Thị trường kinh doanh dịch vụliên quan đến rác thải tại Nhật Bản là một thịtrường 
đã phát triển chín muồi, với tốc độphát triển đứng đầu khu vực châu Á-Thái Bình 
Dương và đứng thứ hai thế giới chỉsau Hoa Kỳ. Thịtrường tại Nhật Bản đạt được 
thành công đó là do những nguyên nhân sau đây: 1./ Các nguồn luật và chính sách 
điều chỉnh rác thải và kinh doanh rác thải hợp lý. Bên cạnh đó việc thực thi luật và 
chính sách cũng được chấp hành nghiêm túc, thểhiện rõ sựphối hợp đồng bộgiữa 
chính quyền trung ương – địa phương và doanh nghiệp; 2./ Nhận thức vềmôi 
trường của người dân Nhật Bản là khá toàn diện; chính nhân tốnày đã thúc đẩy nhu 
cầu vềdịch vụmôi trường và đặc biệt là rác thải lên cao; 3./sựtham gia tích cực của 
thành phần kinh tếtưnhân đã tạo nên một thịtrường cạnh tranh, tận dụng được mọi 
nguồn lực một cách hiệu quả, có nhiều sáng kiến thúc đẩy thịtrường phát triển. Có 
thểnói, thành phần kinh tếtưnhân giữvai trò chủ đạo trong việc cung cấp cũng 
nhưsửdụng dịch vụ, đặc biệt đối với rác thải công nghiệp. Trong lĩnh vực cung cấp 
dịch vụrác thải rắn đô thị(hay còn gọi là rác thải thông thường), chính quyền thành 
phốchịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ, song trên thực tếdịch vụthường được 
chuyển giao cho các công ty tưnhân và các công ty này cũng thường nhận được trợ
cấp từchính quyền trong việc xây dựng cơsởhạtầng xửlý rác thải.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
97 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2747 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh doanh các dịch vụ liên quan đến rác thải mô hình tại nhật bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dục và phổ biến tốt các vấn đề liên quan đến môi trường cho 
doanh nghiệp và người dân Nhật Bản 
Việc giáo dục và phổ biến tốt các vấn đề liên quan đến môi trường cho doanh 
nghiệp và người dân Nhật Bản là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự 
 60 
thành công của ngành kinh doanh môi trường tại Nhật Bản bởi vì khi người dân 
nhận thức được vấn đề môi trường ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của mình 
thì nhu cầu về các sản phẩm cũng như dịch vụ môi trường, đặc biệt là rác thải sẽ lên 
cao, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tìm ra được thị trường kinh doanh mới và hữu 
ích cho cộng đồng. 
2.2.1 Những yếu tố góp phần cho việc phổ biến kiến thức môi trường 
Các phương tiện truyền thông và chương trình giáo dục 
 Đóng góp cho việc phổ biến kiến thức môi trường cũng như gây sức ép buộc 
chính phủ Nhật Bản phải có những biện pháp tháo gỡ tình hình suy thoái môi 
trường không thể không kể đến vai trò của giới truyền thông và chương trình giáo 
dục. Chính giới truyền thông đã đem tới sự hiểu biết về môi trường đối với đại đa 
số dân chúng với những bài viết, điều tra về những nạn nhân của việc ô nhiễm cũng 
như những ý kiến của các chuyên gia về giải pháp cho vấn đề này. Bên cạnh đó, Bộ 
môi trường Nhật Bản phối hợp với Bộ Giáo dục nước này đã đưa ra những biện 
pháp nhằm cải thiện việc giáo dục môi trường.Vào cuối những năm 1960, khi 
những câu chuyện về thảm họa môi trường từ các bệnh dịch Minamata, Itai-Itai và 
Yokkaichi xuất hiện, giáo viên là những người đầu tiên lên tiếng về vấn đề này và 
đã đưa những thông tin nói trên vào trong các khóa học lịch sử, khoa học tự nhiên 
và sức khỏe vật lý. Những hướng dẫn về môi trường dành cho các học sinh tiểu học 
và cấp hai đã được đưa ra và sửa đổi vào năm 1989. Mặc dù phần lớn những kiến 
thức về môi trường trên đều là nằm trong chương trình học tự nguyện song phần 
nào những người dân Nhật Bản lớn lên từ những năm 1960 đều nhận thức rõ được 
tác hại của việc suy thoái môi trường qua những lớp học của mình. Ngoài ra 2 bộ 
nói trên còn kết hợp để tổ chức các buổi hội thảo, sản xuất các chương trình truyền 
hình cũng như các bộ phim nhằm tuyên truyền kiến thức môi trường. Tuy nhiên, 
theo điều tra, phần lớn kiến thức mà người dân nhận được là thông qua các chương 
trình của chính quyền địa phương. 
Các khung chính sách công cộng 
Những khung chính sách mới nhằm thúc đẩy nhận thức của các doanh 
nghiệp cũng như người tiêu dùng về môi trường đã được ban hành bởi chính phủ, ví 
 61 
dụ như khung chính sách về việc xử lý sản phẩm trong vòng đời sản phẩm bao gồm 
quá trình sản xuất, tiêu dùng, tái chế và tiêu hủy và khung chính sách này đã chính 
thức được chuyển thành Luật có hiệu lực vào tháng 5/2005. 
Sơ đồ 3.1: Các chính sách của chính phủ nhằm thúc đẩy nhận thức môi trường 
của doanh nghiệp Nhật Bản 
Nguồn: JETRO,2006[20] 
 Luật này buộc các doanh nghiệp và các nhà chức trách địa phương phải cung 
cấp các báo cáo môi trường và cung cấp các khung chính sách cho việc tuyên truyền 
nhận thức về môi trường trong hoạt động của mình. Những báo cáo môi trường của 
doanh nghiệp và địa phương sẽ giúp cho thị trường và xã hội đánh giá các dự án 
thân thiện với môi trường và mang lại một kết quả cân bằng giữa phát triển kinh tế 
và môi trường bền vững. 
2.2.2 Kết quả của các biện pháp tuyên truyền và giáo dục về môi trường tại 
Nhật Bản 
Báo cáo môi trường 
Các báo cáo được phát 
hành rộng rãi về các hoạt 
động kinh doanh tân 
thiện với môi trường, 
Định giá môi trường 
Các định giá mặt lượng 
của chi phí và lợi ích 
của các dự án thân thiện 
với môi trường 
Nhãn mác môi trường 
Các nhãn mác được thiết 
kế nhằm cung cấp các 
thông tin về môi trường 
của sản phẩm 
Hệ thống quản lý môi trường 
Khung chính sách đối nội và những 
thủ tục nhằm thúc đẩy các dự án thân 
thiện với môi trường 
Định giá vòng đời sản phẩm 
Các phương pháp định giá tổng tác 
động môi trường của sản phẩm 
Chỉ số xếp hạng 
môi trường 
Bảng xếp hạng tác động 
môi trường và các vấn 
đề liên quan 
Các công cụ hỗ trợ 
các SMEs 
Các chương trình nhận 
thức môi trường cho 
SMEs 
Thiết kế thích hợp với 
môi trường 
Thiết kế của các sản 
phẩm có thể kéo dài vòng 
đời sản phẩm hoặc có thể 
giảm bớt tác động môi 
trường 
 62 
 Theo báo cáo điều tra của Bộ Môi trường Nhật Bản vào năm 2004, nói 
chung, các công ty này đã nhận thức được giá trị của việc bảo vệ môi trường và đã 
chuyển hướng nhận thức từ việc coi các quy định môi trường là một quy định bắt 
buộc sang xem đây là một cơ hội để phát triển kinh doanh. Cụ thể, tỷ lệ giữa các 
công ty vẫn coi việc quản lý môi trường là một “hình thức đóng góp cho xã hội” là 
34 %, giảm so với năm 2003; trong khi đó số công ty coi hoạt động này là một 
chiến lược kinh doanh quan trọng tăng lên đáng kể. Ngoài ra theo một báo cáo của 
tớ Nikkei Ecology vào năm 2006, một cuộc điều tra với 3000 doanh nghiệp trên 
khắp Nhật Bản cho thấy rằng gần 70% số doanh nghiệp trên cho biết đã cắt giảm 
được chi phí nhờ việc giảm thiểu rác thải và năng lượng – một quy trình nằm trong 
kế hoạch nhằm đạt được chứng chỉ ISO 14001 – tiêu chuẩn quản lý môi trường. 
