MỤC LỤC
Mở đầu 4
Phần I: Tổng quan về ĐTNN và các yếu tố tác động đến FDI 5
I. Tổng quan về ĐTNN và FDI ở Việt Nam 5
1. Tổng quan về ĐTNN và FDI 5
2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam 6
II. Yếu tố tác động đến FDI ở Việt Nam 7
1. Sự ổn định thể chế chính trị - xã hội 7
2. Thị trường bản địa 7
3. Sự phong phú đa dạng của nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi thế của đất nước ta 7
4. Nguồn nhân lực 8
5. Cơ sở hạ tầng 8
6. Sự ổn định, thống nhất của hệ thống chính sách, luật pháp 8
Phần II: Quản điểm về chính sách luật pháp ở Việt Nam về thu hút FDI 9
I. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản và pháp luật Nhà nước về thu hút FDI 9
1. Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam 9
2.Quan điểm về thu hút FDI trong chính sách, luật pháp của Nhà nước 9
II. Quá trình vận dụng chính sách trong thu hút FDI ở Việt NAm 11
1. Những kết đạt được 11
2. Những mặt hạn chế 17
III. Nguyên nhân những hạn chế trong chính sách pháp luật thu hút FDI ở Việt Nam 21
1. Nguyên nhân khách quan 21
2. Nguyên nhân chủ quan 22
Phần III: Biện pháp chủ yếu về chính sách luật pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn thu hút vốn FDI ỏ Việt Nam 24
I. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo ra một môi trường đầu tư thực sự thông thoáng và hấp dẫn 24
II. Xây dựng những chính sách thu hút vốn FDI phù hợp với tiềm năng trong nước và xu thế quốc tế 25
III. Thực hiện cải cách hành chính 25
IV. Đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ làm luật 26
Phần kết 27
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3221 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Làm thế nào để thu hút vốn FDI dưới góc độ chính sách pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản địa:
Với dân số khoảng 80 triệu dân, Việt Nam có một thị trường tiêu thụ rộng lớn và đầy tiềm năng. Song mức thu nhập của đại đa số nhân dân còn thấp nên nhu cầu tiêu dùng còn ở mức hạn chế, sức mua yếu. Để khai thác được thị trường lớn như vậy cần có nguồn vốn đầu tư lớn.
3. Sự phong phú, đa dạng của nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi thế của nước ta:
Xu hướng phổ biến là FDi đổ về nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú hoặc nơi có lợi thế địa lý, chính trị... Điều đó có sức thuyết phục, vì bản chất tìm kiếm lợi nhuận cao của dòng FDi sẽ cho phép chúng khai thác các đầu vào ở đó một cách hiệu quả, giá rẻ. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, có vị trí địa lý thuận lợi, lại nằm ở khu vực đước coi là phát triển năng động nhất thế giới nên đây sẽ là yếu toó tác động tích cực tới việc thu hút FDi.
4. Nguồn nhân lực:
Theo các nhà kinh tế dòng đầu tư nước ngoài không chỉ đổ về nơi có nhiều nhân công rẻ mạt, dồi dào mà thường đổ về nơi có nguồn nhân lực vời trình độ tay nghề cao là chủ yếu. Thực tế là các nước phát triển đầu tư lẫn nhau là chính. Ở Việt Nam lao động dồi dào, nhân công rẻ nhưng trình độ tay nghề quá thấp, thiếu các nhà quản lý bản xứ cần thiết cho nhà đầu tư nước ngoài nên tỉ lệ đầu tư nước ngoài còn rất thấp, thậm chí còn thấp hơn so với nhiều nước đang phát triển trong khu vưc do không tạo ra lợi thế cạnh tranh về lao động kỹ thuật mặc dù giá lao động rẻ hơn.
5. Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng tác động tới thu hút FDi bởi đó là điều kiện trực tiếp ảnh hưởng đến việc đáp ứng cơ sở vật chất cho việc thực hiện các dự án. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam như giao thông vận tải, cầu cống, bến cảng, điện nước... trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn nhiều mặt yếu kém. Do vậy cần tăng cường đầu tư ngân sách cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật để tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút FDi.
6.Sự ổn định, thống nhất của hệ thống chính sách, luật pháp:
Một hệ thống chính sách, luật pháp vừa ổn định, vừa rõ ràng sẽ giúp nhà đầu tư nước ngoài hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh dài hạn. Nhờ đó nhà đầu tư mới có thể xây dựng được kế hoạch, bước đi và huy động nguồn lực để đạt mục tiêu cẩ dầu tư trong ngắn hạn và dài hạn. Hệ thống chính sách và pháp luật nước ta hiện nay được coi là yếu và chưa hiệu quả. Có thể thấy những chính sách về tài chính, thuế khóa, chính sách thương mai quốc tế là chưa ổn định, cũng chưa thật sự rõ ràng do vậy mà chưa tạo ra sức hấp dẫn và niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật pháp còn có nhiều sơ hở, chưa đồng bộ và chưa kịp thời để điều chỉnh các quna hệ mới nảy sinh rất nhanh trong hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như các vấn đề khác có liên quan. Chính vì vậy mà cần có phương hướng xây dựng những chính sách và pháp luật trong thời gian tới để tạo môi trường thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư vào Việt Nam.
PHẦN II: QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP Ở NƯỚC TA VỀ THU HÚT FDI :
I . QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC VỀ THU HÚT FDI.
1.1 Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tư tưởng cơ bản của Đảng, Nhà nước ta trong thu hút FDi là: vốn đầu tư trong nước giữ vai trò quyết, vốn đầu tư nước ngoài (FDi)có vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội nước ta. Việc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải đặt trong chiến lược phát triển và cơ chế quản lý đồng bộ, bảo đảm chủ quyền, khả năng kiểm soát và định hướng của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng cơ chế quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và các công trình hoàn thành xây dựng đi vào hoạt động. Đi đôi với việc mở rộng nhiều hình thức đầu tư cần tăng dần tỉ trọng của phía Việt nam vào các công trình hợp tác liên doanh(văn kiện đại hội Đảng Vii )
Trong “phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5năm 1996-2000 “ được đại hội Viii thông qua , dự tính nước ta sẽ thu hút và sử dụng có hiệu quả khoảng 13-15 tỉ USD vốn đầu tư. Những năm tiếp theo (2001 - 2005) nếu mức tăng trưởng GDP vào khoảng 15%, hệ số iCOR = 4, thì tỷ số đầu tư phải đạt 60%. Do đó tổng số vốn đầu tư khoảng 90 tỷ USD. Nếu nguồn vốn trong nước huy động đạt 45 tỷ USD, vốn ODA đạt 10 tỷ USD thì vốn FDi phải đạt 35 tỷ USD.
