Đề tài Kinh tế phát triển - Đô thị hóa

Sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã chuẩn bị một tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thế nhưng, để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, “vấn đề đô thị hóa” đã trở thành một mối quan tâm rất lớn của các nhà chức trách Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực do đô thị hóa mang lại: Cơ sở vật chất – kỹ thuật được cải thiện đáng kể, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao; đó là vô số những mối đe dọa đã bộc lộ hay còn đang tìm ẩn, đang rình rập đến nền kinh tế, môi trường sống của con người. Cụ thể như: Ô nhiểm môi trường sống, ùn tắc và tai nạn giao thông, vấn đề nhà ở, đô thị hóa tự phát mà nguy hiểm nhất là nguy cơ dẫn đến khủng hoảng đô thị hóa ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra rất nhanh, đặc biệt là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẳng, Hải Phòng Qua trên, chúng ta đã thấy đô thị hóa ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế, xã hội cũng như môi trường sống của nước ta. Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu rõ hơn về thực trạng đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào?

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4583 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế phát triển - Đô thị hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu ----o0o---- Sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã chuẩn bị một tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thế nhưng, để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, “vấn đề đô thị hóa” đã trở thành một mối quan tâm rất lớn của các nhà chức trách Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực do đô thị hóa mang lại: Cơ sở vật chất – kỹ thuật được cải thiện đáng kể, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao; đó là vô số những mối đe dọa đã bộc lộ hay còn đang tìm ẩn, đang rình rập đến nền kinh tế, môi trường sống của con người. Cụ thể như: Ô nhiểm môi trường sống, ùn tắc và tai nạn giao thông, vấn đề nhà ở, đô thị hóa tự phát… mà nguy hiểm nhất là nguy cơ dẫn đến khủng hoảng đô thị hóa ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra rất nhanh, đặc biệt là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẳng, Hải Phòng… Qua trên, chúng ta đã thấy đô thị hóa ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế, xã hội cũng như môi trường sống của nước ta. Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu rõ hơn về thực trạng đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào? Khái niệm đô thị và đô thị hóa: Khái niệm đô thị: (Trong đề cương bài giảng xã hội học do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn). Đô thị là một kiến tạo lãnh thổ - xã hội, một hình thức cư trú mang tính toàn vẹn lịch sử con người được đặc trưng bởi các yếu tố: Số lượng dân cư tập trung cao trên một phạm vi lãnh thổ hạn chế (mât độ dân cư cao). Đại bộ dân cư làm các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp (tiểu thủ công, công nghiệp, buôn bán thương mại, dịch vụ, lao động trí óc…) Là môi trường sống trực tiếp tạo ra những thuận lợi cho sự phát triển xã hội và cá nhân (điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, môi trường văn hoá…). Giữ vai trò chủ đạo với các vùng nông thôn xung quanh và với toàn xã hội nói chung. Khái niệm đô thị hóa: Đô thị hóa là quá trình chuyển đổi liên tục của cấu trúc và tính chất lao động xã hội theo hướng từ nông nghiệp sang công nghiệp, từ công nghiệp sang dịch vụ và khoa học công nghệ, từ đơn giản đến phức tạp, từ hàm lượng trí tuệ nhỏ sang hàm lượng trí tuệ lớn, từ chân tay sang trí óc trên cơ sở của sự biến đổi công nghiệp ngày càng nhanh và rộng khắp. Tỷ lệ ĐTH: đại lượng thể hiện trình độ đô thị hoá của một nước, một vùng lãnh thổ. TLĐTH được tính bằng tỉ lệ phần trăm giữa số lượng dân cư đô thị so với tổng dân số của cả nước hoặc của vùng. TLĐTH phản ánh trình độ công nghiệp hoá, trình độ phát triển kinh tế xã hội nói chung. Muốn nâng cao TLĐTH cần tăng năng suất lao động trong nông nghiệp và phát triển mạnh công nghiệp, xây dựng các ngành dịch vụ. Phân loại ĐTH: ĐÔ THỊ HOÁ GIẢ TẠO: sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân di cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn, dẫn tới nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, dịch bệnh, vv. ĐTHGT thường xảy ra ở các nước chậm phát triển, ở những nơi có mức sống quá chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI VI: quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của các thành phố lớn, do kết quả của sự phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống, hệ thống nhà ở, công trình công cộng, dịch vụ. Quá trình ĐTHNV các thành phố lớn sẽ hình thành những vùng đô thị hoá rộng lớn, tạo ra các cụm đô thị, các liên đô thị, vv. ĐTHNV góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn và phổ biến lối sống thành thị. ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN: quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn như xây dựng nhà ở, tạo các tiện nghi sinh hoạt, lập các hệ thống dịch vụ công cộng, tạo các ngành nghề mới, kể cả công nghiệp, các sinh hoạt văn hoá, giáo dục, vv. Quy mô đô thị hóa ở Việt Nam: Nghị định của chính phủ về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị ban hnh ngy 5/10/2001 cĩ hiệu lực sau 15 ngy ký. Người ký l thủ tướng Phan Văn Khải. Đến năm 2007 cả nước đang có 729 đô thị bao gồm 2 đô thị đặc biệt: Tp HCM, Hà Nội; 4 đô thị loại 1: Hải Phòng, Đà Nẳng, Cần Thơ và Huế; 13 đô thị loại 2; 36 đô thị loại 3; 39 đô thị loại 4 và 635 đô thị loại 5. Loại Dân số Mật độ T/l LĐ phi NN Vai trò Ví dụ Đặc biệt ≥1,5 triệu ≥15000ng/km2 ≥90%tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của cả nước Hà Nội, TP HCM 1 ≥50 vạn 12000ng/ km2 ≥85% tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của 1 vùng lãnh thổ Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Huế. 2 ≥25 vạn 10000ng/ km2 ≥80% tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của 1 tỉnh hay 1 vùng lãnh thổ Đồng Nai, Bình Dương, Hải Dương 3 ≥10 vạn 8000ng/ km2 ≥ 75% tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của 1 tỉnh Cà Mau, Vĩnh Long, Long An 4 ≥5vạn 6000ng/ km2 ≥70% tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của 1 huyện Củ Chi, Cần Giờ, Nhà Bè… 5 ≥4000 2000ng/ km2 ≥65% tổng LĐ Thúc đẩy sự phát triển KT của 1 huyện hay 1 cụm xã Cai Lậy Đặc điểm đô thị hoá ở Việt Nam: Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam diễn ra rất chậm chạp, trình độ đô thị hoá thấp, tỉ lệ dân số đô thị dao động trên dưới 20% dân số toàn quốc. Về cơ bản, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Các đô thị ra đời và phát triển trên cơ sở của sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, hành chính. Rất ít đô thị phát triển mạnh mẽ dựa vào sản xuất công nghiệp. Tác phong và lối sống nông nghiệp vẫn còn phổ biến trong dân cư đô thị, nhất là ở các đô thị vừa và nhỏ. Các đô thị vừa và nhỏ được hình thành chủ yếu bởi chức năng hành chính, văn hoá hơn là chức năng kinh tế. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường của các đô thị còn yếu kém. Điều đó đã làm cho các đô thị này luôn chịu áp lực của việc gia tăng dân số (tự nhiên và cơ học), đồng thời lại chịu sức ép của việc phát triển kinh tế. Đô thị Việt Nam có quy mô hạn chế, phân bố phân tán, đa phần là đô thị nhỏ, nửa đô thị, nửa nông thôn. Sự rải đều của các đô thị làm hạn chế khả năng đầu tư và phát triển kinh tế, đô thị không đủ sức phát triển. Bước vào thời kỳ CNH HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế & trước các tác động của tiến trình toàn cầu hóa, tốc độ ĐTH đang diễn ra khá nhanh, các đô thị Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt, làm biến đổi ít nhiều bộ mặt KT-XH của đất nước, nhưng vẫn chưa đạt được yêu cầu của cuộc sống đô thị. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam: Thứ nhất: Thời kỳ phong kiến Trong suốt thời kỳ phát triển lâu dài của đất nước, đến cuối thế kỉ XIX (1858), nước ta mới chỉ hình thành một số đô thị phong kiến , chủ yếu là các trung tâm hành chính và thương mại. Tuy nhiên, đây chỉ là các đô thị nhỏ và yếu, chưa thực sự là các trung tâm kinh tế giữ vai trò chủ đạo đối với khu vực. Môt số đô thị tiêu biểu: Thăng Long, Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An… Thứ hai: Thời kỳ thuộc địa của Pháp (1858 – 1954) Xuất hiện nhiều thành phố lớn với mục đích khai thác thuộc địa của tư bản Pháp là chủ yếu. Ngoài ra, người Pháp còn xây dựng đô thị với tư cách là nơi tập trung cơ quan đầu não về hành chính và quân sự, là trung tâm chỉ huy bộ máy kềm kẹp của chúng. Một số thành phố như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Hải Phòng, Đà Nẵng…và một số thương cảng, quân cảng khác được chú ý đầu tư, mở rộng. Nhìn chung, thời kỳ này, đô thị nước ta phát triển chậm và không đều, nhỏ bé về quy mô, công nghiệp còn yếu kém. Thứ ba: Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955 – 1975) Thời kỳ này, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, nên quá trình đô thị hoá cũng diễn ra theo hai xu hướng khác nhau. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì diễn ra quá trình “giải đô thị hoá” tạm thời, để giảm thiệt hại do cuộc chiến tranh, chúng ta phải sơ tán một cách triệt để dân cư và cơ sở sản xuất công nghiệp về nông thôn. Ở miền Nam, xảy ra quá trình “đô thị hoá cưỡng bức”: do chiến tranh đe doạ, tàn phá và do chính sách mở rộng chiến tranh, bình định nông thôn của Mỹ, hàng triệu người dân từ nông thôn, rừng núi, đồng bằng ven biển kéo về thành phố. Vì vậy,các đô thị ở miền Nam trước giải phóng trở nên quá tải, chật chội và môi trường sinh sống hết sức phức tạp. Thứ tư: Thời kỳ từ năm 1975 đến nay Đây là thời kỳ mới, đất nước thống nhất, cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh. Các thành phố của chúng ta đã từng bước trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội cho cả nước và cho từng khu vực. Đặc biệt, từ sau Đại Hội lần thứ VI của Đảng, chúng ta chuyển từ cơ cấu kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước, chúng ta thực hiện chính sách mở cửa về mặt kinh tế và ngoại giao. Do đó, quá trình đô thị hoá ở nước ta phát triển với tốc độ nhanh hơn, cường độ mạnh hơn, phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, cho nên bộ mặt đô thị Việt Nam có nhiều thay đổi rõ nét. II _ Thực trạng quá trình đô thị hóa ở Việt Nam: Vài nét về tình hình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc về “ Tầm nhìn triển vọng đô thị hóa thế giới 2007” công bố ngày 26/02/2008, tính đến cuối năm nay, một nửa dân số toàn cầu (tương đương khoảng 7,3 tỷ người) sẽ là cư dân của các khu vực thành thị. Với tốc độ đô thị hóa nhanh như hiện nay, đến năm 2050, sẽ có 6,4 tỷ người trên thế giới ( tương ứng với 70% dân số lúc bấy giờ) sống ở thành thị, tăng 3,3 tỷ người so với hiện nay. Trong đó, theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ dân số thành thị của cả nước ta hiện nay đạt 27% tổng dân cư toàn quốc và mỗi năm có khoảng 1 triệu dân tiếp tục tham gia vào "đại gia đình" đô thị này. Tỷ lệ này còn thấp xa so với: + 47% của toàn thế giới +41% của châu Á – Thái Bình Dương ( Hiện có 1,6 tỷ người đang sống ở những khu đô thị châu Á, và dự kiến sẽ tăng thêm 1,8 tỷ nữa trong vòng 40 năm tới) +40% của CHND Trung Hoa (dự báo đến năm 2050 sẽ tăng lên hơn 70% và dân thành thị sẽ là 1 tỷ người) +30% của Ấn Độ (dự kiến đến năm 2050 sẽ là 55%) +37% của Đông Nam Á, +thấp hơn cả 33,9% của châu Phi (dự kiến sẽ tăng gấp 3 lần sau gần 4 thập kỷ nữa), trong khi các châu lục khác tối thiểu đạt 71,3%. Năm 2005 dân cư thành thị thì nước ta đứng thứ 8 trong 11 nước ở Đông Nam Á. Đứng thứ 44 trong 52 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và đứng thứ 180 trong 207 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.  Nước Tỷ lệ dân thành thị (%) Singapore 100 Brunei 67 Malaysia 57 Philippines 47 Indonesia 40 Thái Lan 31 Myanmar 27 Việt Nam 26,2 Cụ thể ở các khu vực nước ta: Khu vực Tỷ lệ dân thành thị(%) Bắc Trung Bộ 13,3 Tây Bắc 13,6 Đông Bắc 18,5 Đồng bằng sông Cửu Long 19,9 Đồng bằng sông Hồng 22 Và tại 5 thành phố trực thuộc trung ương là: + TP.HCM đạt 87,5% + Đà Nẵng 79% + Hà Nội chỉ đạt 61% + Cần Thơ 49,9% + Hải Phòng 36,5%. Nhiều con số thống kê cho thấy từ năm 1991 đến nay, ở nước ta đô thị hóa tại các đô thị lớn đã có những bước phát triển mạnh, đạt ngưỡng 18,5% năm 1989, năm 1999 đạt 23,6% ,đạt 27% (năm 2006) và đến cuối năm 2007 tỷ lệ này xấp xỉ khoảng 28%. Dự kiến đạt 45% năm 2020. Để đạt được mức nói trên, tỷ lệ tăng trưởng bình quân năm của dân số thành thị là khoảng 3%. Con số này cao hơn 2 lần so với tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số (khoảng 1,3%), tức là sẽ có luồng di cư vào các đô thị. Riêng hai thành phố loại đặc biệt: + Hà Nội dự kiến tỷ lệ đô thị hóa đạt 30-32% năm 2010 và 55-62,5% trong năm 2020 và dân số đô thị đến năm 2010 là 3,9 - 4,2 triệu người, năm 2020 là 7,9 - 8,5 triệu người. + Tp.HCM, tỷ lệ đô thị hóa đạt cao nhất so với cả nước, dự kiến năm 2010 đạt 58% và 2025 đạt 77- 80%. Với dân số đô thị năm 2010 là 10 triệu người, đến 2025 là 16-17 triệu người, Tp.HCM sẽ đứng trong hàng ngũ các thành phố có dân số lớn hơn 10 triệu người của thế giới. Vài khu đô thị: Hiện nay, Tp Hồ Chí Minh có hàng loạt các dự án khu đô thị cao cấp như River View, The Vista, Sky Garden 3, Blue Diamond, Dragon City, Saigon New,  The Everick, Phú Mỹ Hưng...  Thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có 11 khách sạn 5 sao với khoảng 3.611 phòng, dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực khách sạn và đang tiến hành các dự án cải tạo cũng như nhiều dự án mới. Một vài khách sạn 5 sao nổi bật sẽ được khánh thành vào năm 2009 gồm có Times Square và Saigon Happiness Square. Trung tâm Đô thị mới Phú Mỹ Hưng rộng 409ha được xem là trái tim của toàn đô thị mới, là đô thị hiện đại đầu tiên và đẹp nhất Việt Nam hiện nayi có đầy đủ chức năng của một trung tâm đô thị hiện đại như: thương mại tài chính, dân cư, giải trí, y tế, văn hóa, giáo dục KĐT mới Thủ Thiêm có vị trí đặc biệt quan trọng, là lõi trung tâm của cả TP phát triển hai bên bờ sông Sài Gòn. Đầu năm 2008, người dân Tp.HCM hân