Biều đồ 3.1: Sự thay đổi quan niệm về môi trường của các doanh nghiệp 
Nhật Bản 
4.7
40.3
1.9
29.9
22
1.3
6.9
38
2.8
22.3
27.5
1.4
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Cơ hội kinh
doanh
Đóng góp
cho xã hội
Tuân thủ
pháp luật
Một yếu tố
quan trọng
trong kinh
doanh
Một chiến
lược quan
trọng
Ý kiến khác
%
2002 2004
Nguồn: JETRO, 2006[20] 
 Ngoài ra bản điều tra nói trên cũng cho biết hơn 800 doanh nghiệp có báo 
cáo môi trường năm 2004, trong đó thông báo về việc công ty được cấp chứng chỉ 
ISO 14001 và các hoạt động định giá cũng như các hoạt động môi trường khác. 
 63 
Điều này thể hiện ràng việc quản lý môi trường đang được ban quản lý các công ty 
nhận thức một cách nghiêm túc và ngày càng tăng cao. 
Như vậy, trong vòng hơn ba thập kỷ qua, nhận thức của cộng đồng và doanh 
nghiệp về các vấn đề môi trường tại Nhật Bản đã có sự gia tăng đáng kể. Những yếu 
tố tác động đến sự thành công đó trước tiên phải kể tới đó chính là trình độ giáo dục 
cao và vai trò quan trọng của các phương tiện truyền thông với những bài báo, 
chương trình có chất lượng có thể gây sức ép lên các chính trị gia, cơ quan có thẩm 
quyền và các doanh nghiệp hành động vì môi trường và vì chính sự phát triển kinh 
tế. Bên cạnh đó, không thể không kể đến vai trò của các khung chính sách công 
cộng của chính phủ cũng góp phần tuyên truyền kiến thức môi trường sâu rộng. 
Nhờ vậy, người dân Nhật Bản có một ý thức cao về việc bảo vệ môi trường và đó 
chính là một động lực lớn để ngành kinh doanh môi trường nói chung và ngành kinh 
doanh dịch vụ liên quan đến rác thải nói riêng có thể phát triển. 
2.3. Sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế tư nhân 
Trong những năm vừa qua, mối liên hệ giữa quá trình tư nhân hoá và vấn đề 
môi trường đã trải qua một quá trình thay đổi rõ nét. Ban đầu, khi mới xuất hiện 
những công ty tư nhân có quy mô lớn, người ta lo ngại rằng các công ty này sẽ vì 
lợi nhuận mà bỏ qua vấn đề môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi các doanh 
nghiệp nhà nước chuyển đổi sang loại hình kinh tế tư nhân, các hoạt động bảo vệ 
môi trường của các công ty này đã cải thiện đáng kể. Nguyên nhân được đưa ra là 
do, việc tư nhân hoá có thể giúp các doanh nghiệp tận dụng hết nguồn lực hiện có 
một cách hiệu quả, mở rộng đầu tư cho các công nghệ sản xuất sạch hơn cũng như 
thiết lập quy trình hoạt động nhằm tích hợp với các yêu cầu của thị trường đặc biệt 
là các thị trường nước ngoài về các vấn đề môi trường. 
Nhật Bản hiện đang là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, thành phần kinh tế tư 
nhân tại nước này chiếm đến 90% và những đóng góp của những thành phần này 
cho nền kinh tế nước này nói chung và ngành kinh doanh môi trường, trong đó có 
dịch vụ rác thải nói riêng là rất lớn. Ngoài việc các công ty lớn như các công ty sản 
xuất ô tô hàng đầu thế giới như Toyota có những sáng kiến về kỹ thuật nhằm bảo vệ 
môi trường hiệu quả thì sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân vào thị trường 
 64 
môi trường cũng đã tạo cho thị trường này sự cạnh tranh ngày càng cao và mang lại 
vị thế đứng thứ 3 toàn cầu trong lĩnh vực kinh doanh môi trường của Nhật Bản. 
 Những tiêu chuẩn về môi trường tại Nhật Bản được nhận thấy là cao hơn 
nhiều so với các nước phát triển khác và cũng đã có một số nhà kinh tế lo ngại rằng 
chi phí cao cho việc bảo vệ môi trường có thể làm giảm tính cạnh tranh của các 
doanh nghiệp nước này. Tuy nhiên, thực tế tại Nhật Bản lại cho thấy rằng, những 
tiêu chuẩn nghiêm ngặt mang tính kỹ thuật về mặt môi trường lại gia tăng tính cạnh 
tranh của thị trường và được coi là một động lực kinh tế cho các doanh nghiệp. 
Chứng minh cho điều này chính là ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Nhật Bản. 
Để đáp ứng những yêu cầu môi trường đặt ra, các nhà sản xuất ô tô đã phát minh ra 
các công nghệ môi trường có thể kiểm soát lượng ô nhiễm cũng như lượng khí đốt 
thải ra môi trường. Chính điều này đã làm cho lượng ô nhiễm của Nhật Bản vào 
cuối những năm 70 thấp hơn rất nhiều so với Hoa Kỳ vào cùng thời điểm đó. Như 
vậy, các quy định về môi trường đóng vai trò như một động lực giúp các công ty 
phát minh ra các loại công nghệ giúp phát triển kinh doanh không chỉ tại Nhật Bản 
mà còn có thể mở rộng thị trường sang các nước khác, ví dụ như Hoa Kỳ. 
 Các hiệp định tình nguyện (voluntary agreements) 
 Tại Nhật Bản, chính quyền nước này định nghĩa những sáng kiến “tình 
nguyện” là “những hành động mà các doanh nghiệp tự nguyện cam kết thiết lập 
mục tiêu không trói buộc về việc thực hiện các biện pháp gìn giữ môi trường”. Bản 
kế hoạch môi trường cơ bản (Basic Environmental Plan) đã coi những sáng kiến 
“tình nguyện” này là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường 
toàn cầu cũng như trong việc xử lý rác thải công nghiệp và các chất hóa học. Theo 
một cuộc điều tra, chính phủ Nhật Bản rất mong đợi những hiệp định “tình nguyện” 
này là do những nguyên nhân sau đây: 
(1) Những hiệp định này đòi hỏi một quá trình thực thi lâu dài nhằm đạt được 
sự tương hợp giữa những biện pháp phát triển kinh tế và thuế môi trường; 
(2) Những hiệp định này mang lại cho các doanh nghiệp sự linh hoạt và có 
thể hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí giảm thiểu rác thải có thể phát sinh trong 
quá trình giảm thiểu các tác động môi trường có thể xảy ra.[22] 
 65 
 Mặc dù có một số ý kiến cho rằng, các hiệp định nói trên chỉ là trên giấy tớ 
vì nó không mang tính cưỡng chế song thực tế đã chứng minh rằng đó là một trong 
những thành công lớn trong chính sách môi trường của Nhật Bản. Để có thể tiến 
hành hoạt động kinh doanh, các doanh nghiêp cần nhận được sự chấp thuận và sự 
hợp tác của chính quyền địa phương cũng như cộng đồng dân cư tại đây. Những 
hiệp định tình nguyện như vậy thường nhận được sự ủng hộ của chính quyền cũng 
như người dân địa phương. Các doanh nghiệp sau khi ký kết hiệp định này thường 
tuân thủ rất nghiêm ngặt, thậm chí một số doanh nghiệp còn cho phép các nhà chức 
trách kiểm tra việc thi hành hiệp định có đúng theo cam kết hay không. Ngoài ra, 
trong quá trình xây dựng hiệp định, những cuộc thảo luận giữa chính quyền, doanh 
nghiệp và người dân thường diễn ra rộng rãi và trong một khoảng thời gian tương 
đối để có thể phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, văn hóa và xã hội tại địa phương; 
chính điều này đã gián tiếp góp phần nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề 
môi trường. 