1.2) Quan điểm về thu hút FDi trong chính sách, luật pháp của nhà nước:
Đầu tư nước ngoài tại Việt nam đang là mối quan tâm lớn của Đảng và nhà nước ta. Chủ trương thu hút và sử dụng nguồn đầu tư nước ngoài là nhất quán và lâu dài, nhằm phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Trong những năm qua và đặc biệt thời gian gần đây, nhà nước đã áp dụng hàng loạt biện pháp nhằm tạo lập môi trường kinh tế trong nước thuận lợi cho thu hút đầu tư và viện trợ từ bên ngoài: xây dựng pháp chế kinh tế đồng bộ, tạo môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh... củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay tại điều 1, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã khẳng định: “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt nam bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư nước ngoài và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam”.
điều 20, luật đầu tư nước ngoài tại việt nam cũng quy định: “Nhà nước Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam.”.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban hành 12/97, chỉ ngay sau thời kì đổi mới hơn 1 năm , từ 1990 đến nay đã được sửu đổi bổ xung 4 lần theo hướng thông thoáng, rộng mở hơn để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư.
Đồng thời, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cũng liên tục có những sửa đổi, bổ xung các quy định trong các chính sách và pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam để thu hút hơn nữa nguồn FDi.
Bên cạnh những thay đổi trên, để nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam an tâm khi thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình, điều 21a, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung tháng 5,6/2000 quy định như sau: “Trong trường hợp thay đổi quy định của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh itếp tục được hưởng các ưu đãi đã được qui định trong giấy phép đầu tư và được nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây:
+Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án
+Miễn giảm thuế trong khuôn khổ pháp luật
+Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp
+Được xem xét bồi thường thảo đáng trong một số trường hợp cần thiết. Các qui định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Nhìn chung, Đảng và nhà nước ta đã coi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thực hiện chủ trương đó, hệ thống chính sách và pháp luật đã không ngừng được cải thiện sửa đỏi và bổ xung theo hướng gnaỳ càng cởi mở, góp phần quan trọng vào mục tiêu thu hút FDi của nước ta.
II . QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP TRONG THU HÚT FDI NƯỚC TA
FDi là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước.
Với quan điểm nhất quán như vậy, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được ban hành tháng 12/87 và đã được 4 lần sửa đổi bổ xung để góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời nhiều chính sách và qui định khác cũnh được sửa đổi và bổ xung từng bước để phù hợp với thông lệ quốc tế và thông thoáng hơn với nhà đầu tư.Chính vì vậy , luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nước tảtong những năm qua (hơn 10 năm ) đã có những bước thăng trầm nhất định (do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác trong và ngoài nước ).Trên khía cạnh chính sách, luật pháp, chúng tôi có thể nêu ra những kết quả cũng như yếu kém trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài như sau:
1 Những kết quả đạt được:
Thông qua những chủ trương cũng như các chính sách, pháp luật được ban hành và thực hiện trong suốt những năm qua đã cho thấy một cách nhìn mới, hướng đi mới đối với hoạt động thu hút FDi. Chúng ta thường nói “con đường nước ta đang đi là chưa có tiền lệ” thì hợp tác đầu tư với nước ngoài trong điều kiện nước ta lại càng chưa có tiền lệ. Chúng ta đang phải tự tìm tòi, khám phá. Điều may mắn là qua hơn mười năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, trong nhịp sống chung của công việc đổi mới, chúng ta đã thu được những kết quả ban đẩút đáng khích lệ về các mặt: kinh tế, xã hội, tài chính..., đã tạo dựng được một nền móng khá vững chắc cho một lĩnh vực hết sức mới mẻ trong kinh tế đối ngoại. Thời gian qua, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam không những đưa lại cho chúng ta bao nhiêu dự án, bao nhiêu vốn đầu tư, mà điều quan trọng không kém là đã đưa lại cho chúng ta thêm những kinh nghiệm, bài học thực tế “được”và “ chưa được”trong lĩnh vực mới mẻ này. Đặc biệt , nó đã cung cấp cho chúng ta thêm nhều hiểu biết trong nhận thức về FDi, dẫn đến những thay đổi tích cực trong nhận thức về FDi.
- Thứ nhất, phải nói đến kết quả trong nhận thức về FDi:
Đã có những thay đỏi tích cực trong nhận thức về FDi;chẳng hạn như ban đầu, có hai luồng tư tưởng cho rằng : +Coi nhẹ , thậm chí lên án FDinhư là một nhân tố có hại cho nền kinh tế đọc lập, tự chủ.
+Quá đề cao FDi, gắn cho nó một vai trò tích cực, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, dẫn đến ỷ lại vào FDi mà không khai thác tối đa các lợi thế bên trong.
Nhưng hiện nay, quan điểm cho rằng FDi không gây tình trạng nợ nần, không phương hại đến chủ quyền của đất nước đã trở nên phổ biến --khẳng định: “đầu tư trong nước là chủ yếu và đầu tư nước ngoài là quan trọng .” đã được thể hiện trong các văn bản pháp quy của nhà nước. Chính điều này đã cho phép chúng ta có những suy nghĩ và giải pháp đúng đắn hơn trong các chính sách vận động thu hút FDi vào nước ta, thể hiện qua việc sửa đổi bổ xung và điều chỉnh các chính sách, luật pháp trong hoạt động đầu tư nước ngoài của nhà nước ta thời gian qua và giai đoạn sắp tới, được đa số các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là rộng mở hơn.
Đồng thời quan điểm coi nước ta là một nơi “phì nhiêu” nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào mà không cần phải có biện pháp thu hút, khuyến khích đã được thay bằng các quan điểm như: chấp nhận cạnh tranh trong thu hút FDi ; cần nhanh chân hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài(Đoàn Năng, vụ trưởng vụ pháp chế , bộ kế hoạch công nghiệp và môi trường) trải chiếu hoa đón các nhà đầu tư (UBND tỉnh Bình Dương);cứ lo cho họ thì họ sẽ lo cho mình .....
Nói tóm lại,nhận thức về FDi tại Việt nam ngày càng thông thoáng và hợp lý hơn với chuẩn mực quốc tế.
- Thứ hai, chúng tôi muốn đề cập đến mức độ hoàn thiện về hệ thống luật pháp trong thu hút FDi, đây cũng là nội dung trọng tâm mà chúng tôi muốn đề cập đến ở phần này.
