Đề tài Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông (1)

Dù luôn đấu tranh gay gắt với nhau vềthếgiới quan và nhân sinh quan trong tư tưởng triết học của Đêmôcrít và Platông nói riêng và các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại nói chung nhưng trên cơsở đấu tranh lẫn nhau đó đã tạo nên những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cảbềmặt và bềtrái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối những bến bờtriết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời kỳtiền Socrate, thời kỳSocrate là thời kỳcực thịnh, thời kỳhậu Socrate. Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales, Anaximandre, Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle, Democrite, Socrate, Platông, Aristote Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thểthấy cảbềmặt và bềtrái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡtrên vũ đài triết học nhân loại và trởnên bất hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trịHy Lạp cổ đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là Socrate, triết gia đã sống và chết không phải cho riêng mình.

pdf30 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2683 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông (1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giao và phát triển kinh tế. Thế kỷ VIII – VI TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm thặng dư dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa nghành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII TCN là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”. 1.3 Về chính trị - xã hội [2] Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị - xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Aten là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Aten nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện [2]: Triết học cổ Hy lạp La mã, nxb. Mũi Cà Mau, 1997, Ha Thúc Minh. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 5 địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Aten. Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Aten. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II TCN, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa. Engels đã nhận xét “không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được” [3]. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”. Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại. [3]: Triết Học , NXB CTQG H Nội, 1999, tr.178. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 6 Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại[4]. Về nghệ thuật, đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá trị. Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Aten. Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc. 1.4 Vai trò của tinh thần Sự ngạc nhiên truớc thế giới rộng lớn và đầy bí hiểm đã thúc đẩy con người tìm hiểu thế giới ấy. Ở buổi đầu lịch sử, hạn chế của năng lực của năng lực nhận thức được bù đắp bằng trí tưởng tượng về các hiện tượng tự nhiên, thần thánh hoá chúng. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên đầy tính hoang tưởng của con người với tự nhiên. Người nguyên thuỷ bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng; những quan niệm của họ về sự vật hãy còn mơ hồ, rời rạc, phi logíc. Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu tự nhiên ở thần thoại còn chưa bị phân đôi. Tuy nhiên thần thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định ghi dấu các mức độ trưởng thành của ý thức. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày con sâu sắc hơn của con người. [4]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr.64 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 7 Lúc này con người trở thành hình mẫu để họ miêu tả các vị Thần. Các vị Thần không còn là những nhân vật hoàn hảo như trước nữa mà cũng có đầy đủ các mối quan hệ, tình cảm, sinh hoạt và cả những thói hư tật xấu của con người. Vào khoảng cuối thế kỉ VII -đầu thế kỷ VI TCN, thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai và xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo nên những khởi sắc trong các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là sự hình thành các nhóm người lao động trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hoá khoa học vào trong những cách ngôn, những tản văn có giá trị nhận thức cao. Như Thalès , người mà Aristôte gọi là nhà triết học đầu tiên của Hi Lạp cổ đại. Với Thalès, triết học đã ra đời thay thế thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào trong một hệ thống mang tính khái quát cao. Và đã thực sự giải quyết mâu thuẫn giữa bức tranh thần thoại về thế giới., được xây dựng trên tưởng tượng với nhận thức và tư duy mới, như sự phổ biến tư duy từ diện hẹp ra diện rộng. Triết học ra đời không có nghĩa là thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong tôn giáo, nghệ thuật và có những ảnh hưởng nhất định đối với triết học. 1.5 Sự ảnh hưởng của nền văn minh phương Đông Vào thế kỷ VIII trước CN việc trao đổi, buôn bán thường xuyên với các nước phương Đông, nhất là với Ai Cập, Babylon, làm cho Hi Lạp có dịp tiếp xúc, học hỏi và hoà hợp với các nền văn hoá khác lâu đời hơn Hy Lạp rất nhiều. Điều này thể hiện rất rõ ở Chữ viết theo sự xác định của các nhà khảo cổ học đã chứng minh. Thời đại Homère, ở Hi Lạp chưa xuất hiện