Điển hình là hiệp định “Kế hoạch hành động tình nguyện” của hiệp hội kinh 
tế Nippon Keidanren – một trong những hiệp hội kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn nhất 
tại nước này, vào tháng 6/1997, trong đó cam kết giảm lượng khí thải CO2 vào năm 
2010 xuống mức thấp hơn năm 1990. Kế hoạch này gồm 4 phần: phương pháp giải 
quyết vấn đề nóng lên toàn cầu, phương pháp xử lý rác thải, vấn đề quản lý môi 
trường và vấn đề bảo tồn môi trường đối với các hoạt động kinh doanh tại nước 
ngoài; trong đó, mục tiêu cụ thể đã được đề ra trong phần khí hậu nóng lên toàn cầu 
và phương pháp xử lý rác thải. Hiệp định tình nguyện này đóng vai trò rất quan 
trọng trong bản kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong nghị định thư 
Kyoto của chính phủ Nhật Bản và cho đến năm 2005, đã có 35 ngành công nghiệp 
cam kết tham gia vào hiệp định này.[22] 
Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc học tập kinh 
nghiệm kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại các nước phát triển như Nhật 
Bản là vô cùng cần thiết. Tuy vậy, mỗi bài học cần có sự lựa chọn và xem xét kỹ 
lưỡng. Như đã phân tích, thị trường này tại Nhật Bản là một thị trường phát triển 
 66 
chín muồi, thành phần kinh tế tư nhân trong lĩnh vực rác thải công nghiệp đóng vai 
trò chủ đạo; trong lĩnh vực rác thải rắn đô thị, trách nhiệm cung cấp dịch vụ vẫn 
thuộc các chính quyền địa phương. Trong ba bài học kinh nghiệm kể trên, những 
bài học Việt Nam cần học tập đó chính là: cải thiện chất lượng quản lý rác thải để 
tạo tiền đề tốt cho việc phát triển kinh doanh dịch vụ này và nâng cao nhận thức của 
người dân về vấn đề môi trường để từ đó tạo được nhu cầu về các loại hàng hóa 
cũng như dịch vụ môi trường, trong đó có rác thải. Bài học kinh nghiệm về sự tham 
gia của các thành phần kinh tế tư nhân là một bài học tốt, tuy nhiên cần phải kết hợp 
với điều kiện kinh tế và xã hội tại Việt Nam để có một mô hình công ty tư nhân hoạt 
động trong ngành cung cấp dịch vụ rác thải một cách có hiệu quả. Thực tế đã cho 
thấy mô hình công ty tư nhân Huy Hoàng là một mô hình cần được nhân rộng. Tuy 
nhiên hiện nay mô hình này chưa được nhân rộng và nguyên nhân cho thực trạng 
này đã được trình bày rõ tại mục III.3 chương 2. Chính vì thế, trong phần II chương 
3 dưới đây, sẽ là một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực kinh 
doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Việt Nam nói chung và để nhân rộng mô 
hình hoạt động của công ty Huy Hoàng nói riêng. 
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA 
LĨNH VỰC KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN RÁC THẢI TẠI 
VIỆT NAM 
Để ngành kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải có thể phát triển trên 
nhiều địa phương trong thời gian tới, thực tế cho thấy cùng với những bài học rút ra 
từ kinh nghiệm của Nhật Bản, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: 
1. Giải pháp hoàn thiện chính sách liên quan đến rác thải 
Thứ nhất, quản lý RTRĐT ngay từ nguồn thông qua việc đăng kí rác thải, 
nhất là rác thải nguy hại. Căn cứ vào việc đăng kí chất thải, các phương tiện thu 
gom, vận chuyển và phí cho từng loại được tính toán khác nhau. Phí thu gom, vận 
chuyển cho rác thải nguy hại phải hơn rác thải sinh hoạt. Phân loại RTRĐT từ 
nguồn phát sinh. Rác thải sinh hoạt cần phân thành hai loại: Các phế thải có thể tái 
sử dụng hoặc tái sinh như giấy, nilon, nhựa, chia lọ, vỏ đồ hộp và các rác thải còn 
lại. Đối với rác thải công nghiệp và bệnh viện cần tách riêng các phế thải nguy hại 
 67 
như kim loại nặng, các hoá chất độc, bông băng, các loại thuốc quá hạn, kim tiêm 
các chất xét nghiệm...Việc phân loại này sẽlàm tăng tỉ lệ tái sinh rác thải, cũng có 
nghĩa là giảm bớt khối lượng rác thải phải vận chuyển và xử lý. 
Thứ hai, cần cụ thể hoá các văn bản dưới luật, đồng thời phải thường xuyên 
tiến hành kiểm tra, kiểm soát việc thị hành luật. 
Thứ ba, khuyến khích thành lập các doanh nghiệp tư nhân và cổ phần hoá 
các doanh nghiệp nhà nước với chế độ ưu đãi (miễn giảm thuế doanh thu, thuế lợi 
tức hoặc cho vai lãi suất ưu đãi ...) để khuyến khích việc thu gom triệt để RTRĐT. 
Thứ tư, cần tăng cường hợp tác quốc tế và tham gia tích cực vào các hoạt 
động quốc tế. Ngoài việc thu được các thông tin, kinh nghiệm trong lĩnh vực quản 
lý RTRĐT , chuyển giao công nghệ, trợ giúp tài chính còn có thể nắm bắt được kiến 
thức và kĩ thuật từ các quốc gia tiên tiến thông qua các khoá đào tạo cho cán bộ ở 
nước ngoài có cấp học bổng. 
Khu vực phi chinh thức đã giúp chuyển đổi thay vì phải thực hiện tiêu hủy 
sang tiến hành tái chế đối với hàng triệu tấn rác thải và đã tạo ra việc làm cho hàng 
ngàn người lao động. Tuy nhiên các hoạt động này rất cần có sự hỗ trợ một cách 
chủ động tự phía cộng đồng và Chính phủ để tiếp tục tồn tại và phát triển. Các hoạt 
động hỗ trợ có thể gồm mở rộng các chương trình cho vay tín dụng nhỏ, chính thức 
hóa sự tham gia của khu vực phi chính thức, phát triển các thị trường tái chế, phối 
hợp hoạt động giữa khu vực phi chính thực và khu vực nhà nước, hỗ trợ thành lập 
các hợp tác xã thu gom và xử lý rác thải, lấy ý kiến tư vấn của các thành phần mà 
sinh kế của họ sẽ phải chụi tác động từ việc áp dụng các chính sách hoặc sáng kiến 
quản lý rác thải mới ngay từ khâu xây dựng/hoạch định chính sách. 
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rác thải tại Việt Nam 
Thứ nhất, mỗi đô thị phải xây dựng một kế hoạch tổng thể và chiến lược lâu 
dài về quản lý RTRĐT, phù hợp với đặc thù của từng đô thị để từ đó từng bước xây 
dựng và tăng cường hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về môi trường ở các cấp cơ 
sở. Các đô thị cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chủ quan trung 
ương nhằm có một chiến lược thống nhất. Nên thống nhất và đưa ra một cơ quan 
chủ quản về vấn đề môi trường và kinh doanh các dịch vụ liên quan đến môi trường, 
 68 
trong đó có rác thải. Bộ Tài nguyên môi trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ 
xây dựng nhằm giải quyết những khác biệt cơ bản trong những chiến lược môi 
trường của mình và đưa ra một mục tiêu chung để bảo vệ và phát triển môi trường. 
Dự báo lượng chất thải được tái chế có thể sẽ tăng gần gấp đôi so với mức 
hiện tại và như vậy sẽ tiết kiệm cho ngân sách nhà quốc gia từ 200 đến 500 tỷ đồng 
do mỗi năm không phải chi cho việc tiêu hủy lượng chất thải được tái chế này. 
Cũng có thể giảm được lượng rác thải phải đem tiêu hủy bằng cách sản xuất phân 
compost một cách hiệu quả hơn vì hơn 50% rác thải đô thị là hữu cơ và có thể tận 
dụng để làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ. Giảm chi phí cho tiêu hủy rác thải 
thông qua các biện pháp tái chế đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả và thúc đẩy thị 
trường nguyên liệu cho hoạt động tái chế. Điều này có thể được thực hiện thông qua 
các biện pháp khác nhằm phân loại rác thải tại nguồn và phát triển các cơ sở tái chế 
rác thải tư nhân một cách hợp lý và có tính lợi nhuận. Tương tự, cũng có thể mở 
rộng quy mô các hoạt động sản xuất phân hữu cơ thông qua phát triển các cơ sỏ sản 
xuất nhằm sản xuất phân hữu cơ chất lượng cao có thể cạnh tranh trên thị trường từ 
rác thải được phân loại tại nguồn. 
