I.Lời mở đầu
II.Các khái niệm:
III.Lịch sử hình thành thị trường tài chính.
IV.Vai trò của thị trường tài chính.
- Vai trò thứ nhất
- Vai trò thứ hai
- Vai trò thứ ba
- Vai trò thứ tư
- Vai trò TTTC đối với Việt Nam
V – Thực trạng thị trường Tài chính Việt Nam
1)Về thực trạng Phát triển thị trường tiền tệ
2)Về thực trạng Phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn:
3)Về quá trình Xây dựng và Phát triển thị trường chứng khoán:
VI – Đánh giá và đưa ra giải pháp:
1) Đánh giá:
2) Giải pháp:
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lịch sử hình thành thị trường tài chính và vai trò của nó đối với nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
---------&--------
CHUYÊN ĐỀ
MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Tên chuyên đề:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
GVHD: TS Hoàng Văn Liêm.
Thực hiện: Nhóm 8 (Lớp tài chính tiền tệ 1_N1)
I.Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Để thấy rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng thì việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính (TTTC) ra đời là do đâu và nó có vai trò to lớn như thế nào đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng là điều hết sức cần thiết. Đó chính là lý do chung tôi tập trung nghiên cứu chuyên đề:
“Lịch sử hình thành thị trường tài chính và vai trò của nó đối với nền kinh tế”.
TTTC là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường hay nói chính xác hơn, là nền kinh tế tiền tệ, ở đó, bên cạnh các thị trường khác, thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa “người cho vay đầu tiên” và “người sử dụng cuối cùng”, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu gặp nhau tạo thành thị trường. Giá cả hàng hoá xuất hiện nhằm giải quyết trạng thái cân bằng cung và cầu là yêu cầu cấp bách. Hàng hoá trong thị trường tài chính là các công cụ tài chính. Đối với mỗi chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn để đầu tư cho phát triển kinh doanh, phát triển sản xuất là yếu tố sống còn, vì vậy vốn có vị trí to lớn trong nền kinh tế.
Trong mối quan hệ tương quan với các thị trường khác, TTTC có vị trí là thị trường khởi điểm cho các loại thị trường, nó có tác dụng chi phối điều hành và xâm nhập vào các loại thị trường khác. Biết rõ mối quan hệ giữa thị trường tài chính và các thị trường khác, chính phủ có thể giải quyết nạn khan hiếm vốn và điều hành quản lý kinh tế thị trường thông qua thị trường tài chính.
TTTC nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động kinh doanh, sản xuất của nền kinh tế. Tạo ra tốc độ vòng luân chuyển vốn nhanh, góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Tạo điều kiện cho sự thành lập các tổ chức kinh tế mới.
TTTC tạo ra cơ hội đầu tư và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội. Các tổ chức kinh tế và người dân thông qua TTTC sử dụng hợp lý nguồn vốn để đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau để bảo đảm và tăng nguồn vốn.
TTTC giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả.
Có thể nói, TTTC là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua TTTC mà hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Lịch sử hình thành và vai trò của TTTC là hết sức quan trọng, nó sẽ giúp cho các nhà đầu tư hiểu rõ nguồn gốc ra đời của loại thị trường đặc biệt này, từ đó nắm bắt được tầm quan trọng, ảnh hưởng của nó đối với hoạt động SXKD để có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
II.Các khái niệm:
Để dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu TTTC,trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm TTTC và các khái niệm liên quan:
Khái niệm1: “TTTC là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về “vốn”, diễn ra dưới hình thức vay, mua bán về vốn, tiền tệ và các chứng từ có giá nhằm chuyển dịch vốn từ nơi cung đến nơi cầu về vốn, nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh tế.”
Khái niệm 2: “TTTC là một loại thị trường đặc biệt nên đối tượng mua bán trên thị trường tài chính là một loại hàng hóa đặc biệt: đó là quyền sử dụng vốn ngắn hạn và dài hạn. Người bán quyền sử dụng tài chính có dư thừa nguồn tài chính đem nhượng quyền sử dụng các nguồn tài chính dư thừa đó nhằm thu được khoản lợi tức nhất định. Người mua quyền sử dụng nguồn tài chính là những người đang thiếu nguồn tài chính muốn mua quyền sử dụng nguồn tài chính ở người khác.”