Trước hết, chúng tôi muốn nói đến những thay đổi được đánh giá là hết sức tích cực trong hệ thống chính sách và pháp luật của nước ta :
* Về luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam: từ khi được ban hành tháng 12/87 đã liên tục được sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và các yêu cầu khách quan cũng như chủ quan của việc thu hút FDi(xây dựng những qui chế pháp lí phù hợp với từng giai đoạn của quá trình thu hút FDi). Cụ thể sau 4 lần sửa đổi, bổ xung (90,96,2000), các khoản mục của luật ngày càng rộng mở hơn, đặc biệt là lần sửa đổi bổ xung tháng 6/2000, đã có những thay đổi quan trọng , chẳng hạn như:
Về đất đai:
+Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng: đây là một vướng mắc lớn lâu nay
vẫn làm chậm tiến độ triển khai dự án, khiến nhà đầu tư nước ngoài nản lòng, e ngại. Vì vậy, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung khoản 2 điều 46 quy định: “trong trường hợp bên Việt nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thì bên Việt nam có trách nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp nhà nước Việt nam cho thuê đất thì uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dự án đầu tư tổ chức thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất.”
Quy định này đã làm giảm nhẹ phần nào nghĩa vụ của bên nước ngoài về các hoạt động có liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, được các nhà đầu tư nước ngoài rất ủng hộ.
+Vấn đề đất đai khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài giải thể hoặc phá sản: trong điều luật đầu tư nước ngoài 96, chưa có quy định về việc giải quyết vấn đề này gây rất nhiều phiền hà, luật sửa đổi bổ xung đã khắc phục như sau: “trường hợp bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị còn lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lí của doanh nghiệp.” Trước đây,do không có qui định này nên bên Việt nam đã tận dụng “thế sân nhà” chiếm đất gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài. Quy định mới này đã cho nhà đầu tư nước ngoài an tâm hơn trong khi đầu tư vào Việt nam.
Về cân đối ngoại tệ, mở tài khoản tại ngân hàng Việt nam và việc chuyển nhượng vốn:
+ Về cân đối ngoại tệ: luật mới đã cho phép doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo quy định của pháp luật. Luật cũ hạn chế việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định này mặc dù có tính định hướng doanh nghiệp xuất khẩu, song lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp không có hàng xuất khẩu, không có nguồn thu ngoại tệ tại chỗ (điều 33-luật sửa đổi bổ xung 2000).
+Về chuyển nhượng vốn và mở tài khoản ở nước ngoài: để khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật sửa đổi bổ xung đã có những quy địng thông thoáng hơn, thể hiện trong điều 34-35: “nhà đầu tư trong doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài có quyền chuyển nhượng vốn của mình. Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vối thuế suất 25%”. Quy định trước đây là phải ưu tiên doanh nghiệp Việt nam trong chuyển nhượng vốn và được miễn, giảm thuế lợi tức chuyển nhượng vốn khi chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt nam. Quy định này là phù hợp thực tế hơn vì doanh nghiệp Việt nam có rất nhiều hạn chế về vốn,kỹ năng quản lý nên việc tiếp nhận doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài là rất khó thực hiện, như quy định mới là đã rộng mở hơn, khả thi hơn.
Về đối tượng được hưởng ưu đãi:
Luật đầu tư nước ngoài (12/87) quy định chỉ dành một số ưu đãi cho các doanh nghiệp liên doanh, không ưu đãi cho doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài. Trong thực tế, các dự án 100% vốn nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn: không có sự hỗ trợ của đối tác Việt nam, chịu rủi ro một mình, trong khi nhiều dự án này cũng thuộc diện ưu tiên của Việt nam. Vì vậy, sau nhiều lần sửa đổi, bổ xung, đến luật đầu tư nước ngoài năm 96 và luật sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định: “Nhà nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt nam đảm bảo đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam.”
Các vấn đề về thuế:
+Thuế thu nhập doanh nghiệp: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi quyết toán thuế với cơ quan thuế mà bị lỗthì được chuyển khoản lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế. Thời hạn được chuyển lỗ không quá 5 năm .” Trong khi trước đây, quy định này chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh. Quy định này đã giảm phân biệt đối xử, khẳng định một lần nữa chủ trương đối xử công bằng với mọi hình thức đầu tư nước ngoài.
+Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: quy định trước sửa đổi bổ xung 2000 thì nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 5%,7%,10%, số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. Để cải thiện môi trường đầu tư, tịa điều 43, luật sửa đổi bổ xung 2000 quy định: “khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phỉa nộp thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.” Như vậy, mức thuế phải nộp đã giamr đi đáng kể, đmả bảo mức lợi nhuận hợp lí cho nhà đầu tư nước ngoài sau khi thực hiện đầu tư ở Việt nam.
Các biện pháp bảo đảm:
+ Về tham gia hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều 15 của luật đầu tư nước ngoài 1987 quy định “thời hạn không quá 20 năm, trong trườnh hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”. Nghị định 28 HĐ-BT, điều 44 quy định các doanh nghiệp liên doanh được quyền thảo thuận một thời hạn dài hơn nhưng không quá 50 năm”. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực đầu tư cần có một thời gian dài hơn, vì vậy luật đầu tư sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định thời gian này có thể dài hơn nhưng không quá 70 năm. Điều này sẽ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tích cực hơn trong tìm kiếm và đầu tư vào những địa bàn và lĩnh vực khác nhau.
+ Về nguyên tắc hồi tố và bảo lãnh của chính phủ: để phù hợp với thông lẹ quốc tế cũng như tăng thêm “chữ tín” đối với nhà đầu tư, luật sửa đổi, bổ xung 2000 đã có những quy định rõ ràng hơn, cụ thể minh bạch hơn (thể hiện trong điều 21a và điều 66).
+Quy định về thanh lý, phá sản: các quy định trước đây chưa có nội dung: “trong trường hợp bên Việt nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị òcn lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lý của doanh nghiệp”.Khoản 2,3,4 điều 53 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ( luật 2000)
Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
+ Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài : điều 55 được sửa đổi bổ xung như sau: “chính phủ quy định việc thẩm định cấp giấy phép đầu tư, việc đăng kí cáp giấy phép đầu tư, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế--xã hội, lĩnh vực, tính chất, quy mô của dự án đầu tư, quyết định việc phân cấp cấp giấy phép đầu tư cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất”.
+Điều 59, 60, 17 luật sửa đổi, bổ xung2000 cũng đã có những quy định, ban hành những thay đổi về thủ tục hành chính, thời hạn cấp giấy phép đầu tư, chế độ thanh tra , kiểm tra đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi hơn, thông thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài.