Các biện pháp khuyến khích áp dụng sản xuất sạch hơn cũng rất cần thiết. 
Các quy trình sản xuất sạch hơn giúp giảm thiểu lượng chất thải công nghiệp cũng 
như mang lạ các giải pháp phù hợp về mặt sinh thái cho các ngành công nghiệp. 
Việt Nam đã đạt được những thành công trong sản xuất sạch hơn (Cleaner 
Production) nhờ các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp này chỉ là bước khởi đầu 
nhằm đạt được những lợi ích về mặt kinh tế và môi trường cho các doanh nghiệp. 
Việc áp dụng các quy trình sản xuất sạch hơn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn. 
Việc thiết lập một quỹ cấp vốn vay cho các hoạt động sản xuất sạch hơn và cung 
cấp các thông tin về các kỹ thuật nhằm thúc đẩy áp dụng sản xuất sạch hơn ở Việt 
Nam. 
3. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của các hình thức tuyên truyền, giáo 
dục về môi trường 
Nâng cao nhận thức về môi trường cho nhân dân. Thông qua giáo dục và 
động viên nhân dân và các tổ chức, cơ quan, xí nghiệp, các cấp uỷ Đảng, chính 
 69 
quyền, đoàn thê, quần chúng sẽ nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp bách 
của bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 
Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, đặc biệt là phương tiện truyền thông 
đại chúng từ tỉnh đến cơ sở. Nội dung thông tin tuyên truyền ngoài vấn đề môi 
trường chung, còn bao gồm kiến thức chung về RTRĐT , RTRĐT với việc ô nhiễm 
môi trường, các phương pháp hạn chế ô nhiễm môi trường do RTRĐT, Luật Bảo vệ 
môi trường, các quy định dưới luật. Các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện 
thông tin đại chúng cũng cần có sự đa dạng hoá hơn. Cần tổ chức các cuộc thi qua 
mạng vô tuyến hay điện thoại, trên báo, đài nhằm nâng cao nhận thức của người dân 
và doanh nghiệp về các vấn đề môi trường. Các hình thức phổ biến như xây dựng 
những thước phim nhỏ tương tự như các đoạn phim về an toàn giao thông hay các 
chương trình phổ biến sức khoẻ cho người dân.....Ngoài ra trong các sân chơi truyền 
hình và báo đài, nên có lồng các nội dung về môi trường vào cũng là một hình thức 
tuyên truyền hiệu quả. 
Ngoài ra, không kém phần quan trọng đó là việc coi vấn đề quản lý RTRĐT 
là một phần trong chương trình giảng dạy tại môi trường cần đưa vào khuôn khổ 
giáo dục hiện hành ngay từ từ cấp học mẫu giáo, bởi khi đó trẻ có thể bắt đầu nhận 
thức được các vấn đề xunh quanh, tạo nền tảng cho sự phát triển sau này. Các 
trường mẫu giáo có thể hướng dẫn học sinh vứt rác đúng cách, các trường tiểu học 
có thể xây dựng các giờ học về môi trường ngoài trời với các chò trơi đố vui về môi 
trường để tạo cho học sinh sự quan tâm, thích thú với vấn đề này... Trong việc xây 
dựng chương trình học về môi trường, các giáo viên đóng vai trò quan trọng bởi vì 
họ chính là nguồn cung cấp thông tin cho học sinh-sinh viên. Bởi vậy, việc đầu tư 
nhằm tổ chức các khoá tập huấn về môi trường cần có sự quan tâm bằng sự phối 
hợp hiệu quả giữa nhà trường và các cơ quan có liên quan. 
Khi kiến thức về môi trường của người dân tăng lên cùng với sự khan hiếm 
đất đai, những thách thức đặt ra là xây dựng các bãi chôn lấp và đầu tư các thiết bị 
xử lý chất thải phù hợp về môi trường và được xã hội chấp nhận. Để làm được điều 
này cần phải tiến hành các đánh giá kinh tế - xã hội trước khi xây dựng một bãi 
chôn lấp, đồng thời có thể khuyến khích người dân địa phương tham gia vào quá 
 70 
trình chọn lựa địa điểm xây dựng và vận hành bãi chôn lấp. Ngoài ra, cần phải thực 
hiện quá trình lấy ý kiến tư vấn của cộng đồng một cách nghiêm túc, thực hiện các 
biện pháp tiêu hủy chất thải một cách an toàn, điều này sẽ khiến cho người dân tin 
tưởng rằng các bãi chôn lấp sẽ được xây dựng và vận hành một cách an toàn, phù 
hợp về mặt môi trường tại nơi họ sinh sống 
4. Giải pháp liên quan đến công tác thu hồi chi phí liên quan đến rác 
thải 
Hiện nay, tổng thu từ các loại phí dịch vụ quản lý RTRĐT chỉ chiếm 58% 
tổng chi phí vận hành, duy tu và bảo dưỡng các hệ thống quản lý RTRĐT. Hệ thống 
quản lý RTRĐT được cải thiện nếu thực sự áp dụng các biện pháp giúp thu hồi toàn 
bộ chi phí. Điều này sẽ kéo theo việc phải thực hiện xóa bỏ bao cấp và áp dụng các 
mức phí cung cấp dịch vụ ở mức để có thể đủ bù đắp các khoản chi phí. Cần nghiên 
cứu các hình thức và mức phí khác nhau như phí có mức thu cố định, phí có mức 
thu phụ thuộc vào mức độ sử dụng dịch vụ như mức phí tiêu dùng điện nước và các 
mức phí phụ thuộc vào khả năng chi trả. Ví dụ ở Tokyo, Nhật Bản phí rác thải được 
thu thông qua việc mua túi đựng rác thải, dịch vụ thu gom rác thải đối với hộ gia 
đình chỉ thực hiện khi rác thải đựng trong những túi đó, nghĩa là người ta căn cứ 
vào lượng thải tạo ra, như vậy đảm bảo tính công bằng và hiệu quả hơn. 
Để nâng cao tính bền vững về tài chính của các hệ thống quản lý RTRĐT, 
cần phải tăng cường sự tham gia của các thành phần tư nhân và thưc hiện nguyên 
tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Kinh nghiệm một số nước đang phát triển cho 
thấy rằng tăng cường sự tham gia của thành phần tư nhân đã giúp giảm 20-50% chi 
phí cho các dịch vụ đô thị nhờ tăng tính cạnh tranh, áp dụng các hoạt động mang 
tính thương mại và cải thiện công nghệ. 
Áp dụng cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, 
nhiều công ty MTĐT đã áp dụng các chế độ thu phí xử lý và tiêu hủy đối với rác 
thải của các cơ sở công nghiệp và các bệnh viện. Thách thức trong việc thiết lập 
được các hệ thống quản lý dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền là 
cần phải áp dụng những quy định chặt chẽ đối với các ngành công nghiệp và các 
 71 
đơn vị vận chuyển rác thải đồng thời với những tiêu chuẩn bắt buộc đối với các hệ 
thống xử lý và tiêu hủy rác thải. 
5. Cải thiện đầu tư và vận hành các dịch vụ liên quan đến rác thải 
Đầu tư cho quản lý rác thải ở Việt Nam tăng hơn 5 lần kể từ năm 1998, đạt 
trên một nghìn tỷ đồng trong năm 2003. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2010, đầu 
tư sẽ tiếp tục tăng với tốc độ hiện tại và sẽ tăng mạnh hơn trong giai đoạn 2010-
2020. Tốc độ đầu tư tăng là cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hiện nay là làm 
sao thực hiện đầu tư có tính chi phí- hiệu quả cao, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên 
và sử dụng công nghệ phù hợp để đảm bảo sự cải thiện đầu tư là thực chất. 
Do vây những ưu tiên hiện nay là đảm bảo vận hành đúng kỹ thuật các bãi 
chôn lấp đang hoạt động, mở rộng hoạt động thu gom rác thải tại các nơi chứa có 
các dịch vụ của công ty MTĐT và các khu đô thị nhỏ thông qua các khoản đầu tư có 
tính chi phí – hiệu quả cao, nâng cao hiệu quả công tác thu gom và cải thiện các 
dịch vụ quản lý RTRĐT cho các hộ dân nghèo trong khi vẫn tiếp tục thực hiện các 
chương trình quốc gia về xây dựng các bãi chôn lấp hợp vệ sinh mới. Một phương 
án có thể giảm chi phí đầu tư cho xây dựng nhiều bãi chôn lấp là khuyến khích xây 
dựng các bãi chôn lấp quy mô lớn hơn ở cấp vùng, với công suất co thể phục vụ cho 
nhiều nhóm cộng đồng hơn. Đồng thời, cần phải nỗ lực để giảm giá lượng chất thải 
cần tiêu hủy. 
