Đề tài Lạm phát ở Việt Nam - Thực trạng và đặc trưng

Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gia tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu và đề suất tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thi trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế.

doc49 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4057 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam - Thực trạng và đặc trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải cũng có cái lợi, đó là nó góp phần phân phối lại thu nhập trong xã hội, giữa những người thừa tiền và những người có hàng hoá cần thanh lý. Sau khi lạm phát kết thúc thì tiền sẽ phân phối đều hơn, ít trường hợp người này wá nhiều tiền còn người kia quá nhiều hàng nhưng lại thiếu vốn. Ngoại trừ trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (1 con số) có tác động tích cực đến nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Hậu quả của lạm phát tập trung lại ở những mặt sau: Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng hóa tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Quy mô sản xuất không tăng hoặc giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản. Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, lĩnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức. Trong lĩnh vực thương mại: người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra là môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo… Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: tín dụng cũng rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi. Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập của quốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách nhà nước (chủ yếu là thuế) ngày càng sụt giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty, xí nghiệp bị phá sản, giải thể… Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng làm cho trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề. Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. V. Tác đỘng cỦa lẠm phát đẾn nỀn kinh tẾ - Các hiệu ứng tích cực : Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. - Các hiệu ứng tiêu cực: Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao,giá cả hàng hóa bị tăng liên tục,điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn.Quy mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục.Cơ cẩu nền kinh tế dễ mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn,thời gian thu hồi vốn nhanh,còn ngành sản xuất có chu kỳ dài,thời gian thu hồi vốn chậm sẻ có xu hướng bị đình đốn.phá sản.Vì vậy,trong điều kiện có lạm phát,lĩnh vực thương nghiệp thường phát triển mạnh.Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp,công tác hạch toán chỉ còn là hình thức. Trong lĩnh vực thương mại: người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng,hàng hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá.Điều này càng làm cho lưu thong tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát xảy ra còn là môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ, tích trữ cung - cầu hàng hóa giả tạo… Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng: tín dụng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư trong điều kiện lạm phát tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gởi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chống, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát nổi Trong lĩnh vực tài chính nhà nước: tuy lúc đầu mang lại thu nhập cho Ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của Ngân sách nhà nước (chủ yếu là thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể… Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực từ sự gia tăng của giá cả. Giá trị thực tế của tiền lương bị giảm sút nghiêm trọng dẫn đến trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề. Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội ,và nhà nước phải cần bằng giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. CHƯƠNG II: Tăng trưỞng kinh tẾ I. Khái niỆm Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội. - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định. II. Vai trò cỦa tăng trưỞng kinh tẾ Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. - Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. - Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển - Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. III. MỐi quan hỆ giỮa lẠm phát và tăng trưỞng kinh tẾ Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh tế trong nền kinh tế.Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại là hai vấn đề luôn luôn tồn tại song song với nhau. Trong thực tế không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh khỏi lạm phát. Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau. Tỷ lệ lạm phát tăng cáo sẽ đẩy giá cả hàng hóa chung tăng lên mà tiền công danh nghĩa của công nhân không tăng lên đo đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Khi lạm phát tăng cao gây ra hiện tượng siêu lạm phát làm đồng nội tê tăng rất nhanh, khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ.Tệ nạn tham nhũng tăng cao, nạn buôn lậu phát triển mạnh, tình hình đầu cơ trái phép tăng nhanh, trốn thuế và thuế không thu đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách nhà nước trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao. CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC TRƯNG I. THỜI KỲ 1976-1980 Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó: Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển, Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể, Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất. Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978. Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem phiếu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội”[5] dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những người lao động ... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả," Hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng. II. THỜI KỲ 1981-1988 Lạm phát ở Việt Nam đã có từ lâu song ở đây chúng tôi muốn nói đến thời kỳ 1981-1988 trong thời kỳ 1976-1980, lạm phát ở Việt Nam “ ngầm”, nghĩa là tuy chỉ số giá cả do nhà nước ấn định tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do tăng khá cao, mức tăng giá cả đã vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng, cũng như thu nhập quốc dân: trong thời gian 1976-1980, giá trị trị tổng sản lượng tính theo giá năm 1982 đã tăng 5. 8%, thu nhập quốc dân sản xuất đã tăng 1, 5%, nhưng mức giá trị đã tăng 2, 62 lần: 1 - Thực trạng: Bước vào những năm 80, lạm phát đã bột phát “công khai”, và trở thành lạm phát phi mã với mức tăng giá 3 chữ số. Chỉ số bán lẻ (năm trước =100). Thị trường nhà nước kiểm soát là thị trường mà các giá cả do nhà nước qui định. Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ số tăng giá 557% vượt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại của nó không kém gì siêu lạm phát. Thứ nhất, qua bảng trên ta thấy từ năm 1981-1988 chỉ số tăng giá đều trên 100% một năm; những năm đầu 80 mức tăng này là trên 200%, đến năm 1983và 1984 đã giảm xuống, nhưng từ năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất 557%, sau đó có giảm; như vậy là mức lạm phát cao và không ổn định. Thứ hai, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn giữ tiền, người ta bán song hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô la, không ai dám giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh. Song ở Việt Nam vòng quay của đồng tiền qua ngân hàng nhà nước lại không tăng lên mà giảm đi, vì cơ chế hoạt động của ngân hàng quá kém không đáp ứng được nhu cầu gửi và rút tiền của các chủ kinh doanh và dân cư. Thứ ba, tiền lương thực tế của dân cư bị giảm mạnh, ở Việt Nam trước năm 1988, hầu hết các giá cả do nhà nước qui định. Trong những năm 80 nhà nước đã nhiều lần tăng giá. Trước năm 1985, mức tăng giá do nhà nước qui định không lớn, tuy mức tăng giá ở thị trường tự do cao hơn nên nhà nước đã không bù giá vào lương, tiền lương thực tế đã giảm xuống. Từ năm 1986 nhà nước đã bù giá vào lương ngay sau khi tăng giá. Nhưng tiền lương thực tế vẫn giảm mạnh vì nhà nước đã không khống chế được thị trường tự do. Giá nhà nước tăng một lần thì giá thị trường tự do tăng 1, 5 lần. Nhà nước lại không cung cấp đủ hàng cho dân cư theo giá nhà nước, nên mọi người phải mua hàng ngoài thị trường tự do với giá cao hơn, mặt khác những người được nhà nước bù giá chỉ là những người làm trong khu vực nhà nước còn số đông dân cư thì không được bù giá như vậy. Thứ tư những người gửi tiền và có tiền cho vay đều bị tước đoạt, vì mức lãi suất so với lạm phát. Thứ năm, các yếu tố của thị trường Việt Nam bị thổi phồng và bóp méo. Do giá cả nhà nước định đã không phải là giá cả thị trường, luôn thấp hơn giá cả thị trường tự do, và lại tăng theo từng chu kỳ, nên đã khuyến khích xu hướng đầu cơ và tích trữ hàng hoá kiếm lợi. Các xí nghiệp đã tìm mọi cách để dự trữ vật tư, không cần kinh doanh cũng có lợi. Dân chúng phải dự trữ nhu yếu phẩm. Tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm vốn được phóng đại, các nhu cầu giả tạo tăng lên, bức trang thực của nền kinh tế bị xuyên tạc, lãi giả, lỗ thật. Những biểu hiện trên đây của lạm phát Việt Nam tuy mới trong giai đoạn phi mã, nhưng cũng đã gần như đầy đủ các nét chung của giai đoạn siêu lạm phát. Một điều đáng chú ý là trước năm 1988, nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp, nghị quyết chống lạm phát, nhưng vẫn không kiềm chế và kiểm soát được lạm phát. Chỉ số giảm phát vẫn tăng giảm thất thường ngoài dự tính của nhà nước. 2 - Những đặc trưng chủ yếu của lạm phát thời kỳ này. Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống các nước khác trên thế giới: như chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến, do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có những đặc điểm riêng do những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của Việt Nam qui định. Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam kém phát triển vào bậc nhất trên thế giới tình trạng kém phát triển này thể hiện ở một chỉ tiêu tính bình quân đầu người sau đây. Tuy khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn có định và chất xám trong nước, nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30 đến 37% tổng sản phảm xã hội trong suốt những năm 80. Một điều đặc biệt quan trọng đáng chú ý là các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền mà ngân sách nhà nước đã phải bao cấp cho nó qua các kênh bù lỗ, bù giá, bù cho việc cấp phát tín dụng với lãi suất thấp, bù cho việc bán hàng nhập khẩu với giá rẻ v. v..Có năm số tiền mà ngân sách nhà nước phải bao cấp đã lớn gấp ba lần số tiền mà khu vực quốc doanh nộp vào ngân sách nhà nước. Tình trạng lãi giả lỗ thực là khá phổ biến nếu so sánh với khu vực kinh doanh tư nhân thí sự kém cỏi về hiệu quả lại càng rõ. Báo nhân dân ngày 12-11-1988 cũng đã đưa ra một sự so sánh khá lý thú: Tại trung tâm thương nghiệp Đà Nẵng, nếu cùng chiếm một diện tích kinh doanh như nhau, nhưng thương nghiệp quốc doanh chỉ nộp ngân sách nhà nước 11 triệu trong quý một, trong khi đó thương nghiệp tư nhân đã nộp cho ngân sách 351 triệu đồng. Vậy là đáng lẽ khu vực kinh tế nhà nước phải là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, thì trong những năm 80, ngược lại nó đòi hỏi ngân sách nhà nước quá lớn. Sự phân tích trên cho thấy là khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm một tỷ trọng lớn nhất về tài sản cố định, lao động lành nghề và chất xám, nhưng lại làm ăn kém hiệu quả nhất, hàng năm đòi hỏi ngân sách nhà nước bao cấp lớn nhất, khu vức kinh tế tập thể cũng vậy; chỉ có khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả, nhưng lại chiếm một tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước trông chờ từ khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, nhưng các khu vực này trên thực tế đã không đóng góp gì cho ngân sách nhà nước nếu so với phần nhà nước phải bao cấp. Hơn nữa các khu vực này lại luôn luôn đòi hỏi ngân sách nhà nước phải ưu đãi và bao cấp cho họ, vì họ là của nhà nước, của tập thể, của “XHCN”... Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát và một khi lạm phát bùng nổ, đã làm cho thị trường rối loạn, lời lỗ khó xác định, các hướng kinh doanh có hiệu quả và không có hiệu quả lẫn lộn. Trong tình trạng đó, các đơn vị kinh doanh phải đẩy mạnh các hoạt động đầu cơ ăn chênh lệch giá có lợi hơn là tìm hướng kinh doanh có hiệu quả. Sự giảm sút hiệu quả kinh doanh càng nghiêm trọng hơn và do vậy lạm phát lại càng cao hơn. Cái vòng soay hiệu quả giảm sút dẫn đến thu không đủ chi và lạm phát, rồi lạm phát lại làm cho hiệu quả giảm sút... cứ thế quay, thật nguy hiểm. Lạm phát của một nền kinh tế mà độc quyền nhà nước có vị trí thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế quan liêu mệnh lệnh, bao cấp nặng nề. Như chúng ta đã biết, tronh một nền kinh té thị trường cạnh tranh phát triển tất dẫn đến tình trạng độc quyền và độc quyền khi mới xuất hiện có những ý nghĩa tiến bộ như: để giành lấy vị trí độc quyền, các công ty phải cải tiến lao động áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tập trung các nguồn lực... Nhưng khi đã giữ được trí độc quyền rồi, thì các công ty này lại tìm cách duy trì vị trí của mình bằng cách bóp chết các địch thủ và ít chú ý đến việc cải tiến quản lý kỹ thuật, chính điều này đã dẫn đến suy thoái và khủng hoảng. Ở Việt Nam nhiều nghành đã hợp nhất tất cả các xí nghiệp lại thành một doanh nghiệp duy nhất và trong các lĩnh vực này không thể còn tồn tại một sự cạnh tranh nào. Cùng với chế độ độc quyền nhà nước, cơ chế mệnh lệnh quan liêu bao cấp đã ngự trị bền vững và bám rễ sâu chắc vào bộ máy kinh tế nhà nướcViệt Nam, các cơ sở kinh tế một thời làm gì cũng phải xin lệnh cấp trên. Sản suất cái gì, mẫu mã gì, bán ở đâu, do ai cung cấp vật tư, thiết bị, được tuyển bao nhiêu công nhân viên, lương mỗi người bao nhiêu v. v..đều do cấp trên qui định. Cơ chế quan liêu này đã xoá hết tính độc lập tự chủ của các cơ sở. Chế độ độc quyền của nhà nước và cơ chế kinh tế kế hoạch, quan liêu, mệnh lệnh, bao cấp đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Chính chế độ độc quyền và cơ chế quan liêu bao cấp đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa nền kinh tế Việt Nam tới tình trạng kém hiệu quả và lạm phát cao. Lạm phát của một nền kinh tế đóng cửa và phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ bên ngoài. Nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 1988 về cơ bản vẫn là vẫn là một nền kinh tế đóng cửa, tuy đã có luật đầu tư khà cởi mở. Từ trước năm 1988 về trước, dường như có rất ít các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các biên giới bị đóng cửa chặt hầu như không có buôn bán biên giới, chính sách hải quan khá chặt chẽ không khuyến khích suất nhập khẩu, chính sách suất nhập cảnh cũng chặt chẽ không kém. Hậu quả là các đồng vồn, hàng hoá... đã không du nhập vào Việt Nam được mặc dù thị trường Việt Nam rất thiếu vốn và hàng hoá. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường đã không được giải quyết bằng cách ngập khẩu hàng hoá bổ xung. Đầu cơ phát triển, càng làm cho cung cầu không cân đối, đẩy giá cả lên cao hơn. Ngoài những đặc trưng chử yếu trên đây, ta còn có thể kể ra các đặc trưng khác của lạm phát Việt Nam như: - Lạm phát của một nền kinh tế mà cơ cấu của nó bao gồm những nghành kém hiệu quả được ưu tiên phát triển. - Lạm phát của một nền kinh tế chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm. Do vậy những khoản chi tiêu cho quốc phòng lớn, những khoản chi phí đã làm tăng sự thâm hụt ngân sách và gia tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà năm nào cũng có nơi bị thiên tai hạn hán lũ lụt, mất mùa nặng nề, nên ngân sách phải trợ cấp vùng lũ lụt. Từ những phân tích các đặc trưng của lạm phát, ta có thể thấy được những nguyên nhân của lạm phát của thời kỳ 1981-1988. Trước hết, ta có thể tìm thấy nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế ở Việt Nam, từ chế độ công hữu tràn lan đến cơ cấu kinh tế quan liêu bao cấp, mệnh lệnh, đóng cửa... Chính thể chế kinh tế này đã làm cho nền kinh tế hình thành và phát triển theo hướng tăng chi phí, tách rời nhu cầu, cô lập với thị trường thế giới, do vậy mà không thể tạo môi trường kinh doanh có hiệu quả cho các xí nghiệp các công ty, thúc đẩy mất cân đối cung cầu, thu và chi ngân sách... Thể chế kích thích xu hướng phát triển không có hiệu quả, không trừng phạt các xí nghiệp làm ăn thua lỗ. Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng lạm phát phi mã. Thứ hai, những nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế chỉ đạo sai lầm của bộ máy nhà nước: cơ cấu không suất phát từ hiệu quả, chính sách lãi suất quá thấp so với mức trượt giá làm dân chúng không muốn gửi tiết kiệm, các ngân hàng chỉ làm chức năng phát hành thu giữ mà không làm chức năng kinh doang tiền tệ và vốn, không biết đầu tư vào ngành có hiệu quả, chính sách tài chính chỉ tính đến việc tận thu và phát hành tiền để chi mà không biết nuôi dưỡng các nguồn thu, vay của dân để chi v. v..Những chính sách này trên thực tế đã làm cho các nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách ngày càng thiếu hụt và lạm phát gia tăng là một điều không tránh khỏi. Thứ ba, nguyên nhân lạm phát do những điều kiện khách quan gây ra như chiến tranh, thiên tai... Những đặc trưng trên đây cho thấy lạm phát ở Việt Nam thời kỳ này khác hẳn với các nước phương Tây. III. CHUYỂN THEO KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Thời kỳ 1986-1990, Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các hình thức ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường được xóa bỏ dần, kế hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán. Đặc biệt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể được thừa nhận và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị trường hóa. Song Đảng chủ trương và thực hiện kinh tế quốc doanh là chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác. Cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính dần dần giảm đi. Kinh tế Việt Nam bắt đầu có những chuyển biến tốt. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã sản xuất đủ tự cung cấp, có dự trữ và còn xuất khẩu gạo. Khoán 10 được triển khai từ năm 1988 trên quy mô toàn quốc càng khuyến khích nông dân sản xuất lúa gạo. Hàng hóa, nhất là hàng tiêu dùng, nhiều hơn và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng mạnh, thâm hụt thương mại giảm. Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần. Tháng 6 năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tại đây một văn kiện quan trọng đã ra đời, đó là "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh này sau đó liên tục được bổ sung và điều chỉnh trong các kỳ họp của Ban Chấp hành trung ương Đảng và Đại hội Đại biểu toàn quốc tiếp theo. Cương lĩnh này và các văn kiện có tính chất sửa đổi nó tuyên bố rằng nhiệm vụ trung tâm của xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện”. Các văn kiện này nêu phương hướng: "thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" và "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Thời kỳ 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm phát đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng chậm lại trong 2 năm 1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh tế có lúc rơi vào tình trạng giảm phát và thiểu phát. Các năm 2007-2008, lạm phát tăng tốc và hàng năm đều ở mức 2 chữ số. Thập niên 1990 và 2000 là thời kỳ mà Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế mà đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và hiệp định đối tác kinh tế song phương với Nhật Bản. Giai đoạn từ năm 2002 – 2006 Trong giai đoạn này cơ chế điều hành lãi suất được đổi mới theo hướng tiến tới tự do hoá. Tháng 6/2002 thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đối với cho vay VNĐ, tạo quyền chủ động của các tổ chức tín dụng. Công cụ tỷ giá được điều hành linh hoạt, bám sát cung cầu vốn trên thị trường. Từ tháng 6/2003 NHNNVN đã được sửa đổi, bổ sung quy chế dự trữ bắt buộc theo hướng mở rộng. Ngày 11/01/2006 VN đã chính thức gia nhập WTO. Chính sách sẽ phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế và phải tuân theo quy định của WTO. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, lạm phát CPI năm 2006 tăng 6.6%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 8.4% của cung kỳ năm 2005, lạm phát CPI và lạm phát nhóm hàng Lương thực thực phẩm (LTTP nằm trong nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống) đều giảm so với năm trước (8.4% so với 9.5% vả 10.8% so với 15.6%) còn ngược lại lạm phát giữa các nhóm hàng phi LTTP và lạm phát bình quân lại tăng thì bước sang năm 2006, cả 4 chỉ tiêu lạm phát CPI, LTTP, phi LTTP và lạm phát bình quân đều giảm so với năm ngoái. Bảng 1: Diễn biến giá một số mặt hàng trên thế giới 2003 – 2006 (% so với đầu năm) 2003 2004 2005 2006 1.Dầu thô 4.2 33.8 36.8 17.1 2.Giá gạo XKTL 8.8 10.3 20.7 5.3 3.Đường 19.8 -4.5 41.2 17.9 4.Clinke 5.7 25.2 7.0 5.Giấy sợi dài 13.8 25.9 6.2 6.Nhựa 53.3 -23.0 6.19 7.Phân ure 45.9 27.7 -11.6 1.7 8.Thép 34.1 18.3 -9.1 2.6 (Nguồn: website của Bộ Thương mại, Reuters) Trong nước giá cả nhiều mặt hàng đều có mức tăng thấp hơn năm 2005 (Chú thích: *: đơn vị 1000đ) Cụ thể, giá thực phẩm và giá xăng dầu đều có mức tăng thấp hơn cùng kỳ cùng với giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như điện, nước, giá vé xe buýt, vé hàng không...