*Các văn bản cụ thể dưới luật, quy định cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam:
Chúng ta nhận thấy, cùng với luật, các văn bản cụ thể dưới luật cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Chính vì vậy, cùng với các đợt sửa đổi bổ xung (tháng 6-90 và tháng 12-92 cho đến đầu 1996, Thủ tướng chính phủ, các bộ, ngành liên quan đã ban hành trên 90 văn bản pháp quy nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành luật. Chẳng hạn như nghị định 28 HĐ-BT. Đặc biệt là từ khi luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ xung lần thứ 3, năm 96, chính phủ và các bộ, các ngành có liên quan đã tích cực trong việc nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp quy dưới luật quy định và hướng dẫn thi hành hoạt động đầu tư nước ngoài và các hoạt động liên quan. Có thể kể ra mộ số các văn bản sau:
+ NĐ 12/97 NĐ-CP ngày 18/2/97 quy định chi tiết các thủ tục khi hoạt động đầu tư nhằm tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng hơn.
+ NĐ 10/1998 NĐ-CP ngày 31/1/98 về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: khẳng định tính nhất quán, ổn định của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Đồng thời với việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 và có hiệu lực từ 1/1/99, chính phủ cũng đã ban hành NĐ30/98 NĐ-CP ngày 13/5/98 quy định: thời điểm bắt đầu tính miễn giảm thuế ( điều này là có lợi cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài).
- Về thuế thu nhập cá nhân: cùng với nghị định 05- CP ngày 20/1/1995 của Chính phủ, kèm theo thông tư hướng dẫn số 27- TC/TCT ngày 30/3/1995 của Bộ tài chính, pháp lệnh sửa đổi một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày 6/2/1997 và ngày 30/6/1999 của uỷ ban thường vụ Quốc hội số 14/1999-PL-UBTVQH 10, và Bộ tài chính đang thực hiện sửa đổi, bổ sung chính sách thuế thu nhập cá nhân. Chúng ta có thể hy vọng rằng, sẽ tạo ra nhiều điều kiện tốt hơn, hạn chế được nhiều hơn những kêu ca phàn nàn.
Thứ nhất, Bộ Kế hoạch- Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan, đã và đang tiếp tục nghiên cứu chính sách giảm giá thuê đất, giảm giá dịch vụ, giảm giá điện nước, vận tải... cho phù hợp với mặt bằng giá trong nước và quốc tế, đơn giản hóa thủ tục cấp visa,thủ tục xuất nhập cảnh cho giới doanh nhân nước ngoài đến làm ăn tại Việt Nam.
Thứ hai, ngoài những đổi mới trong chính sách thuế, Chính phủ và các Bộ , ngành liên quan cũng đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền Bộ, Ngành mình như: luật đất đai, thuế sử dụng đất, luật hải quan, nghị định về quản lý ngoại hối, luật dầu khí..., quy định mức lương tối thiểu, ngạch lương của công nhân khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thực tế. Thêm vào đó là các thông tư hướng dẫn việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thông tư hướng dẫn chi tiết hoạt động đầu tư nước ngoài, thông tư về quản lý công trình có vốn đầu tư nước ngoài...
Như vậy, thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như đã nêu ở trên cùng những cố gắng trong cải cách hệ thống chính sách pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nức ngoài tại Việt nam đã có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Đây được coi là bước đột phá để cải thiện quan hệ với các nhà đàu tư nước ngoài, và được các nhà đầu tư nước ngoài đón nhận một cách tích cực. Có thể nói, về cơ bản luật và các chính sách liên quan đã phù hợp với chiến lược kinh tế mở, phù hợp với tình hình, đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội của Việt nam, vừa tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
* Mức độ hoàn thiện về chính sách, pháp luật về FDi.
Qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và ban hành luật mới, có thể nói, mặc dù hệ thống pháp luật, chính sách về FDi còn nhiều bất cập song theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia về đầu tư thì đã dần dần đi vào ổn định, tạo ra một cơ chế đồng bộ hợp lý hơn và có những đóng góp ngày càng tích cực vào tăng thu hút FDi ở nước ta. Kết quả của những đổi mới trong luật pháp thời gian qua đã có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, đại đa số các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hệ thống chính sách, luật pháp đang có những hướng thay đổi tích cực hơn, chủ động hơn và sát thực tế hơn. Đây là một kết quả đáng mừng ở khía cạnh chính sách, luật pháp trong việc thu hút FDi cho dù những kết quả đó còn là nhỏ bé. Trong pham vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số thay đổi cụ thể trong nội dung một số điều luật của luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam sửa đổi bổ sung6/2000 so với những quy định trước đây.
2) . Những mặt hạn chế
Bên cạnh những kết quả thu được thì việc vận dụng những chính sách, pháp luật váo thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế
2.1) Nhận thức về FDi
Chúng ta phải thừa nhận rằng, đã có không ít có những cố gắng của các cấp , các ngành trong việc thực hiện nhằm thay đổi tư duy nhận thức về FDi được quy định cụ thể trong các chính sách luật pháp. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại mang tư duy sai lệch, không đúng theo đường lối, chủ trương của Đảng về FDi , có những nhận thức khác nhau dẫn đến những lúng túng, thiếu nhất quán trong hoạch định chính sách, xử lý vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài cần tiếp tục được thay đổi bằng những biện pháp mạnh mẽ chẳng hạn như:
+ Luật đầi tư nước ngoài đã quy định : “Nhà nước Việt nam đảm bảo đối xử công bằng với mọi loại hình đâù tư FDi” nhưng trong quá trình thực hiện,loại hình doanh nghiệp liên doanh lại được hưởng nhiều ưu đãi “bất thành văn” hơn.
+ Nhiều chủ trương của chính phủ được hiểu sai và thực hiện sai: chẳng hạn như Chính phủ khuyến khích các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào địa phương mình, nhưng để thu hút FDi vào địa bàn mình, uỷ ban nhân dân, chính quyền địa phương đã tung ra những biện pháp khuyến khích không hợp lý ( giảm thuế thuê đất quá thấp, giảm giá lao động, đơn giản hoá chính sách thuế dẫn đến phân tán, manh mún các nguồn vốn đầu tư) làm ảnh hưởng đếnlợi ích chung của cả nước. Cần sớm có biện pháp điều chỉnh và khắc phục một cách hợp lý để việc đầu tư FDi tập trung và có trọng điểm hơn.
2.2. Chính sách, luật pháp về đầu tư nước ngoài và các hoạt động liên quan.
* Về luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam:
Mặc dù từ 1990 đến nay, chúng ta đã tiến hành nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là lần gần đây nhất 6/2000, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là rộng mở, thông thoáng hơn, nhưng hệ thống chính sách luật pháp về đầu tư nước ngoài và các hoạt động có liên quan vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém và bất hợp lý. Ở đây chúng tôi xin nêu ra một số nội dung chủ yếu về việc không được miễn thuế nhập khẩu, vật tư thiết bị xây dựng công trình, hạn chế việc thực hiện chế độ kế toán nước ngoài.