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa hình thức chuyển giao, ngoài hình thức ký hợp 
đồng giao thầu như đang thực hiện với Công ty TNHH Huy Hoàng, có thể nghiên 
cứu, thực hiện các hình thức chuyển giao khác như đấu thầu cung ứng dịch vụ toàn 
bộ, đấu thầu cung ứng dịch vụ theo công đoạn hoặc theo địa bàn và thực hiện cổ 
phần hóa, cho thuê, bán doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện dịch vụ vệ sinh môi 
trường. 
III. ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN 
RÁC THẢI TẠI VIỆT NAM 
1. Lựa chọn địa điểm áp dụng mô hình 
Phường Kim Liên, thuộc quận Đống Đa, Hà Nội được lựa chọn là địa điểm 
áp dụng mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải. Nguyên nhân là do: 
 72 
- Phường Kim Liên là nơi tập trung nhiều trung tâm buôn bán, có tốc độ phát 
triển kinh tế khá cao. Đây cũng là nơi tập trung nhiều trường học và có trình độ dân 
trí khá cao. [10] 
- Rác thải phát sinh tại khu vực này rất lớn song dịch vụ thu gom rác hiện tại 
chưa đáp ứng được nhu cầu, điển hình là khu vực hồ Kim Liên đã gần như bị rác 
thải lấp đầy, gây ô nhiễm nghiêm trọng cho người dân sống xung quanh khu vực 
này. 
- Đây là địa điểm đã từng được chọn thí điểm áp dụng mô hình phân loại rác 
thải tại nguồn (vào năm 1999). Tuy nhiên, chương trình này đã phải kết thúc sau 3 
tháng hoạt động do thiếu nguồn kinh phí hoạt động từ phía chính phủ. Ngoài ra, tại 
thời điểm đó, người dân tại khu vực này được yêu cầu phải phân loại rác thải ra tành 
4 loại: giấy, nhựa, hữu cơ và các loại khác. Đây là yêu cầu không khả thi bởi chưa 
có một chương trình tuyên truyền cũng như hướng dẫn người dân tham gia một 
cách cụ thể. Hơn nữa, sau khi thu gom rác thải đã được phân loại, URENCO không 
có một kế hoạch rõ ràng về việc xử lý rác thải và do vậy đã làm mất đi sự nhiệt tình 
của người dân tham gia chương trình này (Nguyen Thi Thuc Thuy, 2005)[23]. Song, 
những điều kiện trên cũng chính là những tiền đề để áp dụng mô hình kinh doanh 
dịch vụ liên quan đến rác thải tại khu vực này bởi người dân Kim Liên đã được làm 
quen với chương trình. 
2. Xây dựng mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại 
phường Kim Liên 
Mô hình đề xuất này sẽ được tiến hành thử nghiệm trong 3 năm đầu (kể từ 
năm 2010). Sau 3 năm nếu kinh doanh hiệu quả, mô hình sẽ tiếp tục hoạt động theo 
hướng sau: 
2.1 Mô hình đề xuất chính sách liên quan đến rác thải 
Theo mô hình đề xuất này, phường Kim Liên nên lựa chọn Chiến lược Bảo 
vệ môi trường quốc gia do Bộ Tài Nguyên và Môi trường đưa ra vào năm 2001 bởi 
chiến lược này tập trung chủ yếu vào các biện pháp quản lý môi trường, vùng trọng 
điểm là các thành phố và khu vực đông dân cư, chú trọng nâng cao vai trò của cộng 
đồng, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong việc bảo vệ môi trường. Bên 
 73 
cạnh đó nguồn tài chính theo chiến lược này cũng là dựa vào phân bổ từ ngân sách 
của nhà nước và nguồn vốn ODA. Những đặc điểm trên của chiến lược này rất phù 
hợp với tình hình tại phường Kim Liên hiện nay. 
Ngoài ra, Phường Kim Liên cần có chính sách nâng cao nhận thức của người 
dân khu vực về vấn đề môi trường và đặc biệt liên quan đến rác thải (cụ thể như đã 
trình bày tại phần II.3 chương 3). Cần huy động các tình nguyện viên tham gia (có 
thể huy động từ khoa môi trường tại các trường đại học trong thành phố Hà Nội) để 
hướng dẫn người dân phân loại rác tại nguồn trong thời gian thí điểm mô hình. Các 
tình nguyện viên này sẽ được đào tạo về kiến thức phân loại rác thải và các kiến 
thức liên quan đến môi trường khác ngay tại trường. Muốn làm được như vậy, 
phường Kim Liên nên liên hệ với các trường đại học để có phương án đào tạo và 
triển khai nguồn nhân lực hợp lý. Bên cạnh đó, Phường nên kết hợp với các Đoàn 
trường và Chi hội Phụ nữ tại địa bàn để triển khai các cuộc thi và phổ biến kiến thức 
môi trường. 
 Hiện tại công ty URENCO hoạt động tại phường Kim Liên chưa đáp ứng 
được nhu cầu về thu gom rác thải dẫn đến việc rác thải tràn lan tại nhiều khu vực 
không đúng nơi quy định. Theo mô hình đề xuất, phường Kim Liên nên triển khai 
việc giao khoán, đấu thầu các dịch vụ về vệ sinh môi trường để tạo điều kiện cho 
các công ty tư nhân tham gia vào lĩnh vực này. 
2.2 Mô hình đề xuất về vấn đề liên quan đến tài chính hỗ trợ 
Tổng mức đầu tư khái toán của dự án 3R cho đến hết năm 2009 tại Hà Nội 
khoảng gần 49,5 tỉ đồng (trong đó, vốn do Chính phủ Nhật Bản viện trợ không hoàn 
lại là 48 tỉ đồng, tương đương 3 triệu USD và vốn đối ứng từ ngân sách của Thành 
phố Hà Nội là gần 1,5 tỉ đồng)[9]. Phường Kim Liên nên có công văn trình lên Quận 
để yêu cầu phân bổ mức trợ cấp từ Qũy Bảo vệ môi trường cấp hợp lý ban đầu cho 
doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải. Mức trợ cấp theo 
mô hình đề xuất nên là 15 tỷ đồng. Đây là mức trợ cấp gần bằng mức trợ cấp tham 
tham khảo được đề xuất bởi công ty tư nhân kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác 
thải Vũ Nhựt Hồng, TP. Đồng Nai vào năm 2005.[6] 
 74 
 Mức phí thu gom và xử lý rác thải theo mô hình đề xuất, trong thời gian đầu 
sẽ duy trì tại mức đồng đều giữa các hộ dân (do công ty kinh doanh dịch vụ đưa ra). 
Sau đó mức phí này sẽ được điều chỉnh theo hướng người phát sinh rác thải trả tiền, 
tức là mức phí sẽ tùy theo mức rác thải phát sinh từ hộ gia đình bằng cách sử dụng 
phương pháp mua túi đựng rác như mô hình tại thành phố Kitakyushu Nhật Bản. 
Việc phân phối túi đựng rác sẽ do chính quyền phường Kim Liên đảm nhiệm hoặc 
dùng máy bán túi đựng rác tự động. Đối với các hộ dân thuộc diện nghèo, công ty 
URENCO vẫn trực tiếp đảm nhận thu gom để đảm bảo việc sử dụng dịch vụ môi 
trường của mọi người dân và ngăn chặn việc xả rác trái phép. 
2.3 Mô hình đề xuất về việc thu gom và xử lý rác thải 
Theo mô hình đề xuất, người dân khu vực phường Kim Liên sẽ được phát 
miễn phí hai thùng rác có màu khác nhau tương ứng với hai loại rác vô cơ và hữu 
cơ. Việc phân loại sẽ được các tình nguyện viên hướng dẫn và giám sát trong quá 
trình thử nghiệm – 6 tháng đầu. 