hoan đón mừng một chiếc cầu quan trọng trong giai thông thành phố : cầu Thủ Thiêm. Cầu Thủ Thiêm được xem như một trong những bước ngoặt của dự án quy họach phía Đông thành phố. Sau cầu Thủ Thiêm sẽ là các công trình khác như hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn, các cây cầu khác nối liền trung tâm thành phố và cù lao phía bên kia. Một ngày không xa, chúng ta sẽ có một khu đô thị vô cùng hiện đại nằm ngay cạnh trung tâm Tp.HCM với những quy họach và xây dựng bài bản, hiện đại nhất. Thủ Thiêm do đó về cả khía cạnh địa lý lẫn lịch sử, rất tương tự với khu đô thị Kang-nam sầm uất lộng lẫy của thủ đô Seoul (Hàn Quốc). Khu đô thị cảng Hiệp Phước thuộc xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè có quy mô khoảng 200 ngàn dân, với diện tích 3.600 ha, trong đó khu công nghiệp và dịch vụ là 2.000 ha, còn lại là khu đô thị. Trong tương lai KĐT cảng Hiệp Phước sẽ là đô thị cửa ngõ phía nam TP.HCM, với 4 khu chức năng: cảng, khu công nghiệp - dịch vụ cảng, khu trung tâm thương mại - hành chính - văn phòng và khu dân cư. Đầu tháng 8/2007 dự án xây dựng Khu đô thị Đại học Quốc tế thuộc phía nam Khu đô thị Tây Bắc TP. Hồ Chí Minh (huyện Củ Chi và Hóc Môn) với tổng diện tích xây dựng khoảng 884 ha vừa được ký kết. Dự án này gồm nhiều hạng mục: Khu giáo dục Đại học với 3 trường Đại học, khu đô thị - dân cư, khu thương mại - dịch vụ tổng hợp, khu công nghệ thông tin và khu vui chơi giải trí cùng các công trình phúc lợi công cộng, công viên cây xanh, hồ nước và hệ thống giao thông nội bộ. Khu đô thị Đại học Quốc tế được hình thành trong tương lai với phương châm tập trung vào sự phát triển bền vững, tạo không gian sống và làm việc trong môi trường quốc tế về làng đại học và cộng đồng sinh hoạt. Đây là dự án mới mẻ khi lần đầu tiên có mô hình khu đô thị đại học sẽ được hình thành tại Việt Nam. Mặt tích cực trong quá trình đô thị hóa ở nước ta: Trong nền kinh tế, các đô thị đóng góp 2/3 giá trị của tổng thu nhập và chiếm 30% tổng số dân. Ngày nay sự thay đổi của nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các đô thị phát triển mạnh mẽ. Một số đô thị chọn hướng phát triển theo nền kinh tế dịch vụ như Đà Lạt, Phan Thiết, Phú Quốc, Vũng Tàu... * Về văn hoá- xã hội : Đô thị hoá đang làm thay đổi bộ mặt đất nước trên nhiều phương diện. Quá trình đô thị hoá cũng đang làm thay đổi văn hoá dân tộc nói chung và văn hoá đô thị nói riêng. Quá trình thay đổi văn hoá đô thị đang diễn ra ở các khía cạnh sau: -Sự biến đổi văn hoá sản xuất, kinh doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn hoá, xác lập ngày càng đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người dân, của các nhóm cư dân đô thị trong việc sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hoá. Người dân đô thị ngày càng chú trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn hoá, có nhiều điều kiện để chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị văn hoá. -Trong tổ chức đời sống văn hoá, người dân đô thị đã dần hình thành được ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công dân và ý thức cá nhân. - Kinh tế thị trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất cả phải vươn ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí của xã hội. Thái độ đối với gia đình, bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá nhân (sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật). - Người dân thành thị ngày nay đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và tiểu thương, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến. Nhân cách văn hoá người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tiếp tục được hình thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có nhiều đặc trưng khác với nhân cách văn hoá truyền thống của người Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất sẽ là sự hình thành nhân cách công dân với đặc trưng là khẳng định cái “tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít bị chi phối bởi cộng đồng. Dân số và lao động đô thị tăng nhanh Dân số, lao động tăng nhanh chóng ở các đô thị chủ yếu do hai dòng di cư vào đô thị: (1) Lao động từ các nông thôn đổ về các đô thị để tìm việc làm. Dòng di cư đó đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra và đã cung cấp cho các đô thị nguồn lao động phổ thông dồi dào và nó cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho nông thôn, góp phần phát triển kinh tế ở cả đô thị và nông thôn. 2) Sinh viên các trường đại học, cao đẳng sau khi học xong ở lại đô thị hoặc đến các đô thị khác kiếm việc làm. Sinh viên ra trường không thể tìm việc ở nông thôn, vậy các thành phố lại được thêm một nguồn lao động đầy tiềm năng. Nguồn lao động này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường lao động. * Về kinh tế: - Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tốc độ cao Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đang làm thay đổi tập quán sản xuất, kinh doanh của người đô thị theo hướng công nghiệp hoá, đa thành phần, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Trong quá trình đô thị hóa, kinh tế đô thị tăng trưởng với tốc độ cao vì mức độ tập trung lực lượng sản xuất cao, khắc phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm, manh mún; hình thành tác phong công nghiệp hiện đại, tạo ra năng suất lao động cao, vai trò hạt nhân trong phát triển kinh tế càng thể hiện rõ. Đô thị là nơi tập trung các trường đại học, các nhà khoa học, đồng thời có sức hấp dẫn lớn với các nguồn lao động có kỹ thuật và đây chính là lợi thế đặc biệt của đô thị trong việc phát triển kinh tế. Quy mô việc làm ở đô thị tăng là do sự hình thành mới các khu công nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất các doanh nghiệp hiện có. Quá trình đó vừa làm tăng việc làm vừa làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong kinh tế đô thị. Đồng thời, việc chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị còn làm tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người ở đô thị và trong cả nước. Để đạt được sự tăng trưởng cao, các ngành không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới trong kinh tế đô thị, làm nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhà nước đã áp dụng các chính sách kinh tế nhằm phát huy hết năng lực sẵn có và mở rộng quy mô kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội. - Cùng với những mặt tích cực của quá trình tăng trưởng kinh tế là việc tăng thu nhập của người lao động, tăng tích lũy của doanh nghiệp, nâng cao đời sống cư dân đô thị - Đô thị hóa khiến một bộ phận nông dân mất đất hoặc thiếu đất sản xuất, do đó nhu cầu tìm việc làm mới vì thế ngày càng tăng cao ở khu vực nông thôn. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng lớn cùng với sự ra đời của nhiều loại hình dịch vụ mới cũng như sự phát triển nhanh chóng của các loại hình doanh nghiệp đang đòi hỏi rất nhiều lao động. Đây là cơ hội để chuyển đổi lao động dư thừa ở khu vực nông thôn sang những ngành sản xuất phi nông nghiệp, tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong thời kỳ nông nhàn. - Sự phát triển của một số ngành công nghiệp, sự hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, sự gia tăng mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khiến cho tốc độ đô thị hóa đang gia tăng nhanh chóng. Việc phát triển KCN, KCX được xem là hạt nhân hình thành các đô thị hiện đại. Có thể thấy ở đâu có KCN - KCX thì ở đó có khu nhà ở mới, khá hơn là khu dân cư mới, và đặc biệt có những đô thị mới hình thành. Có thể kể đến các khu nhà ở mới xung quanh KCX Linh Trung I và Linh Trung II (Thủ Đức); khu dân cư ra đời từ các KCN Tân Túc, Tân Tạo ở phía Nam Bình Chánh; các khu dân cư mới xung quanh KCN Tân Bình… Tính đến cuối năm 2007, các KCN, KCX đã thu hút được khoảng 92 vạn lao động trực tiếp với tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng dần và đạt gần 40%. Đến nay, các KCN, KCX đã thu hút được trên 1,2 tỷ USD và gần 45 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư phát triển hạ tầng. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm... Tính đến cuối tháng 2/2008 cả nước đã có 182 KCN được thành. Các KCN, KCX phân bố ở 53 tỉnh, thành phố trên cả nước; tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất tự nhiên chiếm gần 60% tổng diện tích các KCN cả nước - Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh thúc đẩy thị trường BĐS phát triển   Theo số liệu thống kê của Vụ kiến trúc Quy hoạch Xây dựng (Bộ xây dựng), tốc độ đô thị hóa của Việt Nam tăng mạnh, tỉ lệ đô thị hóa năm 1999 là 23,6%, năm 2004 là 25,8%, dự báo năm 2010 sẽ tăng lên 33% và đến năm 2025 sẽ đạt đến 45%.  Diện tích đất đô thị cũng sẽ tăng từ 105.000 ha hiện nay lên đến 460.000 ha vào năm 2020. Từ đó cho thấy, nhu cầu về nhà ở của người dân đô thị là vô cùng lớn. Tính trung bình, mỗi năm Việt Nam phải phát triển thêm 35 triệu m2 nhà ở thì mới đạt 20 m2/người tại đô thị vào năm 2020, còn thấp xa so với con số 100m2/người của các nước phát triển. Một chuyên gia kinh tế cho biết: theo kinh nghiệm quốc tế, khi mức độ đô thị hóa của một quốc gia ở trong khoảng từ 30% - 70% thì được coi là thời kỳ thị trường BĐS có tốc độ phát triển nhanh nhất. Việt Nam là đang ở vào thời kỳ đó và nó sẽ còn kéo dài nhiều năm sau. Trong tương lai, TP HCM được quy hoạch thành trung tâm tài chính và giao dịch quốc tế lớn vào năm 2020, nên mức cầu về nhà ở và văn phòng cho thuê còn lớn đến thế nào. Những tồn tại *Về Kinh tế : 1/Cơ sở kinh tế - kỹ thuật, động lực phát