Thực tế cho thấy những nhà lãnh đạo Việt Nam phần nhiều còn thiếu
tính chuyên nghiệp và chưa có tinh thần cầu tiến, chưa ham học hỏi. Trong
bối cảnh cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài đang ngày càng
bành trướng trên thị trường nội địa, thì các nhà lãnh đạo vẫn điều hành doanh
nghiệp theo những cách thức không còn thíc h hợp với các yêu cầu hiện đại
đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng hiện tại. Điều tra sâu hơn các đối
tượng này cho thấy: Không chỉ là nhận thức về lãnh đạo, mà các kiến thức cốt
yếu về quản lý hiện đại cũng không được họ quan tâm tích lũy. Nhóm này chủ
yếu gồm các nhà lãnh đạo thuộc về thế hệ trước (lớp người với hệ tư tưởng cũ
nhưng tham gia kinh doanh thời hiện đại), cùng một số nhà lãnh đạo trẻ tuy có
thành công bước đầu nhưng còn chưa ý thức được những gì mà bối cảnh hiện
tại đòi hỏi tự thân người lãnh đạo phải nỗ lực đáp ứng.
93 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2572 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãnh đạo trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu: Kinh nghiệm trên thế giới và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải bán lại cho các pháp nhân khác và thậm chí phải ngưng hoạt động. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế chung của VN làm cho các
DN trong nước lâm vào các tình huống rất khó khăn.
Thủ tục hành chính, khó khăn của bạn hàng và sức ép cạnh tranh
luôn có ảnh hưởng tiêu cực lên doanh nghiệp trong khủng hoảng, trong đó thủ
tục hành chính là yếu tố hoàn toàn có thể cải thiện được trong khi bộ máy
hành chính công vẫn giậm chân tại chỗ suốt từ cuối 2007 đến 2/2009.
Hầu hết các doanh nghiệp được hỏi đều tỏ ra bi quan trước biến
động của thị trường nội địa, trong đó có đến 81% trong số 196 doanh nghiệp
tin rằng thị trường trong nước sẽ tiếp tục suy giảm trong thời gian tới. Tiếp
đến, 43% lo không tiếp cận được vốn ngân hàng, 38% lo chi phí thuê lao
động gia tăng, 23% sợ thị trường nước ngoài giảm sút và 20% cho rằng lao
động bỏ việc sẽ tăng.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
62
Sức tiêu thụ hàng hóa giảm do doanh nghiệp và người dân hạn chế
mua sắm để tiết kiệm dẫn tới doanh số giảm sút. Trong khi đó chi phí duy trì
hoạt động lại tăng lên mà doanh nghiệp lại không cân đối được “đầu vào, đầu
ra” do giá nguyên liệu đầu vào quá cao. 23
Trong bối cảnh suy thoái toàn cầu với nhiều bất trắc và rủi ro đổ vỡ, các
tổ chức tín dụng nước ngoài đều ra sức áp dụng chiến lược kinh doanh thận
trọng, phòng ngừa rủi ro, co hẹp tín dụng hoặc xét nét hơn khi cho vay, và với
lãi suất cao. Suy thoái kinh tế làm sụt giảm tổng cầu và tăng nợ xấu dẫn đến
thắt chặt tín dụng, rốt cuộc càng làm cho suy thoái kinh tế càng trầm trọng hơn
khi xét đến những yếu tố tiêu cực trong môi trường sản xuất kinh doanh hiện
nay. Tiền hoặc ngoại tệ vẫn có thể đến tay các doanh nghiệp, nhưng với những
điều kiện ngặt nghèo hơn, đồng nghĩa với chi phí vốn sẽ không hề rẻ, làm cho
việc mua máy móc thiết bị trở nên không còn mấy hấp dẫn nữa, bên cạnh
chuyện mù mịt thị trường đầu ra, chưa kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa
thể tiếp cận nguồn ngoại tệ để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu dẫn đến việc
hàng loạt doanh nghiệp xin giải thể hoặc tạm ngưng hoạt động.
2.2. Hiệu suất trên phương diện các quyết định về nhân sự
Hầu hết ban giám đốc các công ty đều đang phải đối mặt với tình trạng
chi phí vẫn tiếp tục tăng cao, hạn mức tín dụng bị thắt chặt hơn và doanh thu
ngày càng giảm. Từ đó, họ phải tiến đến một quyết định nghiêm trọng hơn là
giảm chi phí lương và lợi ích của nhân viên, thậm chí cắt giảm tạm thời hoặc
sa thải nhiều lao động để tránh bị vỡ nợ hay đóng cửa doanh nghiệp. Ngay
trong khu vực vốn tạo nên cơn sốt nhân lực trong năm 2006 - 2007 là tài
chính, ngân hàng, và chứng khoán cũng hình thành xu thế cắt giảm mạnh.
Tuy nhiên sự biến động nhân sự lại là nguyên nhân gây mất ổn định doanh
nghiệp. Đối mặt với biến động nhân sự cũng đồng nghĩa với nguy cơ doanh
23
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
63
nghiệp có thể bị mất khách bởi các nhân viên cũ đặc biệt là nhân viên bán
hàng khi ra đi thường mang theo số khách mà họ đang liên hệ và nắm giữ.
Cuộc khủng hoảng đã có những tác động tiêu cực đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty, nhiều khách hàng thông báo việc dừng ủy thác,
nhiều mảng kinh doanh bị cắt công việc, nhiều bộ phận không hoàn thành kế
hoạch trong tháng. Số nhân viên không có việc làm cũng tăng lên đáng kể.
Theo nghiên cứu của Viện Khoa học lao động và xã hội, chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong 2 năm 2008 - 2009, Việt Nam có
gần 500.000 lao động bị mất việc làm.
2.3. Quản lý theo mục tiêu
Trong các DNNVV ở Việt Nam, công nghệ lạc hậu khá phổ biến. Do
thói quen tư duy và do hạn chế về đầu tư, DNNVV thường đầu tư dần, mỗi
năm mua một vài loại máy, thiết bị và khi thấy không ổn thì cũng thay thế
dần. Điều này làm cho máy móc thiết bị đang được sử dụng trong các
DNNVV trở nên chắp vá, không đồng bộ. Khủng hoảng làm cho giá cả hàng
hóa, nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị và phương tiện sản xuất kinh doanh
sụt giảm đáng kể, và đây được coi là dịp may hiếm có để các nhà sản xuất
kinh doanh Việt Nam mua vào để nâng cấp và mở rộng năng lực sản xuất
kinh doanh của mình. Nói cách khác, để được coi là cơ hội thì các nhà sản
xuất kinh doanh Việt Nam phải tìm được thị trường tiêu thụ cho khối lượng
sản phẩm gia tăng từ việc mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh, còn nguồn
vốn tín dụng phải có lãi suất tương đối thấp và điều kiện cho vay tương đối dễ
dãi. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 20% các doanh nghiệp tìm thấy cơ hội trong
khủng hoảng vẫn hoạt động bình thường hoặc mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, có khả năng thích ứng với tình hình và có thể tiếp tục phát triển
nhờ nhiều vốn, áp dụng kỹ thuật mới và có thương hiệu tốt.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
64
CHƢƠNG III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ LÃNH ĐẠO
TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU
I. Bài học cho chính phủ Việt Nam
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã có những tác động
đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam. Ở một góc nhìn khác, nó lại có ý nghĩa
tích cực đối với Việt Nam khi cần nhìn lại để rút ra những bài học bổ ích về
ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển lành mạnh hệ thống tài chính. Trong khó
khăn, một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp chính là sự hỗ trợ của chính sách từ phía cơ quan quản lý và
Chính phủ bằng những gói giải pháp hỗ trợ về vốn, bù lãi suất và giảm thuế.