ổn định (trừ mặt hàng than) khiến mức tăng của các nhóm Pương tiện đi lại bưu điện, Nhà ở vật liệu xây dựng giảm so với năm 2005. Điều này đã tác động trực tiếp làm lạm phát CPI giảm hơn so với năm ngoái, mặt khác cũng gián tiếp tác động làm giảm lạm phát CPI thông qua việc góp phần làm giảm chi phí của doanh nghiệp. Tuy nhiên, riêng giá lương thực lại có mức tăng cao hơn năm ngoái (14.1% so với 7.8%) nhưng do mức giảm của giá thực phẩm mạnh hơn (5.5% so với 12%) nên nhóm LTTP vẫn có mức tăng thấp hơn năm ngoái. Như vậy, nếu như năm 2005 lạm phát gia tăng là do tác động từ cả cơn sốc về cung và sức ép bên cầu, thể hiện ở việc xăng dầu có mức tăng cao hơn cung kỳ và GDP tăng 8.4%, đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; thì năm 2006 lạm phát giảm là do cả hai nhân tố từ bên cầu và cung đều giảm, xuất phát từ giá LTTP, xăng dầu và GDP đều có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. * Từ năm 2007 tới nay * Lạm phát Năm 2007 bối cảnh chính trị thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Giá dầu nhiều khả năng vẫn duy trì ở mức cao cắt giảm sản lượng mặc dù tăng trưởng kinh tế năm 2007 sẽ giảm. Lạm phát có xu hướng giảm do giá dầu có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. Lãi suất của FED giảm mạnh sau 17 lần tăng liên tục từ năm 2004. Đồng USD tiếp tục giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt. Luồng vốn vào Việt Nam gia tăng mạnh do đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài tăng cao, thể hiện ở đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh mẽ xuất phát từ các nguyên nhân: Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO Mỹ thông qua qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) đối với Việt Nam từ tháng 12 năm 2006 Từ tháng 7/2006, Luật đầu tư chung và Luật doanh nghiệp thống nhất có hiệu lực tạo sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư Việt Nam tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC và các cam kết tài trợ của tổ chức quốc tế. Việc đầu tư nước ngoài tăng cao khiến luồng ngoại tệ vào nhiều, góp phần làm cán cân thanh toán gia tăng, tuy nhiên lại tạo áp lực điều hành tỷ giá và lạm phát. Xuất khẩu gia tăng do Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, tuy nhiên nhập khẩu cũng nhiều khả năng gia tăng do sức ép cạnh tranh từ các nước khác. *Tình hình kinh tế năm 2007: Theo số liệu công bố sáng nay của Tổng cục Thống kê, năm 2007, cả nước đã sản xuất và cung ứng một khối lượng hàng hóa, dịch vụ đạt giá trị 1.143.442 tỷ đồng, tương đương 71,4 tỷ USD. Nếu tính theo giá so sánh của năm 1994 (kỳ gốc để tính toán số liệu), GDP ước đạt 461.189 tỷ đồng. Xuất phát từ triển vọng tình hình kinh tế chính trị như trên, năm 2007 GDP tăng khoảng 8%, lạm phát tăng trên 6.8%, cao hơn mức tăng 6.6% của năm 2006 chưa tính đến các tác động của những biến động bất thường nên cần phải kết hợp với các phân tích định tính về diễn biến các sự kiên (ví dụ như WTO, APEC, Việt Nam được bầu là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an liên hiệp quốc…) cùng với việc thay đổi các chính sách. *Giai đoạn năm 2008: Kinh tế Việt Nam có nhiều điểm nhấn rất nhiều cái nhất, so với thời kỳ 15-16 năm gần đây (cả những cái nhất về tiêu cực và cái nhất về tích cực). Biểu hiện tiêu cực thứ nhất là chỉ số lạm phát cao nhất, dù cơn sốt tăng giá đã có dấu hiệu hạ nhiệt trong những tháng gần đây. Biểu hiện tiêu cực thứ hai là nhập siêu cũng cao nhất, trong đó có một số khuynh hướng chúng tôi cho là rất đáng báo động mà chúng ta ít để ý, đó là nhập siêu cả những mặt hàng đáng lẽ chúng ta phải xuất khẩu. Ví dụ, sẽ nhập (hay là đang nhập) nguyên liệu thủy sản trị giá gần 2 tỷ USD hàng năm để chế biến xuất khẩu lại, hay là nguy cơ nhập than, nhập muối, nhập gạo, nhập gà, lợn, nhập gỗ... Tức là những cái chúng ta tưởng là thế mạnh, thì nay lại trở thành xu hướng nhập. Biểu hiện tiêu cực thứ ba là những cơn sốt rất nguy hiểm, không hoàn toàn bắt nguồn từ thực trạng nền kinh tế, mà nhiều hơn là từ chất lượng quản lý kinh tế. Ví dụ, cơn sốt giá gạo. Biểu hiện tiêu cực thứ tư là lượng người nghèo tăng gấp đôi năm trước. Tuy nhiên, trong nửa đầu năm 2008 có một điểm nhấn tích cực rất căn bản, đó là ý thức phê phán hiệu quả đầu tư công rất mạnh và FDI đang có những dấu hiệu rất tốt, đặc biệt kết quả thu hút FDI đạt mức kỷ lục chưa từng có trong lịch sử đất nước. Dòng đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có dấu hiệu gia tăng trở lại, nhất là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng (tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng đang chiếm khoảng 20% thị phần TTCK Việt Nam). Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, thực tế cho thấy đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều dự án FDI siêu lớn, tới hàng chục tỷ USD, cũng như sẽ có sự gia tăng các dự án phát triển công nghiệp phụ trợ và phát triển khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao, tạo sự thay đổi về chất trong quá trình mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của giá lương thực (CPI lương thực tăng 22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng. Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. *Giai đoạn năm 2009: Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo ngại. Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%. Mặt trước và sau tờ 500.000 đồng. Tiền kim loại mệnh giá 500 đồng (làm từ Nikel). (Nguồn: TCTK) Sau khi công bố CPI của tháng 12 tăng ở mức 1,38% so với tháng trước, Tổng cục Thống kê đã công bố CPI cả nước nước năm 2009 tăng 6,88%. Đây là con số khả quan khi Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2009 dưới 7%. Tuy nhiên vẫn còn nhiều lo ngại bởi xu hướng tăng giá nhanh của một số mặt hàng. Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước Tết nguyên đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng 6,88 % so với tháng trước và tăng 4,57% so với năm 2008. Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với năm 2008 lại có mức tăng cao 8,39%. Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này chênh cao 8,71%. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức tăng này thấp hơn so với một số nhóm hàng khác. Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25% như nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình. Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, trong tháng 12 và cả năm 2009 nhóm Bưu chính viễn thông lại giảm 0,11%. Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm tăng 19,16% so với năm 2008. Chỉ số đô la Mỹ tháng 12 tăng 3,19% đưa con số cả năm 2009 lên 9,17% so với năm 2008. Mức tăng này cũng đã được các chuyên gia dự báo ngay từ đầu năm. Tuy nhiên với những chính sách bình ổn hiện nay, dự báo chỉ số giá vàng sẽ nằm trong vòng ổn định hơn trong những tháng tới. Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%. (Nguồn: IFM và VietstoctFinance) Chỉ số giá mặt hàng từ tháng 7/2005 – 5/2009 Tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2009 đạt 5.32%, vượt mục tiêu điều chỉnh 0.2%. Việt Nam trở thành nước có mức tăng trưởng GDP cao nhất trong khu vực và là một trong những nước tăng trưởng cao nhất thế giới. Tăng trưởng GDP đã được cải thiện dần một cách đáng kể vào những quý cuối năm. GDP từ mức chỉ tăng trưởng 3.1% trong quý 1, trong quý 3 và quý 4 lần lượt tăng lên 6.04% và 6.9%. Nếu đà tăng trưởng này được duy trì thì mức tăng trưởng GDP khoảng 6.5% vào năm 2010 là hoàn toàn có thể đạt được. Có thể con số này rất đáng khích lệ, nhưng phân tích chi tiết hơn thì vẫn còn nhiều điều đáng phải suy ngẫm. Thứ nhất: Tăng trưởng GDP cao một phần là do những chính sách kích cầu của chính phủ được thực hiện một cách khá mạnh.. Điều này đã góp phần rất lớn trong việc chống suy giảm kinh tế; tuy vậy nó có thể để lại những hệ lụy cho nền kinh tế, chủ đề mà chúng ta sẽ phải quan tâm trong năm 2010. Thứ hai: Tăng trưởng GDP có được nhờ tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế ở mức cao. Con số sơ bộ cho thấy tổng số vốn đầu tư khoảng 42.8% GDP, đưa mức ICOR năm 2009 lên đến 8.04 lần (nếu tính theo tiêu chuẩn của WB thì với mức đầu tư 43.1% GDP năm 2008, tăng trưởng GDP 5.32% năm 2009, ICOR cũng lên đến 8.1). Đây là mức rất cao so với thời kỳ thông thường và so với mức trung bình của các nước trên thế giới. Đầu tư của khu vực nhà nước tăng lên rất mạnh (40.5%), trong khi đó khu vực vốn đầu tư nước ngoài lại giảm 5.8%, khu vực ngoài nhà nước chỉ tăng 13.9%. Những con số trên cho thấy mặc dù con số tăng trưởng GDP đáng khích lệ, song chất lượng còn thấp và tồn tại những yếu tố kém bền vững. *Lạm phát năm 2010 có thể cao hơn dự báo ,  - Nhiều yếu tố có thể đẩy lạm phát năm 2010 lên cao hơn mức dự báo. Thậm chí, nếu các nguồn gây lạm phát không được quản lý và điều hành tốt, lạm phát năm tới có thể lên hai con số. Khó giữ mức 7% Theo ông Vũ Đình Ánh – Viện phó Viện Khoa học Thị trường giá cả (TTGC), các mục tiêu của năm 2010 như tốc độ tăng trưởng 6,5%, lạm phát khoảng 7% có thể đạt được thông qua các biện pháp không mang tính cấp bách, tình thế, mà gắn với chiến lược phát triển tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả hơn. Vì thế, ông Ánh dự báo, nếu tính qui luật của diễn biến thị trường giá cả được duy trì trong năm 2010 kết hợp với những chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý thị trường giá cả hợp lý thì CPI cả năm có thể ở mức 1 con số. Tuy nhiên, nếu các điều kiện này không đảm bảo thì CPI có thể lên tới 12-15%. Ông Phạm Minh Thụy, Trưởng phòng Phân tích dự báo giá cả thị trường (Viện TTGC) cũng cho rằng, chỉ số CPI của Việt Nam tháng 12/2010 so với cùng kỳ 2009 sẽ ở mức 108,0–109,0%. Như vậy, những dự báo này cho thấy, mục tiêu 7% đã đặt ra sẽ rất khó khăn để thực hiện. Bởi vì, tình thế của 2010 sẽ hoàn toàn khác năm 2009, khó có thể lấy những dữ liệu và chính sách hiện tại để tính toán hết cho năm 2010, nhất là khi kinh tế thế giới đã ra khỏi khủng hoảng, nhu cầu tăng lên. Lo ngại của các chuyên gia trong nước cũng chính là những điểm lưu ý đối với Việt Nam trong báo cáo mới đây của các tổ chức quốc tế là kinh tế có điều kiện hồi phục, thoát khỏi ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng lạm phát cao có thể trở lại... Cụ thể, ADB dự báo, nếu Chính phủ không thông qua các biện pháp kích thích tài khóa bổ sung, nếu các chính sách thắt chặt tiền tệ vẫn được duy trì thì tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ lên 6,5% vào năm 2010 và lạm phát là 8,5%. Còn IMF cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6% nhưng lạm phát có thể lên 2 con số do tăng trưởng tín dụng mạnh, đồng thời giá hàng hóa thế giới cao trở lại cũng sẽ tác động đến giá cả trong nước. Nhiều