- Hiện nay, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được sửa đổi nhưng cũng phải nói rằng nó đã không thông thoáng hơn luật cũ về việc: không được miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị, xây dựng công trinh, hạn chế việc thựchiện chế độ kế toán nước ngoài... đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào Việt nam.
- Một số chính sách, luật pháp chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, chủ yếu là do chưa thật phù hợp với thực tế cũng như nguyện vọng thiết thực của các nhà đầu tư nước ngoài. ví dụ như việc tồn tại đồng thời luật: khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã gây “cảm giác” về sự bất bình đẳng trong hệ thống pháp lý đối xử với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời trong thực tế một số chính sách ưu đãi hơn chỉ được áp dụng cho đầu tư trong nước như chế độ sử dụng đất, vay vốn, giá các dịch vụ này đã tạo ra một áp lực tâm lý về một sân chơi không bình đẳng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn nhiều quy định chung chung chưa cụ thể, chủ yếu là các vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như: đất đai, lố động, tiền lương, công nghệ, môi trường... được luật dẫn chiếu băng công thức: “ phải phù hợp với pháp luật Việt nam” trong khi đo luật pháp trong nước còn thiếu, chưa hoàn chỉnh. Nhiều trường hợp, các nội dung của các luật khác nhau còn “đá nhau”. Ví dụ như luật sửa đổi bổ sung mộ số điều của luật nđàu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sqr dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam”. Nhưng trong các văn bản pháp luật chuyen ngành khác như :luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai, pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt nam tại quy định: “tổ chức, cá nhân nước ngoài đàu tư vào Việt Nam theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được chính phủ cho thuê đất chỉ được quyền thế chấp giá trị quyền sử đất gắn liền với tài sản thuộc sở hữu của mình đã đầu tư, sản xuất kinh doanh phù hợp giấy phép đầu tư và pháp luật Việt nam”. Ngay cả nghị định 178- CP và thông tư 06 của Ngân hàng Nhà nước quy định: “ trường hợp chi nhánh ngân hàng nhà nước, ngân hàng liên doanh và tổ chức tín dụng Việt Nam cùng cho vay đối với một dự án tại Việt Nam mà tài sản đảm bảo tiền vay là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì tổ chức tín dụng Việt Nam phải là đại diện quản lý tài sản và giấy tờ của tài sản bảo đảm vay. Như vậy, luật đầu tư nước ngoài cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thế chấp giá trị quyền sư dụng đất tại mọi tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam, nhưng các văn bản luật chuyên ngành thì lại quy định chỉ được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng của Việt Nam, không được thế chấp tại các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nhà nước tại Việt nam, đồng thời không được tách giá trị q uyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất ra khỏi nhau để thế chấp tại các ngân hàng khác nhau hoạt động tại Việt nam.
Việc quy định thiếu nhất quán giữa luật đầu tư nước ngoài và các văn bản luật chuyên ngành khác là nguyên nhân chủ yếu cản trở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vay vốn có tài sản bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng hoạt động tại Việt nam.
- Một chính sách luật pháp và văn bản hướng dẫn chậm đượ ban hành cũng như phổ biến áp dụng ở nước ta. Điều này đã gây ra những ý kiến quản ngại không an tâm, cũng như hạn chế các hoạt dộng của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo kết quả được rà soát lại các văn bản pháp luật được ban tổ chức cán bộ chính phủ tiến hành tháng 11/2000 cho thấy: chính phủ còn nợ 37 nghị định hướng dẫn thi hành các luật và nghị định, ví dụ nghị định 10 -CP ngày 23/1/1998 quy định các doanh nghiệp đăng ký với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải xin giấy phép kinh doanh hành nghề nhưng thông tư số 02/98- TT- Bộ xây dựng lại hướng dẫn một hồ sơ đăng ký giấy xác nhận phức tạp. Chưa kể số lượng các thông tư hướng dẫn của các bộ chuyên ngành và rất nhiều văn bản pháp luật ở các cấp cần được sửa đổi bổ sung.
- Một trong những tồn tại mà các nhà đầu tư và chuyên gia nước ngoài quan ngại là các chính sách và luật pháp Việt nam có tính ổn định không cao, thường thay đổi, đặc biệt là trong chính sách thuế về: VAT, xuất- nhập khẩu... Nhiều chuyên gia cho rằng nghị định 24/2000 NĐCP là “chặt” hơn trong một số vấn đè so với trước về các biện pháp khuyến khích đầu tư nướcngoài tại Việt nam. Ví dụ: luật đầu tư nước ngoài đã thay đổi 4 lần dẫn đến thay đổi trong các luật chuyên ngành khác, do đó thay đổi cả một hệ thống chính sách pháp luật của quốc gia, vì vậy nhà đầu tư nước ngoài quan ngại là điều hiển nhiên. Song cũng tồn tại một thực trạng ngược lại là một số chính sách pháp luật không phù hợp thực tế lại chậm được sửa đổi bổ sung, ví dụ thuế thu nhập doanh nghiệp đã có sự tính trùng cho các nhà đầu tư.
- Một số nghị định thông tư của các bộ, ngành liên quan lại có xu hướng xiết lại đưa thêm quy trình dẫn đến “trên thoáng dưới chặt”.Cũng theo kếtt quả đợt rà xoát lại các văn bản pháp luụat của ban tổ chức cán bộ chính phủ tiến hành tháng 11/2000cho thấy:
+2000/7000 văn bản pháp luụat của chính phủ vàg các bộ ngành cần huỷ bỏ.
+1000 văn bản pháp luật của chính phủ và các bộ ngành cần sửa đổi ,bổ sung.
+10000/54000 văn bản ở địa phương phải huỷ bỏ .
+1300 văn bản ở địa phương cân dược sửa đổi bổ sung.
Theo bộ tư pháp: 400 văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới các quyết định và điều kiện ràng buộc về hợp tác giữa Viêt nam và nước ngoài về đầu tư, giao dịch thương mại, đấu thầu dự án cần sửa đổi hoặc bỏ bớt cho phù hợp với hoạt động thu hút FDi và hội nhập quốc tế. Điều này cũng đã thể hiện một hạn chế khác trong hệ thống chính sách pháp luật của nước ta đó là: thiếu chuẩn mực trong quy trình ban hành các văn bản pháp luật . Điều này đồng nghĩa với việc tổ chức các bộ máy ban hành chính sách và luật pháp không tốt. Theo bộ tư pháp, 4/5số văn bản cần sửa đổi và bỏ bớt chỉ là thuộc cấp bộ hoặc địa phương ban hành, không kể nhiều văn bản trá hình khác (của cấp tương đương hoặc nhỏ hơn). Điều này đã gây ra sự chồng chéo ,mâu thuẫn trong pháp luật Việt nam, cản trở hoạt động thu hút FDi cũng như hội nhập quốc tế.