Vì thế cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã mang lại nhiều bài học
quý báu cho chính phủ Việt Nam.
1. Hoàn thiện các chính sách về pháp luật, cải tổ bộ máy nhà nước
Trong điều kiện hiên nay, Việt Nam là một nước nhỏ với tiềm lực kinh
tế yếu, năng lực phản ứng kinh tế cũng rất bị giới hạn, ngoài các giải pháp cấp
thời (như chính sách kích cầu, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất...), Chính
phủ cần phải hoàn thiện lại các chính sách liên quan đến pháp luật thường là
kẽ hở cho các đơn vị kinh doanh phạm pháp. Bên cạnh đó, điều quan trọng là
chính phủ cần tập trung giải quyết dứt điểm các điểm yếu của chính sách pháp
luật về giải thể và hợp nhất các doanh nghiệp trong nền kinh tế vốn chưa được
quan tâm thích đáng đồng thời có những biện pháp thích ứng giải quyết các
doanh nghiệp phá sản trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu.
Sự hỗ trợ từ các chính sách pháp luật của chính phủ góp phần giúp các
doanh nghiệp kinh doanh có được sự thuận lợi hơn trong thủ tục hành chính,
minh bạch trong tiếp cận thông tin, thực thi pháp luật... là điều mà các doanh
nghiệp đang cần. Đặc biệt, sự đối thoại tốt hơn và thường xuyên hơn về các
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
65
vấn đề liên quan đến thực thi các luật và các văn bản hướng dẫn thi hành liên
quan đến hoạt động kinh doanh là vấn đề đặc biệt được các doanh nghiệp
quan tâm. Bởi, sự chèo chống của các DN trong khủng hoảng sẽ chỉ thành
công khi có được sự hỗ trợ của các nhà làm chính sách.
Bên cạnh đó, một việc không kém phần quan trọng là bộ máy nhà nước
cần phải có sự cải tổ mạnh mẽ. Trong một nền kinh tế hội nhập toàn cầu như
hiện nay, năng lực quản lý kinh tế quyết định trong bộ máy quản lý và điều
hành kinh tế của Nhà nước có lẽ là một trong những điểm yếu nhất của nền
kinh tế Việt Nam nói chung. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam,
chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sẽ phải được điều hòa lại với các
mục tiêu kinh tế - xã hội trong nước. Các vấn đề môi trường và khai thác tài
nguyên cần phải được quan tâm hơn xét về lợi ích lâu dài. Chính vì thế, bộ
máy nhà nước Việt Nam cần có những sự thay đổi mới, nên coi trọng những
người trẻ tuổi tham gia đóng góp ý kiến , tăng cường cơ sở hạ tầng hiện đại và
áp dụng các biện pháp kĩ thuật tiên tiến để quản lý.
2. Đánh giá sớm và chính xác các tác động của cuộc khủng hoảng
Trong khoảng hơn một năm qua, Việt Nam thực sự đã trải qua hai cuộc
khủng hoảng, một do chúng ta tự gây ra hồi đầu năm 2008 và một do ảnh
hưởng của khủng hoảng toàn cầu từ hồi cuối 2008. Cuộc khủng hoảng tài
chính, nhà đất, chứng khoán, cùng các vấn đề liên quan đến cán cân xuất nhập
khẩu và tỷ giá cần phải được mổ xẻ và tìm bằng được lời giải để ngăn chặn
các trường hợp tương tự trong tương lai. Qua các cuộc khủng hoảng như thế,
điều mà chính phủ Việt Nam nên quan tâm chú trọng là cần đặc biệt quan tâm
hơn đến công việc dự báo và đưa ra những đánh giá chính xác và sớm nhất có
thể về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng để từ đó dự trù xây dựng tốt những
nền tảng cơ bản cho phát triển hệ thống và thị trường tài chính như khuôn khổ
pháp lý về giám sát và tổ chức giám sát tài chính, việc phát triển các định chế
đầu tư dài hạn, định mức tín nhiệm, hệ thống động lực, việc tổ chức lại hai
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
66
sàn giao dịch chứng khoán... Việc xây dưng hệ thống thông tin minh bạch
cũng là cơ sở để giúp tăng cường công tác dự báo và qua đó cũng củng cố
thêm niềm tin của công chúng. Bởi nhiều khi sự đỗ vỡ của ngân hàng bắt
nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá của dân chúng. Bài học này liên quan
đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát là bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Tổ
chức BHTG cần phát huy tốt vai trò của mình để tạo được niềm tin của công
chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham gia ngăn chặn, xử lý
những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây chuyền. Vì thế, hệ thống
thông tin minh bạch và sự phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan
giám sát tài chính là đặc biệt quan trọng.
Đối với Việt Nam, việc đánh giá đúng tác động của cuộc khủng hoảng
trong điều kiện đã hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới là một công việc
hết sức quan trọng và đòi hỏi chính phủ phải quan tâm. Bài học từ cuộc khủng
hoảng tiền tệ khu vực khởi đầu từ ngày 2/7/1997 tại Thái Lan, khi mà Việt
Nam nằm ngoài vòng xoáy của cuộc khủng hoảng, nhưng do không chủ động
đề ra các giải pháp hữu hiệu nên đã chịu tác động nặng nề, tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm sút trong 5 năm liền, đầu tư nước ngoài ở vào trạng thái trì trệ từ
năm 1998 đến năm 2004.
Để tránh lặp lại tình trạng đó, nước ta cần nghiên cứu để nhận dạng đầy
đủ tác động của cuộc khủng hoảng, đề ra các giải pháp đồng bộ và phối hợp
với các nước khác thực hiện các chủ trương chung để đối phó, đồng thời phải
từ bài học kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ có liên quan đến
thị trường bất động sản và sự lỏng lẻo tín dụng của nhiều ngân hàng để xem
xét một cách khách quan tình hình đất nước, trong đó có hoạt động tín dụng
của các ngân hàng Việt Nam, nhất là những khoản tín dụng đối với thị trường
nhà đất đang có dấu hiệu bất ổn mà hậu quả rất khó lường đối với tình hình tài
chính – tiền tệ của đất nước.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
67
3. Tập trung giải quyết các yếu điểm của nền kinh tế trong bối cảnh khủng
hoảng
Bài học thứ ba mà chính phủ Việt Nam cần chú ý là việc tập trung giải
quyết những yếu điểm của nền kinh tế Việt Nam về mô hình kinh tế và mô
hình tăng trưởng.
Về mô hình kinh tế: Bài học mới từ cuộc khủng hoảng hiện nay là nó
buộc các nước phải xem xét lại mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Việt
Nam càng không phải là một ngoại lệ khi cần phải xem xét lại mối quan hệ
của nhà nước và nền kinh tế vốn được cho là nhà nước can thiệp quá sâu vào
nền kinh tế. Nếu như việc tăng cường vai trò điều tiết của một nhà nước trong
nhiều năm thực hiện chính sách giải quy (deregulation) như nước Mỹ có thể
là hợp lý thì chính sách này chưa chắc đã thích hợp đối với Việt Nam, thậm
chí có thể phản tác dụng, đối với những quốc gia mà vai trò của nhà nước vừa
thừa, vừa thiếu như ở nước ta. Việc quốc hữu hóa một số ngân hàng của chính
phủ Mỹ nhằm ngăn chặn hiệu ứng tiêu cực do sự sụp đổ của các ngân hàng
này gây ra cho toàn nền kinh tế Mỹ đồng thời cam kết rằng các ngân hàng này
sẽ được trả lại cho khu vực tư nhân khi thị trường hồi phục với hy vọng việc
mua cổ phiếu của các ngân hàng gặp khó khăn với giá rẻ để sau này bán lại
với giá cao hơn, ngân sách quốc gia không những không bị mất đi mà còn
được bổ sung một khoản đáng kể.