Khái niệm 3: “TTTC là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua các phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định”
Thực tế, một hệ thống thị trường tài chính hoàn chỉnh phải bao gồm:hệ thống thị trường tiền tệ hoạt động chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng (gồm NHTW và NHTM )các công ty tài chính thị trường vốn thị trường chứng khoán, trong đó thị trường chứng khoán giữ vai trò quan trọng.
Thị trường tiền tệ: là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hóa đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn hạn.
Thị trường vốn:là một bộ phận của thị trường tài chính. Diễn ra mua bán các công cụ tài chính dài hạn, gồm thị trường cho thuê tài chính, thị trường thế chấp ( thị trường tín dụng trung và dài hạn) và thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán:là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung.Xét theo sự luân chuyển của các chứng khoán ,sự luân chuyển các nguồn tài chính, thị trường chứng khoán bao gồm thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp: là thị trường phát hành các loại chứng khoán, là nơi diễn ra hoạt động mua, bán các loại chứng khoán mới được phát hành lần đầu. Thị trường này làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán của các chủ thể cần vốn trên thị trường.
Thị trường chứng khoán thứ cấp: là thị trường lưu thông và là nơi diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường chứng khoán sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán
Thị trường sơ cấp: là thị trường tài chính trong đó những phát hành mới của một chứng khoán được người huy động nguồn tài chính bán cho người đầu tiên mua nó.
Thị trường thứ cấp: là thị trường tài chính trong đó thực hiện giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp
Thị trường tài chính chính thức: là bộ phận thị trường tài chính mà tại đó các hoạt động huy động cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định
Thị trường tài chính không chính thức: là bộ phận thị trường tài chính mà ở đó các hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo sự thỏa thuận giữa người cung cấp nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính mà không theo nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định.
III.Lịch sử hình thành thị trường tài chính.
Cũng giống như các loại thị trường khác, thể chế thị trường phải được duy trì trong nền kinh tế tài chính. Tức là, các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn trên thị trường tạo ra cung và cầu về sản phẩm tài chính.
Trong cơ chế kinh tế bao cấp,việc kinh doanh do NN điều phối, các chủ thể hoàn toàn bị động trong ước muốn kinh doanh, dù biết hướng đó là mang lại lợi nhuận cao. Còn trong sự thông thoáng của nền kinh tế thị trường, các chủ thể chủ động tìm đường đầu tư có lợi cho mình để đạt được hiệu quả tối ưu, đồng thời, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện các chủ thể thừa vốn và cũng có cả những người cần vốn.
Các chủ thể cần nguồn tài chính:Các doanh nghiệp: để có thể hoạt động SXKD mỗi doanh nghiệp điều có một lượng vốn tự có nhất định, nhưng con số này là có hạn đối với nhu cầu tăng qui mô sản xuất, đầu tư dự án mới hay đầu tư cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ…của doanh nghiệp. Vì vậy, huy động nguồn tài chính là một nhu cầu thường xuyên của mỗi doanh nghiệp.
Nhà nước thông qua NSNN, cung cấp kinh phí để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình như:Phân bổ nguồn tài chính quốc giaKích thích phát triển sản xuất kinh doanh.Định hướng hình thành cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: cung cấp kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng, hình thành các ngành then chốt…
Trợ giá. Giải quyết các vấn đề xã hội: chi hoạt động bộ máy nhà nước, lực lượng công an,quốc phòng, giáo dục, y tế, hỗ trợ thất nghiệp, ủng hộ thiên tai…Tất cả đều chi từ nguồn NSNN có hạn. Do vậy, để đầu tư dự án phát triển kinh tế- xã hội hay để bù đắp bội chi Nhà nước cũng cần huy động thêm nguồn tài chính từ các chủ thể khác.
Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng thường xuyên cần huy động nguồn tài chính để cho vay, các nhà đầu tư cần vốn cho dự án mới, các hộ gia đình, cá nhân cần nguồn tài chính để trang trải nhu cầu chi đột xuất.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những chủ thể thừa vốn:
Doanh nghiệp: nguồn vốn đang thừa đó là những khoản thu nhập chưa có nhu cầu sử dụng (ngắn hạn hoặc dài hạn như doanh thu tiêu thụ chưa tới kì thanh toán, số tiền quỹ khấu hao cơ bản chưa dùng, lợi nhuận tái đầu tư chưa dùng...) những khoản này đều có thể cho vay.
Các hộ gia đình, cá nhân có tiền để dành, tiền được thừa kế, mặc dù số tiền mỗi cá nhân, hộ gia đình có được không phải lớn nhưng thành phần này lại chiếm tỉ trọng cao trong xã hội (khoảng 70%) nên nếu tập trung lại thì sẽ trở thành một nguồn tài chính vô cùng mạnh.
Còn có quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội, quỹ bảo hiểm mà chưa sử dụng cũng là nguồn cung ứng vốn.
Các chủ thể thừa vốn không muốn để phí nguồn tài chính nhàn rỗi của mình, họ tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn dùng nó để bổ sung vốn cho hoạt động SXKD và các nhu cầu đầu tư khác sao cho có hiệu quả và tiết kiệm.
Vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo ra sự gặp gỡ này. Sự gặp gỡ này chính là quá trình giao lưu vốn hay nói khác hơn là cần tạo ra một nơi để cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có chỗ đầu tư giao lưu với những nhà đầu tư đang cần vốn.
Ban đầu, việc vay và cho vay dựa trên sự quen biết, tín nhiệm (anh em, hàng xóm, bạn bè…) nên phạm vi và số lượng rất hạn chế.
Khi các chủ thể gặp nhau thông qua vai trò của người trung gian là Ngân hàng thì có sự dễ dàng hơn, việc luân chuyển vốn được nhanh chóng và đáng tin cậy hơn.
Nhưng phạm vi lựa chọn các phương án cho vay của Ngân hàng không được rộng lớn,lãi suất không phải lúc nào cũng hấp dẫn người gửi tiền vào để có tiềm lực mạnh, việc gửi và rút tiền gặp nhiều phiền hà, việc cho vay không phải lúc nào cũng dễ dàng với bất kì ai…
Có thể khẳng định rằng: một nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy động vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng thêm nguồn tiết kiệm. Bắt nguồn từ mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm, một yêu cầu đặt ra là cần có nhiều hình thức huy động vốn mới, nhanh chóng, linh hoạt hơn, góp phần giải quyết cân đối giữa cung và cầu về nguồn tài chính trong xã hội.
Các công cụ huy động vốn xuất hiện dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu đó:
Các giấy tờ ghi nợ: Nhà nước phát hành trái phiếu công trình, công trái..., doanh nghiệp phát hành thương phiếu, trái phiếu…
Các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
=> giấy tờ ghi nợ, cổ phiếu gọi chung là chứng khoán (CK)
Khi CK xuất hiện thì cũng xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau: người này có nhu cầu rút vốn đầu tư hoặc di chuyển vốn cần bán thì có người khác muốn mua CK đó. Chính điều này làm xuất hiện một loại thị trường đặc biệt để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là “thị trường tài chính”.
Như vậy, thị trường tài chính (TTTC) ra đời là để giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính đặc biệt là các loại CK.
IV.Vai trò của thị trường tài chính.
Vai trò đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của thị trường tài chính là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lời đến những người có cơ hội đầu tư sinh lời.
Để thực hiện được vai trò này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ nơi thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã hội, Chính phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu vốn, như: các đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình… bằng hình thức tài trợ trực tiếp hoặc tài trợ gián tiếp:
Tài trợ trực tiếp:
Người cần vốn phát hành các loại CK lần đầu ( CK khởi thủy) để huy động nguồn vốn nhàn rỗi của người có vốn nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình. Ở đây, quan hệ giữa người có vốn và người cần vốn không phải qua bất kì trung gian nào, nguồn tài chính vận động thẳng từ người thừa vốn đến người thiếu vốn trong khi CK vận động theo chiều ngược lại. Do đó mà vốn được lưu chuyển nhanh chóng hơn nhiều so với thông qua các tổ chức tài chính trung gian, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các chủ thể.