- Một trong những hạn chế khác là: việc thực thi các quy định của chính sách và luật pháp chưa nghiêm (ở cả khâu ban hành và thực hiện) điều này đã dẫn tới hiện tượng sách nhiễu, gây phiền hà cho nhà đầu tư, đồng nghĩa với việc: sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương chưa chặt chẽ . Theo điều tra của Viện nhà nước và pháp luật (thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) về hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam: 70% số người được hỏi ở miền Bắc và 43,8% số người được hỏi ở miền Trung cho rằng sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý hoạt đọng đầu tư cấp trung ương và địa phương mới chỉ thực hiện được một phần quy định của luật, còn ở địa phương vẫn tồn tại những hoạt động cục bộ trong quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; 80% ý kiến dược hỏi cho rằng việc cấp giấy phép đầu tư trong thời gian qua là chậm so với các quy định của pháp luật.
Nói tóm lại ,những hạn hế ,tồn tại trong chính sách luật pháp Việt nam là rất lớn, nó đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thu hút FDi ở Việt nam cũng như quá trình hội nhập quốc tế.
III NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG CHÍNH SÁCH -PHÁP LUẬT THU HÚT FDI Ở VIỆT NAM
1) Nguyên nhân khách quan
1.1) Môi trường kinh doanh trong và ngoài nước biến động
Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường mới được một thời gian ngắn từ 86 đến nay, nhiều quan hệ kinh tế mới phát sinh nhanh chóng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp mà các qui định của chính sách pháp luật khó có thể thay đổi kịp. Môi trường kinh doanh trong nước xảy ra nhiếu biến động , do nước ta là nước đang phát triển , kinh tế còn yếu kém dễ bị ảnh hưởng tác động của những nhân tố bên trong và bên ngoài . Năm 97 cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu á đã có tác động tiêu cực đến VN, khiến cho môi trường kinh doanh trông nước khó khăn thị trường xuất khẩu bị giảm mạnh . Những nước có FDi vào Việt nam chủ yếu là Nhật bản, Hàn quốc, Nics bị thiết hại nặng nề do khủng khoảng gây ra nên đã có những điều chỉnh chiến lược đầu tư vào Việt nam khiến cho nguồn FDi vào Việt nam bị giảm mạnh, nhiều dự án đã được cấp giấy phép phải huỷ bỏ. Bên cạnh đó, những nước thu hút đầu tư lớn như Trung quốc, ấn độ, indonexia và những nước bắt đầu tiếp nhận đầu tư như Mianma, Paskistan... đang trở thành những đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút FDi làm cho nguồn này bị phân tán và dàn trải nhiều hơn. Theo báo cáo của diễn đàn liên hợp quốc về thương mại và phát triển UNTAD 11 - 2000 trong vài năm gần đây, tỉ trọng đầu tư nước ngoài vào các nước ASEAN trong tổng đầu tư nuớc ngoài trung bình hàng năm của các nước trong khu vực Châu á Thái Bình Dương đã giảm một nửa từ 48% xuống còn 23%. Tình hình đó đã gây ra nhiềy biến động cho môi trường kinh doanh trong và ngoài nước, do vậy đã tác động tới hiệu quả của chính sách, pháp luật môi truờng kinh doanh luôn biến động đòi hỏi chính sách pháp luật phải thay đổi cho phù hợp với thực tế bởi lẽ trong quan hệ giữa pháp luật và kinh tế thì kinh tế đóng vai trò quyết định tới pháp luật. Môi trường kinh doanh càng phong phú đa dạng càng nhanh biến động thì chính sách, pháp luật càng phải thay đổi càng nhanh để thích ứng. Việc thay đổi nhanh như vậy cũng làm giảm tính hiệu quả của chính sách, pháp luật vì bản thân pháp luật chưa kịp thay đổi thì nó cũng có tác động tiêu cực trở lại kinh tế, những qui định cũ không phù hợp là cản trở cho phát triển kinh tế.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến những thay đổi của chính sách luật pháp :
trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay làm thay đổi bộ mặt kinh tế của mỗi nước. Việt nam xác định hội nhập quốc tế là một yêu cầu tất yếu nhằm đưa hoạt độnh kinh tế thương mại của Việt nam ngày càng phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế, một mặt tận dụng mọi cơ hội và lợi thế để đẩy mạn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và nhà nước Việt nam đã thực hiện chủ động trong chính sách mở cửa, đa phương, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế, các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Điều này cũng có nghĩa là đã chấp nhận thách thức và luật chơi chung. Việc Việt nam thực hiện các cam kết của ASEAN, chương trình hành động chung (CAP) của APEC cũng như việc đàm phán gia nhập WTO có ý nghĩa là chúng ta đã cam kết thực hiện hàng loạt các nghĩa vụ về cải cách sau, rộng trong cơ cấu kinh tế và chính sách luật pháp hiện hành. Do đó để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta bắt bộc phải có nhưng thay đổi trong chính sách luật pháp. Cụ thể là luật trong nuớc phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với luật pháp quốc tế được quy định dưới dạng thành văn (các công ước, hiệp ước quốc tế ) hoặc bất thành văn như các tập quán thông lệ quốc tế. Mặt khác, Việt nam hội nhập quốc tế cũng đứng trước những khó khăn và bất lợi. Để hạn chế tình hình này trong quá trình cạnh tranh, Việt Nam cần có những đối sách những công cụ cạnh tranh hiệu quả. Các chính sách và pháp luật vốn là yếu tố phi kinh tế nay được coi như là một công cụ đắc lực cho việc can thiệp vào đời sống kinh tế quốc tế. Việc thay đổi chính sách và luật pháp dù theo chiều hướng tích cực cũng vẫn sẽ gây ra những xáo trộn trong môi trường pháp lý, ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách và luật pháp.
- Pháp luật luôn có độ chễ so với những thay đổi của hoạt động kinh doanh - đây là thuộc tính vốn có của pháp luật. Bởi lẽ pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, luôn tồn tại trong nó sự bảo thủ, chậm biến đổi. Do thuộc tính này mà mặc dù pháp luật chịu sự quyết định của nền kinh tế, của môi trường kinh doanh song không phải cứ kinh tế thay đổi là pháp luật thay đổi theo được ngay, mà nó sẽ chuyển biến một cách dần dần. Hoặc, ngay cả khi luật pháp ( các văn bản pháp luật) đã được sửa đổi rồi thì những ràng buộc bất thành văn: các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán, các hủ tục, lề thói cũng không dễ bị xoay chuyển. Sự thay đổi của hệ thống pháp luật thành văn không làm diệt vong các ràng buộc bất trên. Chính vậy mà khi vận dụng chính sách pháp luật chúng ta luôn gặp nhiều khó khăn do những cản trở đó gây ra.
