhưng cũng sẽ tác động làm giảm nhập siêu, giảm nợ công, tạo điều kiện để hướng đến mục tiêu xa hơn là giải quyết các cân đối vĩ mô như thu - chi ngân sách; cán cân vãng lai; tiết kiệm - đầu tư; tích lũy - tiêu dùng…Tuy nhiên, do có độ trễ của chính sách nên chưa thể có tác dụng tức thời, nhưng thực tế thị trường cho thấy cách làm là đúng hướng và chắc chắn sẽ kéo giảm mức tăng CPI trong những tháng tới; trước mắt đã ổn định được tỷ giá VND, kéo tỷ giá VND/USD xuống mức dưới 21.000 đồng/USD, xóa được tình trạng “2 giá” tồn tại từ quý 4-2010.Khi đã kéo giảm được CPI, giải quyết được tâm lý “lạm phát kỳ vọng” thì sẽ có điều kiện để giảm lãi suất. Thực tế tình hình đòi hỏi trong năm 2011 phải giải quyết cho được “bộ ba”: Lạm phát, tỷ giá và lãi suất. Do đó, cần phải kiên trì thực hiện những giải pháp đã đề ra; không để lạm phát như “con ngựa bất kham”. Hàng năm, NHNN thông báo mục tiêu tăng trưởng cung tiền (hay tổng phương tiện thanh toán M2) và mức tín dụng chung cho nền kinh tế. Các con số này được thị trường tài chính hay các bình luận gia theo dõi sát nút hàng tháng để xem đích thực chính sách tiền tệ đang được áp dụng ra sao, thắt chặt hay nới lỏng. Có thể nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa lượng cung tiền và mức tăng giá hàng tháng với độ trễ 6-7 tháng (thật vậy điều này có thể chứng minh dễ dàng bằng phép hồi quy giữa hai biến số trong vài năm qua hay nhận xét đơn giản trên biểu đồ hàng tháng của 2 biến số này như dưới đây). Ngoài ra để dự báo chính xác hơn, có thể thay đổi kết quả này bằng những điều chỉnh hàng tháng do tác động của những biến số khác biết trước như thay đổi giá xăng dầu, điện nước, lương bổng, nhất là tác dụng do chi tiêu mạnh mẽ vào những dịp lễ Giáng sinh và Tết (từ tháng 12 đến tháng 2).Thí dụ như chỉ số CPI đã tăng vọt trong quí 4 năm ngoái là do chính sách tăng tín dụng ào ạt trong quí 2 để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm ngoái cũng như ảnh hưởng của chi tiêu cao thường thấy cuối năm. Do chính sách nới lỏng tiền tệ (tăng cung tiền và tín dụng) còn tiếp tục trong quí 3-2010 và các chi tiêu Tết trong tháng 1 và 2 năm nay, CPI được dự báo còn tăng nhanh trong hai tháng đầu năm trước khi giảm bớt tốc độ vào tháng 3-6, áp lực tăng giá có thể giảm bớt sau Tết và cũng do NHNN đã thắt chặt cung tiền hơn từ đầu quí 4 năm ngoái.So với 12 tháng trước, CPI có thể còn tiếp tục tăng ở mức hai con số trong suốt 10 tháng đầu năm nay, mặc dù NHNN sẽ kìm giữ tăng cung tiền và tín dụng ở mức "vừa phải" hơn như đã tuyên bố, lần lượt là 21-24% và 23%, trong suốt năm 2011. Mặc dù áp lực trên tổng cầu có thể giảm bớt phần nào do sự cố gắng thắt chặt tiền tệ của NHNN, tuy nhiên ý kiến riêng của chúng tôi là sự thắt chặt này vẫn chưa đủ do mức tăng tiền tệ từ năm 2010 đã quá lớn. Ngoài ra chúng tôi còn dự báo mức tăng giá xăng dầu và hàng hóa từ bên ngoài nhất là lương thực - thực phẩm sẽ gây áp lực mới đáng kể trong năm nay.Do đó phải giảm mức tăng M2 xuống còn 15-16% và mức tăng tín dụng xuống còn 18-20% nếu muốn kiểm soát lạm phát hữu hiệu trong suốt năm và đưa nó về mức 6% vào cuối năm 2011, dựa vào mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-7% (thay vì 7-8%) và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế cho năm 2011 (tức là chặn hẳn sự thâm hụt vào quỹ dự trữ ngoại hối như trong hai năm qua). Để kiểm soát mức giá tăng hàng tháng để có thể thực hiện được mức lạm phát cả năm là 6% vào cuối tháng 12-2011 so với 12 tháng trước. Muốn