Việc thu gom rác thải sẽ được tiến hành 1 lần/ngày với rác thải hữu cơ và 2-3 
lần/ngày với rác vô cơ. Rác thải sau khi thu gom theo phương pháp tại chỗ (door-to-
door) sẽ được mang tới trạm trung chuyển rác thải và vận chuyển đến nhà máy xử 
lý rác Cầu Diễn xử lý, chế biến thành phân hữu cơ và các sản phẩm khác cung ứng 
cho sản xuất. Làng hoa Tây Hựu có mức tiêu thụ từ 50-100 tấn phân hữu cơ/ năm là 
đầu ra tiềm năng của thị trường phân hữu cơ từ rác thải tái chế[7]. Được biết, hiện 
quá trình đóng gói sản phẩm và vận chuyển các bao sản phẩm tại Nhà máy chế biến 
phế thải Cầu Diễn còn rất hạn chế và khó khăn do các khâu hầu hết đều tiến hành 
thủ công (sử dụng sức người là chủ yếu). Đoàn chuyên gia Nhật Bản đã khuyến 
nghị Thành phố Hà Nội đề xuất Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ 1 
máy nâng hàng và URENCO đã hoàn chỉnh bản đăng ký thiết bị này theo mẫu của 
JICA. Đây là một sự hỗ trợ quan trọng để phát huy lĩnh vực tái chế tại Việt Nam. 
 75 
KẾT LUẬN 
Thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản là một thị trường 
đã phát triển chín muồi, với tốc độ phát triển đứng đầu khu vực châu Á-Thái Bình 
Dương và đứng thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Thị trường tại Nhật Bản đạt được 
thành công đó là do những nguyên nhân sau đây: 1./ Các nguồn luật và chính sách 
điều chỉnh rác thải và kinh doanh rác thải hợp lý. Bên cạnh đó việc thực thi luật và 
chính sách cũng được chấp hành nghiêm túc, thể hiện rõ sự phối hợp đồng bộ giữa 
chính quyền trung ương – địa phương và doanh nghiệp; 2./ Nhận thức về môi 
trường của người dân Nhật Bản là khá toàn diện; chính nhân tố này đã thúc đẩy nhu 
cầu về dịch vụ môi trường và đặc biệt là rác thải lên cao; 3./sự tham gia tích cực của 
thành phần kinh tế tư nhân đã tạo nên một thị trường cạnh tranh, tận dụng được mọi 
nguồn lực một cách hiệu quả, có nhiều sáng kiến thúc đẩy thị trường phát triển. Có 
thể nói, thành phần kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp cũng 
như sử dụng dịch vụ, đặc biệt đối với rác thải công nghiệp. Trong lĩnh vực cung cấp 
dịch vụ rác thải rắn đô thị (hay còn gọi là rác thải thông thường), chính quyền thành 
phố chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ, song trên thực tế dịch vụ thường được 
chuyển giao cho các công ty tư nhân và các công ty này cũng thường nhận được trợ 
cấp từ chính quyền trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng xử lý rác thải. Những yếu tố 
tạo nên sự thành công trên cũng chính là các bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản mà 
Việt Nam cần phải học tập một cách linh hoạt, áp dụng một cách hợp lý tùy theo 
điều kiện của đất nước. 
Việt Nam hiện nay mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng thị trường kinh 
doanh dịch vụ liên quan đến rác thải và còn gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu là khó 
khăn trong việc quản lý rác thải ví dụ như các chính sách về môi trường chưa có sự 
thống nhất giữa hai Bộ quản lý trực tiếp là Bộ Tài nguyên Môi trường và Bộ Xây 
dựng. Thành phần tham gia thị trường chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước 
với vốn trợ cấp lên tới gần 80% tổng vốn hoạt động. Các doanh nghiệp nhà nước 
này mặc dù đã có nhiều cố gắng xong việc thu gom, xử lý rác thải vẫn chưa đáp ứng 
 76 
được nhu cầu thực tiễn và cơ chế hoạt động còn chưa được năng động. Mặc dù đã 
có một số mô hình kinh doanh thành công dịch vụ này như mô hình công ty tư nhân 
Huy Hoàng tại Lạng Sơn song mô hình này vẫn chưa được nhân rộng trên toàn 
quốc. Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác 
thải tại Việt Nam, dựa vào thực tiễn tại Việt nam và những bài học kinh nghiệm từ 
Nhật Bản trong việc xây dựng mô hình kinh doanh này như đã nói trên chúng ta cần 
phải hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến rác thải, nâng cao hiệu quả quản lý 
rác thải, nâng cao hiệu quả của cá hình thức tuyên truyền giáo dục về môi trường; 
cần đưa ra biện pháp thu hồi chi phí hợp lý nhằm đảm bảo tính bền vững của các 
hoạt động đầu tư liên quan đến kinh doanh rác thải và cuối cùng, cải thiện đâu tư 
và vận hành các dịch vụ liên quan đến rác thải. Cụ thể việc tiến hành những giải 
pháp trên như thế nào đã được trình bày rõ trong khóa luận. Cuối cùng, khóa luận 
cũng đưa ra đề xuất áp dụng mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại 
Việt Nam (học tập từ mô hình của thành phố Kitakyushu, Nhật Bản). Đây mới chỉ 
là mô hình đề xuất và cần có sự nghiên cứu sâu hơn nữa để có thể áp dụng trong 
thực tiễn trong thời gian tới. 
 Việt Nam hiện nay với tư cách là thành viên chính thức của WTO sẽ có 
nhiều điều kiện để phát triển thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải 
hơn nữa với sự giúp đỡ của Nhật Bản qua các nguồn vốn viện trợ ODA và với sự 
hoàn thiện về cơ chế chính sách chung. Hy vọng rằng, khóa luận này cùng với 
những giải pháp nêu trên sẽ giúp cho thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến 
rác thải tại Việt Nam được cải thiện và phát triển trong thời gian tới. 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 
1. Lê Qúy An chủ biên (2004) Việt Nam - môi trường và cuộc sống, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà nội, Việt Nam. 
2. GS.TS. Nguyễn Đình Hương chủ biên (2006) Gíao trình Kinh tế chất thải, 
NXB Giáo dục, Hà Nội, Việt Nam. 
3. GS.TS. Trần Hiếu Nhuệ và GS.TS.Virginia Maclaren (2005) Quản lý chất 
thải ở Campuchia, Lào và Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học và 
kỹ thuật, Hà Nội, Việt Nam. 
4. Bộ Tài nguyên môi trường, Ngân hàng thế giới (World Bank) và Cơ quan 
phát triển quốc tế Canada-CIDA (2004) Báo cáo diễn biến môi trường Việt 
Nam: Chất thải rắn, World Bank, Hà Nội, Việt Nam. 
5. Luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2005 
6. Báo Đồng Nai (19/5/2008) Nhà máy xử lý rác thải thành phân vi sinh: Khó 
khăn vẫn còn,  
7. Báo Đời sống và Pháp luật (13/05/2008) Phân loại rác tại nguồn: Rác đẻ ra 
tiền,  
8. Trung tâm sản xuất sạch Việt Nam (13/03/2008) Vai trò của tái chế rác thải 
trong xã hội hiện đại,  
9. Báo Vietnamnet (23/05/2008) Dân Hà Nội tập phân loại rác tại nhà, 
10. Báo Kinh tế và Đô thị (29/4/2008) Kim Liên ngày ấy và bây giờ, 
11. ATGT- ANHH – BVMTB (25/05/2008) ISO 14001 với vấn đề môi trường 
Việt Nam,  
12. Tạp chí Cộng sản điện tử (19/04/2008) Tại sao mô hình công ty trách nhiệm 
hữu hạn Huy Hoàng chưa được nhân rộng,  
 TÀI LIỆU TIẾNG ANH 
13. Asian Development Bank (2005) Asian Environment Outlook2005-Making 
Profits, Protecting Our Planet: Coporate Responsibility for Environmental 
Performance in Asia and the Pacific, Manila, ADB. 
14. JETRO (2004) Guide to Business Opportunities in Japan (Environmental 
Market), Japan. 
15. OECD (1997) Glossary of Environment Statistics, Studies in Methods, Series 
F, No. 67, United Nations, New York. 
16. UNEP (1992) Basel Convention on the Control of Transboundary Movement 
of Hazadous Wastes and Their Disposal 
17. Waste Management and Public Cleasing Law (2001), Japan. 
18. World Bank Institue (2002) Protecting the global environment : initiatives 
by Japanese business, World Bank Publications, Washington D.C. 