- Người làm pháp luật không am hiểu đầy đủ về kinh doanh: Phần lớn các nhà làm luật đều không thông thạo công việc kinh doanh. Với những hiểu biết về kinh doanh, chưa đi sâu vào thực tế của quá trình kinh doanh, nhiều khi mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu qua sách vở, tài liệu, các nhà làm luật khó có thể xây dựng các văn bản luật hoàn chỉnh phản ánh chính xác những yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Thực tế hiện nay cho thấy các nhà làm luật là những người còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà chưa có những thay đổi mạnh mẽ trong tư duy của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức của các nhà làm luật về luật pháp, kinh tế... vẫn là những kiến thức cũ mà trong thời gian qua chưa được bổ sung, nâng cao, nhất là trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém. Do vậy mà, chất lượng và hiệu quả của hệ thống chính sách luật pháp về đầu tư nước ngoài còn thể hiện nhiều hạn chế và thiếu sót.
2. Nguyên nhân chủ quan.
- Tổ chức bộ máy xây dựng chính sách và luật pháp không hợp lý. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ ở các văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài là tính cục bộ ngành trong việc chuẩn bị các dự án luật. Hiện nay, mỗi bộ, ngành đều có một bộ phận làm luật chuyên trách, có trách nhiệm biên soạn và đệ trình các dự án luật riêng rẽ, hoặc đứng ra chủ trì các dự án đó. Mặc dù trong phần lớn các trường hợp, các bộ, ngành đều tham khảo ý kiến của nhà chuyên môn nhưng nhìn chung tính cục bộ rất rõ nét, các văn bản luật có liên quan nhưng thuộc các đơn vị quản lý khác nhau thường thiếu sự đồng bộ nhất quán. Do vậy mà không thể đảm bảo chất lượng và việc chồng chéo thiếu hụt là điều dễ hiểu.
- Các nhà làm luật được đào tạo và công tác không hiệu quả: vấn đề đào tạo luật còn nhiều yếu kém không đảm bảo được chất lượng thật sự của đội ngũ cử nhân luật. Hiện nay chương trình đạo tạo luật vẫn theo lối cũ, lạc hậu, chưa có sự đổi mới cải cách đáng kể nào, chỉ tập trung đào tạo nghiên cứu về mặt lý thuyết mà không coi trọng đến việc vận dụng, thực hành vào thực tế, đào tạo mới quy mô ồ ạt mà không quan tâm tới chất lượng và hiệu quả. Đồng thời ta mới chỉ chú trọng đào tạo cán bộ cho các toà án, viện kiểm sát hoặc các cơ quan chuyên ngành, trong khi đang hình thành một nhu cầu rất lớn đội ngũ các cử nhân khoa học pháp lý, bổ sung những khoảng chống khá lớn trong các cơ quan làm luật.
- Còn có những người tự ý làm sai các quy định của nhà nước và chính phủ trong xây dựng, thực hiện luật pháp, để chính sách luật pháp áp dụng vào thực tế được đúng đắn thì không phải chỉ cần có chính sách và luật pháp tốt, kịp thời mà còn phải có những người thực hiện áp dụng luật tốt. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia và doanh nghiệp thì người thừa hành, áp dụng luật gây khó khăn nhiều hơn đến hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải do chính sách , luật pháp còn yếu kém. Điều đó là do chính sách luật pháp được ban hành ra mới chỉ là những quy định còn thực hiện thế nào lại do người áp dụng luật. Các chuyên gia và doanh nghiêp thì có rất nhiều trường hợp các cán bộ nhà nước, những người áp dụng luật tự ýlàm sai các quy định của chính sách và luật pháp dẫn đến tình trạng bệnh quan liêu, tình trạng nhận tham ô hối lộ để làm sai các quy định của pháp luật diễn ra nghiêm trọng. Do vậy, đây là một nguyên nhân tác động tiêu cực tới hiệu quả của chính sách, luật pháp cần được khắc phục.
PHẦN III BIỆN PHÁP CHỦ YẾU VỀ CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỨC HẤP DẪN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRỰC TIẾP Ở NƯỚC TA .
I . TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NHẰM TẠO RA MỘT MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ THẬT SỰ THÔNG THOÁNG VÀ HẤP DẪN.
Hiện nay, mặc dù luật đầu tư nước ngoài Việt Nam được đánh giá là thông thoáng và hấp dẫn ,nhưng vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và sửa đổi:
Cần xây dựng và thông thoáng các văn bản luật còn thiếu :như Luật chống phá giá ,luật chống độc quyền Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay cần tạo một cơ sở pháp lý cụ thể nhằm hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Sửa đổi, làm rõ và hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm đơn giản hoá và tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Mở rộng hơn nữa uỷ quyền, phân cấp giấy phép đầu tư nước ngoài cho các địa phương; quy định rõ phân cấp ở quy mô nào ,mức độ nào; có quy hoạch định hướng cho các địa phương.
Bổ sung quy định đăng ký kinh doanh, phân định rõ giữa giấy phép đầu tư và giấy đăng ký kinh doanh. Thủ tục đầu tư cần nhanh chóng hơn.
Mở rộng thêm các hình thức đầu tư: cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ;cho phép các doanh nghiệp liên doanh ,doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được chuyển thành doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài .
Luật phải đảm bảo tính khoa học ,đầy đủ;hạn chế việc ban hành quá nhiều các văn bản dưới luật .Tiến tới việc xây dựng một luật chung cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tạo sự ổn định và bình đẳng trong đầu tư ,dự thảo và ban hành các văn bản pháp luật kinh tế phải đồng bộ .
Tham gia các công ước quốc tế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ,bảo vệ thương hiệu hàng hoá nhằm có sự thống nhất giữa Việt Nam và quốc tế ,tạo cơ hội cho sản phẩm Việt Nam gia nhập thị trường quốc tế .
II_XÂY DỰNG NHỮNG CHIẾN LƯỢC CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÙ HỢP VỚI TIỀM NĂNG TRONG NƯỚC VÀ XU THẾ QUỐC TẾ .
Hiện nay , chính sách thu hút vốn đầu tư và việc quy hoạch đầu tư còn chưa hợp lý và mất cân đối.Vì vậy, cần xây dựng chiến lược chính sách phù hợp với phát triển kinh tế xã hội ,quy hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung.
Cụ thể hoá những tiêu chuẩn ưu tiên thu hút FDI .Những ưu tiên về ngành nghề sẽ là căn cứ pháp lý để các địa phương lựa chọn đầu tư FDI vào các ngành nghề phù hợp với điều kiện ,lợi thế của mình .
Thực hiện cơ chế một giá đối với các loại dịch vụ như giao thông,điện nước, bưu chính Đảm bảo sự bình đẳng đối xử với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài và doanh nghiệp trong nước .