triển đô thị còn yếu; tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với tỷ lệ tăng dân số đô thị; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động không có việc làm ở khu vực thành thị còn cao. Do: Thành phố Hồ Chí Minh có trên 2 triệu người nhập cư:là những nông dân chán cảnh “chân lấm tay bùn” dắt díu nhau vào các đô thị kiếm việc làm và những thanh niên trẻ ở lại thành thị lập nghiệp và làm việc sau thời gian học tập. Dự báo, đến năm 2020, dân số khu vực đô thị sẽ vào khoảng 46 triệu, chiếm 45% dân số cả nước. Trong khi vấn đề lao động, việc làm ở đô thị chưa được giải quyết, thì tình trạng đô thị hoá nhanh đã đẩy một bộ phận lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị, tạo thêm gánh nặng cho khu vực đô thị. 2/Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị Việt Nam còn rất yếu kém, lạc hậu, không đảm bảo các tiêu chuẩn đô thị hiện đại thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là hệ thống cấp thoát nước, giao thông đô thị và vấn đề nhà ở. Vd:- Mạng lưới giao thông đô thị chưa phát triển, gây trở ngại cho sự giao thương giữa các địa phương, tỷ lệ đất dành cho giao thông, nhất là giao thông tĩnh ở các đô thị nước ta vào loại thấp nhất thế giới, chưa đạt 5%. Giao thông công cộng chưa phát triển, chỉ chiếm 2-3% nhu cầu vận tải công cộng; xe máy chiếm tỷ trọng lớn, gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn và nguyên nhân chính gây tắc nghẽn giao thông. Tỷ lệ phát triển đường của Hà Nội trung bình mỗi năm chỉ đạt 5%, trong khi đó lượng xe máy tăng 20%, lượng ô tô tăng 12%. Việc cung cấp nước sạch mới bảo đảm được cho khoảng 50% số dân đô thị. Hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu thường xuyên gây ra tình trạng úng lụt vào mùa mưa bão và rất mất vệ sinh do nước thải chưa được xử lý. * văn hoá: -Sự chênh lệch về văn hoá và mức sống giữa các tầng lớp cư dân đô thị ngày càng lớn, dẫn đến sự mất cân bằng trong sinh thái đô thị, nhất là giữa dân số và việc làm, giữa dân số và thu nhập, giữa dân số và kết cấu hạ tầng… vd:+một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng bên cạnh tầng lớp nghèo, lang thang cơ nhỡ, sống tạm bợ trong các khu nhà ổ chuột, thiếu các điều kiện tối thiểu, không có cơ hội được hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. +Một kết quả nghiên cứu vấn đề nghèo đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: mức sống của người nghèo thấp hơn người giàu 7 lần. Do thu nhập thấp, các hộ nghèo phải dành 80% thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày (nhưng vẫn không đủ), chỉ còn 20% dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại; gần 20% trẻ em trong độ tuổi không được đến trường, cũng gần bằng số đó là con của các hộ nghèo phải bỏ học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 38,8% -Tình trạng văn hoá đọc, viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân đô thị hiện đại. Có rất nhiều người không bao giờ đọc các tác phẩm văn học, tiểu thuyết văn chương, kể cả những tác phẩm được coi là di sản văn hoá nhân loại. Vô tuyến truyền hình, trò chơi điện tử, máy tính, chuyện tranh vẫn sẽ là sự lựa chọn của học sinh, sinh viên và thanh thiếu niên, và điều đó là rất nguy hiểm. -Sự nảy sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nuôi dưỡng bản năng thấp hèn của con người. Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết thông qua giá trị của đồng tiền, kể cả quan hệ ruột thịt trong một gia đình. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức và thanh niên, học sinh, sinh viên. *Về Xã hội: -Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đang thúc đẩy nhanh tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp, khu chế xuất. VD:- Các đô thị hàng ngày thải ra khoảng 900 tấn rác, riêng rác thải y tế chiếm 250 tấn. Việc thu gom mới đạt khoảng 60% và hình thức xử lý chủ yếu là chôn cất nên gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, mặt đất và không khí. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mức độ ô nhiễm môi trường đã vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Còn có khá nhiều nhà máy, xí nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm nằm ở trung tâm thành phố, thị xã và xen kẽ giữa các khu đô thị. -Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thông vận tải gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%. -Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, trật tự đô thị chưa được đảm bảo.do công tác quản lý nhà nước về đô thị và quản lý nhà nước về văn hoá của ta còn yếu kém, bất cập. VD:Theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tỷ lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị trung bình hàng năm ở vào khoảng 70-75% so với cả nước, riêng 