Bài học bao quát nhất đối với Việt Nam được rút ra từ cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ là việc kết hợp hài hòa giữa sức mạnh tự điều chỉnh của
thị trường với năng lực của Chính phủ để điều tiết thị trường. Không thể nhấn
mạnh một cách thái quá tầm quan trọng của mặt này hay mặt khác. Đây cũng
là vấn đề khó nhất trong việc hoạch định chính sách kinh tế của Nhà nước, đòi
hỏi phải từ những kinh nghiệm quốc tế và từ thực tế phát triển Việt Nam tiếp
cận tốt hơn các lý thuyết kinh tế, độc lập trong tư duy và hành động để có
được chính sách đúng đắn vừa tận dụng được lợi thế của đất nước, vừa chủ
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
68
động đối phó và vượt qua thách thức trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trong khi Mỹ đang tìm cách can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế thì biện
pháp can thiệp mà Việt Nam đang định sử dụng là yêu cầu các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) chia sẻ gánh nặng với chính phủ bằng cách đảm nhiệm
thêm một số trách nhiệm xã hội. Kinh nghiệm của thời kỳ bao cấp ở nhiều
nước XHCN cũng như trường hợp thất bại gần đây của Fannie Mae và
Freddie Mac ở Mỹ cho thấy việc thực hiện chính sách xã hội thông qua các
DNNN có nguy cơ thất bại cao. Nguyên nhân là vì một mặt, nó tạo ra sự nhập
nhằng giữa chức năng kinh doanh và trách nhiệm xã hội của các DNNN, mặt
khác nó dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực của DNNN nhân danh trách nhiệm
xã hội. Bài học rút ra từ khủng hoảng không phải là sự can thiệp của nhà nước
cần nhiều hơn mà là phải hiệu quả hơn và phù hợp hơn với năng lực vốn có
của nhà nước. Không phải là dừng chương trình cổ phần hóa mà trái lại, cần
tiếp tục cổ phần hóa để cải thiện hiệu quả cho nền kinh tế; không phải là yêu
cầu các DNNN phải thực hiện thêm một số trách nhiệm xã hội mà trái lại,
phải tách bạch chức năng kinh doanh khỏi chức năng xã hội. Không phải là
nới lỏng điều tiết đối với DNNN độc quyền mà trái lại, cần điều tiết hiệu quả
hơn, đồng thời tăng cường tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh.
Về mô hình tăng trưởng: Tình trạng bất ổn vĩ mô bên trong và khủng
hoảng kinh tế bên ngoài cũng đòi hỏi Việt Nam phải xem xét lại mô hình tăng
trưởng của mình.
Việc trước tiên phải chú ý là thực tế đã chứng minh rằng mô hình tăng
trưởng dựa chủ yếu vào việc thúc đẩy đầu tư của Việt Nam trong nhiều năm
qua tuy có thể đem lại tăng trưởng tương đối cao trong ngắn hạn, nhưng
đồng thời cũng có thể đẩy nền kinh tế ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng dài hạn
và bền vững.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
69
Thứ hai, mô hình tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu bên
ngoài mặc dù có thể thích hợp trong điều kiện bình thường nhưng lại khiến
nền kinh tế trở nên rất dễ bị tổn thương khi kinh tế thế giới khủng hoảng. Sự
phụ thuộc quá nhiều vào nhân tố nước ngoài - từ đầu tư trực tiếp, đến đầu tư
gián tiếp, đến những mối quan hệ “chiến lược” trong phát triển - đều dẫn tới
tình trạng dễ bị tổn thương do thiếu khả năng kiểm soát những nhân tố nước
ngoài này.
Thứ ba, mô hình tăng trưởng dựa vào các DNNN quy mô lớn, có vị thế
độc quyền trên thị trường trong nước không những tỏ ra thiếu sức chống đỡ
đối với khủng hoảng đến từ bên ngoài, mà trong một chừng mực nào đó, còn
là nguyên nhân gây ra sự yếu kém bên trong của nền kinh tế. Nếu không có
một lượng tín dụng lớn nhưng kém hiệu quả đổ ào ạt vào các DNNN, nếu các
DNNN không đầu tư tràn lan ra các lĩnh vực có tính đầu cơ cao như chứng
khoán và bất động sản, nếu như hoạt động của các DNNN hiệu quả hơn nhờ
kỷ luật của Nhà nước (thông qua việc điều tiết) và kỷ luật của thị trường
(thông qua sự cạnh tranh) thì nền kinh tế của Việt Nam đã được chuẩn bị tốt
hơn để đương đầu với khủng hoảng từ bên ngoài.
Thứ tư, mô hình tăng trưởng không chú trọng đúng mức tới tính hiệu
quả của việc sử dụng năng lượng và sự bền vững trong khai thác tài nguyên
thiên nhiên tuy vẫn có thể tiếp tục thành công trong một thời gian nhưng trong
dài hạn chắc chắn sẽ phải trả giá rất đắt những hệ lụy liên quan đến môi
trường.
4. Tăng cường biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các tập đoàn
Việc quan trọng cuối cùng mà chính phủ nên chú trọng chính là việc
đưa ra các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp và các tập đoàn để phần nào
giảm bớt những gánh nặng kinh doanh mà họ phải gánh chịu trong khủng
hoảng toàn cầu. Để giải quyết khó khăn cho cả ngân hàng và các DN, Chính
phủ cần có những chính sách hỗ trợ khó khăn cho các doanh nghiệp như giảm
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
70
thuế nhập khẩu một số mặt hàng thuộc nhóm cân đối lớn, giảm thuế thu nhập
DN cho một số DN…sẽ gián tiếp hỗ trợ các ngân hàng. Nếu điều kiện cho
phép nới lỏng chính sách tiền tệ thì nên điều chỉnh từng bước nhỏ để hoạt
động ngân hàng thích ứng dần, tránh điều chỉnh những bước dài sẽ gây sốc.
Chính phủ cần khẩn trương cơ cấu lại hệ thống Quỹ bảo lãnh tín dụng
của Chính phủ để bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn ngân hàng, giúp các
DNNVV dễ tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh, đồng
thời cũng giúp hệ thống ngân hàng đảm bảo an toàn trong hệ thống tín dụng.
Nguồn lực quốc gia hạn hẹp của chúng ta đang bị phung phí quá mức bởi các
tập đoàn kinh tế nhà nước độc quyền. Để nối lại được mạch tăng trưởng thì
Việt Nam nhất định phải triệt để cải tổ các tập đoàn độc quyền trong các
ngành công nghiệp xương sống của đất nước.
Bên cạnh các doanh nghiệp các tập đoàn lớn thì các doanh nghiệp nhỏ
và những người có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã hôi là những đối
tượng rất cần phải được Chính phủ bảo vệ và hỗ trợ trong khủng hoảng để
giảm bớt các khó khăn. Họ là bộ phận dễ bị lãng quên và không được đại diện
một cách thích đáng nhưng lại là một trong những tài nguyên có giá trị nhất
cho phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Một biện pháp hỗ trợ hay dùng của chính phủ là thực hiện gói kích cầu.
Về gói kích cầu, chính phủ cần có cơ chế giám sát thực thi trong quá trình
triển khai, làm thế nào để tránh kích cầu hàng ngoại, cơ cấu mục tiêu ưu tiên
(quan hệ giữa kiềm chế suy giảm tăng trưởng GDP, ngăn chặn thất nghiệp,
cứu doanh nghiệp và hạn chế thâm hụt ngân sách). Đó là những giải pháp cần
thiết, kịp thời và hợp lòng dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một yếu tố quan
trọng khác, là sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước về mặt chính sách, giúp
cho doanh nghiệp giải quyết đầu ra như thực hiện các biện pháp xúc tiến
thương mại là những giải pháp mang tính hiệu quả lâu dài mà nhiều doanh
nghiệp đang rất cần. Bên cạnh đó, những thông tin dự báo của Nhà nước cũng
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
71
là yếu tố cực kỳ quan trọng, tạo thuận lợi nhiều hơn cho sự điều hành của
doanh nghiệp.
