Giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ đã đánh dấu bước phát triển đi lên
mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong đó có thêm nhiều lĩnh vực kinh tế mới
được thai nghén và hình thành bên cạnh các ngành kinh tế cơ bản và lâu đời.
Logistics là một trong số đó. Với quá trình phát triển chưa lâu nên ngành dịch vụ
logistics Việt Nam hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập từ việc nhận thức trong
cộng đồng, việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan cho đến công tác tổ chức quản
lý của các bộ, ban, ngành và địa phương.
112 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5004 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nước Asean và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành
lập, chúng ta thấy hình thành một đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ đại học, nhiều
tham vọng nhưng kinh nghiệm kinh doanh quốc tế và tay nghề còn thấp. Lực
lượng này trong tương lai gần sẽ là nguồn bổ sung và tiếp nối các thế hệ đi trước,
năng động hơn, xông xáo và ham học hỏi.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
77
2.2.5 Một số bất cập khác
Về tổ chức quản lý
Logistics là loại hình dịch vụ tổng hợp, có liên quan đến sự quản lý của nhiều
bộ ngành: giao thông vận tải, thương mại, bưu chính viễn thông, hải quan, đo
lường, kiểm định…Sự phân cấp tạo tách biệt trong lĩnh vực giao nhận và lĩnh vực
vận tải dẫn tới trong thực tế các cấp chính quyền, bộ, ngành và địa phương có
nhiều quy đinh cho việc giao nhận hàng phức tạp và tốn kém. Thủ tục thông quan
còn nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian và chi phí. Nhiều quy định về quản lý lưu
thông chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ, dịch vụ chuyển phát nhanh được
các nước phát triển coi là một trong các dịch vụ logistics, trong khi đó tại Việt
Nam được coi là một trong các dịch vụ bưu điện và từ đó bị điều tiết bởi các quy
định của bưu chính viễn thông.
Mặc dù chính phủ giữ vai trò chỉ đạo chung, nhưng theo chuyên ngành, hiện
nay các hoạt động logistics về cơ bản được phân chia theo các Bộ quản lý ngành
theo dõi như sau:
- Ngành giao thông vận tải: dịch vụ vận tải
- Ngành bưu chính viễn thông: dịch vụ chuyển phát bưu điện
- Ngành thương mại: dịch vụ giao nhận kho vận
Sự liên minh, liên kết trong ngành
Nhìn vào thực tế, có thể thấy hoạt động kinh doanh logistics của các doanh
nghiệp Việt Nam còn rất rời rạc, manh mún, biệt lập, thiếu hẳn sự liên kết cần
thiết. Trong ngành thiếu hẳn sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Trong nhiều dịch vụ còn
thể hiện sự cạnh tranh không lành mạnh ví dụ như giảm giá dịch vụ hang nhập
khẩu bằng cách trả lại tiền cho người uỷ thác nước ngoài; trả mức hoa hồng quá
cao, thậm chí còn cao hơn mức cước phí cho hàng xuất khẩu để giành dịch vụ
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
78
đóng gói và gom hàng. Nguyên nhân này làm giảm sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam với các đối tác nước ngoài.
Với điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ,
nếu biết liên kết, hợp tác thì sẽ tiết kiệm được nhiều loại chi phí như chi phí quản
lý, hành chính, thuê trụ sở, thông tin liên lạc… Bên cạnh đó tập trung vốn cũng
khiến các doanh nghiệp có thể mở rộng loại hình dịch vụ cung cấp.
Tập quán kinh doanh quốc tế
Trong thương mại quốc tế, phần lớn các nhà xuất khẩu của Việt nam chủ yếu
có thói quen xuất hàng theo điều kiện FOB, FCA, trong khi các nhà nhập khẩu chủ
yếu nua hàng theo điều kiện CIF, CIP. Như vậy, quyền định đoạt về vận tải luôn
thuộc về đối tác nước ngoài. Hậu quả là các công ty logistics Việt Nam sẽ là người
ngoài cuộc. Bất cập này không phải dễ dàng giải quyết vì phần lớn các nhà xuất
khẩu của Việt Nam đều gia công hoặc xuất khẩu cho các khách hàng lớn - người
mà đã có những hợp đồng dài hạn với các công ty logistics. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh Việt Nam hiện nay còn chưa đủ điều kiện
tham gia thuê tàu chuyên chở hàng hoá.
Hơn thế nữa phần lớn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn còn chưa ý
thức trong việc đầu tư quản lý hiệu quả chuỗi cung ứng. Điều này thấy rõ ở chỗ
các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết không có phòng quản lý logistics hoặc chuỗi
cung ứng. Hoạt động này thường được hiểu và gộp vào chức năng của phòng kinh
doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo ra rào cản đối với các doanh nghiệp logistics
Việt Nam trong việc chào các dịch vụ logistics giá trị gia tăng.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
79
II. Cơ hội và thách thức đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt
Nam trƣớc bối cảnh hội nhập
1. Những cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ logistics
1.1 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ logistics khi gia nhập WTO
Những cam kết của Việt Nam trong WTO liên quan tới dịch vụ logistics chủ
yếu nằm trong Biểu cam kết về thương mại và dịch vụ hay chính là lộ trình cam
kết về thương mại dịch vụ.
Về mức độ tự do hoá
Đối với dịch vụ vận tải biển, Việt Nam gần như mở cửa hoàn toàn ngay từ
khi gia nhập đối với lĩnh vực này với việc cho phép các công ty vận tải quốc tế
được sử dụng và không phân biệt đối xử với nhiều loại hình dịch vụ như hoa tiêu;
lai dắt; cung cấp lương thực, thực phẩm, nhiên liệu và nước; thu gom nước và
nước dằn thải; dịch vụ của cảng vụ; phao tiêu báo hiệu;... Trong khi đó, ở các lĩnh
vực dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa và đường hàng
không, chúng ta thực hiện tự do hoá theo lộ trình chặt chẽ hơn.
Về hình thức hiện diện thương mại của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
Đối với các dịch vụ vận tải, đa số đều cam kết ngay sau khi gia nhập sẽ cho
phép thành lập liên doanh với nước ngoài nhưng tỷ lệ góp vốn của phía nước
ngoài thường không vuợt quá 49% - 51%. Sau thời gian gia nhập khoảng từ 3 đến
5 năm Việt Nam sẽ cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài ở hầu hết
các phương thức vận tải.
Lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải được cam kết cụ thể như
sau: đối với dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay, kể từ
ngày gia nhập nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ được phép cung cấp dịch vụ
thông qua liên doanh với đối tác Việt Nam với tỷ lệ vốn góp không quá 50%; với
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
80
dịch vụ kho bãi và dịch vụ đại lý vận tải hàng hoá, Việt Nam không hạn chế tiếp
cận thị trường, ngoại trừ kể từ ngày gia nhập cho phép thành lập liên doanh trong
đó tỷ lệ vốn nước ngoài không được vượt quá 51%, sau 7 năm kể từ khi gia nhập,
không hạn chế.