đạt được các mức này, NHNN phải kiểm soát chặt chẽ mức cung tiền và tín dụng hàng tháng như đã trình bày ở trên, ngoài ra cần đến sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để kiểm soát chi - thu ngân sách hàng tháng .Vấn đề giảm chi trong chính sách tài khóa và nhất là đầu tư công sẽ đóng vai trò thiết yếu trong chương trình giảm lạm phát tương lai. Vì mặc dù mức lạm phát đã cao tới gần 12% trong năm 2010, mức giá chung đã được kìm giữ phần nào nhờ các chi tiêu thường xuyên của ngân sách để hỗ trợ giá xăng dầu và nhất là giá điện dưới mức thị trường chung trong vùng (giá xăng và điện ở Việt Nam đang được coi như ở mức rẻ nhất so với các nước chung quanh). Nếu trong tương lai vẫn giữ các giá này, mức chi tiêu thường xuyên trong ngân sách sẽ tăng cao, và để giảm tỷ lệ bội chi so với GDP bắt buộc phải giảm bớt mức đầu tư công trong vài năm tới. Quan trọng hơn, trong bối cảnh đó, chính sách tài khóa cần được xây dựng bởi một ủy ban liên bộ để đảm bảo tính kỷ luật hơn so với thời gian qua, cụ thể là giảm thâm hụt tài chính tổng thể hàng năm bằng cách giảm tỷ lệ đầu tư/GDP. Như vậy, tỷ lệ này có thể được đưa xuống khoảng 39% vào năm 2011 và dần giảm một điểm phần trăm (1%) mỗi năm trong kế hoạch năm năm tiếp theo đến khoảng 35% vào năm 2015. Dựa trên tỷ lệ này, các khoản thu chi hàng năm của Chính phủ cần phải được xác định một cách chi tiết bởi Ủy ban liên bộ và Bộ Tài chính, trong sự nhất quán với các mục tiêu tín dụng trong nước hàng năm nêu trên của NHNN. Việc giảm đầu tư công cũng nhằm mục đích chủ yếu là nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng cách giảm hệ số ICOR cao hiện nay. Thiếu các chính sách hỗ trợ này, việc điều chỉnh tỷ giá riêng lẻ như trong tuần rồi sẽ thất bại vì sẽ gây ra lạm phát nhiều hơn và sau đó lại cần điều chỉnh tỷ giá mới do chuỗi xoáy liên hệ lạm phát - tỷ giá. Mặt khác, do mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp nên không đủ để cố định tỷ giá hiện hành cho hơn một vài tháng. Năm ngoái, lạm phát có thể thấp hơn mức hai con số nếu các mức cung tiền M2 và tín dụng được tính toán thích hợp hơn với mục tiêu tăng trưởng GDP và cán cân thanh toán (kiềm chế mức giảm dự trữ ngoại hối). Vì vậy trong năm nay, nên thành lập một ủy ban liên bộ để cùng các chuyên viên NHNN và Bộ Tài chính tính toán các dòng lượng tiền tệ và tài khóa ngay từ sớm để đề xuất với Chính phủ và Quốc hội nhằm tiến tới việc kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn Trong nhiều năm nữa, nước ta còn phải thực hiện chính sách chủ động bội chi ngân sách bằng con đường vay nợ để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. Đó là chính sách tài chính công tích cực trong điều kiện tích lũy của nền kinh tế còn thấp, tiết kiệm nội địa chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển bền vững. Nhưng chính sách này phải kèm theo các điều kiện rất nghiêm ngặt như: phải có chiến lược nợ Chính phủ và nợ quốc gia rõ ràng; những điều kiện bảo đảm hiệu quả trong đầu tư; khả năng trả nợ hàng năm, cả về VND lẫn ngoại tệ… Tuy nhiên, thực tế trong các năm qua, việc bội chi ngân sách nhà nước chưa thật sự tuân thủ các điều kiện nêu trên và nhiều điều kiện khác nữa nên chính sách “tài chính công tích cực” đã trở thành nhân tố tiêu cực, có nguy cơ gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia. Tình trạng các ngành và địa phương đưa ra quá nhiều dự án, trong khi đó nguồn vốn rất hạn chế, nên nơi nào, ngành nào “chạy” thủ tục sớm thì được chấp thuận và