II. Bài học cho các nhà lãnh đạo
Cuộc khủng hoảng kinh tế với những biến cố xảy ra trong gần đây đã
dạy cho chúng ta nhiều bài học đắt giá về vai trò lãnh đạo, trong đó có tầm
quan trọng của việc lấp đi hố sâu ngăn cách về sự hiểu biết đang tồn tại không
chỉ giữa những nhà lãnh đạo chính trị và tài chính, mà còn những quyết sách
được đưa ra tại một nơi hoặc thậm chí có thể tại một văn phòng giữa những
nhà điều hành của tất cả các loại hình tổ chức. Những giải pháp thiết thực,
hiệu quả chỉ có thể đến từ sự am hiểu sâu sắc về bản chất của cuộc khủng
hoảng; chính vì thế, thử thách trước mắt là cần nhanh chóng cân bằng ý thức
về sự cấp bách, phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng với các giải pháp bằng chính
những kiến thức mà chúng ta tích lũy được bấy lâu.
1. Tăng cường công tác dự báo ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
Nguyên nhân đầu tiên của một cơn bão tài chính thường bắt nguồn từ
khu vực ngân hàng và bất động sản, các nhà quản lý cần dự đoán được các
dấu hiệu sớm của cơn bão để kịp thời ra các quyết định giúp công ty họ tránh
được sự thịnh nộ của cơn bão. Doanh nghiệp cần quyết tâm tái cơ cấu, bước
ra khỏi những ngành nghề không còn thích hợp với đòi hỏi của thị trường. Sự
thay đổi trong doanh nghiệp ở đây được hiểu là tất cả mọi quá trình cải tổ một
cách chủ động nhằm mục đích tạo sức cạnh tranh lớn hơn cho doanh nghiệp,
từ việc áp dụng công nghệ mới, những bước dịch chuyển có tính chất chiến
lược, tổ chức lại dây chuyền sản xuất, liên kết hoặc hợp nhất với doanh
nghiệp khác, tái cơ cấu các bộ phận kinh doanh, đến nỗ lực tối ưu hóa phong
cách văn hóa tập đoàn. Sẽ thật sai lầm nếu duy trì những tư tưởng bảo thủ
chống lại sự thay đổi, bởi điều đó đồng nghĩa với việc từng bước dấn sâu vào
con đường dẫn tới sự sụp đổ. Tính chủ động của doanh nghiệp và kinh
nghiệm trong phân tích cơ hội và rủi ro cùng với khả năng lập kế hoạch sản
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
72
xuất kinh doanh có tính đến các yếu tố ảnh hưởng bên ngoài làm ảnh hưởng
đến chi phí sản xuất, giá thành và thị trường của mình và việc dự báo những
khả năng tốt nhất và xấu nhất có thể xảy ra là các yếu tố quyết định thành bại
của doanh nghiệp trong khủng hoảng toàn cầu.
Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tại phố Wall chính là việc
các nhà lãnh đạo đã chủ quan và đã khuyến khích cho những chương trình
đầu tư với quá nhiều rủi ro. Điều quan trọng của các nhà lãnh đạo là hãy
chắc chắn những khoản đầu tư của công ty không có nhiều hoặc rất ít mạo
hiểm. Ví dụ như tại Công ty chuyên sản xuất các loại máy móc và vật
dụng dùng trong nông nghiệp hàng đầu của Mỹ, Deere, chỉ khuyến khích
đầu tư dựa trên lợi nhuận, được đo lường bằng vốn đầu tư và lợi nhuận
thu được trong năm bất kỳ của bốn năm liên tiếp trước đó. Nếu tình hình
kinh doanh không khả quan thì có thể huỷ bỏ một phần lợi nhuận. Trong
thời khủng hoảng, những tư duy và tầm nhìn dài hạn của các nhà lãnh đạo
được coi như một phần của chu kỳ kinh doanh.
2. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp hợp lý và linh hoạt
Trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng như hiện nay,
sau công tác dự báo, các nhà lãnh đạo sẽ rất cần đến khả năng tổ chức vận
hành công việc hiệu quả hơn, linh hoạt hơn đặc biệt là ở thế giới mà cấu thành
nên nó chính là những mối quan hệ hữu hảo ngày càng được thắt chặt giữa
các chính phủ, doanh nghiệp và các chủ thể khác.
Thế giới hiện nay luôn phải đương đầu với những khó khăn thử thách
mới đang rình rập. Từ việc thay đổi khí hậu cho tới vấn nạn nghèo đói toàn
cầu, dịch bệnh có khả năng lan rộng trên toàn cầu, những thử thách nặng nề,
cấp bách nhất của thời đại đòi hỏi sự phản ứng vượt ra khỏi tầm với của bất kì
một nhóm, một tổ chức, một khu vực hay một nền kinh tế đơn lẻ nào. Những
nhà lãnh đạo hiệu quả nhất, những người sẽ đứng mũi chịu sào trong công
cuộc tái thiết hệ thống tài chính Hoa Kỳ, hơn ai hết, là những người cần nắm
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
73
bắt được mối tương tác tinh tế này. Chấp nhận ghé vai gánh lấy một phần
trách nhiệm gây ra cuộc khủng hoàng tài chính vừa rồi, các trường kinh tế
đồng thời càng phải cam kết chặt chẽ hơn bao giờ hết trong việc tìm ra giải
pháp cho vấn đề.
Điều quan trọng trong việc tổ chức và điều hành doanh nghiệp thích
ứng với tình hình khủng hoảng kinh tế là các nhà lãnh đạo phải có khả năng
huy động được các nguồn lực về vốn, cơ sở vật chất, các mối quan hệ thị
trường. Đây có thể là yếu tố quyết định nhất để các doanh nghiệp vượt qua
tình hình khủng hoảng hiện nay. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực bán lẻ, khủng hoảng là thời điểm để họ có cơ hội giành được các vị
trí tốt với các chi phí thấp hơn nhiều so với lúc kinh tế đang phát triển. Tùy
thuộc quy mô mà các doanh nghiệp Việt Nam có được lợi thế riêng. Các
doanh nghiệp nhỏ sẽ có ít cơ hội hơn vì tiềm lực nhỏ hơn. Như vậy, cơ hội
chính là việc phát huy sức mạnh nội tại chứ không đơn thuần là trông chờ từ
bên ngoài. Trong khủng hoảng thường có các cơ hội đi kèm đối với các doanh
nghiệp có nền tảng tốt mà mấu chốt là do khả năng lãnh đạo của nhà quản lý
doanh nghiệp. Ngành ngân hàng tài chính cũng thế, những cơ hội đến trong
thời kỳ khủng hoảng không phải là ít, tuy nhiên chỉ có những doanh nghiệp
biết nắm bắt đúng thời điểm và chuyển biến linh hoạt theo thị trường mới tận
dụng được những cơ hội này. Ngay cả những doanh nghiệp kinh doanh vàng
nếu không xác định một chiến lược đúng đắn, không tận dụng được thời cơ,
không khai thác được các nguồn lực, nhất là không dự báo đúng tình hình, thì
đều rơi vào rủi ro, thậm chí phá sản.
Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, bên cạnh những yếu tố quan trọng
về vốn, cơ sở vật chất, thị trường mà doanh nghiệp sẵn có, yếu tố mang tính
quyết định là đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp. Bởi chính
họ chứ không phải ai khác là người đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp với
doanh nghiệp của mình, trong điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Có thể cho
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
74
rằng, hoàn cảnh khó khăn cũng là phép thử năng lực của người lãnh đạo
doanh nghiệp, nó thể hiện ở chỗ dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm về
các quyết định của mình trong những tình huống đầy bất trắc. Tuy nhiên,
người lãnh đạo không thể đơn độc chèo lái con thuyền mà còn phải biết phát
huy sức mạnh tập thể. Điều đó sẽ giúp họ tránh được những quyết định sai
lầm, dẫn đến các bi kịch và tất nhiên, cũng giúp họ tránh được bệnh độc đoán,
quan liêu.
3. Đưa ra các chính sách mới tương thích với tình hình kinh tế chung
Trong bối cảnh nền kinh tế nhiều biến động như hiện nay thì việc các
nhà lãnh đạo đưa ra các chính sách mới thích nghi với tình hình kinh tế toàn
cầu là vô cùng quan trọng. Từ kinh nghiệm lãnh đạo của các nước phát triển
ứng phó trước bối cảnh khủng hoảng toàn cầu, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
cần phải có những chính sách mới thích nghi với tình hình kinh tế. Lịch sử đã
chứng minh được rằng các doanh nghiệp, thậm chí cả nền kinh tế thế giới,
luôn phát triển theo chu kỳ tuần hoàn với các giai đoạn nối tiếp nhau bao gồm
củng cố, tăng trưởng, suy thoái, phục hồi và lại bắt đầu một chu kỳ mới. Giai
đoạn suy thoái kinh tế là khoảng thời gian để các nhà quản lý thể hiện tài
năng, tầm nhìn và bản lĩnh của họ
Hơn thế nữa, các nhà quản lý và chủ doanh nghiệp hiện nay đang phải
đối đầu với áp lực đào thải của qui luật cạnh tranh hết sức khốc liệt. Trong
giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay thì áp lực đó càng nặng nề
hơn bao giờ hết. Không ít doanh nhân trong nước đang cảm thấy mất phương
hướng khi họ phải chứng kiến những thay đổi, thậm chí sụp đổ trong một thời
gian ngắn.
Trong tình hình hiện nay, khi có khủng hoảng thì khó khăn là chính,
nhưng cũng bao hàm yếu tố cơ hội. Việc xác định yếu tố cơ hội phù hợp với
mình là không đơn giản. Tùy ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, yếu tố cơ hội
xuất hiện cũng khác nhau, thậm chí, cơ hội của ngành này, doanh nghiệp này
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
75
có khi lại là rủi ro của ngành khác, doanh nghiệp khác. Nhưng, nói một cách
tổng quát, thì trong khủng hoảng cũng xuất hiện những yếu tố cơ hội mà ta có
thể tận dụng như, từ khủng hoảng ta có thể thấy rõ hơn những điểm yếu của
doanh nghiệp mình để ra những chiến lược xử lý thích hợp.
3.1. Xây dựng chiến lược thương hiệu và hệ thống phân phối mạnh để giành
được thị phần
Việc đầu tiên mà các nhà lãnh đạo nên làm là việc củng cố thương hiệu
để giành lại thị trường trọng tâm của doanh nghiệp. Khi khủng hoảng kinh tế
xảy ra, nhiều doanh nghiệp thu hẹp hoạt động, cắt giảm đầu tư cho thương
hiệu và tiếp thị. Tuy nhiên, việc cắt giảm chi phí marketing không hẳn là giải
pháp cần thiết duy nhất trong thời kỳ suy thoái vì đây là một trong những yếu
tố chủ yếu để duy trì sự phát triển của công ty với những lý do sau:
Một là, trong suy thoái, người tiêu dùng ít tiền hơn, ít xa xỉ hơn,
nên không còn "chuộng ngoại" một cách quá mức như trước, mà chi li hơn
giữa giá tiền và chất lượng. Đây là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt
Nam làm ăn chân chính.
Hai là, trong suy thoái, phải quay về thị trường trong nước, các
doanh nghiệp Việt Nam mới thấy rõ một điều là lâu nay ta đã bỏ quên thị trường
quan trọng nhất, đặc biệt là thị trường nông thôn với 70% dân số (hơn 50 triệu
dân). Đây là một thị trường mà ở nhiều nước người ta nằm mơ cũng không thấy.
Ba là, trong suy thoái, thế ổn định tương đối bị phá vỡ, nhiều
doanh nghiệp bị đào thải, nhiều doanh nghiệp khác thị phần bị thu hẹp. Đây là
cơ hội để các doanh nghiệp xâm nhập và mở rộng thị trường, nếu thế ổn định
được phục hồi, sẽ không dễ chen chân vào.
Bốn là, cuộc suy thoái này thực chất là một cuộc khủng hoảng
mang tính chất cải cách thật sự. Sau cuộc khủng hoảng này, các ngành sẽ phải
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
76
cơ cấu lại một cách sâu sắc, đối với nhiều ngành, nhất là với doanh nghiệp
vừa và nhỏ, đầu ra chủ yếu sẽ là thị trường trong nước.
Trong ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, người tiêu
dùng Việt Nam buộc phải xem lại chi tiêu của mình. Các sản phẩm của doanh
nghiệp Việt Nam có uy tín và chất lượng, có giá bán hợp lý sẽ có cơ hội giành
được thị phần. Doanh nghiệp sẽ có những chủ trương kinh doanh riêng, mỗi
ngành sẽ có những bài toán của mình, vì mức sử dụng tiền mặt, khả năng thu
hồi công nợ hay vòng quay tiền của mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Đó chính
là cơ hội để doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế và tầm nhìn đầu tư để giành thị
trường. Thời buổi khó khăn cũng là cơ hội cho các công ty chứng tỏ khả năng
và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và sẽ được hưởng lợi rất lớn từ
điều đó, khi khủng hoảng đi qua. Những thương hiệu thành công nhất là
những doanh nghiệp không bao giờ ngừng đầu tư vào những điểm mạnh của
mình như cải tiến sản phẩm, dịch vụ khách hàng.
3.2. Xem xét lại toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp, ưu tiên cho các
công việc phù hợp với tình hình thực tế
Trong thời điểm thuận lợi, công ty có thể ưu tiên hàng đầu cho việc
phát triển thị trường, thuê mướn nhân công, đặt ra mục tiêu tăng trưởng trong
dài hạn. Nhưng khi thị trường thay đổi thì tầm nhìn của công ty cũng phải
thay đổi. Việc thay đổi định hướng đột ngột có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của công ty nhưng đó là điều bắt buộc phải làm. Đây là lúc phải tiết kiệm hơn,
cân nhắc từng khoản chi phí, đầu tư và huỷ bỏ tất cả những thứ không cần
thiết như hội nghị, hội thảo, du lịch để tập trung đối phó với khủng hoảng.
Bởi trên thực tế, một số khoản cắt giảm đáng kể này có thể sẽ là khoản dự trữ
đáng quý để bảo vệ tương lai doanh nghiệp. Tiến hành cắt giảm các chi phí
không cần thiết kịp thời sẽ giúp tài chính công ty an toàn trước các khoản chi
tiêu không cần thiết trong tương lai. Nếu doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt, có
kế hoạch phát triển rõ ràng, đưa ra các chính sách phù hợp trên toàn bộ các
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
77
phương diện thì khi cơn khủng hoảng đi qua, doanh nghiệp đó sẽ có cơ hội
phát triển rất nhanh.