yếu tố gây tăng giá Theo ông Phạm Minh Thụy, nhìn chung, giá một số mặt hàng tại Việt Nam sẽ có xu hướng tăng nhẹ trong năm 2010. Lạm phát có thể lên đến 2 con số. (Ảnh: vnnet) Bên cạnh đó, tình hình thiên tai dịch bệnh, điều chỉnh giá một số hàng hóa theo lộ trình hội nhập, các giải pháp “kích cầu” của Chính phủ sẽ phát huy tác dụng ở mức độ sâu và rộng... sẽ góp phần làm giá hàng hóa tăng lên. Ngoài ra, nguy cơ lạm phát cao vào năm 2010 còn có thể xảy ra bởi một số nhân tố do bội chi ngân sách quá lớn. Năm 2009, bội chi ngân sách được công bố là 6,9% GDP, trong khi năm 2008 bội chi ngân sách chỉ ở mức trên 5% thì lạm phát đã lên tới 19,89%. Do vậy, năm 2009, lạm phát chưa bùng phát là bởi kinh tế suy giảm - người tiêu dùng đang lo tiết kiệm để phòng ngừa rủi ro nên cầu về tiêu dùng còn yếu. Tới năm 2010, kinh tế vượt khỏi suy thoái thì cầu về tiêu dùng sẽ tăng mạnh và gây áp lực lạm phát. Ổn định kinh tế vĩ mô để phát triển dài hạn. (Ảnh: moit) Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng ở mức rất cao trong 2009 sẽ là áp lực rất mạnh lên mặt bằng giá năm 2010, nhập siêu đang có chiều hướng tăng cao trở lại, trong khi xuất khẩu có dấu hiệu giảm. Ông Nguyễn Tiến Thỏa, Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) nhấn mạnh, năm 2010 lạm phát có nguy cơ tăng cao trở lại vì lượng tiền trong lưu thông tăng lên từ sự nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa từ 2009 chuyển qua, sức mua tăng lên nhờ được tăng lương, giá nhiều mặt hàng quan trọng tăng lên ảnh hưởng đến mặt bằng giá chung. Chính vì thế, bên cạnh nỗ lực tăng trưởng, các chuyên gia cảnh báo, Chính phủ cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn về thu chi ngân sách, tiền tệ, tín dụng, cán cân thanh toán quốc tế… Đây là điều kiện cơ bản để thúc đẩy đầu tư, hoàn thành mục tiêu tăng trưởng; đồng thời đề phòng tình trạng lạm phát cao quay trở lại. Không nên đặt mục tiêu tăng trưởng quá cao, dẫn tới phải tăng mạnh đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp (hệ số ICOR cao)… sẽ làm cho nền kinh tế kém sức cạnh tranh, phát triển không bền vững. CHƯƠNG IV: ThỰc trẠng lẠm phát và tăng trưỞng kinh tẾ trên thẾ giỚi 1. Mỹ Thời kỳ thay đổi: Thập kỷ 1960 và 1970 Nền kinh tế trong đó lạm phát tiếp tục tăng và hoạt động kinh doanh đình trệ, cùng với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng Nền kinh tế trong thập kỷ 1980 - 1990 - Nước Mỹ đã trải qua một đợt suy thoái nặng nề trong suốt năm 1982. - Năm 1983, lạm phát đã lắng xuống, nền kinh tế hồi phục lại và nước Mỹ bắt đầu một chu kỳ tăng trưởng kinh tế bền vững. - Tỷ lệ lạm phát hàng năm được duy trì dưới 5% trong suốt thập kỷ 1980 và sang cả thập kỷ 1990. - Cuộc khủng hoảng tài chính từ năm 2007 đã làm kinh tế suy thoái, tỉ lệ mất việc gia tăng, lạm phát năm 2009 xuống mức -0,4% , nhiều doanh nghiệp phá sản 2. Nhật: - Thời kì gần 20 năm từ 1955 tới 1973 là thời kì kinh tế Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, lạm phát ổn định khoảng 6% Tăng trưởng kinh tế Nhật Bản Từ 1973 đến 1986 lần lượt xảy ra 3 cuộc khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng giảm còn khoảng 3%, lạm phát tăng cao nhưng đã được kiềm chế. Từ 1986 trở đi, kinh tế Nhật bước vào thời kỳ trì trệ, phát triển dưới 1%, lạm phát xuống mức âm. 3. Zimbabwe. Trước đây, Zimbawwe được biết đến như một trong những quốc gia phát triển nhất châu Phi, từng được mệnh danh là Rổ bánh mì của châu lục, đời sống người dân khá ổn định. Kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp và đạt năng suất cao. Nhưng trong nhiều năm trở lại, đời sống người dân Zimbabwe đang rơi vào cảnh khó khăn Cùng với việc phát hành tờ tiền kỷ lục: 100.000.000.000 đô la, tỉ lệ thất nghiệp cao và chính trị bất ổn Khi tỉ lệ lạm phát đạt ở mức phi mã 125,000%/năm và đạt mức kỷ lục 231 triệu phần trăm vào tháng 7 năm 2008 so với tháng 7 năm 2007 Đồng tiền ngày một mất giá, khiến người dân rơi vào cảnh tỉ phú đói nghèo. CHƯƠNG V: GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Dù lạm phát là do nguyên nhân nào gây ra thì nguyên tắc hành động chung để chống lạm phát vẫn là giảm lượng cung tiền. Chính phủ có thể kiềm chế lạm phát bằng các công cụ quản lí kinh tế vĩ mô. Dưới đây, các phương pháp chống lạm phát sẽ được trình bày theo từng nguyên nhân tương ứng đã nêu ở trên. 1. Chống lạm phát bằng cách giảm cầu: Có thể giảm cầu bằng các chính sách tài khoá thu hẹp, chính sách tiền tệ thu hẹp và chính sách thu nhập. a. Chính sách tài khoá thu hẹp: gồm giảm tiêu dùng chính phủ hoặc tăng thuế trực thu. - Nếu áp dụng cách giảm tiêu dùng của Chính phủ thì sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. - Nếu áp dụng cách tăng thuế trực thu thì sẽ làm giảm thu nhập khả dụng, gián tiếp làm giảm tiêu dùng và kết quả là giảm tổng cầu. Ở Việt Nam, hiện nay, Chính phủ đang áp dụng chính sách giảm tiêu dùng của Chính phủ thông qua việc thắt chặt nguồn vốn đầu tư, nhằm đảm bảo chỉ đầu tư vào những dự án mũi nhọn chắc chắn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, biện pháp này còn chưa phát huy tác dụng cụ thể vì công tác xây dựng, kiểm định và thực hiện các dự án đầu tư còn kém, xảy ra nhiều tiêu cực gây thất thoát lớn. Còn về chính sách tăng thuế, Chính phủ Việt Nam không áp dụng vì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân trong tình hình giá cả leo thang. Ngược lại, Chính phủ lại liên tục