giải ngân sớm, nơi nào chậm thì để lại. Cách làm này dẫn đến hệ quả là phá vỡ tính ưu tiên và tính đồng bộ của đầu tư, tình trạng “vốn nằm” khắp nơi; ngân sách phải trả lãi, nhưng dự án thì phơi sương phơi gió. Với cách phân bổ vốn đầu tư như hiện nay, dường như chúng ta lâm vào tình trạng “phóng lao phải theo lao” dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách không có điểm dừng. “Muốn giải quyết được bài toán về lạm phát chúng ta phải giải quyết được bài toán về tỷ giá, tức đồng tiền Việt Nam phải ổn định so với đồng đô la Mỹ, không thể tiếp tục mất giá như trong thời gian vừa qua. Muốn như vậy chúng ta phải kiểm soát được nhập siêu, phải đưa nhập siêu xuống càng nhanh càng tốt và hướng đến sự cân bằng cán cân thương mại trong vòng 5 năm tới”. Tương tự như sau khủng hoảng tài chính năm 1997 - 1998, các nước Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia… đã cân bằng được cán cân thương mại và tiến đến xuất siêu, ổn định được đồng tiền của mình, thậm chí có lúc tăng so với đồng đô la, góp phần kiểm soát lạm phát triệt để. Vì vậy, bài toán kiểm soát nhập siêu hướng đến cân bằng cán cân thương mại là bài toán mà Chính phủ cần ưu tiên trong giai đoạn từ đây đến 5 năm tới. Một vấn đề nữa Việt Nam cần phải quan tâm là kiểm soát bội chi ngân sách, đảm bảo chi tiêu hợp lý, chi tiêu công phải ưu tiên đến hiệu quả trong đầu tư, tránh đầu tư dàn trải và sử dụng vốn một cách lãng phí. Để làm được điều đó Việt Nam cần phải có hệ thống luật pháp trong vấn đề đầu tư công, đồng thời phải có bộ máy giám sát các khoản chi tiêu ngân sách một cách hiệu quả, tránh trường hợp các địa phương xin chi rất nhiều, nhưng lại sử dụng đồng tiền đó phân tán, gây thất thoát, lãng phí và dẫn đến hệ số ICOR thấp (chỉ số về hiệu quả sử dụng vốn), khiến đồng tiền không tạo ra được của cải xã hội, góp phần đẩy lạm phát lên cao. Do vậy, Việt Nam cần thiết phải kiểm soát nhập siêu đi liền với giảm bội chi ngân sách nếu muốn quản lý được lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, chúng ta không thể sử dụng CPI (chỉ số giá tiêu dùng) để điều hành chính sách tiền tệ mà phải sử dụng lạm phát cơ bản (Core inflation). Tức là chúng ta không thể sử dụng rổ hàng hóa để tính CPI nhằm điều hành chính sách tiền tệ, mà phải loại trừ những yếu tố bất thường, không phải do cung tiền tác động vào để điều hành chính sách lãi suất cho phù hợp. Với lãi suất hiện nay quá cao, chúng ta phải hướng đến việc giảm lãi suất trong thời gian tới. Muốn như vậy, chúng ta phải triển khai thật nhanh các văn bản dưới luật của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, tính chủ động của Ngân hàng Trung ương cần phải được nâng cao hơn nữa. Điều đó đòi hỏi Chính phủ phải dành cho Ngân hàng Trung ương tính độc lập trong việc quyết định các quyết sách về các chính sách lãi suất cũng như các chính sách tỷ giá”. Trong thời gian tới, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện mục tiêu do Chính phủ đề ra và theo hướng điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, chính sách lãi suất linh hoạt hơn, nhằm hỗ trợ nguồn vốn, tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh và hạn chế việc đầu cơ vốn này cho các hoạt động đầu cơ khác, như đầu cơ bất động sản hay tài chính… Các ngân hàng thương mại Việt Nam do một thời gian dài phải đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2007 -2009 kéo theo năm 2010, cho nên tính thanh khoản có vấn đề, thường xuyên gây ra những bất ổn trên thị trường tiền tệ, và thậm chí họ đã vi phạm một số quy định của pháp luật. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước trong năm 2011 phải nâng cao tính luật pháp hóa trong điều hành chính sách tiền tệ, và trong việc giám sát trên thị trường hết sức nghiêm minh. Vì thị trường tiền tệ là một thị trường rất nhạy cảm, nó đòi hỏi sự minh bạch và luật pháp hóa, do đó phải thẳng tay nghiêm trị các ngân hàng thương mại, các tổ chức kinh tế vi phạm pháp luật về tài chính ngân hàng, vi phạm các quy định về tiền tệ, vi phạm những quy định trong huy động vốn, những quy định trong việc cho vay, cũng như vi phạm những quy định trong giao dịch về tỷ giá. Hệ thống tài chính đòi hỏi sự tôn trọng pháp luật hàng đầu. Ngân hàng Nhà nước cần phải tăng cường thanh tra, sử dụng luật pháp để giám sát mạnh mẽ các ngân hàng thương mại. Đặc biệt trong năm 2011, vấn đề này càng phải được triển khai một cách quyết liệt. Kết luận Thế giới hiện đang có những diễn biến rất bất thường, và hầu như các dự báo về năm 2010 của các chuyên gia đều không thành công, kể cả các tổ chức dự báo lớn. Do đó kinh tế Việt Nam trong năm 2011 cũng rất khó dự báo. Chỉ có thể hy vọng rằng Chính phủ sẽ triển khai môt cách quyết liệt tinh thần việc điều hành kinh tế xã hội năm 2011 theo hướng ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát nhập siêu, giảm bội chi ngân sách và kiểm soát được lạm phát ở mức thấp. Mức thấp ở đây tức là Việt Nam sẽ cố gắng kiểm soát lạm phát trong một con số, và 7% là con số mục tiêu trong năm 2011. Dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan bên ngoài, do đó khó đưa ra được con số dự báo chính xác. Tuy vậy, vẫn có những dấu hiệu lạc quan từ nền kinh tế Việt Nam trong năm 2011. Là một thị trường tiềm năng trên nền tảng kinh tế xã hội ổn định, Việt Nam có nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư trên thế giới. Điển hình là các quỹ đầu tư nước ngoài đã đầu tư mạnh vào thị trường Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn quý IV năm 2010. Nguồn tiền chuyển vào trong đầu tư năm 2010 lên tới 1 tỷ USD (đầu tư gián tiếp). Và trong năm 2011 này, nguồn tiền đó sẽ tiếp tục được giải ngân, giúp cho thị trường tài chính tăng trưởng một cách bền vững hơn, từ đó giúp cho quá trình cổ phần hóa của các doanh nghiệp sẽ được triển khai một cách mạnh mẽ và sẽ có nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa hơn trong năm nay. Chống lạm phát là phải tăng lãi suất, điều này lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam trong năm qua đã cao gấp 3 lần, lãi suất hiện cũng cao gấp 3-4 lần so với đa số các doanh nghiệp trên thế giới. Kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển bền vững hay không phụ thuộc rất lớn vào những động thái của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. –—–{—–— Tài liệu giảng dạy (dành cho Sinh viên) Kinh tế Vĩ mô. Biên soạn: PGS.TS Nguyễn Tri Khiêm & ThS. Phùng Ngọc Triều. Sách Money and Banking, Kinh tế học của David Begg. www.exchangerate.com www. Federalreserve.gov Khuynh hướng Kinh tế vĩ mô Việt Nam, wikipedia.org (vi.wikipedia.org) Website BBC Luân Đôn (www.bbc.co.uk/vietnamese/) Website Chính phủ (www.chinhphu.vn/) Website Tổng cục thống kê (www.gso.gov.vn/) Việt Báo (vietbao.vn/) Trung tâm TTKT – Viện Kinh tế TPHCM ( Dân trí Online (dantri.com.vn) www.tinkinhte.com/ vnexpress.net/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKiểm soát lạm phát ở việt Nam-Thực trạng & giái pháp 2011 901-01-2011-31-05-2011).doc
Luận văn liên quan