3.2.1. Về thị trường
Đảm bảo giữ vững hệ thống phân phối sản phẩm – dịch vụ của mình
bằng duy trì chất lượng sản phẩm (sữa melamine và vụ ồn ào nghi vấn bánh
“chuột” Highlands là một ví dụ đáng lưu tâm) và chăm sóc đại lý - khách
hàng; quan sát các yếu tố có thể tác động tới tâm lý thị trường thay đổi sự ưu
tiên sử dụng hàng hóa dịch vụ (trong lúc khủng hoảng là dịch chuyển toàn
phần, chứ không phải là tăng thêm lựa chọn), ví dụ vấn đề môi trường của
Vedan, Miwon…; với các thị trường quốc tế, nhà lãnh đạo đừng bao giờ quên
kiểm tra năng lực tài chính của khách hàng (thanh toán), lịch sử thanh toán
đúng hẹn, và năng lực tài chính của ngân hàng đại diện phía khách hàng.
3.2.2. Về vận hành sản xuất - kinh doanh
Rà soát cơ cấu sản phẩm theo hướng tập trung vào những sản phẩm
chủ lực, có cơ hội tiết giảm chi phí và ổn định được thị trường tiêu thụ; xem
xét lại năng lực sinh ra giá trị gia tăng của các nhóm sản phẩm - dịch vụ, vì
thường chỉ một nhóm sản phẩm chủ lực tạo ra phần lớn lợi nhuận, giống như
việc khoang khách hạng nhất - thương gia của một máy bay tạo ra tới 70 -
80% lợi nhuận ròng cho một chuyến bay; phát triển các dòng sản phẩm – dịch
vụ thay thế hoặc liên quan mà không lệ thuộc vào các khoản đầu tư lớn, có
thể giúp ổn định hoặc khai thác thêm nhu cầu thị trường đang tồn tại.
3.2.3. Về quản lý tài chính - đầu tư
Liên tục rà soát công nợ hàng ngày, nhất là đối với những doanh
nghiệp có số lượng hàng cung cấp lớn, giá đơn vị nhỏ; liên tục theo dõi các
nhóm chỉ số tài chính doanh nghiệp; đàm phán lại với các đối tác về thời gian
cung cấp tín dụng (không có tín dụng thương mại thì khó bán hàng, nhưng dài
hoặc lỏng lẻo quá thì khó thu hồi, hoặc không tạo hồi lưu của tiền tệ được);
tiết giảm việc đầu tư vượt quá năng lực tài chính doanh nghiệp, có thể dẫn tới
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
78
việc lệ thuộc vào vốn vay; không chủ trương các trò chơi tài chính kiểu Ponzi,
tức là thu hút vốn đám đông, lấy người sau trả cho người trước dưới dạng tài
sản hình thành từ nguồn nợ.
3.2.4. Về khả năng điều hành đội ngũ cán bộ
Việc xây dựng đội ngũ nhân lực giỏi là yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công cũng như khả năng vượt qua khủng hoảng của công ty. Một cơ hội
nữa, đó là trong khó khăn, chúng ta lại có cơ hội tái cấu trúc bộ máy, thu hút
thêm nhân tài, nguồn nhân lực có chất lượng cao. Xét về vĩ mô, nền kinh tế sẽ
có điều kiện đón một lực lượng doanh nghiệp mới thành lập. Khủng hoảng
cũng là cơ hội để các doanh nghiệp thu hút nhân lực giỏi với chi phí thấp hơn.
3.3. Tiếp tục đầu tư vào thế mạnh của doanh nghiệp
Nhà quản lý khi lãnh đạo doanh nghiệp phải luôn nắm chắc và phát huy
thế mạnh của các doanh nghiệp, tập trung cho hoạt động chính, vì đây là gốc
rễ để phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tập trung vào ngành kinh
doanh chủ đạo thay vì tham gia vào nhiều ngành hàng mà công ty không có
nhiều lợi thế cạnh tranh. Trong bối cảnh khủng hoảng, việc đầu tiên các
doanh nghiệp nghĩ đến là cắt giảm các chi phí không cần thiết cho hoạt động
kinh doanh song các doanh nghiệp cũng nên cân nhắc vào vị thế của doanh
nghiệp để tiếp tục đầu tư cho các mặt mạnh của mình.
Là nhà quản lý trụ cột của công ty, người lãnh đạo cần phải nắm vững
tình trạng và các con số thống kê hoạt động của công ty mình. Bản báo cáo
của công ty không thể bỏ qua những khó khăn phải đương đầu trong cơn
khủng hoảng, cũng như phải bao quát được các vấn đề như tình hình sản xuất,
vấn đề tài chính, cơ cấu nhân viên, trình độ quản lý của các cấp trung gian.
Lãnh đạo phải đối chiếu với thực trạng chung của nền kinh tế, đồng thời tập
trung mọi nguồn nhân lực xây dựng những chiến lược phù hợp để duy trì hoạt
động trên cơ sở bản báo cáo đó từ đó ưu tiên cho các giải pháp liên quan đến
vấn đề tài chính. Đó là các giải pháp như tái cơ cấu vốn, tài sản, các giải pháp
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
79
về xử lý các vấn đề liên quan đến đầu tư và dòng tiền mặt bổ sung, cũng như
các giải pháp kiểm soát và quản lý tiền mặt. Qua đó, nhà lãnh đạo sẽ định
hình được việc có nên tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực mà mình đang chiếm ưu
thế hay không chứ không nên chuyển sang lĩnh vực khác để tiết giảm chi phí
bắt đầu từ việc tổ chức lại quá trình sản xuất và phân phối, từ đó xác định
tổng chi phí cần thiết nhằm phát triển cơ cấu vốn thích hợp nhằm hỗ trợ hiệu
quả nhất cho mô hình kinh doanh mới theo dự trù của lãnh đạo.
3.4. Cân nhắc với thị trường ngoại và các hoạt động Mua lại và Sát nhập
(M&A)
Khi phải chịu áp lực về chi phí, các công ty thường nghĩ đến các nước
đang phát triển hoặc các thị trường mới nổi, nhưng thật ra nền kinh tế tại các
nước này cũng đã chuyển mình mạnh mẽ. Giá nhân công tại các nhà máy ở
Trung Quốc hay Malaysia liên tục tăng trưởng như một làn sóng khi các quốc
gia này có sự nhảy vọt về kinh tế. Trong khi đó tại Mỹ, số lượng lao động bị
thất nghiệp liên tục gia tăng, và khoảng cách về tiền lương giữa các quốc gia
này ngày càng được rút ngắn hơn. Giá dầu khi đã hạ sau khi lên đến đỉnh
cũng vẫn cao hơn nhiều so với cách đây năm năm và theo phân tích của nhiều
chuyên gia thì không có dấu hiệu đi xuống. Do đó, chi phí cho việc vận
chuyển cũng có thể là một trong các yếu tố góp phần vào việc chấm dứt làn
sóng đầu tư ra nước ngoài. Không chỉ thế, chi phí đầu tư cho trụ sở, máy móc,
thuế, hải quan, thời gian, tốc độ sản xuất… có thể tạo thành một khoản lớn.
Trong thời điểm mà tất cả chi phí đều đội giá như thế này, đầu tư ra nước
ngoài không hẳn là ý kiến hay. Chính vì thế khi quyết định đầu tư ra thị
trường nước ngoài thì các nhà lãnh đạo cần cân nhắc kĩ tình hình tài chính,
các điều kiện kinh doanh hay mặt hàng… của mình có phù hợp với tình hình
nước định đầu tư không để đưa ra quyết định đúng đắn.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế cũng là thời điểm thuận lợi nhất để
mua lại tài sản của các công ty với giá rẻ. Hoạt động sáp nhập có khuynh
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
80
hướng lên đến đỉnh cao khi hầu hết công ty đều xem khủng hoảng như một
thời điểm cho việc tích trữ nguồn lực cho đến khi thị trường phục hồi. Đây là
cơ hội lớn để thâu tóm các công ty nhỏ và nhân tài của họ. Các công ty nên
cân nhắc nhu cầu kinh doanh trong suốt thời kỳ phát triển lẫn suy sụp của nền
kinh tế, chứ đừng chỉ dựa trên trực giác. Khi khủng hoảng kinh tế kết thúc,
đường đua lại rộng mở với sự hứa hẹn về một tương lai tươi sáng, vị trí của
công ty so với các đối thủ phụ thuộc vào nhà lãnh đạo ngay từ lúc này.