Tài trợ gián tiếp:
Các trung gian tài chính phát hành CK thứ cấp để huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của những người có vốn, sau đó mới dùng số tiền này mua lại CK khởi thủy của những người thiếu vốn. Ở đây, nguồn tài chính không vận động thẳng từ người thừa vốn sang người thiếu vốn mà phải qua các trung gian nhất định.
Vai trò thứ hai:Thị trường tài chính thúc đẩy nâng cao việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư.
Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân mình, bên cạnh đó người cho vay cũng phải cân nhắc, lựa chọn dự án hoạt động hiệu quả cao, an toàn, ít rủi ro với khả năng sinh lãi cao nhất trước khi đầu tư vào đó. Chính cái sân chơi với đích đén là đầu tư và tiết kiệm để sinh lời và tích lũy mà TTTC tạo ra, đã kích thích các nhà đầu tư tích cực tính toán trong kinh doanh vì mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Với sự linh hoạt của thị trường tài chính, người có tiền nhàn rỗi có nhiều cơ hội để lựa chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp hơn, như: dễ dàng bán các CK đã mua để rút vốn và thực hiện đầu tư vào các CK khác, tức là, có thể lưu chuyển vốn từ nơi kinh doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh có hiệu quả, tạo ra sự luân chuyển vốn một cách linh hoạt trong nền kinh tế.
Vai trò thứ ba
Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới đều tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính. Việc hình thành và phát triển thị trường tài chính của mỗi quốc gia sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình hội nhập của mỗi quốc gia, mở ra khả năng to lớn cho sự hợp tác và phát triển. TTTC sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mua, bán CK mà không cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp. Như vậy TTTC bổ sung thêm hình thức đầu tư của nước ngoài vào trong nước, tận dụng được nguồn vốn của nước ngoài, cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước.
Vai trò thứ tư.
TTTC đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ của Nhà nước trong việc điều hoà các hoạt động kinh tế- xã hội.
Bằng việc sử dụng các công cụ của TTTC cùng với cơ chế hoạt động của thị trường, Nhà nước có thể thực thi có hiệu quả các chính sách tài chính và tiền tệ như:
Thông qua thực hiện chính sách thị trường mở bằng việc mua, bán chứng khoán của Chính phủ, thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu của các NHTM, Nhà nước có thể thực hiện việc điều hành lưu thông tiền tệ.
TTTC là nơi Nhà Nước tiến hành vay nợ dân chúng một cách dễ dàng nhất. Điều này sẽ giúp Nhà nước giải quyết bội chi NSNN, mà không phải phát hành tiền, từ đó ngăn chặn lạm phát, kiềm chế lạm phát giúp thực hiện cả chính sách tài chính và tiền tệ.
#Vai trò TTTC đối với Việt Nam
Với tốc độ hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng cao hiện nay, một đất nước muốn tồn tại và phát triển không còn sự lựa chọn nào khác là hội nhập, nếu không sẽ lạc hậu rồi suy tàn. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tác động của nền kinh tế thị trường, cho nên, từ khi bắt đầu đổi mới đất nước đến nay (ĐH VI năm 1986), chúng ta đã tích cực thực hiện chính sách mở cửa, tham gia các tổ chức thương mại, Ngân hàng trong khu vực và thế giới: WTO, ASEAN, WB, IMF, ADB…
Dưới ảnh hưởng của TTTC trong nền kinh tế thị trường, nhịp độ kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mạnh mẽ, đặc biệt là trong đầu tư và tài chính. Tất cả nhờ vao vai trò to lớn của TTTC.
Hiện nay, Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng 5 năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta.
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng.
Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể: vốn huy động của hệ thống Ngân hàng
Năm 2000 tăng 26,5% so với năm trước
năm 2001 tăng 25,53%
Năm 2002 tăng 17,7%
Năm 2003 tăng 24,94%
Năm 2004 tăng 30,39%
Năm 2005 tăng 18%
Và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh.
Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB, ADB,... về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo.
Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước, phát hành công trái và vốn của Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện, vốn của Bảo hiểm xã hội chuyển cho Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển). Thêm vào đó còn có nguồn vốn ODA do Ngân hàng Phát triển cho vay lại.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước, 8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh...
Cuối năm 2005, Chính phủ cũng lần đầu tiên phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế, thời hạn trái phiếu là 10 năm. Giá bán cuối cùng của trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài bằng 98,223% mệnh giá, với lãi suất là 6,875%/năm, tính ra theo lãi suất của nó, lãi suất của 100% mệnh giá trái phiếu là 7,125%/năm. So với một số nước có mức độ tín nhiệm tương đương Việt Nam thì lãi suất trái phiếu của Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn của Phi-lip-pin là 8,075%/năm, của In-đô-nê-xi-a là 7,75%/năm. Toàn bộ số vốn phát hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu.
Đến ngày 31-12-2005, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tham gia với tư cách "vốn mồi" để thực hiện trên 6.600 dự án thuộc đối tượng hỗ trợ theo quy định của Chính phủ với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký khoảng 160.000 tỉ đồng, đã giải ngân gần 110.000 tỉ đồng, dư nợ 79.578 tỉ đồng. Cùng với hình thức hỗ trợ trực tiếp, hình thức bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng được đẩy mạnh. Đến nay đã có 1.846 dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng là 1.550 tỉ đồng và 5 dự án được bảo lãnh tín dụng đầu tư với tổng số vốn gần 30 tỉ đồng; với hai hình thức hỗ trợ gián tiếp này đã tạo vốn để huy động hàng chục ngàn tỉ đồng từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động gần 7.000 tỉ đồng trái phiếu địa phương; riêng Hà Nội cũng huy động được hàng trăm tỉ đồng qua phát hành trái phiếu xây dựng cầu Thanh Trì. Đây là một giải pháp rất quan trọng để huy động vốn cho đầu tư phát triển, giảm sức ép về cung ứng vốn từ hệ thống ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính phủ, một số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động vốn trong xã hội, như: trái phiếu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, trái phiếu của Tổng công ty Dầu khí... Tính đến nay, số vốn trái phiếu doanh nghiệp phát hành cũng lên tới vài nghìn tỉ đồng.
Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn, như: Vinamilk, Công ty Cao su miền Nam, một số nhà máy điện... đã thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân.
Đối với vai trò nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thì, các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài.
Đối với nguồn lực tài chính trong nước, sự phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính làm cho những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi mà không còn là tình trạng đưa vào cất trữ ở nhà như cách mà người ta gọi là “tiết kiệm ngây thơ” của trước đây. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để.
Đối với nguồn lực tài chính bên ngoài, các chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn góp phần thu hút nguồn lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài.
Khi TTTC phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, TTTC có vai trò kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Như đã trình bày ở trên, với tốc độ tự do hóa toàn cầu hiện nay, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam hiện nay đang tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:
- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đoái, có tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.
- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá dao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:
- Tự do hóa giao dịch vãng lai
- Tự do hóa giao dịch vốn
- Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ
Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia.
Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau.
Ta đã biết, sự ra đời của TTTC là để giải quyết mâu thuẫn giữa cung cầu về nguồn tài chính, và chính sự linh hoạt mà thị trường này tạo ra trong sự luân chuyển vốn đẩy đã nhanh quá trình tự do hoá và hội nhập, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
V – Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam
Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước (BIDV, VietComBank, Vietinbank, Agribank, VDB), Ngân hàng chính sách xã hội, 37 Ngân hàng thương mại cổ phần, 5 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư...
Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó.
Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn:
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau:
- Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực...
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn.
Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán:
Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có 105 công ty chứng khoán, 286 công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và 228 tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE). (Nguồn
Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
VI – Đánh giá và đưa ra giải pháp:
1) Đánh giá:
Về thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và NHNN, chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHNN ít có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khoán: Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
2) Giải pháp:
- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, đưa các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- NHNN và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm; có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu.
- NHNN có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này
- NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lịch sử hình thành thị trường tài chính và vai trò của nó đối với nền kinh tế.doc