Đối với các dịch vụ khác, Việt Nam chưa cam kết trừ dịch vụ môi giới vận tải
hàng hoá, không hạn chế sau 5 năm kể từ khi gia nhập. Kể từ ngày gia nhập, các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ thông qua thành lập
liên doanh với đối tác Việt Nam với tỷ lệ vốn góp không quá 49%. Sau 3 năm, hạn
chế này sẽ là 51%, 4 năm sau đó, hạn chế về vốn sẽ được bãi bỏ.
Theo đánh giá, Việt Nam đã đạt mức tự do hóa có ý nghĩa với một lộ trình
hợp lý cho các phân ngành bổ trợ dịch vụ logistics. Việt Nam cũng đã đạt được
mức độ bảo hộ cần thiết đối với một số ngành và phân ngành dịch vụ nhạy cảm
như dịch vụ chuyển phát, dịch vụ phân phối, dịch vụ vận tải đường sắt và vận tải
đường bộ nội địa. Một số phân ngành dịch vụ chúng ta có lợi thế cung cấp như
dịch vụ xếp dỡ container với hàng hóa vận chuyển đường biển, đại lý kho bãi và
đại lý vận tải hàng hóa, dịch vụ thông quan,… thì đặt tỷ lệ khống chế vốn góp
nước ngoài không vượt quá 50% hoặc đặt ra lộ trình cho phép tăng vốn góp của
phía nước ngoài từ 5-7 năm.
1.2 Các thoả thuận khu vực
Hiệp định khung ASEAN về tạo thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh
Hiệp định được ký kết vào năm 1998, đã có hiệu lực. Các nước ASEAN dành
cho nhau đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia trong việc vận tải hàng hoá quá
cảnh giữa các nước thành viên. Về cơ bản, Hiệp định cho phép các phương tiện
vận tải chở hàng hoá quá cảnh được đi suốt không phải thay đổi phương tiện vận
tải. Các nước thành viên công nhận lẫn nhau giấy phép lái xe và giấy kiểm định kỹ
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
81
thuật xe cơ giới thương mại do các nước thành viên cấp. Các quy định khác của
Hệp định về vận tải hàng hoá quá cảnh cơ bản giống Hiệp định GMS.
Lộ trình hội nhập nhanh ngành dịch vụ logistics trong ASEAN
Lộ trình đã được ký kết tại Hội nghị không chính thức các Bộ trưởng Kinh tế
ASEAN (AEM Retreat) tháng 5/2007. Trong ASEAN, bản dự thảo lộ trình Hội
nhập nhanh ngành logistics đã được thảo luận tại các diễn đàn khác nhau như Hội
nghị các Quan chức kinh tế cao cấp (STOM), Hội nghị các Quan chức Cao cấp về
viễn thông (TELSOM), Ủy ban điều phối về Hải quan (CCC) và Ủy ban điều phối
về dịch vụ (CCS).
Xét về phạm vi, dịch vụ logistics trong ASEAN gồm 11 phân ngành sau:
Dịch vụ xếp dỡ hàng hóa trong vận tải biển; dịch vụ kho bãi; dịch vụ đại lý vận tải
hàng hóa; các dịch vụ bổ trợ khác; dịch vụ chuyển phát; dịch vụ đóng gói; dịch vụ
thông quan; dịch vụ vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển, loại trừ vận tải ven
bờ; dịch vụ vận tải hàng không; dịch vụ vận tải đường sắt quốc tế; dịch vụ vận tải
đường bộ quốc tế.
Trong nội bộ ASEAN, thời hạn 2013 đã được đặt ra để tự do hóa hầu hết
các phân ngành chủ yếu trong dịch vụ logistics. Bước tiến đáng kể trong tự do
hóa dịch vụ logistics trong ASEAN được thể hiện trong phân ngành dịch vụ vận
tải hàng hóa bằng đường hàng không sẽ được tự do hóa hoàn toàn vào năm 2008.
2. Cơ hội và thách thức đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
trƣớc bối cảnh hội nhập
2.1 Cơ hội trong việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
Theo dự báo của các chuyên gia, trong tương lai khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương sẽ là khu vực có tốc độ tăng trưởng của thị trường dịch vụ logistics cao
nhất thế giới. Giá trị thị trường logistics tại khu vực này được dự kiến có tốc độ
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
82
tăng trưởng cao hơn so với thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu với tốc độ trung bình
khoảng 7% trong giai đoạn 2006 – 2010. Nằm trong khu vực thị trường năng động
như vậy là một điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam phát triển ngành dịch vụ
logistics. Trên thực tế, các nhà cung cấp dịch vụ logistics thế giới đều nhận định
Việt Nam là thị trường tiềm năng cho ngành dịch vụ này phát triển và lớn mạnh.
Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ logistics sẽ trở thành một ngành
kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong
10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ
USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn.
Hơn nữa, Việt Nam cùng với Trung Quốc và Ấn Độ đang là những nơi hấp
dẫn cho hoạt động đầu tư vào dịch vụ logistics. Quá trình toàn cầu hoá cùng với
việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất từ các nước phát triển sang các nước đang
phát triển đã tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất của thế giới.
Hầu hết các công lớn như Wal-Mart, General Mators, Toyota, Dell, Procter &
Gamble, Nike,… đều có cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Mặt khác, các tập đoàn đa
quốc gia trên thế giới hiện nay ngày càng có nhu cầu thuê ngoài dịch vụ logistics,
khi họ thiết lập mạng lưới sản xuất kinh doanh tại Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy
nhu cầu dịch vụ logistics tại Việt Nam gia tăng mạnh.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương còn là khu vực quy tụ nhiều quốc gia có
kinh nghiệm phát triển ngành dịch vụ logistics như Singapore, Nhật Bản, Hồng
Kông và gần đây nhất chứng kiến sự nổi bật của Trung Quốc. Đây là một điều
kiện tốt cho Việt Nam học hỏi kinh nghiệm tiến tới hợp tác hình thành một mạng
lưới logistics trong khu vực. Với việc tham gia tích cực và chủ động vào mạng
lưới này, các doanh nghiệp logistics Việt Nam có cơ hội kinh doanh hiệu quả, phát
triển quy mô hoạt động, nâng cao trình độ quản lý và cung cấp dịch vụ và hơn thế
nữa là cơ hội tham gia vào mạng lưới logistics toàn cầu.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
83
Trong xu thế hội nhập, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
Thương Mại Thế giới – WTO đồng thời là thành viên ngày càng có vai trò quan
trọng trong tổ chức khu vực ASEAN. Việc Việt Nam tham gia vào các cam kết và
lộ trình hợp tác ngành dịch vụ logistics trong khu vực và trên thế giới là động lực
cho cả chính phủ và khối doanh nghiệp tích cực bắt tay hợp tác xây dựng định
hướng đúng đắn và nâng cao hiệu quả hoạt động cho toàn ngành. Bởi nếu không
có những bước đi cần thiết này thì thị trường dịch vụ logistics còn non trẻ của Việt
Nam sẽ sớm bị chiếm lĩnh bởi các công ty kinh doanh dịch vụ logistics tên tuổi
nước ngoài.