4. Phát triển tốt các mối quan hệ tăng cường hợp tác của các bộ phận và mỗi
người trong doanh nghiệp
Khi bước vào thời kỳ suy thoái, các công ty thường chọn giải pháp im
lặng cho đến khi thị trường trở về trạng thái bình ổn. Đó là điều trái ngược với
những gì họ cần làm. Trong khủng hoảng, tất cả đối tác của doanh nghiệp đều
trở nên căng thẳng: Nhân viên lo bị thất nghiệp, nhà cung cấp sợ không được
trả tiền, khách hàng ngại giá tăng hoặc chất lượng sản phẩm, dịch vụ giảm
sút… Việc đối thoại trực tiếp về các vấn đề này sẽ làm cho tình hình khá hơn.
Lãnh đạo không cần phải trả lời tất cả thắc mắc của họ nhưng cần nói ra
những gì họ nghĩ và phản ánh tình hình một cách trung thực. Lãnh đạo cần
làm cho nhân viên của mình vững tâm hơn bằng cách cho họ biết rõ tầm nhìn
của công ty, hiểu rõ điều mình quan tâm và cảm nhận được sự thẳng thắn và
trung thực của của nhà lãnh đạo. Ngay cả khi sự thật đó không tốt đẹp gì thì
người lãnh đạo giỏi cũng sẽ tìm ra cách để duy trì niềm hy vọng.
4.1. Củng cố tinh thần nhân viên
Mối quan hệ đầu tiên mà các nhà lãnh đạo phải chú ý chính là với các
nhân viên của mình, những người trực tiếp thi hành và thực hiện các quyết
định của nhà lãnh đạo. Trước tiên, nhà lãnh đạo phải củng cố, động viên tinh
thần nhân viên của mình để qua đó vực dậy được tinh thần đang xuống dốc
của họ. Giữ được “tinh thần chiến đấu”của bản thân mình chỉ là một điều kiện
để vượt qua khủng hoảng. Nhà lãnh đạo còn phải biết cách giữ vững tinh thần
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
81
và tạo niềm tin cho nhân viên. Bên cạnh việc phải thường xuyên tăng cường
sự hiện diện và giao tiếp với nhân viên, nhà quản lý doanh nghiệp cần cân
nhắc kỹ trước mọi quyết định giảm lương, hay giảm nhân sự, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ các quyết định liên quan đến quyền lợi của nhân
viên đều rất nhạy cảm, tác động rất lớn đến tinh thần làm việc của tổ chức
trong giai đọan hiện nay.
Muốn giữ vững tinh thần vào lúc này thì nhà lãnh đạo không nên vội
vàng sa thải và giảm lương nhân viên, trong tình hình này doanh nghiệp cần
một chính sách nhân sự linh hoạt, khuyến khích và điều chuyển nhân viên
đang dư thừa ở một số bộ phận sang những nơi cần thiết khác để tránh việc sa
thải....Lãnh đạo phải biết cách xốc lại tinh thần của đội ngũ nhân viên, không
để những nỗi ám ảnh về nợ nần ảnh hưởng đến hoạt động và môi trường văn
hóa trong công ty mình, đồng thời tìm kiếm giải pháp đưa công ty thoát ra
khỏi tình trạng khủng hoảng.
Tăng cường giao tiếp với nhân viên là việc mà các cấp quản lý cần làm
vào lúc này. Nhân viên thấy doanh nghiệp vẫn đang chuyển động, và các nhà
quản lý doanh nghiệp vẫn đang nỗ lực làm việc là một giữ không khí làm việc
tích cực cho nhân viên và cách củng cố tinh thần cho họ. Trong thời điểm khó
khăn hiện nay, người đi làm càng cần hơn ở nơi làm việc như một chỗ dựa về
tinh thần. Công tác truyền thông trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được
chú trọng vào lúc này để tình hình hoạt động công ty được cập nhật đến nhân
các thành viên trong tổ chức thường xuyên hơn, đồng thời nhà quản lý hiểu
nhân viên để có ngay lời động viên tinh thần kịp thời.
Nhanh chóng cho nhân viên thấy hướng đi của doanh nghiệp trong thời
kỳ chao đảo này là rất cần thiết. Thông tin cho nhân viên tình hình chung của
nghành, tình hình công ty, đưa ra những dự báo, những khó khăn phải đối
đầu. Đồng thời chia sẻ với họ một sứ mệnh rõ ràng là cách để nhân viên cảm
thấy tin tưởng hơn vào tổ chức. Nhà lãnh đạo doanh nghiệp tin rằng các cộng
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
82
sự đang gắn bó với công ty trong lúc này có thể nắm tay nhau làm thành một
đường ray vững chắc để đưa con tàu công ty vượt qua khủng hoảng. Sự kỳ
vọng này của người lãnh đạo chắc chắn sẽ được từng cá nhân trong tổ chức
cảm nhận và họ sẽ có khuynh hướng đáp lại sự tin tưởng này bằng cách hoàn
thành công việc tốt hơn. Và như thế, kết quả là kỳ vọng ban đầu của nhà lãnh
đạo trở thành hiện thực. Trong cuộc sống, mọi việc xảy ra đều có qui luật của
nó, quy luật của sự kỳ vọng nếu được ứng dụng vào lúc này biết đâu sẽ góp
phần tích cực trong hành trình vượt khủng hoảng của doanh nghiệp.
4.2. Xây dựng mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp
Mối quan hệ thứ hai mà các nhà lãnh đạo cần chú tâm chính là với các
khách hàng, các nhà cung cấp - đối tác làm ăn trực tiếp của họ. Tại mọi thời
điểm, không cần biết nền kinh tế có ổn định hay không, “sức khoẻ” doanh
nghiệp sản xuất của một công ty đều dựa vào các nhà cung cấp và khách
hàng. Nếu việc mua bán của khách hàng giảm sút, điều đó đồng nghĩa công
việc kinh doanh của công ty cũng đang tụt dốc. Kinh tế khó khăn, khách hàng
cũng phải đối mặt với những vấn đề mới nên hãy cung cấp cho họ sản phẩm
có giá cả hợp lý. Đa dạng hoá sản phẩm, cắt giảm chi phí để tạo ra các dòng
sản phẩm có giá cả hợp lý là điều khách hàng mong muốn nhất lúc khó khăn
này. Trong bất kỳ nền công nghiệp nào thì nguyên tắc chung nhất vẫn là giúp
cho khách hàng có thể tối đa hoá lợi ích của mình. Nếu nhà cung cấp phải
tăng giá, thì chi phí của công ty cũng bị điều chỉnh. Lãnh đạo nên chú trọng
vào thiết lập các mối quan hệ lành mạnh, tốt đẹp với khách hàng, nhà cung
cấp trước khi cơn khủng hoảng tấn công đến doanh nghiệp mình. Xây dựng
các mối quan hệ với nhà cung cấp và khách hàng sẽ tạo nên sự tôn trọng lẫn
nhau và chính họ sẽ là người giải cứu doanh nghiệp mình ra khỏi tình trạng
nguy hiểm trong những thời điểm cam go.