Tạo sự tự chủ hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bằng các ưu đãi về thuế , tài chính ,giá thuê đất , thời gian đền bù đối với doanh nghiệp .
III THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH.
Với việc xây dựng một cơ chế thực hiện ,áp dụng những chính sách luật pháp vào đời sống kinh tế xã hội, cải cách hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hiện nay, ở Việt Nam, thủ tục hành chính còn rườm rà, sự không thống nhất giữa quá nhiều đầu mối quản lý dẫn đến sự chồng chéo và kém hiệu quả. Để tránh cồng kềnh và tránh lãng phí bộ máy hành chính, cần thực hiện một số biện pháp sau:
Tạo quy chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với cán bộ tổng hợp ,cán bộ quản lý các ngành ,uỷ ban nhân dân tỉnh ,quy định rõ thẩm quyền quản lý,trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài .
Tạo sự chuyển biến rõ ràng mạnh mẽ cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài . Quy định rõ ràng ,công khai và thực thi triệt để ,dứt khoát các thủ tục hành chính ở mọi khâu , mọi cấp .Xử lý công bằng và sửa đổi nhanh chóng những sai sót trong thủ tục hành chính .Xúc tiến việc thực hiện nhanh chóng cơ chế một cửa_một dấu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng và trong kinh doanh nói chung.
IV . ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀM LUẬT
Đổi mới hệ thống đào tạo chính quy về luật như hình thức đào tạo, tài liệu chuyên môn cần cập nhật hơn nhằm nâng cao chất lượng cử nhân luật.
Có sự thống nhất giữa đào tạo và việc làm nhằm sử dụng tối đa lượng cử nhân luật hiện nay.
Quy chế thi tuyển, chính sách sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, đãi ngộ khen thưởng cần hoàn thiện và thực hiện đúng.
Việc tuyên truyền luật pháp đến các cá nhân, tổ chức, các cấp thực thi cần nhanh chóng thống nhất để đạt hiệu quả cao hơn.
Hiện nay nhiều vấn đề luật thiết yếu ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà doanh nghiệp vẫn không nắm hết .Ví dụ về lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam và các nước trong khu vực: 9.64% đã có lịch trình này, 49.4% chưa có, 31.32% biêt một ít của Việt Nam .
Cần trẻ hoá đội ngũ cán bộ để tạo nên bộ máy hành pháp ngày càng hoàn thiện hơn với sự năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy nắm bắt những chuyển biến,yêu cầu của nền kinh tế...
Đồng thời nâng cao đạo đức của các cán bộ quản lý ,cán bộ thực thi pháp luật :Để giải quyết một công việc tiến triển không vướng mắc ,22,5% doanh nghiệp sẵn sàng tặng một “món quà”nhỏ hơn giá trị bị coi là hối lộ ,67,74%thì tuỳ từng trường hợp .Như vậy để thuận tiện cho công việc của mình hơn 90% doanh nghiệp sẵn sàng “đi cửa sau”.Còn những cán bộ hành pháp rất dễ bị hấp dẫn bởi những món quà và kết quả là họ đã tự trói buộc mình vào nhưng hành vi phạm pháp .Đó là việc các quan chức làm nhiễu thông tin ,làm sai ,không giải quyết công việc để vụ lợi theo hình thức độc quyền .
Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng là phương tiện tiếp cận pháp luật chủ yếu của mọi người.Có thể nói đây là một phương pháp tuyên truyền,phổ cập pháp luật hiệu quả ,sâu sát nhất .Do đó cần phải phổ biến những thay đổi về luật pháp một cách nhanh chóng nhất ,đầy đủ nhất trên các phương tiện này để các doanh nghiệp có thể hướng các hoạt động của mình theo đúng chính sách luật pháp .Đây cũng là một yếu tố góp phần làm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp từ đó có thể tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Bên cạnh đó cũng cần chú ý đến năng lực của các phóng viên kinh tế .Sự hiểu biết và ý thức về pháp luật của họ có ảnh hưởng không nhỏ tới viêc thực hiện luật pháp của các doanh nghiệp . Vậy ,không chỉ cần một hệ thống chính sách pháp luật hoàn thiện, một đội ngũ cán bộ ,nhân viên thực thi luật hiểu biết ,có đạo đức mà còn cần những nhà báo kinh tế tài giỏi trong lĩnh vực này để hỗ trợ nhau xây dựng và hoàn thiện hơn nữa luật đầu tư của Việt Nam .
PHẦN KẾT
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, chính sách pháp luật Việt Nam nói chung và luật đầu tư nước ngoài nói riêng ngày càng có những thay đổi theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn .Bên cạnh những thành quả đạt được nhờ sự hoàn thiện ấy vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót cần khắc phục . Đảng và nhà nước đã ,đang cố gắng điều chỉnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo sự trong sáng ,thống nhất và thông thoáng hơn trước .Việc khơi thông dòng chảy đưa vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta luôn được các nhà kinh tế đặt lên hàng đâù trong công cuộc công nghiệp hoá _hiện đại hoá đất nước.Nghiên cứu từ góc độ chính sách luật pháp , đề tài này đã đến một số kết luận về việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài của nước ta:
Nhà nước Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình nói chung và chính sách pháp luật về đầu tư nước ngoài nói riêng nhằm kiến tạo dược môi trường pháp lý thực sự công minh và hấp dẫn.
Đồng thời cũng cần chú trọng đến viêc đào tạo những con người sống và làm việc theo pháp luật để tăng sự công minh cho luật pháp .
Các ràng buộc chính thức và không chính thức trong luật pháp không những làm giảm sự hứng thú của nhà đầu tư nước ngoài mà còn gây mất hiệu quả trong thu hút FDi .
Trong giai đoạn hiện nay ,thu hút FDi ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế Xã hội chứ không chỉ riêng trong khía cạnh luật pháp ,vì vậy phải nhanh chóng khắc phục những mặt hạn chế và phát huy tối đa những mặt mạnh để môi trường kinh doanh và đầu tư ở nứơc ta ngày càng hấp dẫn .
Đề tài này mong muốn được góp phần tìm hiểu ,nghiên cứu những tiến bộ và hạn chế trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở khía cạnh chính sách luật pháp nhằm hoàn thiện hơn các nội dung quy định về hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .Khi đã có một môi trường pháp lý thuận lợi và hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn FDi vào Việt Nam sẽ tiến triển theo hướng tích cực.Và mục tiêu của chung ta : “Một Việt Nam hoà bình ,ổn định ,dân giầu nước mạnh ,xã hội công bằng, văn minh ”sẽ từng bước được thực hiện .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Làm thế nào để thu hút vốn FDI dưới góc độ chính sách & pháp luật.doc