2.2 Thách thức trong việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam
Hạn định 2009 mở cửa thị trường dịch vụ logistic Việt Nam cho các doanh
nghiệp nước ngoài không còn xa. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho
phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình
đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh
tranh gay gắt trên sân nhà. Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế, sự
lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng từ
phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh
nghiệp logistic trong nước.
Hiện tại các tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới như APL, Mitsui OSK, Maerk
Logistics, NYK Logistics,... đã có mặt tại Việt Nam. Những tập đoàn hùng mạnh
với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ với
hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép
kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao,
đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước
Cạnh tranh sẽ càng khốc liệt và bất lợi đối với các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ logistics Việt Nam khi hoạt động mua lại và sát nhập nhằm tận dụng lợi
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
84
thế về quy mô đang trở thành một trong những xu hướng chủ yếu của thị trường
dịch vụ logistics toàn cầu. Điều này sẽ dẫn đến một số công ty cung cấp dịch vụ
nhỏ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi, với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn và điều tất yếu là
áp lực giảm giá. Trong khi đó, các nhà phân tích thị trường đều khẳng định chủ
yếu các công ty cung cấp dịch vụ logistics Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ,
nếu các công ty này không biết nâng cao hiệu quả hoạt động hoặc chủ động liên
kết với nhau thì trong tương lại không xa rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics của Việt Nam sẽ bị loại khỏi thị trường hay bị thôn tính bởi các công
ty nước ngoài.
Trong những năm gần đây, sự bất ổn của giá dầu thô sẽ trực tiếp ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trên toàn cầu không ngoại trừ
các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt với các quốc gia có mạng lưới giao thông
đường bộ hoạt động thiếu hiệu quả và tồn tại nhiều bất cập như Việt Nam, ảnh
hưởng này cảng trở nên sâu sắc và đây là một trở ngại rất lớn đối với các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước nói riêng và đối với toàn nền kinh
tế nói chung.
Trong môi trường kinh doanh dịch vụ hiện nay, ngày càng nhiều các biện
pháp nâng cao tính an toàn của hàng hoá được áp dụng. Chưa bao giờ mà vấn đề
an ninh được đặt lên thành ưu tiên hàng đầu trong quản trị chuỗi cung ứng và hoạt
động logistics như hiện nay. Các tiêu chuẩn về an ninh trong chuỗi cung ứng và
hoạt động logistics hiện nay có thể kể đến như sau: ISO 28000/1/3/1, WCO SAFE,
TAPA, ASIS, ICAO, IMO/ISPS, Dangerous Goods…Các bộ tiêu chuẩn trên đòi
hỏi nhà cung cấp dịch vụ logistics phải đạt một trình độ nhất định mới có thể đảm
bảo điều kiện cung cấp dịch vụ. Khi các công ty đa quốc gia thâm nhập vào thị
trường Việt Nam càng nhiều thì xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn này càng gia
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
85
tăng. Đây thực sự là một rào cản đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics Việt Nam khi muốn tiếp cận đối với nhu cầu thị trường.
Bên cạnh đó, một trong những khó khăn không nhỏ cho ngành logistics của
Việt Nam là nguồn nhân lực đang thiếu một cách trầm trọng. Từ trước tới nay, các
trường đại học, cao đẳng chuyên ngành ngoại thương, hàng hải, giao thông vận tải
cũng chỉ đào tạo chung các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương, vận tải.
Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về loại hình dịch vụ này cũng chưa nhiều.
Ngay cả như các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp trong lĩnh vực này vẫn
còn quá ít so với yêu cầu phát triển.
III. Định hƣớng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở kinh
nghiệm một số nƣớc ASEAN
1. Dự báo nhu cầu dịch vụ logistics trong tƣơng lai của nền kinh tế Việt Nam
Trong báo cáo có tên “Foresight 2020” do Economist Intelligence Unit
(EIU), cơ quan phân tích dự báo kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam giai đoạn 2006-2010 đạt 7%, rất cao so mức trung bình của thế giới là
4%, chỉ đứng sau Trung Quốc với 7,8%. EIU dự báo trong hơn 10 năm tới tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam đạt 5,4% đây vẫn là con số tăng
trưởng ấn tượng. Nhìn vào các con số tăng trưởng chúng ta có thể thấy được đà
phát triển rất lớn của ngành dịch vụ logistics. Nhu cầu logistics đối với hàng hoá
có thể được phân chia theo hai khu vực là logistics với hàng hoá xuất nhập khẩu
và logistics nội địa.
Về hàng hoá xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu trong những năm
trở lại đây tăng mạnh, đặc biệt là sau sự kiện Việt Nam ký Hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ vào năm 2001. Ta có thể quan sát sự tăng trưởng kim
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
86
ngạch xuất nhập khẩu gia đoạn 2000 – 2007 và dự báo trong 3 năm 2008, 2009,
2010 như trong bảng dưới đây.
Hình 3.2. Nhu cầu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2010
Đơn vị: triệu USD
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
110
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tỷ USD
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nguồn: Trang Thông tin thương mại, Bộ Công Thương -
Theo Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2010, cơ cấu
hàng hoá xuất nhập khẩu vào năm 2010 cũng có nhiều thay đổi. Về hàng xuất
khẩu, nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản giảm dần tỷ trọng trong cơ cầu hàng xuất
khẩu từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010. Nhóm hàng nhiên liệu,
khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21%
năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Riêng nhóm hàng công nghiệp và thủ
công mỹ nghệ tăng khá mạnh từ 45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010.
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị
công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập
khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên
Năm Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Tổng
kim ngạch
2000 14.483 15.637 30.120
2001 15.029 16.218 31.247
2002 16.706 19.746 36.452
2003 20.149 25.256 45.405
2004 26.503 32.075 58.578
2005 32.223 36.881 69.104
2006 39.605 44.410 84.015
2007 48.386 60.832 109.218
2008
(dự báo)
61.752 75.675 137.427
2009
(dự báo)
77.631 88.529 166.160
2010
(dự báo)
90.129 100.954 191.083
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
87
tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4%. Như vậy, nhiều mặt hàng được vận chuyển
bằng container như may mặc, thuỷ sản, cà phê, cao su…và các mặt hàng máy
móc, nguyên liệu phụ vụ sản xuất sẽ là những mặt hàng xuất nhập khẩu chính
trong những năm tới.