Nhà lãnh đạo cũng cần phải đàm phán với nhà cung cấp để có được sự
giảm giá tạm thời trong giai đoạn khủng hoảng này để họ thấy rằng doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
83
nghiệp luôn mong muốn và thiện chí làm ăn cùng họ. Nhà lãnh đạo cũng nên
chuẩn bị sẵn tinh thần nếu có xung đột với nhà cung cấp này bằng việc tìm một
nhà cung cấp dự phòng khác. Chuyển nhà cung cấp là đồng nghĩa với việc cho ra
đời chất lượng nguyên liệu mới, giá suất mới, lịch trình vận chuyển mới và các
chi phí mới. Tất cả mọi thứ kể trên không chỉ tác động tới công việc kinh doanh
của doanh nghiệp mà còn tới cả công việc kinh doanh của các khách hàng.
4.3. Lắng nghe ý kiến của các chuyên gia
Khủng hoảng kinh tế tạo ra rất nhiều áp lực cho các nhà nhà lãnh đạo.
Không phải nhà lãnh đạo nào cũng có thể tự tìm ra giải pháp để cứu doanh
nghiệp của mình. Sự hợp tác với đội ngũ các chuyên gia tư vấn sẽ giúp các
nhà lãnh đão có được cái nhìn khách quan, tổng thể và chuyên nghiệp để
hoạch định những bước đi cần thiết trong quá trình phục hồi kinh tế. Chuyên
gia tư vấn phải được trao đầy đủ quyền hạn, đồng thời hiểu rõ trách nhiệm
của mình. Về phần mình, nhà lãnh đạo cần tạo điều kiện cho họ tìm hiểu mọi
hoạt động của công ty, kể cả những thông tin và số liệu nhạy cảm nhất. Có
như vậy công ty mới nhanh chóng tìm được lối thoát hiệu quả nhất cho cuộc
khủng hoảng.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
84
KẾT LUẬN
Trên thế giới đang tồn tại một loạt các công trình nghiên cứu có tầm cỡ
quốc tế với khá nhiều các quan điểm khác nhau được thừa nhận xung quanh
những vấn đề liên quan đến công tác lãnh đạo nói chung và nhà lãnh đạo
doanh nghiệp nói riêng ứng phó với cuộc khủng hoảng toàn cầu. Quá trình
nghiên cứu về “Lãnh đạo trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu: Kinh
nghiệm trên thế giới và bài học đối với Việt Nam” cho thấy phần đông các
nhà lãnh đạo Việt Nam khi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này
đã có những động thái ứng phó tích cực với khủng hoảng trong việc điều hành
doanh nghiệp khi mà bối cảnh này đang đào thải những doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả.
Về mặt thực tiễn, mặc dù các doanh nghiệp vẫn đạt hiệu quả kinh tế
tương đối, nhưng xét một cách toàn diện thì công tác lãnh đạo chưa thực sự
được chú trọng để thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Kết quả là đã có
những doanh nghiệp thành công trong khủng hoảng nhưng cũng không ít
doanh nghiệp bị loại ra khỏi thương trường mà nguyên nhân chủ yếu là do
công tác lãnh đạo kém hiệu quả trong khủng hoảng của nhà quản lý. Công tác
này chưa đạt được hiệu suất trên phương diện sử dụng vốn, nhân sự cũng như
đảm bảo quản lý các quyết định theo mục tiêu dẫn đến không khai thác được
nguồn lực một cách tối ưu. Nhận diện và đánh giá thực trạng lãnh đạo trên thế
giới dựa trên thống kê về số liệu thống kê lao động mất việc làm và số doanh
nghiệp phá sản đang ngày càng tăng lên cho thấy lãnh đạo các doanh nghiệp
trên thế giới đang phải bươn chải trong suy thoái kinh tế khá vất vả và chưa
tìm được hướng giải quyết phù hợp khi hiệu suất trên phương diện về vốn
không đảm bảo buộc các nhà lãnh đạo phải cắt giảm chi phí tối ưu về nhân sự
cũng như các chi phí cho việc xúc tiến hoạt động sản xuất kinh doanh khiến
cho việc quản lý các quyết định phải rời xa mục tiêu về dài hạn.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
85
Dựa trên phân tích về kinh nghiệm của một số tập đoàn điển hình đã
có những bước đi đúng đắn trong khủng hoảng cùng với thực trạng lãnh đạo
của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh trước và khi khủng hoảng diễn
ra, người viết đã đưa ra kiến nghị về một số giải pháp và bài học để có thể
thành công bươn chải trong khủng hoảng. Về lâu dài, yêu cầu nâng cao năng
lực lãnh đạo và thực hiện phong cách lãnh đạo hiệu quả ngày càng trở nên cấp
thiết đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng trên quy mô toàn cầu có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến Việt Nam xét ở góc độ cá nhân người lãnh đạo, góc độ doanh
nghiệp và trên bình diện kinh tế - xã hội nói chung. Để làm được điều này,
bản thân người lãnh đạo cần nâng cao nhận thức, hoàn thiện kĩ năng lãnh đạo
hiệu quả, tăng cường khả năng linh hoạt hóa cách thức điều hành doanh
nghiệp đồng thời phát triển tốt các mối quan hệ tăng cường hợp tác của các bộ
phận và nhân viên trong doanh nghiệp để thích ứng với thời đại bão táp. Nhà
nước cũng cần có những chính sách và đường lối nhằm khuyến khích, hỗ trợ
các doanh nghiệp và tập trung giải quyết các điểm yếu của nền kinh tế để
công tác lãnh đạo trong các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn.
Công tác lãnh đạo hiệu quả sẽ giúp nhà lãnh đạo vươn lên nấc thang
mới trong sự nghiệp, hỗ trợ những người khác phát triển bản thân, đem lại
thành công cho tổ chức, và đóng góp vào sự đi lên của xã hội nói chung. Vì
thế, cần xem việc hiệu quả hóa công tác lãnh đạo trong doanh nghiệp vừa là
nhiệm vụ riêng của người làm lãnh đạo, cũng là nhiệm vụ chung đặt ra cho
toàn xã hội.
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
[1].Alan Greenspan, Kỷ nguyên hỗn loạn, những cuộc khám phá trong thế
giới mới, Nguyễn Hồng Quang dịch, NXB Trẻ, 2008
[2].Geogre Soros, Mô thức mới cho thị trường tài chính - Cuộc khủng hoảng
tín dụng năm 2008 và ý nghĩa của nó, NXB Tri Thức, 2008
[3].Peter F.Drucker, Quản lý trong thời đại bão táp, Nguyễn Minh Tú dịch,
NXB Chính trị Quốc Gia, 1993
[4.PGS. TS. Đoàn Thị Thu Hà & PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền. «Giáo
trình Khoa học quản lý». Khoa Khoa học quản lý, ĐH Kinh tế quốc dân.
NXB Khoa học và Kỹ thuật. 2004
[5].TS. Nguyễn Quốc Phồn, bài giảng khóa học “Kĩ năng lãnh đạo và quản lý
doanh nghiệp”
Tài liệu tiếng Anh:
[1].John C. Maxwell, The 21 Irrefutable Laws of Leadership, 17, New York
Times.
[2].Robert J. House (2004), Culture, Leadership and Organizations - The
GLOBE Study of 62 Societies, Sage Publications Inc., 35, Thousand Oasks.
[3].Stogill, R. M. (1974), Handbook of leadership: A survey of theory, and
research - The Free Press, 81, New York.
Website:
Ngôn ngữ tiếng Việt
ỳ_khủng_hoảng
ảng_kinh_te
Khoá luận tốt nghiệp
Hà Hải Vân - Lớp Anh 5 - QTKDB - K44
87
m-v-224-nh-t-nh-ng-kh-225-c-bi-t-l-n.aspx
luc-cua-chinh-phu-my.chn
nghiep/30163083/87
ID=38
Ngôn ngữ tiếng Anh
odskySept04.pdf
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4466_7548.pdf