19. Asa Guilamo (2007) Japanese Policy for Environmental Innovation as a 
Way to Realize Growth, 
www.itps.se/Archive/Documents/Swedish/Publikationer/Rapporter/Allmänn
a/A2007/A2007_008_webb.pdf 
20. Ryokichi Hirono (2004) Environmental Industry Development in Selected 
Asian Developing Countries: China, India, Indonesia and Republic of Korea, 
www.iges.or.jp/en/ltp/report_ei.html 
21. Masako Ito (2006) Environmental Consciousness Increases in Japanese 
Business, www.jetro.go.jp/en/market/report/pdf/2006_20_ms.pdf. 
22. Aparna Sawhney & Rupa Chanda (2003) Trade in Environmental Services 
Opportunities and Constraints, 
environment.org/page/theme/service.htm 
23. Izumi Tanaka & Eva Ahlner (2003) Environmental Driver as a Driver of 
Techonology and Business Development in Japan, Arbetsrapport, 
www.innovation.lv/ino2/publications/R2003_009.pdf 
 24. Nguyen Thi Thuc Thuy (2005) Audit and Separation of Compostable Solid 
Wastes at Household in Danang Vietnam, 
econ/res-pub.html 
25. Adam D. Watson (2004) An Examination of Vietnam’s Urban Waste 
Managament Capacity,  
26. Foreign Affairs and International Trade Canada (2007) Environmental 
Industries Profile-Japan,  
27. IGES (2001) Community Based Solid Waste Management in Kitakyushu, 
www.iges.or.jp/kitakyushu/sp/swm/3%20Kitakyushu%20(Paper).pdf. 
28. MOE (2007) Technologies to Support a Sound-material Cycle Society: 
Development for 3R and Waste Management Technologies, 
29. MOE (2006) Sweeping Policy Reform Towards a “Sound Material-cycle 
Society” Starting from Japan and Spreading over the entire Globe –the 
“3R” loop connecting Japan with other countries,  
30. USITC (2004) Solid and Hazardous Waste Services: An Examination of U.S. 
and Foreign Markets,  
31. Urban Development Sector Unit East Asia and Pacific Region (1999) What a 
Waste: Waste Management in Asia, 
siteresources.worldbank.org/INTEAPREGTOPURBDEV/Resources/whataw
aste.pdf 
 i 
PHỤ LỤC 
Phụ lục 1 
DANH SÁCH MỘT SỐ LOẠI RÁC THẢI HỮU CƠ VÀ RÁC THẢI VÔ CƠ 
Rác thải hữu cơ: 
• Thóc lúa (khô) 
• Rau và hoa quả bỏ đi 
• Những rác thải nhà bếp 
• Bánh mì 
• Vỏ hoa quả 
• Những túi trà nhỏ 
• Bã cà phê 
• Lá cây và những nhánh thực vật 
Rác thải vô cơ: 
• Nhựa và nilong 
• Quần áo vải vóc 
• Kính 
• Gốm 
• Phế liệu kim loại 
• Giấy và cac-tông (*) 
Chú ý: (*) mặc dù giấy và cac-tông có thể được chế biến thành phân hữu cơ nhưng 
chúng không được liệt kê trong danh sách vì chúng cần phải được tái chế và tái sử 
dụng. 
 ii 
Phụ lục 2: 
Danh sách các dự án ODA về môi trường 
STT Tên dự án 
Thời gian 
thực hiện 
Kinh phí (đô la 
Mỹ) 
Cơ quan điều 
hành 
Mục tiêu 
Tình trạng 
và ghi chú 
ADB 
 Hợp phần về chất thải 
rắn trong dự án Cải 
thiện môi trường 
Thành phố Hồ Chí 
Minh (Vốn vay số 
1702) 
2000-2006 100.000.000 Sở Tài nguyên 
và Môi trường 
Thành phố Hồ 
Chí Minh, 
Các đơn vị 
thực hiện dự 
án 
Hỗ trợ nâng cao năng lực và 
tở chức để:xây dựng cơ sở hạ 
tần đô thị thích hợp và quản lý 
các dịch vụ ở các đô thị bền 
vững và hiệu quả cải thiện 
môi trường và giảm nguy cơ 
mắc các bệnh do môi trường; 
xây dựng và quản lý các dịch 
vụ ở đô thị và phát triển cơ sở 
hạ tầng có kế hoạch và bền 
vững. Dự án do Cơ quan hợp 
tác và phát triển na Uy 
NORAD tài trợ(2002-2004): 
xây dựng quy hoạch tổng thể 
Thực hiện 
được 12% 
công việc 
trong 68% 
tổng thời 
gian của cả 
dự án 
 iii 
vùng về chất thải nguy hại và 
Quan trắc chất lượng không 
khí. 
 Quản lý chất thải 
nguy hại 
1997-1998 600,000 Bộ Khoa học 
Công nghệ và 
Môi trường 
Hỗ trợ Chính phủ thiết lập 
một hệ thống quản lý chất thải 
nguy hại phù hợp nhằm tăng 
cường quản lý chất thải rắn 
nguy hại 
Dự án đã 
hoàn thành 
AUL/AusAID 
 Phân loại tại nguồn và 
sản xuất phân 
compost từ chất thải 
sinh hoạt 
1997-1998 163,000 Đưa ra các công nghệ có giá 
thành thấp, mô hình quản lý 
chất thải rắn dựa vào cộng 
đồng 
Dự án đã 
hoàn thành 
 Tăng cường năng lực 
cho Công ty MTĐT 
Đà Nẵng 
12/2001-
12/2004 
2 triệu đô la Úc Công ty 
MTĐT Đà 
Nẵng 
• Cải thiện các dichj vụ về 
nước thải và vệ sinh môi 
trường ở Đà Nẵng 
• Nâng cao năng lực cho 
công ty Môi Trường đô thị 
• Dự án nhằm cải thiện các 
dịch vụ điểu kiện vệ sinh và 
• Ban quản 
lý các 
dịch vụ 
• Duy trì 
và vận 
hành, 
chăm sóc 
 iv 
cung cấp nước sạch ở Đà 
Nẵng 
khách 
hàng và 
hệ thống 
quản lý 
môt 
trường 
CIDA 
 Dự án kinh tế chất 
thải 
2000-2005 2.109.915 Viện Chiến 
lược và Chính 
sách Khoa 
học & Công 
nghệ 
Cải thiện các cơ hội kinh tế, 
môi trường và điều kiện sống 
cho tất cả các cộng đồng và 
đặc biệt là cho công nhân thu 
gom rác có thu nhập thấp nhất 
ở Việt Nam 
Dự án đang 
thực hiện 
 Dự án Môi trường 
Việt Nam – Canada 
giai đoạn 2 
2000-2005 7.000.000 Cục BVMT, 
Bộ TN&MT 
Tăng cường năng lực quản lý 
ô nhiễm cho một số cơ quan 
cấp quốc gia và địa phương 
Dự án đang 
thực hiện 
DANIDA 
 Tăng cường quản lý 
chất thải rắn ở Nghệ 
An 
42 tháng 
bắt đầu từ 
tháng 10 
19.800.000 UBND tỉnh 
Nghệ An 
Công ty 
• Chất thải sinh hoạt và chất 
thải y tế được xử lý và phân 
hủy một cách bền vững về 
Dự án đang 
thực hiện 
 v 
năm 2001 MTĐT Nghệ 
An 
mặt môi trường ở thành phố 
Vinh và thị xã Cửa Lò 
• Xử lý chất thải rắn bền vững, 
phù hợp về môi trường ở tỉnh 
Nghệ An 
 Nâng cao năng lực 
giám sát môi trường 
và cải thiện công tác 
quản lý chất thải rắn 
ở Thái Nguyên 
30 tháng 
bắt đầu từ 
tháng 5 
năm 2004 
12.229.000 Sở TN&MT 
Công ty 
MTĐT 
• Cải thiện hệ thống thu gom, 
vận chuyển và xử lý chất 
thải rắn 
• Quản lý Môi trường 