tăng lương tối thiểu để tăng thu nhập danh nghĩa cho dân chúng, đây là một hình thức bù đắp lại lượng thu nhập đã mất đi do sự trượt giá của đồng tiền. Tuy nhiên, hạn chế của nó là càng làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế, thúc đẩy lạm phát tăng cao hơn. b. Chính sách tiền tệ thu hẹp: Thực hiện các biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền như: bán các loại giấy tờ có giá, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng tỉ suất chiết khấu. Khi Chính phủ bán các loại giấy tờ có giá như trái phiếu Chính phủ thì một lượng tiền trên thị trường được rút về, làm giảm lượng cung tiền, qua đó làm giảm tiêu dùng và đầu tư, hạn chế lạm phát. Khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc hoặc tăng tỉ suất chiết khấu sẽ lảm giảm lượng cung tiền trong các ngân hàng trung gian, từ đó làm giảm đầu tư và hạn chế lạm phát. Hiện nay, ở Việt Nam đang áp dụng các biện pháp trên nhằm kiềm chế lạm phát, tuy nhiên, tác dụng thực tế của các chính sách này còn chưa rõ rệt. Ngân hàng trung ương cũng đã thực hiện biện pháp tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thu hồi một phần tiền đang lưu thông. Tuy nhiên, nếu áp dụng các chính sách này một cách cứng nhắc có thể làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và xuất khẩu, có thể làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng. c. Chính sách thu nhập: Là một chính sách kiểm soát kinh tế bằng các phương pháp kiểm soát độc đoán đối với lương và giá để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, do các biện pháp này không phù hợp với nền kinh tế thị trường nên ngày nay Chính phủ các nước rất ít khi sử dụng biện pháp này. Ở Việt Nam, vào những năm giữa thập kỉ 80 của thế kỉ XX đã từng phải gánh chịu một bài học đau đớn khi áp dụng chính sách thu nhập. Đó là việc Chính phủ áp dụng chính sách giá-lương-tiền một cách duy ý chí, phi khoa học đã làm nền kinh tế thêm trì trệ và tỉ lệ lạm phát tăng lên chóng mặt từ hai con số lên đến trên 700%, gây một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Ngày nay, chính sách này không còn được sử dụng để chống lạm phát ở nước ta nữa. 2. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung: Có thể chống lạm phát thông qua việc tác động lên cung theo hai hướng: cắt giảm chi phí sản xuất và gia tăng năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất. a. Phương pháp cắt giảm chi phí sản xuất: Thực hiện phương pháp này tức là tìm mọi cách khả dĩ nhằm giảm chi phí bỏ ra cho các yếu tố đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ như: cắt giảm số lao động, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nguyên-nhiên-vật liệu dùng trong sản xuất,... Giá cả thị trường giảm xuống sẽ kiềm chế có hiệu quả lạm phát. b. Phương pháp gia tăng năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất: Thực hiện phương pháp này tức là tiến hành đầu tư nâng cao khoa học công nghệ ứng dụng trong sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lí sản xuất,… nhằm tăng sản lượng sản phẩm trong khi không làm tăng giá thành sản phẩm. Cả hai phương pháp này đều đang có ý nghĩa hết sức quan trọng trong các biện pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay. Nhất là trong điều kiện giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng cao. Giá dầu thế giới lên nhưng các quốc gia có nhu cầu năng lượng lớn hơn chúng ta nhiều mà họ không quá sốc. Trung Quốc lạm phát cũng chỉ 5,4%, Singapore chỉ 3%. Các quốc gia đó có thể “bình thản” vì năng lượng của họ không quá phụ thuộc vào dầu. Trong cơ cấu năng lượng đã có điện hạt nhân, thủy điện, gió, năng lượng mặt trời, khí… Hiệu quả sử dụng năng lượng của họ rất cao. Có thực hiện được một cách thành công hai giải pháp này cùng một lúc mới có thể tối ưu hoá nền sản xuất, khiến nền kinh tế ít chịu tác động của lạm phát hơn. 3. Chống lạm phát do quán tính: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các động thái của Chính phủ đúng lúc và đúng mức nhằm trấn an các thành phần kinh tế, làm cho họ tin tưởng vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế, tin rằng lạm phát sẽ được khống chế có hiệu quả trong tương lai gần. Do đó, họ loại bỏ trong kế hoạch của mình các yếu tố liên quan đến tốc độ lạm phát cao, và sẽ hạn chế phần nào được lạm phát. Tất nhiên, việc sử dụng biện pháp này không thể là sự lừa dối nhân dân hay chỉ là những lời nói suông, tuyên truyền đơn thuần vô căn cứ mà phải dựa trên những thành công của công tác chống lạm phát bằng cách làm giảm cầu hay tác động lên cung. KẾT LUẬN Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta trong thời gia tới. Phát huy kết quả đạt được trong những năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu và đề suất tổ chức thực hiện các chính sách biện pháp bình ổn giá cả thi trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình, sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TẠP CHÍ THỊ TRƯỜNG GIÁ CẢ SỐ 3 - 1996 SỐ 5 - 1997 SỐ 2 - 1999 SỐ 5 - 1999 SỐ 7 -1999 2. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 77 NĂM 97 3. TẠP CHÍ THỊ TRƯỜNG, TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ THÁNG 4- 1998 THÁNG 8 - 1998 4. TẠP CHÍ TÀI CHÍNH THÁNG 9 - 1999 5. THỜI BÁO KINH TẾ SỐ 87 - 1999 6. KINH TẾ KINH TẾ HỌC SAMULSON

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLạm phát ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan