PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi nước ta gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, tình hình kinh tế có nhiều điểm khởi sắc, thu lại được nhiều thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, nền kinh tế vĩ mô còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Trong những năm gần đây tình hình lạm phát đang diễn ra và khó kiểm soát, và đề tài lạm phát trở thành đề tài nóng trên khắp các diễn đàn. Vậy tại sao cần bình luận về lạm phát khi đã có nhiều người nói về nó. Có ba lý do:
Lý do thứ nhất, cực kỳ quan trọng là ảnh hưởng của lạm phát tới sự ổn định và công bằng xã hội.
Lý do thứ hai là cần làm sáng tỏ thêm nguyên nhân gây ra lạm phát. Từ những nguyên nhận gây nên lạm phát làm mất cân bằng xã hội chúng ta có thể tìm hiểu và hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của lạm phát gây ra cho xã hội cho nền kinh tế nước ta.
Cuối cùng, vì đây thực sự là một vấn đề rất cần thiết cho các doanh nghiệp hiện nay, nắm bắt kịp thời những thông tin về lạm phát giúp doanh nghiệp có thể điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình phù hợp, hạn chế được những rủi ro về lãi suất, tỷ giá Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài này để tìm hiểu, nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
ã Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kinh tế vĩ mô nói chung và lạm phát nói riêng.
ã Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
ã Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề xuất giải pháp khắc phục
3. Đối tượng nghiên cứu.
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về kinh tế vĩ mô trong đó có vấn đề lạm phát.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, số liệu nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để giải quyết vấn đề đặt ra, chuyên đề đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lênin, vận dụng trong môi trường thực tế, hiện tại.
- Kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống dựa trên những tài liệu từ các sách báo, tạp chí chuyên ngành và một số website có uy tín để luận giải, khái quát và phân tích thực tiễn theo mục đích của đề tài.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề bao gồm ba chương như sau:
Chương một: Tổng quan về môn học Kinh tế vĩ mô và vấn đề lạm phát.
Chương hai: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp để ổn định lạm phát.
Chương ba: Đánh giá và nhận xét môn học.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi nước ta gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, tình hình kinh tế có nhiều điểm khởi sắc, thu lại được nhiều thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, nền kinh tế vĩ mô còn ẩn chứa nhiều bất ổn. Trong những năm gần đây tình hình lạm phát đang diễn ra và khó kiểm soát, và đề tài lạm phát trở thành đề tài nóng trên khắp các diễn đàn. Vậy tại sao cần bình luận về lạm phát khi đã có nhiều người nói về nó. Có ba lý do:
Lý do thứ nhất, cực kỳ quan trọng là ảnh hưởng của lạm phát tới sự ổn định và công bằng xã hội.
Lý do thứ hai là cần làm sáng tỏ thêm nguyên nhân gây ra lạm phát. Từ những nguyên nhận gây nên lạm phát làm mất cân bằng xã hội chúng ta có thể tìm hiểu và hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của lạm phát gây ra cho xã hội cho nền kinh tế nước ta.
Cuối cùng, vì đây thực sự là một vấn đề rất cần thiết cho các doanh nghiệp hiện nay, nắm bắt kịp thời những thông tin về lạm phát giúp doanh nghiệp có thể điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình phù hợp, hạn chế được những rủi ro về lãi suất, tỷ giá… Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài này để tìm hiểu, nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
Mục tiêu nghiên cứu.
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kinh tế vĩ mô nói chung và lạm phát nói riêng.
Phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng lạm phát, đề xuất giải pháp khắc phục
Đối tượng nghiên cứu.
Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về kinh tế vĩ mô trong đó có vấn đề lạm phát.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay, số liệu nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 2000 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, chuyên đề đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lênin, vận dụng trong môi trường thực tế, hiện tại.
Kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống…dựa trên những tài liệu từ các sách báo, tạp chí chuyên ngành và một số website có uy tín để luận giải, khái quát và phân tích thực tiễn theo mục đích của đề tài.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề bao gồm ba chương như sau:
Chương một: Tổng quan về môn học Kinh tế vĩ mô và vấn đề lạm phát.
Chương hai: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp để ổn định lạm phát.
Chương ba: Đánh giá và nhận xét môn học.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ VÀ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế nói chung. Kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô là hai lĩnh vực chung nhất của kinh tế học. Trong khi kinh tế học vi mô chủ yếu nghiên cứu về hành vi của các cá thể đơn lẻ, như công ty và cá nhân người tiêu dùng, kinh tế học vĩ mô lại nghiên cứu các chỉ tiêu cộng hưởng như GDP, tỉ lệ thất nghiệp, và các chỉ số giá cả, cán cân ngoại thương, cán cân ngân sách… để hiểu cách hoạt động của cả nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô là một lĩnh vực tổng quát nhưng có hai khu vực nghiên cứu điển hình:
Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia (còn gọi là chu kỳ kinh tế)
Nghiên cứu những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Các chuyên gia kinh tế vĩ mô phát triển các mô hình để giải thích mối quan hệ giữa các yếu tố như thu nhập quốc gia, sản lượng, tiêu dùng, thất nghiệp, lạm phát, tiết kiệm, đầu tư, buôn bán đa quốc gia và tài chính đa quốc gia. Các mô hình này và các dự báo do chúng đưa ra được cả chính phủ lẫn các tập đoàn lớn sử dụng để giúp họ phát triển và đánh giá các chính sách kinh tế và các chiến lược quản trị.
Các khái niệm về lạm phát.
Khái niệm.
Lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiêm cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng nghiên cứu của mình . Và một định nghĩa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong thời gian nhất định”. [*]
[*] Trích: TS. Nguyễn Minh Tuấn, Ths. Trần Nguyễn Minh Ái, Kinh tế vĩ mô, NXB Lao động xã hội, 2006, trang 70
Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI (Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường. Để tính CPI, ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát .
+ Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI: Producer Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI dùng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định
Ip = åip.d
ip:chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d:tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
+ Ngoài 2 chỉ số trên, chỉ số GNP cũng được sử dụng. Đây chính là chỉ số giảm phát, chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP3: chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa / GDP thực tế.
Phân loại lạm phát
Có nhiều cách để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có các loại lạm phát khác nhau .
Căn cứ vào định lượng
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn …
- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11%,12%.. thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
Căn cứ vào định tính
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
* Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
-Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau: lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .
Tác động của lạm phát
Lạm phát có nhiều loại,cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế lạm phát là một nỗi lo của toàn xã hội và ta cũng thấy được các tác động của nó.
Tác động đến lĩnh vực sản xuất
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh. Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên, xét ở góc độ nào đó, khi tỷ lệ lạm phát thấp, không gây ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng.
Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của mình để vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn .
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng .
Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ không làm an tâm những cá nhân, doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn ,hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao,muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát .
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện.
Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng
AS3
AS2
3
2'
AS1
AD3
AD2
AD1
Y
(Tổng sản phẩm)
Yt
Yn
1'
1
P
P3
P2
P1
0
(Tổng mức giá)
2
Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm. Khi các nhà hoạch định chính sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, họ sẽ đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng (Yt > Yn).Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh tế chuyển đến điểm 1’. Lúc này sản lượng đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã thực hiện được.
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang 2’. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 > P1. Lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu ban đầu .Do đó các nhà hoạch định chính sách lại tìm cách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn .
Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng xuất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên ,công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá .
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng hợac khả năng khả thác hạn chế. Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng. Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên qoàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy .
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát. Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát: Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục, tâm lý của dân cư, thâm hụt ngân sách,tỷ giá hối đoái biến động, tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá…Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát…..v.v
Biện pháp khắc phục lạm phát
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. Ở mỗi nước tỷ lệ lạm phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động khác nhau. Do đó chính phủ ở các nước sẽ có những biện pháp khác nhau. Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp dụng biện pháp tình thế và các biện pháp có tính chiến lược.
Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước sẽ có những biện pháp điển hình sau:
- Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm giảm tức thời cơn sốt lạm phát
Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Đây được gọi là biện pháp thắt chặt lượng cung tiền tệ hay còn gọi là đóng bảng tiền tệ. Cụ thể là Ngân hàng trung ương ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng ,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền đề bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, đểlàm giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng trung ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế.Và ngân hàng cũng có thể ấn định mức lãi xuất cao, từ đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp gửi tiền không kì hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm.
Tiếp đến, để khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp thắt chặt chi tiêu của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng nhanh của tổng cầu. Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm lượng cầu chi tiêu của dân cư.Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài… Một biện pháp nữa được áp dụng là cải cách tiền tệ khi tỷ lệ lạm phát tăng quá cao trong khi các biện pháp nêu trên chưa đạt được hiệu quả.
- Cùng với những biện pháp tình thế, các nước còn sử dụng các biện pháp chiến lược nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và làm cho cơ số tiền tệ ổn định bền vững. Đó là các biện pháp:
Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá. Hàng hoá trong nước ngày càng nhiều, quỹ hang tăng lên với số lượng, chủng loại đa dạng phong phú. Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để bổ xung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước. Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ để bán cho dân chúng , phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu và ngành du lịch .
Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh hoàn hảo: Sản phẩm để người tiêu dùng chấp nhận được là yếu tố quan trọng. Như vậy cần phải cạnh tranh giá cả bằng việc tìm mọi cách giảm chi phí .
Biện pháp chiến lược khác là kiện toàn bộ máy hành chính ,cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Điều này sẽ làm giảm mức chi tiêu thường xuyên của Ngân sách nhà nước. Mặt khác cần phải tăng cường công tác quản lý điều hành Ngân sách nhà nước dựa trên việc tăng các khoản thu cho Ngân sách một cách hợp lý chống thất thu như thất thu về thuế và điều chỉnh các khoản chi phí.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ BIỆN PHÁP ỔN ĐỊNH LẠM PHÁT.
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1. Thực trạng
Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã, với mức sụt giá của tiền đồng lên đỉnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số.
Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kỳ lạm phát thấp nhất của Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0.1%, -0.6% và 0.8%. Thời kỳ này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998.
Nguồn:
Biểu đồ 2.1. chỉ số lạm phát ở Việt Nam từ 2003-2010
Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm.
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng sắp tới.
Biểu đồ 2.2. CPI cuối kỳ và trung bình giai đoạn 1992 - 2010
Biểu đồ 2.3. Lạm phát các quốc gia trên thế giới (xem thêm phụ lục)
2.1.2. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam
Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát xuất phát từ 3 nguyên nhân chính: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột, và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp.
2.1.2.1. Cung tiền tăng quá mức
Thời gian qua, nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng cung tiền được xem là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới.
Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy? Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng.
Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ quanh mức 7%, thậm chí năm 2008 và 2009 chỉ lần lươt đạt mức 6.19% và 5.32%. Điều này cho thấy chất lượng tăng trưởng, đầu tư và phát triển ở Việt Nam vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến cho lạm phát luôn ở trong tình trạng chực chờ, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
2.1.2.2. Nguyên nhân cung cầu hàng hóa.
Ngoài nguyên nhân tiền tệ kể trên, chúng ta xem xét những nguyên nhân còn lại xuất phát từ phía cầu và phía cung hàng hóa (lạm phát chi phí đẩy (cost push) và cầu kéo (demand pull)). Đây là những nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất.
Trong năm 2007, sự bùng nổ của nhu cầu tiêu dùng trong nước đã góp phần làm lạm phát tăng tốc. Cũng trong khoảng thời gian đó, giá cả của hàng loạt nguyên nhiên liệu như xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước. Lạm phát cao nhất tính theo năm đã lên tới 28% vào tháng 8/2008. Cuối năm 2008, với sự lao dốc của hầu hết các hàng hóa trên thế giới, lạm phát trong nước cũng được chặn đứng. Lạm phát giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.97% (YoY) vào tháng 8/2009.
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010
Chúng ta vừa xem xét thực tế lạm phát ở Việt Nam và một số nguyên nhân chủ yếu. Sau đây chúng ta phân tích các yếu tố có thể tác động đến lạm phát trong năm 2010 dưới ba nhóm chính: (i) nguyên nhân chi phí đẩy (tăng giá xăng dầu, điện nước, điều chỉnh tỷ giá...), (ii) nguyên nhân cầu kéo (kích cầu, thâm hụt ngân sách…), (iii) nguyên nhân tiền tệ (tăng cung tiền, tăng tín dụng…).
2.1.3.1. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hóa cơ bản khác
Sau dịp Tết Nguyên đán, giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh tăng. Giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5% (tổng cộng 2 lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Phần lớn ý kiến đều quan ngại việc tăng giá điện và các hàng hóa cơ bản này sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa trong toàn bộ nền kinh tế và mức tăng trưởng GDP.
Tuy vậy, theo tính toán của Bộ Công thương việc tăng giá điện tác động trực tiếp chỉ làm CPI tăng 0.16%. Một số ngành công nghiệp với chi phí tiền điện cao (chiếm 30 - 40% giá thành) như cấp nước, điện phân… giá đầu ra sản phẩm tăng thêm khoảng 2.83 – 3.5%. Những ngành sản xuất thâm dụng năng lượng khác như cán thép, xi măng giá thành tăng thêm khoảng 0.20 – 0.69%. Tổng hợp chi phí tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng từ 0.19 – 0.27%.
Thực tế, ước lượng mức độ tác động thực sự của việc tăng giá hàng hóa cơ bản này đến CPI là việc làm khó khăn. Việc tăng giá điện, xăng dầu ngoài ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, còn tác động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ vọng về mức lạm phát cao trong tương lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên trầm trọng. Điều này thường xảy ra đối với những nền kinh tế mà cơ chế thị trường kém hiệu quả.
2.1.3.2. Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100 VND/USD. Nhiều nhận định cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ ảnh hưởng tới đà tăng giá của hàng hóa trong nước, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã bằng khoảng 1.5 lần GDP.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh bởi tỷ giá. Vừa qua một số hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán sau khi tỷ giá được điều chỉnh. Hiện nay, nhiều nhận định còn cho rằng tỷ giá tiền đồng vẫn có khả năng tiếp tục được điều chỉnh trong thời gian tới. Do vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân rất đáng được quan tâm.
2.1.3.3. Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu
Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy từng khu vực. Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp và ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng có thể tạo ra một hiệu ứng tăng giá ăn theo trên thị trường.
2.1.3.4. Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng hóa biến động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung chưa kịp thay đổi hoặc ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ nguyên đều làm cho giá hàng hóa tăng. Trong dịp Tết Âm lịch vừa qua, giá của nhiều hàng hóa tăng một cách đột biến là do nguyên nhân cầu kéo.
Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ khiến nhu cầu một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu cầu này tiếp tục kéo dài sang năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng hóa. Ngoài ra, năm 2010 người dân có thể sẽ tăng cường chi tiêu khi triển vọng kinh tế khả quan hơn, tạo ra một sức cầu lớn hơn đối với nhiều loại hàng hóa.
2.1.3.5. Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là mức khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá cao so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 sẽ ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ với cung tiền, nhưng thường có độ trễ từ 5 – 7 tháng.
Biểu đồ 2.4. Tương quan tăng trưởng tín dụng và CPI cuối kỳ
Biểu đồ 2.5. Tương quan tăng trưởng tín dụng và CPI theo tháng
2.1.4. Dự báo bằng mô hình định lượng: Lạm phát năm 2010 ở mức 8,7%[**]
Việc dự báo lạm phát luôn là một công việc không dễ dàng. Lý thuyết và thực tế cho thấy lạm phát phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố rất khó xác định và thường xuyên biến động. Tuy vậy, dự báo được xu thế của lạm phát có ý nghĩa rất quan trọng đối với những người làm chính sách và nhà đầu tư.
Xây dựng mô hình dự báo dựa trên đánh giá các yếu tố tác động lạm phát trong bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010. Dữ liệu CPI, tăng trưởng tín dụng, cung tiền M2 và chỉ số giá hàng hóa được tính theo chu kỳ 12 tháng. Nguồn dữ liệu cập nhật từ IMF, Tổng cục Thống kê và NHNN, từ tháng 01/2007 đến tháng 02/2010.
[**] Trích: Hồ Bá Tình, Bài viết: “Lạm phát trong năm 2010 có đáng lo ngại?”, www.tinnhanhchungkhoan.vn, Thứ Ba, 21/12/2010
Kết quả dự báo cho thấy chỉ số CPI của tháng 3 tăng khoảng 0,87%, mức tăng này thấp hơn khá nhiều so với 4 tháng gần đây. Tuy vậy, đây lại là mức cao so với cùng kỳ của những năm vừa qua (trừ năm 2008).
Trong mô hình dự báo, giả định NHNN sẽ kiểm soát tăng trưởng tín dụng trong năm 2010 ở mức khoảng 30% (mục tiêu này của NHNN trong năm 2010 là 25%). Với mức này thì tín dụng vào tháng 5 và tháng 6/2010 có thể sẽ tăng trưởng ở mức 30% (YoY) và tăng trưởng cung tiền M2 cũng chỉ khoảng 20% (YoY). Với các giả định này, mô hình của chúng tôi chỉ ra CPI kết thúc năm 2010 sẽ quanh mức 8,7%.
Bảng 2.1. CPI dự báo cho từng tháng và cả năm 2010
Tháng (2010)
1a
2a
3f
4f
5f
6f
7f
8f
9f
10f
11f
12f
CPI (MoM)
1,36
1,96
0,87
0,34
0,75
0,37
0,09
0,43
0,48
0,18
0,56
0,98
CPI lũy kế
1,36
3,35
4,25
4,60
5,39
5,78
5,88
6,34
6,85
7,04
7,64
8,70
CPI (YoY)
7,62
8,46
9,59
9,58
9,93
9,73
9,27
9,47
9,32
9,11
9,12
8,70
Nguồn: TCTK và Vietstock dự báo Ghi chú: (a) thực tế (f) dự báo
Mô hình dự báo của chúng tôi cũng cho thấy lạm phát tính theo năm ở mức trên 9% gần như suốt năm 2010. Đây là một tỷ lệ tương đối cao nếu so sánh với CPI của Việt Nam thời kỳ trước năm 2007. Với kết quả dự báo này chúng tôi cho rằng trong thời gian tới, hoạt động trên thị trường tín dụng có thể sẽ sôi động trở lại, cung tiền được tăng lên nhằm hạ lãi suất cho vay trên thị trường xuống còn 12 - 14%, phù hợp với mức lạm phát dưới 9% trong năm 2010.
2.2. Các giải pháp ổn định lạm phát
Chính phủ đang ý thức được tầm quan trọng của vấn đề lạm phát khi thời gian gần đây các biện pháp bình ổn giá cả, yêu cầu giãn tăng giá xăng dầu…liên tục được
thực hiện. Tác động tiêu cực của vấn đề lạm phát lên kinh tế vĩ mô và TTCK trong năm 2010 có thể là không quá lớn khi lạm phát nhiều khả năng được kiểm soát dưới 2 chữ số. Tuy nhiên, có thể chính phủ cần phải xây dựng hệ thống chính sách tiền tệ, tài chính hiệu quả, tỷ giá hối doái linh hoạt, dự trữ quốc gia đủ mạnh và can thiệp vào nền kinh tế đúng lúc. Cụ thể:
Đẩy mạnh hơn nửa quá trình chuyển đổi nền kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó có thể tận dụng tối đa ưu thế thị trường và khai thác tối ưu tiềm năng của nền sản xuất xã hội. Nhờ vậy mà tăng nhanh số lượng chủng loại và chất lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường.
Ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu và những mặt hàng mà nhà nước độc quyền sản xuất kinh doanh
Phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP. Bởi vì bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu.
Phải nâng cao sản lượng hàng hóa trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất công, nông nghiệp. Mặt khác cần tiếp tục cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.
Về mặt ngân hàng: với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, các ngân hàng cần:
Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn và cho vay hiệu quả các dự án.
Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam
Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc
Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại
Xử lý tốt mối quan hệ với ngân hàng nhà nước, phát triển thị trường vốn, đồng thời phát triển ồn định thị trường chứng khoán, hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi Việt nam gia nhập và tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Tóm lại, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô của nhà nước: giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hóa…đề đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.
CHƯƠNG 3.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT
CHO MÔN HỌC
3.1 Nhận xét
Kinh tế vĩ mô là môn học nghiên cứu, phân tích nền kinh tế một cách tổng thể thông qua các biến số: tổng sản phẩm quốc gia, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lượng cung tiền trong nền kinh tế…trên cơ sở đó đề ra các biện pháp nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế. Vì vậy môn học này có tính thực tiễn và vận dụng rất rộng rãi trong mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cho cả một quốc gia đó.
Nghiên cứu về kinh tế vĩ mô sẽ giúp các bạn sinh viên trang bị và tiếp cận một nền tảng kiến thức kinh tế vĩ mô nói chung và vấn đề lạm phát nói riêng, kết hợp trong môi trường học tập tốt sẽ giúp sinh viên tự tin hội nhập nhanh vào thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó môn học còn là tiền đề cũng như liên quan đến nhiều môn học khác giúp sinh viên có thể hệ thống lại kiến thức và thuận lợi trong quá trình nghiên cứu học tập tốt hơn trong ngành học Quản trị kinh doanh của mình.
Những thuận lợi và khó khăn khi nghiên cứu về kinh tế vĩ mô
Kinh tế vĩ mô là một lĩnh vực mang tính ứng dụng cao từ việc nghiên cứu đến thực tiễn làm việc trong chính doanh nghiệp và tổ chức, tuy nhiên nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải là một vấn đề đơn giản, dễ thực hiện, bởi:
Kinh tế vĩ mô là một phạm trù lớn và sâu rộng. Việc nghiên cứu môn học là nghiên cứu cả một hệ thống các vấn đề như: sản lượng quốc gia, tổng cung, tổng cầu, chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, lạm phát và thất nghiệp, thương mại quốc tế, tăng trưởng kinh tế…đòi hỏi học viên cần phải có những hiểu biết nhất định những kiến thức trên, biết tổng hợp, phân tích từ nhiều nguồn dữ liệu..Từ đó đưa ra những đánh giá phù hợp và chính xác nhất.
Kinh tế vĩ mô là môn học ứng dụng rất cao. Tuy nhiên, vấn đề đưa môn học vào thực tiễn để phân tích, đánh giá tình hình kinh tế, đề xuất giải pháp…không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi học viên nghiên cứu một cách khách quan và khoa học và linh hoạt.
Bên cạnh đó, sinh viên có ít thời gian nghiên cứu môn học trên lớp, phải tự tìm hiểu, nghiên cứu.Vì vậy chất lượng môn học còn phụ thuộc vào năng lực bản than của mỗi người.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đã có nhiều thuận lợi trong việc học tập cũng như nghiên cứu về môn học kinh tế vĩ mô:
Đội ngũ giảng viên về kinh tế vĩ mô có bề dày về kinh nghiệm cũng như là những nghiên cứu sâu để chia sẻ cho sinh viên.
Những thế hệ đi trước đã để lại cho thế hệ sau những công trình nghiên cứu, những tài liệu sách báo quý giá về kinh tế học nói chung, kinh tế học vĩ mô nói riêng.
Đây cũng là đề tài thu hút sự chú ý rộng rãi của mọi người trên khắp các diễn đàn báo chí, truyền thông, internet…đều này giúp chúng ta tiếp cận môn học một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.
3.2. Đánh giá
Môn học kinh tế vĩ mô có tầm quan trọng, có ý nghĩa thiết thực cho sinh viên khối ngành kinh tế nói chung, quản trị kinh doanh nói riêng. Sau khi hoc môn này sinh viên có thể nắm được các phương hướng để đánh giá, phân tích nền kinh tế, làm nền tảng cho việc nghiên cứu các môn học khác.
Bên cạnh đó sinh viên sẽ nắm được xu thế phát triển của nền kinh tế ở hiện tại và tương lai, từ đó có thể vận dụng trong thực tế kinh doanh sau này.
Vì vậy Kinh tế học vĩ mô là một phạm trù, một môn học rất thiết thực và cần thiết không thể thiếu trong hoạch định đào tạo của ngành học kinh tế và của toàn xã hội.
3.3. Đề xuất đối với trường, khoa
Khoa nên chỉnh sửa, xuất bản giáo trình môn học kinh tế vĩ mô hoàn thiện hơn,. Giáo trình nên đưa nhiều ví dụ thực tiễn về kinh tế vĩ mô ở Việt nam cũng như các nước khác để sinh viên dễ dàng tiếp thu hơn.
Tạo điều kiện cho sinh viên có thể nghiên cứu các vấn đề một cách sâu rộng và thực tế, thông qua việc nghiên cứu các chuyên đề riêng mà nội dung xoay quanh kinh tế vĩ mô. Điều này đã được thực hiện nhưng vấn đề giới hạn về thời gian đã không cho phép sinh viên nghiên cứu trao đổi tại lớp, chỉ là tự học tại nhà thì chưa đủ để sinh viên trang bị kiến thức sâu, mà trái lại sinh viên chỉ đơn thuần là biết “cưỡi ngựa xem hoa” về môn học mà thôi.
Trường, khoa cũng nên xuất bản những tạp chí về kinh tế tổng hợp các bài phân tích của các chuyên gia, các giảng viên chuyên ngành…về các vấn đề kinh tế hiện tại cập nhật những thông tin mới, kịp thời hiện tại để làm định hướng cho sinh viên nghiên cứu, học tập.
KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là bệnh kinh niên nhưng việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát năm 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định làm tiền đề cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… Tuy nhiên, lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước nhà phát triển vững mạnh, làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà của tất cả các cá nhân, doanh nghiệp đặc biệt là các nhà doanh nghiệp trẻ và của toàn xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Minh Tuấn, Ths. Trần Nguyễn Minh Ái, Kinh tế vĩ mô, NXB Lao động xã hội, 2006
TS. Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư, Ths. Phan Nữ Thanh Thủy, Kinh tế vĩ mô, NXB Phương đông, 2006
Hồ Bá Tình, Bài viết: “Lạm phát trong năm 2010 có đáng lo ngại?”, www.tinnhanhchungkhoan.vn, Thứ Ba, 21/12/2010
Các website:
www.vi.wikipedia.org
www.tinnhanhchungkhoan.vn
www.google.com.vn
www.indexmundi.com
PHẦN PHỤ LỤC
Country Comparison: Inflation rate (consumer prices)
Definition: This entry furnishes the annual percent change in consumer prices compared with the previous year's consumer prices.
Source: CIA World Factbook - Unless otherwise noted, information in this page is accurate as of January 1, 2009
Rank
Country
Inflation rate (consumer prices) (%)
1
Zimbabwe
563
2
Ethiopia
44.4
3
Seychelles
37
4
Venezuela
30.4
5
Mongolia
28
6
Burma
26.8
7
Kenya
26.3
8
Iran
25.6
9
Ukraine
25.2
10
Kyrgyzstan
24.5
11
Vietnam
24.4
12
Burundi
24.1
13
Sao Tome and Principe
23
14
Sri Lanka
22.6
15
Jamaica
22
16
Azerbaijan
20.8
17
Tajikistan
20.5
18
Pakistan
20.3
19
UnitedArab Emirates
20
20
Nicaragua
19.8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lạm phát ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp 2011.doc