Trong thương mại hàng hoá quốc tế, khối lượng hàng chuyên chở bằng
đường biển luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Theo Cục Hàng Hải Việt Nam lượng hàng hoá qua các cảng biển Việt Nam năm
2010 sẽ là 280 triệu tấn, đến năm 2020 sẽ trên 500 triệu tấn. Trong đó, khối lượng
hàng vận chuyển bằng container sẽ tăng nhanh và đến 2010 có thể lên đến 6,5 –
7,5 triệu TEU (130 – 150 triệu tấn). Ngoài ra lượng hàng quá cảnh của Lào,
Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc sẽ tăng. Theo tính toán của các nhà chuyển
môn thì tỷ lệ vận chuyển bằng container đối với hàng hoá xuất nhập khẩu (hàng
khô) sẽ đạt 26,15% tốc độ tăng hàng năm là 25,5%. Hàng hoá Việt Nam sẽ vươn
tới các khu vực và có mặt ở nhều thị trường trên thế giới.
Về hàng hoá nội địa, cùng với nhu cầu phục vụ hàng hoá xuất nhập khẩu thì
vận tải và dịch vụ logistics đối với hàng nội địa là một nội dung quan trọng của hệ
thống logistics trong tương lai của đất nước. Xét riêng với cảng biển, hiện nay vận
chuyển hàng hoá bằng đường biển đã chiếm tới 83% tổng số hàng hoá cần vận
chuyển trong nền kinh tế quốc dân, trong đó vận tải biển nội địa chiếm từ 15 –
20%. Đến nay, lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển nội địa và khoảng 12
– 15 triệu tấn và đến năm 2010 là 30 – 40 triệu tấn. Dự kiến trong những năm tới
với việc tăng trưởng kinh tế khoảng 8%/năm và nhu cầu vận chuyển tăng từ 5 –
10% thì khối lượng vận chuyển bằng đường biển nội địa là rất lớn. Có nhiều việc
phải làm để tạo thuận lợi cho chu trình lưu chuyển của hàng hoá được thông suốt
giữa ba miền Bắc, Trung, Nam. Thời gian tới nhà nước đã có kế hoạch đầu tư các
xe tải có trọng tải lớn, các xe chuyên dụng nhất là các xe container. Ngành đường
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
88
sắt đang trong quá trình cải tổ để nâng cấp hiệu quả các sản phẩm đặc thù và thị
trường nội địa của mình. Hoạt động hàng không cũng được cải tiên như việc đổi
mới các hoạt động khai thác vận tải hàng không chuyên dụng tại các sân bay quốc
tế, dựng mới các sân bay nội địa, tăng cường năng lực xếp dỡ hàng hoá trên mặt
đất.
2. Định hƣớng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm
các nƣớc ASEAN
Trên cơ sở phân tích thực trạng ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam, chúng
ta đều thấy rằng một định hướng phát triển dịch vụ logistics đúng đắn đang là đòi
hỏi hết sức cần thiết tại Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, định hướng đó sẽ bao
gồm các lĩnh vực điều chỉnh hoạt động logistics như:
- Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải.
- Đổi mới và hiện đại hoá các nghiệp vụ kỹ thuật liên quan đến quá trình lưu
chuyển hang hoá.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống quản lý logistics hiện đại và hiệu
quả.
- Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội về logistics.
- Phát triển dịch vụ logistics hướng tới mô hình logistics điện tử dựa trên sự phát
triển của công nghệ thông tin, đưa logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn
trong quá trình đất nước hội nhập với xu thế toàn cầu.
Qua việc tìm hiểu quá trình quản lý và phát triển dịch vụ logistics tại một số
quốc gia trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan chúng ta có thể học tập
kinh nghiệm của các nước này để xây dựng một định hướng phát triển vừa phù
hợp với môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam đồng thời cũng dần hướng theo
xu hướng phát triển của khu vực và thế giới.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
89
2.1 Xây dựng chiến lƣợc phù hợp với thực trạng phát triển dịch vụ logistics
hiện nay tại Việt Nam
Chiến lược phát triển logistics cần được xây dựng trên cơ sở thực tiễn thị
trường ngành dịch vụ logistics hiện nay của Việt Nam kết hợp với tham khảo kinh
nghiệm từ một số nước đi trước trong khu vực và trên thế giới. Chiến lược cần đề
ra các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn như sau:
Mục tiêu trong ngắn hạn: cải thiện dần chất lượng dịch vụ logistics, đảm
bảo vấn đề thời gian và thông suốt trong phân phối hàng hoá đồng thời thực hiện
các biện pháp cắt giảm chi phí trong chuỗi cung ứng.
Mục tiêu dài hạn: hướng tới xây dựng một ngành dịch vụ logistics hiện đại
có tính hiệu quả và cạnh tranh cao; sử dụng phối hợp các phương tiện vận tải hiện
đại trong phân phối; nâng cao khả năng phục vụ của ngành; rút ngắn khoảng cách
về trình độ giữa các công ty logistics trong nước và công ty cung cấp dịch vụ nước
ngoài.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, một số biện pháp có thể áp dụng như sau:
Thành lập các đơn vị chỉ đạo quốc gia về logistics, phối hợp các bộ, các
ngành, các viện nghiên cứu và các cơ quan chức năng để xây dựng chiến lược phát
triển logistics cụ thể. Đồng thời phân công trách nhiệm nghiên cứu và thực hiện
triển khai cụ thể đến từng bộ, ngành để thực hiện việc phục vụ phát triển logistics.
Có những biện pháp khuyến khích động viên việc phát triển dịch vụ
logistics tại Việt Nam như khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
thiết bị kỹ thuật, giảm thuế cho các doanh nghiêp kinh doanh dịch vụ logistics, mở
đường liên kết, liên doanh về logistics, kêu gọi đầu tư về logistics, có những chế
tài thưởng phạt rõ ràng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ thuộc hoạt động
logistics.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
90
2.2 Xây dựng và hoàn thiện môi trƣờng pháp lý phát triển dịch vụ logistics
Ban soạn thảo luật cần tiếp thu những ý kiến đóng góp để kịp thời sửa đổi và
hoàn thiện các văn bản luật hiện hành quy định về dịch vụ logistics và hoạt động
kinh doanh dịch vụ logistics sao cho phù hợp với quan niệm của đa số các quốc
gia phát triển trong lĩnh vực này trên thế giới. Để làm tốt việc này cần tham khảo
thêm các văn bản pháp luật của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó cần xem xét lại tổng thể hệ thống pháp luật tránh quy định chồng
chéo giữa Luật thương mại 2005, Nghị định 140/2007/NĐ-CP với các luật quy
định về các hoạt động trong logistics như luật hàng hải, luật đường sắt, nghị định
về vận tải đa phương thức,…
Luật giao thông đường bộ cần được xem xét sửa đổi có quy định về trách
nhiệm của người vận tải. Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 cần được triển khai
thực hiện tốt với việc hoàn thiện các văn bản chi tiết dưới luật. Nghị định 10 về
dịch vụ vận tải biển đã được sửa đổi, cần xem xét sớm việc sửa đổi Nghị định 125
về vận tải đa phương thức để phù hợp với tình hình hiện nay sau khi Việt Nam gia
nhập WTO. Thực hiện có hiệu quả các công ước quốc tế về vận tải và liên quan
đến vận tải mà Việt Nam đã gia nhập, các Hiệp định của ASEAN và Khu vực về
vận tải và dịch vụ vận tải, về hải quan và về thương mại hoá để tạo thuận lợi cho
hoạt động logistics; tiếp tục xem xét các việc gia nhập các Công ước quốc tế và ký
kết các hiệp định khu vực và tạo thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ logistics nói
chung. Xứ lý các vấn đề mà các quy phạm pháp luật trong nước liên quan đến hoạt
động logistics chưa phù hợp theo nguyên tắc sửa đổi theo đúng điều ước quốc tế
và ban hành các quy phạm pháp luật mới. Qua đó tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho việc phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
91
2.3 Đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phƣơng tiện kỹ thuật hỗ trợ
cho sự phát triển của hệ thống logistics
Cũng như các nước ASEAN, Việt Nam cần phải phát triển ngành dịch vụ
logistics trên nền tảng cơ sở hạ tầng được quy hoạch và xây dựng một cách đồng
bộ từ hệ thống giao thông đường bộ, các cảng biển, cảng cạn (ICD) cho đến các
kho bãi, các khu đầu mối vận tải, cảng sông, cảng hàng không và hệ thống công
nghệ thông tin. Song song từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng là các biện pháp
thúc đẩy phát triển nhanh các phương tiện vận tải biển, vận tải ô tô, vận tải
đường sắt và phương tiện xếp dỡ hàng hoá, đặc biệt là làm hàng container. Việc
đầu tư phát triển hạ tầng một cách đồng bộ trong mối liên kết vận tải giữa đường
biển, đường bộ, đường sắt, đường không và đường thuỷ nội địa nhằm tạo điều
kiện cho việc áp dụng khép kín quy trình công nghệ vận tải đa phương thức và
logistics một cách có hiệu quả. Trước thực trạng phát triển hạ tầng ngành dịch vụ
logistics hiện nay tại Việt Nam chúng ta cần tập trung phát triển:
Đối với vận tải đường biển: tập trung xây dựng phát triển hệ thống cảng
biển, cảng container, cảng cạn, cảng nước sâu và nâng cấp đội tàu. Phát triển các
tuyến vận tải đặc biệt là các tuyến đường vận tải quốc tế. Có chính sách hỗ trợ
phối hợp giữa nhà nước và các tổng công ty, các doanh nghiệp để phát triển cơ sở
hạ tầng đường biển, hệ thống cơ chế quản lý khai thác cảng và các hoạt động vận
tải đường biển liên quan như các hoạt động nhằm đảm bảo an toàn hàng hải, công
nghiệp sửa chữa và đóng tàu, phát triển nguồn nhân lực hàng hải…
Đối với vận tải đường sông: tập trung xây dựng các cảng đầu mối khu vực
và các cụm cảng, xây dựng ở mỗi tỉnh (chủ yếu là ở phía Nam) một cảng hoặc bến
có trang thiết bị bốc xếp phù hợp, hiện đại hoá hệ thống báo hiệu đường thuỷ phù
hợp với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế; phát triển mạnh đội tàu sông theo hướng
đa dạng có cơ cấu hợp lý, chú trọng phát triển tàu tự hành, tàu chở container.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
92
Đối với vận tải đường sắt: đầu tư vốn, công nghệ để nâng cấp các tuyến
đường đã có, đổi mới và mở rộng các tuyến đường sắt, xây dựng các tuyến đường
nối liền các khu vực, các khu trung tâm công nghiệp, khu chế xuất, các cảng lớn
để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá. Tăng cường đầu tư các đầu máy, toa xe,
các thiết bị chuyên dụng để tăng năng lực vận chuyển hàng hoá đa dạng mọi
chúng loại, kích cỡ.
Đối với vận tải đường bộ: tập trung xây dựng và cải tạo các tuyến đường
cao tốc đảm bảo tải trọng cho các ô tô chuyên dụng lưu thông. Cần tăng cường
đầu tư phát triển đội xe chuyên dụng, đặc biệt là xe container, xây dựng các trạm
container trên bộ. Chú ý sự hợp lý về các chính sách, qui hoạch đường bộ để tránh
tình trạng tắc nghẽn giao thông bộ ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng vận
chuyển, lưu thông hàng hoá.
Đối với vận tải đường không
- Định hướng phát triển mạng lưới đường bay: hàng không Việt Nam cần
từng bước chuyển dịch cấu trúc toàn mạng đường bay của mình với ưu thế tần
suất cao và hai trung tâm trung chuyển khép kín Hà Nội – Tp Hồ Chí Minh nhằm
tạo khả năng chi phối đối với các luồng vận chuyển nội địa và giành thế cạnh
tranh cao đối với các luồng vận chuyển quốc tế đi/đến Việt Nam cũng như trong
khu vực Đông Dương, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương.
- Nâng cao năng lực vận tải, phát triển đội máy bay, phát triển hệ thống bảo
dưỡng và đảm bảo kỹ thuật. Mục tiêu phát triển đội máy bay của Việt Nam là để
đáp ứng các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, gắn với chiến lược phát triển mạng đường
bay, phát triển thị trường, tạo ưu thế cạnh tranh về tính hiện đại, mức độ tiện nghi
và chất lượng phục vụ.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
93
Đối với hạ tầng công nghệ thông tin: chúng ta cần trang bị những thiết bị
liên lạc, xử lý thông tin hiện đại phục vụ hoạt động thương mại cũng như ngành
dịch vụ logistics như: Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử EDI kết nối giữa Hải quan
với cảng sẽ tạo điều kiện giảm thời gian tủ tục, giảm thời gian vận chuyển và có
tác động tích cực tới toàn bộ hệ thống quản lý vận tải nói riêng và hệ thống
logistics nói chung.
Kinh nghiệm phát triển cơ sở hạ tầng ngành dịch vụ logistics tại các nước
ASEAN cũng cho thấy việc thu hút vốn đầu tư phát triển hạ tầng cũng là một nhân
tố hết sức quan trọng. Chính phủ nên lựa chọn một số lĩnh vực như dịch vụ kho
bãi và các loại hình dịch vụ được cung cấp trong các trung tâm logistics có khả
năng nâng cao được cơ sở hạ tầng để khuyến khích đầu tư. Hiện nay tại Việt Nam
có nhiều nguồn vốn khác nhau cho các dự án xây dựng hạ tầng như: vốn tư nhân
từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước; những khoản vay từ những ngân hàng
trong nước; nguồn vốn ODA; nguồn quỹ song phương đặc biệt từ Nhật Bản; thị
trường vốn quốc tế và tổng chi ngân sách quốc gia. Tuy nhiên trong vài năm tới
GDP và thu nhập theo đầu người của Việt Nam sẽ vượt ngưỡng cho phép của các
tổ chức viện trợ thế giới như Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á.
Bên cạnh đó thị trường tài chính của Việt Nam không được trang bị tốt để hỗ trợ
phát triển cơ sở hạ tầng. Trong chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm
2020 chúng ta cần 3 – 3,5 % GDP cho phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ ngành
nhưng theo ước tính, ngân sách nhà nước chỉ cung cấp được khoảng 2,3% GDP
như vậy phần thiếu hụt nhất thiết phải huy động đầu tư từ tư nhân cả trong và
ngoài nước. Chính phủ cần có một tầm nhìn để giải phóng các tiềm năng thương
mại của đất nước bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó chắc chắn sẽ cần có
sự kết hợp vốn của nhà nước và tư nhân. Một số biện pháp khuyến khích khu vực
tư nhân đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng có thể áp dụng như:
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
94
Chính phủ cần mở rộng danh mục kêu gọi đầu tư và xây dựng các dự án đầu
tư khả thi và hiệu quả đồng thời cũng hứa hẹn mang lại lợi ích cho nhà đầu tư.
Ví dụ trong lĩnh vực viễn thông, những dự án lớn cần kêu gọi vốn đầu tư như:
Chính phủ điện tử, thương mại điện tử, internet cộng đồng, điện thoại di động
3G, máy tính giá rẻ...
Việt Nam cần sớm đưa ra các quy định hay các chính sách khuyến khích xây
dựng các trung tâm logistics. Hiện nay mới chỉ có Luật Hàng hải mới đã công
nhận và bảo hộ quyền lợi của các tổ chức cá nhân trong đầu tư xây dựng,
quản lý và khai thác cảng biển.
Việt Nam nên khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức
như: hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT), hợp đồng xây dựng - vận hành -
chuyển giao (BOT), liên doanh (JV) công ty cổ phần (JSC),…
Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư với các hình thức thích
hợp. Thậm chí, đối với từng dự án, có thể cho phép áp dụng những cơ chế cụ
thể cho từng dự án, đảm bảo nhà đầu tư có lãi và thu hồi vốn đầu tư.
Thực hiện cơ chế một cửa đối với các thủ tục hành chính trong cấp phép đầu tư
2.4 Xây dựng môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở tuân thủ các cam
kết quốc tế về dịch vụ logistics
Như đã phân tích, trên thị trường dịch vụ logistics Việt Nam hiện nay các
công ty logistics và giao nhận trong nước tồn tại song song với các tên tuổi
logistics quốc tế với sự chênh lệch đáng kể về trình độ. Với từng đối tượng cụ
thể, chính phủ nên có các biện pháp quản lý riêng hiệu quả những vẫn phải đảm
bảo công bằng giữa các chủ thể trong ngành trên cơ sở tôn trọng các cam kết
quốc tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
95
Trước hết đối với hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty
giao nhận và cung cấp dịch vụ logistics trong nước, chính phủ nên có các chế tài
xử phạt nghiêm khắc. Tăng cường vai trò và sự cộng tác chặt chẽ của các hiệp hội
ngành nghề liên quan cũng là một biện pháp tích cực không những giảm thiểu
cạnh tranh không lành mạnh mà còn thúc đẩy liên kết trong ngành. Hiện nay ở
nước ta các hiệp hội liên quan đến hoạt động logistic có thể kể tên như Hiệp hội
giao nhận kho vận Việt Nam, Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội đại ký môi giới
hàng hải Việt Nam, Hiệp hội cảng biển Việt Nam, Hiệp hội vận tải ô tô Việt
Nam…Các hiệp hội cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc điều hoà lợi ích
giữa các thành viên, xử lý các tranh chấp trong nội bộ ngành và đại diện cho lợi
ích các thành viên trong nước trước các công ty nước ngoài.
Trong môi trường kinh tế hiện đại, vai trò của người tiêu dùng ngày càng lớn,
họ sẽ quyết định loại hàng hoá và dịch vụ nào được cung cấp trên thị trường và
cung cấp như thế nào. Đối với dịch vụ logistics cũng vây. Nhưng thực tế hiện nay
tại Việt Nam, các chủ hàng thường phải mặc nhiên công nhận mức phí do các nhà
vận tải, nhà giao nhận hay các công ty cung cấp dịch vụ logistics đưa ra mà chất
lượng dịch vụ thì chưa chắc đã đảm bảo. Vì vậy, chúng ta cần sớm thành lập Hiệp
hội chủ hàng Việt Nam để hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của các chủ hàng hội viên
trong các hoạt động logistics, trên cơ sở đó buộc các nhà cung cấp dịch vụ thực
hiện tiết giảm chi phí logistics và nâng cao chất lượng dich vụ.
Chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước ASEAN đặc biệt là
Singapore trong việc thu hút các công ty logistics quốc tế đặt trụ sở hoạt động tại
Việt Nam. Chính phủ nên khuyến khích bằng cách tạo điều kiện thuận lợi với cơ
chế một cửa trong cấp phép, ưu đãi thuế khi mới thành lập, không duy trì các hạn
chế trong quá trình hoạt động so với các doanh nghiệp trong nước. Với sự có mặt
của các tập đoàn logistics quốc tế, các công ty trong nước sẽ có điều kiện học hỏi
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
96
kinh nghiệm quản lý và sớm nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời họ cũng
nhận thấy cần phải tạo liên minh với nhau để đối trọng với các công ty nước
ngoài. Tuy nhiên, với thực trạng của Việt Nam hiện nay, ngành dịch vụ logistics
còn non trẻ, chúng ta cũng chỉ nên từng bước mở cửa đối với từng phân ngành cụ
thể và thực hiện theo đúng các cam kết khi gia nhập WTO và cam kết về hội
nhập ngành dịch vụ logistics trong khu vực ASEAN. Thực tế ở nhiều quốc gia
cho thấy kết hợp hài hoà giữa mở cửa từng bước ngành dịch vụ logistics với bảo
hộ ở mức cần thiết đối với các phân ngành dịch vụ nhạy cảm sẽ đem lại thành
công trong tương lai.
Phối hợp giữa các cơ quan có liên quan, trước hết là với Hải quan nhằm đơn
giản hoá chứng từ và hài hoà hoá thủ tục, qua đó tạo thêm thuận lợi cho hoạt động
dịch vụ logistics và thương mại.Vừa qua, Cục hàng hải Việt nam đã thành công
trong việc cải tiến thủ tục cảng biển, giảm đáng kể thời gian, giấy tờ khai báo và
thủ tục cho tàu ra vào cảng biển. Cần cải tiến hơn nữa, nhất là khi Việt Nam đã gia
nhập công ước FAL 65 công ước tạo thuận lợi cho hoạt động hàng hải.
2.5 Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ logistics
Như đã phân tích, nguồn nhân lực trong ngành dịch vụ logistics còn nhiều
hạn chế như thiếu các chuyên gia trong ngành, đội ngũ cán bộ không được đào
tạo bài bản… Tuy nhiên, đào tạo nguồn nhân lực là một quá trình lâu dài yêu cầu
phải lên kế hoạch cụ thể có tính đến việc tham khảo kinh nghiệm của một số
quốc gia trong khu vực đặc biệt là Singapore.
Trong ngắn hạn, Việt Nam cần đào tạo, tái đào tạo và nâng cao trình độ cho
đội ngũ nhân lực hiện có trong ngành. Hiệp hội giao nhận Việt Nam cần đóng
vai trò chủ đạo thu thập nhu cầu về đào tạo cũng như mời các chuyên gia trong
nước hoặc khu vực hỗ trợ đào tạo nội bộ tại các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
97
cấp quản lý cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong kế hoạch cử nhân viên giỏi
đi học tập nước ngoài. Ngoài việc hỗ trợ bằng kinh phí, nhà nước có thể hợp tác
với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm tạo điều kiện cho đội
ngũ nhân viên này tham gia các khoá học ngắn hạn tại nước bạn. Cuối cùng,
VIFFAS cũng cần đóng vai trò là bên trung gian giới thiệu doanh nghiệp với đội
ngũ lao động có trình độ đại học và cao đẳng chuyên ngành liên quan, có trình độ
ngoại ngữ, có kiến thức địa lý, ngoại thương, cập nhật thường xuyên kỹ thuật
mới trong nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế.
Trong chiến lược dài hạn, Chính phủ và các cơ quan chức năng tài trợ, hỗ
trợ, quan tâm trong xây dựng và hoạch định chính sách có định hướng, liên quan
đến ngành logistics. Trong tương lai, bộ giáo dục và đào tạo cần hợp tác với
Hiệp hội giao nhận Việt Nam đưa chương trình đào tạo về chuyên ngành
logistics vào các trường đại học, cao đẳng kinh tế ngoại thương và đào tạo trên
cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tìm kiếm
các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các chương trình đào tạo trong và
ngoài nước. Phối hợp và tranh thủ hợp tác với các tổ chức FIATA, IATA và các
tổ chức phi chính phủ khác để có nguồn kinh phí đào tạo thường xuyên hơn.
Về tổ chức tuyên truyền, VIFFAS nên tổ chức một diễn đàn riêng nhằm
mục đích trao đổi thông tin giữa các thành viên trong Hiệp hội và giữa Hiệp hội
với các cơ quan quản lý. Qua đó, các chương trình đào tạo sẽ được thông báo
rộng rãi đến các hội viên để tích cực tham gia và tổ chức đào tạo. VIFFAS sẽ
cung cấp các sách báo, tài liệu nghiệp vụ cho các hội viên để cùng tham khảo.
Thực hiện tốt các giải pháp có tính định hướng nói trên sẽ góp phần tăng
cường xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics ở nước
ta. Một nguồn nhân lực tốt, chất lượng sẽ là tiền đề cho sự phát triển và tăng
cường mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
98
2.6 Thúc đẩy hợp tác quốc tế và hƣớng tới xây dựng thị trƣờng chung về
dịch vụ logistics trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Kinh nghiệm của Singapore và gần đây hơn, Malaysia đang áp dụng hiệu quả
đó là tăng cường phát triển quan hệ quốc tế. Thông qua các quan hệ quốc tế về
kinh tế chúng ta có thể hình thành liên minh, liên kết với các hãng logistics lớn của
nước ngoài, tham gia vào thị trường của các nước này, học tập nhiều kinh nghiệm
về quản lý, tận dụng được lợi thế về quy mô, sức mạnh của liên minh, hợp tác.
Với quy mô và trình độ phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics trong nước hiện nay, trong 5 năm tới Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác chặt
chẽ với các đối tác kinh tế trong khu vực ASEAN đặc biệt là với các quốc gia phát
triển hơn như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia. Hợp tác kinh tế nói
chung và liên kết trong lĩnh vực dịch vụ logistics nói riêng ở cấp độ khu vực sẽ là
bước khởi đầu tạo đà cho liên kết rộng hơn với thế giới.
Trong bối cảnh thị trường vận tải và logistics thế giới đang ngày càng được tự
do hoá mạnh mẽ, xu hướng liên minh giữa các hãng để nâng cao sực mạnh cạnh
tranh ngày càng thể hiện rõ nét và đang tiến sâu vào các liên minh khu vực. Liên
minh, liên kết là xu thế phát triển hiện nay trên thế giới trong điều kiện toàn cầu
hoá ngành vận tải và logistics. Vì vậy, Việt Nam sẽ gặp những khó khăn trong
phát triển nếu vẫn đứng ngoài các liên minh khu vực và quốc tế lớn.
Người viết rất hy vọng rằng 6 định hướng phát triển dịch vụ logistics nói trên
sẽ giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các cấp quản lý trong quá
trình điều tiết thị trường dịch vụ logistics Việt Nam một cách hiệu quả, góp phần
nâng cao trình độ phát triển dịch vụ logistics nước ta theo kịp trình độ phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
99
KẾT LUẬN
Giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ đã đánh dấu bước phát triển đi lên
mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam trong đó có thêm nhiều lĩnh vực kinh tế mới
được thai nghén và hình thành bên cạnh các ngành kinh tế cơ bản và lâu đời.
Logistics là một trong số đó. Với quá trình phát triển chưa lâu nên ngành dịch vụ
logistics Việt Nam hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập từ việc nhận thức trong
cộng đồng, việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan cho đến công tác tổ chức quản
lý của các bộ, ban, ngành và địa phương.
Với mong muốn ngành dịch vụ logistics Việt Nam sẽ tìm ra hướng phát
triển và lớn mạnh trong tương lai, khoá luận đã đi tìm hiểu kinh nghiệm phát
triển của một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á từ đó xây dựng một số
định hướng phát triển đối với dich vụ logistics Việt Nam. Nội dung chính của
Khoá luận được trình bày trong 3 chương, cụ thể như sau:
Chương I: làm rõ các khái niệm logistics, dịch vụ logistics, nhà cung cấp
dịch vụ logistics và nhận định xu hướng logistics trong tương lai đó là xu hướng
logistics toàn cầu.
Chương II: tìm hiểu tổng quan về thực trạng phát triển dịch vụ logistics
khu vực Đông Nam Á, đi sâu nghiên cứu thực trạng phát triển dịch vụ logistics
của 3 nước ASEAN là Singapore, Malaysia và Thái Lan, qua đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm có thể áp dụng đối với Việt Nam.
Chương III: phân tích các điều kiện môi trường thuận lợi cũng như thực
trạng phát triển dịch vụ với nhiều bất cập hiện nay tại Viêt Nam từ đó đưa ra
định hướng phát triển dịch vụ logistics trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các
nước ASEAN, với những nội dung chính của định hướng như sau:
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
100
- Xây dựng chiến lược phù hợp với thực trạng phát triển dịch vụ logistics
hiện nay tại Việt Nam
- Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý phát triển dịch vụ logistics
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phương tiện kỹ thuật hỗ
trợ cho sự phát triển của hệ thống logistics
- Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở tuân thủ các cam
kết quốc tế về dịch vụ logistics
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ logistics
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế và hướng tới xây dựng thị trường chung về dịch
vụ logistics trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
Điểm thuận lợi trong nghiên cứu đề tài Khoá luận đó là khoảng cách phát
triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và Việt Nam không quá xa, quá
trình hình thành và phát triển dịch vụ logistics tại các quốc gia này cũng từng trải
qua giai đoạn như Việt Nam hiện nay. Vì vậy, khả năng áp dụng các kinh
nghiệm phát triển dịch vụ logistics của các nước này tại Việt Nam mang tính
thực tiễn cao. Tuy nhiên khó khăn rất lớn đó là, trong khu vực ngoài Singapore,
các quốc gia khác đều có trình độ phát triển ngành dịch vụ ở mức trung bình so
với thế giới thậm chí vẫn còn ở tình trạng hiểu không đúng và thấu đáo về ngành
dịch vụ này, vậy nên bài học đưa ra không nhiều và không mang tính điển hình.
Trong quá trình xây dựng khoá luận sẽ không tránh khỏi sai sót, em rất
mong nhận được sự đóng góp chân thành từ phía Thầy, Cô giáo và những Người
quan tâm. Em cũng mong muốn đề tài của mình sẽ được nhiều người tham khảo
và tiếp tục đi sâu nghiên cứu với mục đích đóng góp cho ngành dịch vụ logistics
nước nhà ngày càng phát triển và lớn mạnh.
Em xin chân thành cảm ơn!
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Lê Văn Bảy (2007), Những cam kết của Việt nam khi gia nhập WTO và những tác
động đến logistics và dịch vụ logistics, Tạp chí Vietnam Shipper, Số tháng 1.
2. Nguyễn Văn Chương (2007), Phát triển dịch vụ logistics khi Việt Nam gia nhập
WTO.
3. NguyenHieu (2007), Logistics tại Singapore, Tạp chí Vietnam Shipper, Số tháng 11.
4. NguyenHieu (2008), Những xu hướng chính trong hoạt động logistics năm 2007,
Tạp chí Vietnam Shipper, Số tháng 1.
5. Võ Nhật Thăng (2006), Dịch vụ giao nhận hàng hoá trong Luật thương mại, Tạp
chí Vietnam Shipper, Số tháng 9.
6. Anh Thư (2008), Việt Nam trên bệ phóng, Tạp chí Vietnam Shipper, Số tháng 1.
7. Nguyễn Như Tiến (2004), Logistics và khả năng áp dụng, phát triển logistics trong
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận ở Việt Nam, NXB Giao
thông vận tải.
8. Đoàn Thị Hồng Vân (2006), Quản trị logistics, NXB Thống kê.
9. Bộ Giao thông Vận Tải (2007), Hội thảo về logistics ASEAN - Nhật Bản.
10. Cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương & Tổng công ty hàng hải Việt Nam
(2008), Số tay kinh doanh logistics, NXB Tài Chính.
11. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật Thương mại 2005.
12. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007), Nghị định 140/2007/NĐ-CP.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
102
II. Tiếng Anh
1. A. Nesathurai (2003), Key Players in The Logistics Chain.
2. Coyle, Bardi, Langley (2003), The management of Business Logistics - A supply
chain perspective 7
th
Edition.
3. Doughlas M.Lambert, James R.Stock, Lisa M.Ellran (1998), Fundamentals of
Logistics Management, McGraw Hill.
4. Jose L. Tongzon (2004), Strategies for Developing Logistics Hubs: The Case of
Singapore
5. Kamonchanok Suthiwartnarueput (2007), The Current Situation of Thailand’s
logistics.
6. Ma Shuo (1999), Logistics and supply chain management, World Maritime
University.
7. Micheal Hugos (2003), Essentials of supply chain management, John Wiley &
Sons, Inc.
8. Nazery Khalid (2006), Developing Multimodal Transport in Malaysia: Improving
Links and Integration Across Transport Modes and The Logistics Chain.
9. Paul Amos (2007), Responding to global logistics trendswith a National Logistics
Strategy.
10. Robert J.Trent (2004), What everyone need to know about supply chain
management, Supply Chain Management Review.
11. Somnuk Keretho (2005), Thailand Single-Window e-Logistics - Roadmap &
Architecture.
12. Wilaiporn Liwgasemsan (2005), Public-Private Partnership - Development of
Logistics in Thailand.
13. ALMEC Corporation (2007), Draft Fact and Assessment Report for ASSEAN
Logistics Development Study.
Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Ngoại Thương - 2008
Phạm Quỳnh Anh Anh 6 – K43B – KT & KDQT
103
14. Asian Development Bank (2004, 2005, 2006, 2007, 2008), Asian Development
Outlook.
15. Asian Development Bank (2007), Malaysia Logistics Directory.
16. International Enterprise of Singapore, Lead Secrectariat, ERC Working Group on
Logistics (2002), Developing Singapore into a global integrated logistics hub.
17. Thailand Country Report (2005), Promoting Efficient and Competitive Intra-
ASEAN Shipping Services, PDP Australia Pty Ltd/Meyrick and Associates.
18. UNCTAD (2006), Negotiations on Transport and logistics Services: Issues to
Consider.
III. Website
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4121_8629.pdf