• Nâng cao năng lực về kiểm 
soát và quan trắc ô nhiễm 
chất thải rắn 
Dự án đang 
thực hiện 
 Cải thiện quản lý chất 
thải rắn ở tỉnh Nghệ 
An giai đoạn III 
36 tháng 
bắt đầu từ 
cuối năm 
2005 
14.542.000 UBND tỉnh 
Nghệ An 
Công ty 
MTĐT Thành 
phố Vinh 
• Chất thải sinh hoạt ở thành 
phố Vinh và thị xã Cửa Lò 
• Tăng cường năng lực cho 
các Công ty Môi trường đô thị 
Nghệ An về trao đổi thông tin 
trong quản lý chất thải rắn 
Dự án đã 
được phê 
duyệt 
 Phát triển đô thị và 
công nghiệp ở thành 
2001-2004 2.467.000 Sở TN&MT 
Phú Thọ 
Nâng cao nhận thức về sản 
xuất sạch hơn và an toàn lao 
Đã hoàn 
thành giai 
 vi 
phố Viêt Trì Phú Thọ động; nâng cao năng lực cho 
các cán bộ kỹ thuật và quản lý 
về sản xuất sạch hơn và an 
toàn lao động 
đoạn 1 của 
dự án 
IAEA 
 Thiết lập cơ sở hạ 
tầng nhằm xử lý và 
quản lý chất thải 
phóng xạ 
1995-2001 208.000 Viện Năng 
lượng Nguyên 
tử Việt Nam 
Xây dựng chính sách và 
khung thể chế quốc gia và 
thiết lập cơ sở hạ tầng kỹ 
thuật phục vụ quản lý chất 
thải phóng xạ 
Dự án đang 
thực hiện 
PHÁP 
 Xử lý chất thải rắn ở 
Nam Định 
1999-2003 3.400.000 Nâng cao năng lực của cán bộ 
và tăng cường các hoạt động 
xử lý chất thải rắn 
Dự án đã 
hoàn thành 
JICA 
 Cung cấp các thiết bị 
cần thiết cho quản lý 
chất thải rắn ở thành 
phố Hà Nội 
2002-2003 7.790.700 Công ty 
MTĐT Hà 
Nội 
Nâng cao hiệu quả quản lý 
chất thải rắn ở Hà Nội cà cải 
thiện các thiết bị cần thiết 
Dự án đang 
thực hiện 
HUMC 
 vii 
 Nhà máy sản xuất 
phân compost Cầu 
Diễn(E3/97) 
1998-2000 4.000.000 Công ty 
MTĐT Hà 
Nội 
Cải thiện hoạt động xử lý chất 
thải bằng phương pháp sản 
xuất phân compost 
Dự án đã 
hoàn thành 
KfW 
 Chương trình nước 
thải và chất thải rắn ở 
các thành phố trực 
thuộc các tỉnh ở miền 
Trung và thành phố 
Vinh 
2003-2008 Đối với hợp phần về 
chất thải rắn:KfW: 3 
triệu Euro: Công ty 
MTĐT:886.000 
Euro 
Công ty 
MTĐT Thành 
phố Vinh 
Đảm bảo xử lý nước mưa chất 
thải rắn phù hợp với khả năng 
kinh tê của người dân 
Đang trong 
quá trình 
lựa chọn 
chuyên gia 
tư vấn 
SDC 
 Phát triển đô thị ở 
Nam Định (giai đoạn 
1) 
1996-1999 6.708.000 UBND tỉnh 
Nam Định 
Đây là giai đoạn đầu tiên 
trong quá trình cải thiện hệ 
thống thoát nước và vệ sinh; 
xây dựng và vận hành hệ 
thống thu gom chất thải rắn; 
hỗ trợ hệ thống cấp và phân 
phố nước 
Dự án đã 
hoàn thành 
 Phát triển đô thị ở 
Nam Định (giai đoạn 
2003-2006 12.695.000 UBND tỉnh 
Nam Định 
• Nâng cao năng lực cho 
chính quyền thành phố Nam 
Dự án trong 
dự kiến 
 viii 
2) Định trong quản lý và phát 
triển đô thị bền vững và phân 
bố dịch vụ theo yêu cầu một 
cách hiệu quả 
• Xây dựng các chương trình 
đầu tư trung hạn về các lĩnh 
vực như thoát nước, nước 
thải, chất thải rắn và cấp 
nước; 
• Tăng cường sự tham gia của 
cộng đồng trong quá trình 
phát triển bền vững đô thị 
 Phát triển đô thị ở 
Đồng Hới 
1997-2006 7.640.625 UBND tỉnh 
Quảng Bình 
Quá trình cải cách hành chính 
công; hỗ trợ quản lý chất thải 
rắn 
Dự án đang 
thưc hiện 
 Dự án chất thải nguy 
hại ở Nam Định 
2003-2006 1.971.735 Xây dựng một kế hoạch tổng 
thể, bền vững trong quản lý 
chất thải rắn nguy hại bao 
gồm giảm thiểu đến mức tối 
đa tái sử dụng, tái chế và xử 
Dự án đang 
thực hiện 
 ix 
lý an toàn. 
Xây dựng các dự án và các 
yêu cầu và nguồn tài nguyên 
chính nhằm tiến hành quản lý 
chất thải rắn hiệu quả 
 Phát triển đô thị ở 
thành phố Huế 
1996-1999 5.072,000 UBND thành 
phố Huế 
Hỗ trợ các cơ quan chức năng 
địa phương nâng cao năng lực 
trong bảo vệ nguồn tài nguyên 
nước ngọt và vùng biển ven 
bờ nhằm phát triển du lịch bền 
vững; hỗ trợ thành phố trong 
quản lý chất thải rắn 
Dự án đã 
hoàn thành 
SWE/Skia 
 Tăng cường kiểm soát 
ô nhiễm và quản lý 
chất thải rắn ở các đô 
thị và khu công 
nghiệp ở Việt Nam 
1996-1997 313,000 Xây dựng hướng dẫn quốc gia 
về quản lý chất thải rắn ở dô 
thị và khu công nghiệp 
Dự án đã 
hoàn thành 
UNIDQ 
 Trung tâm sản xuất 1998-2003 2.800,000 Viện Khoa Truyền bá kiến thức về sản Dự án đã 
 x 
sạch hơn VIE/96/083 học và Công 
nghệ Môi 
trường , 
Trường Đại 
học Bách 
Khoa 
xuất sạch hơn và thúc đẩy áp 
dụng sản xuất sạch hơn trong 
các ngành công nghiệp nhằm 
giảm ô nhiễm ở Việt Nam 
hoàn thành 
USAID 
 Xã hội hóa công tác 
quản lý chất thải rắn ở 
thành phố Hồ Chí 
Minh 
2002-2003 142,000 Văn phòng 
Môi trường 
Mỹ-Á, Cơ 
quan Quản lý 
Thành phố/ 
tỉnh Quốc tế, 
Quỹ Châu Á 
Xây dựng khung pháp lý 
nhằm tăng cường sự tham gia 
của khu vực phi chính phủ 
vào công tác thu gom và quản 
lý chất thải rắn đô thị 
Dự án đang 
thực hiện 
WB 
 Kế hoạch hành động 
và Chiến lược quản lý 
chất thải rắn ở Hạ 
Long/ Cẩm Phả và 
Hải Phòng 
 400,000 UBND tỉnh 
Quảng Ninh 
và Hải Phòng 
Hỗ trợ các cơ quan chức năng 
ở Hạ Long và Hải Phòng xây 
dựng kế hoạch hành động và 
chiến lược quản lý chất thải 
rắn 
Dự án đang 
thực hiện 
 xi 
 Kế hoạch hành động 
và Chiến lược quản lý 
chất thải rắn ở Hạ 
Long/ Cẩm Phả và 
Hải Phòng 
1999-1999 250,000 UBND tỉnh 
Hải Phòng 
Hỗ trợ chính quyền địa 
phương xây dựng kế hoạch và 
chiến lược quản lý chất thải 
rắn 
Dự án đã 
hoàn thành 
 Xử lý nước thải và 
chất thải rắn ở miền 
Bắc 
 8.690,000 Tăng cường hoạt động xử lý 
chất thải rắn vằ nước thải ô 
nhiễm ở miền Bắc Việt Nam 
Dự án trong 
dự kiến 
WHO 
 Quản lý chất thải rắn 
y tế và các rủi ro liên 
quan (VTNEUD001) 
1998-1999 439,000 Bộ Y tế Cải thiện hoạt động xử lý chất 
thải bệnh viện và quản lý rủi 
ro 
Dự án đã 
hoàn thành 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
4184_9228.pdf