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh) chiếm 45-50%. -Trật tự và văn minh đô thị chưa được lập lại, tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, vệ sinh công cộng còn rất phổ biến. Và cuối cùng là, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hoá, không gian văn hoá đô thị bị phá vỡ. Tất cả các vấn đề trên đang tác động làm biến đổi văn hoá đô thị. Một số giải pháp cho vấn đề đô thị hóa ở Việt Nam Đô thị hóa vừa là quy luật tất yếu vừa là sự cần thiết khách quan để xây dựng nước ta trở thành một quốc gia văn minh. Tỷ lệ đô thị hóa cao hơn nữa sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Nếu chúng ta không có các chính sách gì mạnh mẽ để phát triển đô thị thì đến năm 2020 tỷ lệ dân số đô thị của chúng ta mới có thể bằng Trung Quốc hiện nay. Như vậy để phát triển đô thị với tốc độ cao hơn so với thời gian qua cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn, chính sách thông thoáng hơn. Theo chúng tôi nên phát triển các đô thị theo hướng sau: A-Về mặt quản lý: - Xác định quy mô đô thị hợp lý Quy mô đô thị hợp lý: quy mô đô thị mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất và phù hợp với trình độ quản lý của bộ máy quản lý đô thị hiện hành. Cần xem xét quy mô đô thị trên 3 góc độ: quy mô dân số, quy mô đất đai, quy mô phát triển kinh tế. Trong quá trình phát triển, quy mô đo thị luôn có xu hướng tăng lên và biểu hiện cụ thể của nó là tăng dân số đô thị, tăng quy mô sản xuất, mở rộng ranh giới. Song, các nguồn lực trong một đô thị thường bị giới hạn, như vấn đề đất đai, nhà ở, môi trường, và các dịch vụ xã hội khác. Trên góc độ kinh tế, một đô thị hoạt động có hiệu quả khi kết quả kinh tế - xã hội mà nó đạt được phải tương xứng với những chi phí mà nó phải chi ra. Tính hợp lý của quy mô đô thị biểu hiện ở chỗ: -sự phát triển của các ngành dịch vụ đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của dân số -sự phát triển kinh tế có hiệu quả cao đáp ứng đủ công ăn việc làm cho lao động -môi trường ngày càng được cải thiện, mức sống dân cư ngày cào cao. Việc lựa chọn quy mô, địa điểm hợp lý của các doanh nghiệp, các ngành tạo ra quy mô hợp lý về kinh tế của đô thị nhằm khai thác hết các lợi thế của đô thị. Chính sách hạn chế tăng cơ học dân số đô thị có thể thực hiện: 1) hạn chế nhập cư vào đô thị 2) duy trì sự ổn định dân cư ở nông thôn, tạo việc làm và đẩy mạnh công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn. Việc tìm quy mô tối ưu cho một đô thị cần dựa trên cơ sở so sánh chi phí và lợi ích tương ứng với từng quy mô đô thị - Định hướng cho quá trình đô thị hóa. 1) Ưu tiên hình thành các đô thị mới hiện đại, đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đảm bảo chỗ ở cho dân, đặc biệt là người dân nghèo . 2) Đối với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh không nên quá tập trung vào nâng cấp, cải tạo vì giải phóng mặt bằng đã làm cho chi phí các dự án tăng quá cao. nên phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh Hà Nội, hay xung quanh Thành phố Hồ Chí Minh nhằm giảm áp lực cho các thành phố này. 3) Trọng tâm của quá trình đô thị hóa là phát triển cơ sở hạ tâng và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất. 4) Coi vấn đề đô thị hóa nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn là một nội dung quan trọng trong quá trình đô thị hóa. - Lập và thực hiện quy hoạch đồng bộ Các thành phố cần có quy hoạch đồng bộ bao gồm: Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch các ngành, các cấp (từ thành phố đến quận, huyện)&quy hoạch xây dựng (quy hoạch chung và chi tiết). Chất lượng quy hoạch cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Để phát triển đô thị bền vững cần thực hiện quy hoạch một cách đồng bộ, nghiêm túc không nên cho rằng quy hoạch xây dựng là duy nhất đối với đô thị. - Hoàn thiện Bộ máy quản lý và nâng cao hiệu quả quản lý Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ bộ máy quản lý trong nền kinh tế thị trường, từ đó tổ chức bộ máy, đổi mới cơ cấu bộ máy chính quyền đô thị là một biện pháp quan trọng để quản lý đô thị, trong đó có việc kiểm soát tệ nạn xã hội Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ chính trị cũng như các kế hoạch kinh tế xã hội, bộ máy quản lý đô thị cần có đủ quyền và lực (nghĩa là Nhà nước giao quyền, phân bố hợp lý các nguồn tài chính, còn chính quyền đô thị phải đủ mạnh để nắm quyền và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính để thực hiện các chức năng của mình và thực hiện chiến lược phát triển của đô thị) Trong đó, xác định đúng nội dung công tác quản lý, phân công đúng người đúng việc, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ là những nội dung cụ thể và quan trọng. - Tăng cường công tác quản lý kinh tế Phát triển kinh tế luôn là nền tảng của mọi hoạt động xã hội. Để phát triển đô thị không thể xem nhẹ vấn đề phát triển kinh tế. Nhưng không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá. Công tác quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội và quy hoạch các ngành là vấn đề cần thiết và cấp bách đối với các đô thị. Mỗi đô thị cần xác định cho mình phương hướng, tốc độ và các ngành kinh tế chủ lực nhằm khai thác có hiệu quả cao đối với thế mạnh và các nguồn lực của đô thị. Tăng cường công tác quản lý kinh tế cần bắt đầu từ việc rà soát, điều chỉnh và thực hiện tốt việc lập và thực thi quy hoạch. Tiếp theo là thiết lập một hành lang pháp lý về quản lý kinh tế của đô thị mình phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay của Việt Nam . Điều tiết hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp thông qua hành lang pháp lý và các chính sách đất đai, chính sách đầu tư, ưu đãi về thuế... - Quản lý đất đai và nhà ở cần nhanh chóng đi vào thế ổn định Hiện nay do quá khứ để lại, do chuyển đổi cơ chế, do chính sách chưa nhất quán...nên các đô thị của chúng ta đang còn nhiều vướng mắc trọng việc quản lý đất đai và nhà ở Công tác quản lý đất đai và nhà ở đô thị cần nhanh chóng đi vào thế ổn định: + Trước mắt cần nhanh chóng hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho những các nhân, gia đình đang sử dụng đất hợp pháp. Nhà quản lý cần thay đổi tư duy về vấn đề này, cần xác định quan điểm rằng cấp sổ đỏ cho họ là để quản lý đất đai mà họ dang sử dụng chứ không phải là ban cho họ bổng lộc gì. +Hoàn thiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng là một nội dung của quản lý đất đai là cơ sở để giảm chi phí cho các dự án nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tiến độ giải phóng mặt bằng có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ của dự án, nếu giải phóng mặt bằng chậm có thể gây thiệt hại lớn về tài chính cho dự án B- Về mặt con người: Các cấp chính quyền cần có sự quan tâm nghiêm túc đến nguồn lực con người, cụ thể quan tâm đến việc đào tạo nghề, tạo việc làm cũng như các chính sách hỗ trợ vay vốn cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống cư dân bằng các ưu đãi về giáo dục, bảo hiểm y tế…góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo C- Về mặt môi trường: Bảo vệ môi trường đô thị đang là vấn đề cấp bách ở Việt Nam - Giải quyết đồng bộ vấn đề giao thông đô thị Để giải quyết vấn đề giao thông trước hết cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch giao thông. +Việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch này phải được ưu tiên thực hiện hàng đầu trong các dự án của thành phố. Cụ thể như: vấn đề vận tải công cộng ở các đô thị: hệ thống xe buýt, xe điện,... Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống đường nội đô và hệ thống bãi đỗ xe trong thành phố và tại các công sở, siêu thị, trung tâm thương mại. +Kết hợp quy hoạch giao thông và quy hoạch các ngành điện lực, bưu chính viễn thông để tính đến khả năng đào đường lắp đặt các thiết bị... +Tổ chức tốt công tác phân luồng, phân tuyến, khai thác có hiệu quả cao nhất những cơ sở hạ tầng hiện có, nhanh chóng tiếp cận tin học hiện đại trong quản lý giao thông... +Kiên quyết xóa bỏ các hình thức buôn bán vỉa hè, các loại xe thồ cồng kềnh gây ách tắc giao thông. +Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến luật giao thông đường bộ trong nhân dân, sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt các hành vi vi phạm luật giao thông, xử phạt nghiêm minh, đúng người - đúng tội. +Tăng cường đô thị hóa ngoại vi, di chuyển một số cơ quan ra ngoại vi thành phố đặc biệt là các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Sớm hình thành làng các trường đại học ở ngoại vi thành phố. - đề ra kế hoạch bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa ĐT cũng như việc tạo các mảng xanh đô thị - Các cơ quan quản lý môi trường các cấp cần nghiên cứu cách giải quyết chống nạn ngập nước, tổ chức tốt thu gom vận chuyển rác, bảo đảm việc cung cấp nước sạch & kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm… Tăng cường đầu tư toàn diện cho các cơ quan quản lý môi trường: đầu tư quan trọng nhất phải kể đến là đầu tư, trang bị cho con người về trình độ quản lý, sau đó là những trang thiết bị, máy móc cần thiết để các cơ quan quản lý có thể kiểm soát, thu thập các bằng chứng có căn cứ khoa học để “bắt người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm về hành vi gây ô nhiễm của mình”. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục: là biện pháp lâu dài, để công tác bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ của mọi người, được mọi người quan tâm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKinh tế phát triển - Đô thị hóa.doc