chữ viết nhưng ngược lại ở Ai Cập, Mésopotamie, Ấn Độ, Trung Hoa đều đã phát triển thịnh vượng, tạo nên những thành quả văn hoá cực kì đặc sắc từ rất sớm. Không chỉ thế, đến thời kỳ lãnh thổ của đế quốc La Mã do sự bành trướng của Alexandre Đại đế đã mở rộng khắp châu Âu, châu Á và châu Phi, người Hi Lạp đã tiếp thu được nhiều thành tựu văn hoá của phương Đông để xây dựng và phát triển Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 8 nền văn hoá của mình. Phương Đông, cụ thể Cận đông và Ai Cập tác động đến tư duy của người Hi lạp bởi những tuyệt tác nghệ thuật, những thành tựu khoa học ( toán học, thiên văn học ) và một số yếu tố huyền học. Nhưng triết học Hi Lạp không phải là kết quả của sự kế thừa những thành tựu phương Đông mà ngược lại triết học Hi Lạp là kết quả của sự phát triển logíc nội tại của tinh thần Hi Lạp, được thể hiện phần nào trong truyền thống thần thoại và tín ngưỡng mang phong cách riêng, độc đáo, không lặp lại … Triết học Hi lạp đã có sự giao lưu tích cực với những tinh hoa văn hoá phương Đông nhưng nó vẫn tạo ra đặc trưng rất riêng tiêu biểu cho phong cách tư duy phương Tây. 2. Những đặc điểm cơ bản [5] Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp cổ đại và là một trong những điểm xuất phát điểm của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc điểm sau: Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị, đồng thời cũng phản ánh sâu sắc mâu thuẩn xã hội đương thời. Nó là công cụ lý luận để duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình. Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái. Nó phản ảnh cuộc đấu tranh giữa khoa học và tín điều phi khoa học ( thể hiện ở cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm ). Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. [5]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr.65-66 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 9 Do trình độ tư duy lý luận còn thấp nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên , họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luân triết học. Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa trình bày chúng một cách chặt chẽ. Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về con người, cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội của họ. Dù còn nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. 3. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại Do những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế và xã hội của Hy Lạp cổ đại mà triết học Hy Lạp cổ đại cũng thể hiện những mối quan hệ và phục vụ cho những lợi ích chính trị nhất định của giai cấp chủ nô. [Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại rất đa dạng song nhìn chung chúng thể hiện rõ khuynh hướng nhất nguyên ( chủ nghĩa duy vật và duy tâm ) hay khuynh hướng nhị nguyên một cách rõ ràng và khá nhất quán] [6]. Trong đó chủ nghĩa duy vật đại diện cho tầng lớp chủ nô tiến bộ, đổi mới và chủ nghĩa duy tâm đại diện cho tầng lớp chủ nô bảo thủ tuy luôn có sự mâu thuẫn và đối nghịch nhau trong tư tưởng nhưng không ngừng thúc đẩy cho sự phát triển, tiến bộ của khoa học và xã hội. [6]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr.66 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 10 3.1-Chủ nghĩa duy vật Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê- trường phái Hêraclít, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận. 3.1.1-Trường phái Milê Trường phái triết học Milê là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ huyết mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết học của triết gia nổi tiếng. Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thalès, Anaxi-mène và Anaximandre. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một khởi nguyên vật chất duy nhất. 3.1.2-Trường phái Hêraclít : (540 – 575 TCN) Do nhà ẩn dật Hêraclít sáng lập. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phác từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã” , “ đang ” và “ sẽ ” mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 11 tự ” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “ vừa tồn tại vừa không tồn tại ”, “ không ai tắm hai lần trong một dòng sông ”. Thế giới vật chất “ vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột ”. Như vậy, Hêraclít là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. “ Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm ” [7]. 3.1.3-Trường phái đa nguyên Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagore ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milê - trường phái Hêraclít xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empedocles thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí. Anaxagore cho rằng cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật là “những hạt giống”. Anaxagore xem “ mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái ”. Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính. 3.1.4-Trường phái nguyên tử luận Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III TCN. [7]: Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXBTH TP. HCM, 2006, Nguyễn Tiến Dũng, tr. 26 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 12 Leucippe là người sáng lập và Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển. Leucippe (500 – 440 TCN), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Đêmôcrít (460 – 370 TCN) là học trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng. 3.2-Chủ nghĩa duy tâm[8] Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platông, tức thế giới ý niệm. 3.2.1-Trường phái Pythagore Pytagore (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh ra và lớn lên ở vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương ứng với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pythagore cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vôn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẳn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và công, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toan học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. [8]: Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXBTH TP. HCM, 2006, Nguyễn Tiến Dũng Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 13 Chính trường phái Pythagore đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp. 3.2.2-Trường phái Êlê Trường phái Êlê (V – IV TCN) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó Pácmênít phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Zeno nhiệt thành bảo vệ và phát huy. Xénophane (570 – 478 TCN) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Pácmênít (500 – 449 TCN) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Êlê. Ông cho rằng, “ tồn tại ” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “ tồn tại ”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Zeno (490 – 430 TCN), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Êlê. Ông đưa ra những Aporic nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh rằng, “ tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến ”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực. 3.2.3-Trường phái duy tâm khách quan Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi Socrate và Platông. Socrate (469 – 399 TCN), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. “Con người Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 14 hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Platông (427 – 347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten. Ông trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội. 3.3-Chủ nghĩa nhị nguyên Triết học Aristote : Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất sắc của Platông. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platông. Vì ý niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platông, ông cho rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platông còn thể hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển. 4. Vài ưu điểm và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại 4.1 Ưu điểm -Triết học cổ hy lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 15 của người dân Hy Lạp. Tách ly vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người. -Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm đi đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu. -Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập. -Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này. -Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành. -Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? 4.2 Hạn chế -Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu. -Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa. -Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần linh. II. Cuộc đấu tranh tư tưởng giữa trường phái triết học Đêmôcrít và Platông Qua việc tìm hiểu điều kiện lịch sử ra đời và phát triển cũng như là những đặc điểm cơ bản triết học Hy Lạp cổ đại phần nào giúp ta có cái nhìn cơ bản về bản chất của triết học Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh về tư tưởng giữa hai nhà triết học Đêmôcrít và Platông.Vì vậy, việc đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng triết học Đêmôcrít và Platông sẽ làm sáng tỏ hơn về đặc điểm, tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử của triết học Hy Lạp cổ đại đối với nền văn minh hiện đại. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 16 1. Đôi nét về Đêmôcrít và Platông 1.1 Đêmôcrít (460-370 TCN) Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp. Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. 1.2 Platông (427 - 347 TCN) Platông xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten. Tên thật của ông là Aristôclơ. Theo Arixtốt, lúc đầu Platông là học trò của Cratin (người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát ( nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa ). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platông rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên hệ với phái Pitago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Arixtốt. Ngót 40 năm giảng dạy và trước tác, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học. Tác phẩm "Nước cộng hoà" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông. Platông là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 17 Tư tưởng triết học của Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pytago và Xôcrát. Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại. 2. Những thành tựu và quan điểm triết học Đêmôcrít và Platông 2.1 Những thành tựu và quan điểm triết học Đêmôcrít 2.1.1 Thuyết nguyên tử Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đêmôcrít học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và mầu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt. Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng. Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 18 một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó mà các tầng lớp nguyên tử cùng kiểu dáng, kích thước và trọng lượng như đất, nước, không khí, lửa … được tạo thành và từ đây hành tinh, trái đất kể cả sự sống, con người được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra. [Theo Đêmôcrít, sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình thành từ đất bùn, chúng sống dưới nước sau đó lên sống trên cạn và tiến hóa dần đưa đến sự xuất hiện của con người] [9]. Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả mang tính tất nhiên tuyệt đối. Trong thế giới, mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều theo lẽ tất nhiên; vì vậy bản chất thế giới là tất nhiên. Sự thiếu hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức của con người mới sinh ra cái ngẫu nhiên; ngẫu nhiên mang tính chủ quan. Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đêmôcrít chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là phủ nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương. 2.1.2 Lý luận về nhận thức Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là Arixtốt, kể cả Platông đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học.Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. [9]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr72 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 19 Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn. Mặt tích cực trong quan điểm trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng ông đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các thuộc tính khách quan của sự vật như âm thanh, mùi vị, mầu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau của sự vật v.v. Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm "Bàn về lôgíc học" (Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platông). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Arixtốt đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 20 2.1.3 Quan niệm về con người Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác. Chỉ có sinh vật mới có linh hồn Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác ( dạng lửa ). Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp. Đêmôcrit đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người. 2.1.4 Quan điểm đạo đức, chính trị - xã hội [Đêmôcrít cho rằng đạo đức học giúp làm rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi, thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa, không gây hại cho mình và cho người khác là sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmôcrít coi hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu đều phải dựa trên nghề nghiệp, nhưng ông luôn phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối sự trục lợi bất lương vì chúng là cội nguồn dẫn tới sự bất hạnh cho con người. Ông luôn đề cao những hành động vì nghĩa cao thượng của con người bởi vì chính những hành vi đầy nghĩa khí mới làm cho con người trở thành vĩ đại] [10]. [10]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr73-74 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 21 Đêmôcrít đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ. Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức. Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. 2.2 Những thành tựu và quan điểm triết học Platông 2.2.1 Học thuyết về ý niệm Như đã nói ở trên, Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính. Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại trên trời mang tính phổ biến, chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, duy nhất nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các sự vật cảm tính tồn tại dưới đất mang tính không chân thực, ảo giả, cá biệt, thoáng qua, đa tạp và phụ thuộc vào thế giới của các ý Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 22 niệm, nó là cái bóng của ý niệm. Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý niệm như thế nào, Platông đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi. [Sự sinh thành thế giới sự vật và con người được Platông lý giải từ thế giới ý niệm. Theo ông, sự sinh thành thế giới sự vật xảy ra gắng liền với bốn yếu tố cơ bản là: tồn tại ( ý niệm ), không tồn tại (vật chất ), con số ( quan hệ tỷ lệ ), sự vật cảm tính. Chính sự tồn tại của ý niệm thông qua quan hệ tỷ lệ của các con số tác động vào sự không tồn tại của vật chất sinh ra sự vật cảm tính. Tuy nhiên đây là một công việc sáng tạo đầy tính thần bí. Thần tạo hóa đã tạo ra thế giới sự vật hữu hình cảm tính bằng cách mô phỏng theo thế giới ý niệm. Thần linh là linh hồn vũ trụ; thần linh xuất hiện dưới dạng các tinh tú và chỉ được nhận thức bằng chính linh hồn vũ trụ trong con người ( lý trí ). Thần linh mang lại sự sống cho tất cả chim, cá, thú, con người và cả bản thân thần linh] [11]. 2.2.2 Lý luận về nhận thức Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, Platông cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí. Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. [11]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr 81 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 23 Nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất. Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã bị lãng quên. Tóm lại, Platông đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí. 2.2.3 Quan niệm về con người Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platông cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm. Từ thế giới quan trên đây, Platông đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn. Theo ông, con người là sự kết hợp của thể xác khả tử và linh hồn bất tử; thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. [Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên. Linh hồn của con người bao gồm ba bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí; trú ngụ tạm thời ở ba chổ trong cơ thể: từ rốn trở xuống, trong lòng ngực, trong đầu óc; hoạt động theo ba khía cạnh: dục vọng, tình cảm, nhận thức; thể hiện ở ba phẩm hạnh: điều độ, can đảm và khôn ngoan. Trong ba bộ phận của linh hồn chỉ có lý trí là bất tử. Linh hồn Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 24 bất tử hay lý trí của con người có chín bậc nằm thường trực trong khối óc của chín hạng người trong xã hội là: triết gia; vua chúa, tướng lĩnh; quan chức nhà nước; nhà thể thao, thầy thuốc; nhà tiên tri, nhà truyền đạo; nghệ sĩ; thợ thủ công, nông dân; thầy giáo, nhà hùng biện; và bạo chúa] [12]. 2.2.4 Học thuyết về chính trị - xã hội Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platông chia linh hồn làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình. Để duy trì trật tự xã hội, Platông cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ. Platông nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài hoà giữa các nghề trong xã hội. [12]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr 81 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 25 Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này. [Như vậy, nếu quan niệm về đạo đức duy lý của Platông bị bám đầy tính chất duy tâm thần bí là cơ sở cho nền đạo đức Thiên chúa giáo sau này thì quan niệm về chính trị, xã hội của Platông cũng bám đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn] [13]. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Aicập vào Aten mà thôi. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng Platông là nhà triết học đầu tiên trình bày các quan niệm triết học một cách có hệ thống và nhất quán. Platông đã nâng chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao đủ sức đương đầu lại các trào lưu duy vật mà trước hết là đường lối duy vật của Đêmôcrít. 3. So sánh sự đối lập trong quan điểm triết học Đêmôcrít và Platông -Về bản thể luận: + Đêmôcrít đứng trên lập trường duy vật vô thần, ông cho rằng khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, là dạng vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa, nó là cơ sở của thế giới, của sự vật hiện tượng. Nguyên tử này không màu, không mùi, không vị, không nóng, không lạnh, nó không khác nhau về chất, nó chỉ khác [13]: Giáo trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp TPHCM, TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa,Tr 83 Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 26 nhau về hình dáng, về cấu tạo, về tư thế sắp xếp và các nguyên tử này luôn luôn vận động trong chân không. Các sự vật hiện tượng khác nhau là do sự liên kết giữa các nguyên tử có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau, cấu tạo khác nhau. Các nguyên tử vận động không ngừng và chính sự đa dạng của các nguyên tử tạo nên sự đa dạng của thế giới sự vật và sự hình thành của vũ trụ + Đối lập với Đêmôcrít, Platông đứng trên lập trường duy tâm, ông khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, thế giới ý niệm tồn tại một cách chân thật, vĩnh cửu và bất biến. Ông chia thế giới thành hai bộ phận là thế giới ý niệm và thế giới vật cảm tính. Thế giới ý niệm là thế giới có trước và sinh ra thế giới vật cảm tính. Thế giới vật cảm tính là thế giới không chân thật, không đúng đắn và luôn luôn thay đổi, là thế giới có sau và là cái bóng của thế giới ý niệm. - Về con người: + Đêmôcrít bác bỏ quan niệm thần thánh sinh ra con người. Ông cho rằng con người xuất hiện trên trái đất là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên và linh hồn được cấu tạo từ nguyên tử. + Platông thì cho rằng con người gồm thể xác và linh hồn tồn tại độc lập với nhau. Trong đó thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa và không khí còn linh hồn do Thượng đế tạo ra và nó là bất tử, tồn tại vĩnh hằng. - Về nhận thức luận: + Đêmôcrít chia nhận thức thành hai dạng: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là dạng nhận thức mờ tối, do giác quan đem lại. Nhận thức lý tính là dạng nhận thức thông qua những phán đoán logic, là dạng trí tuệ. Ông Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 27 đã thấy được mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính và ông chỉ ra phải bằng nhận thức lý tính thì con người mới phát hiện được nguyên tử tức là nguồn gốc của thế giới + Do Platông cho rằng nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính nên ông cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước vật chất. Ông cho rằng nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thức khái niệm mới đạt đến tri thức chân thực. - Về chính trị: + Đêmôcrít đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý, chống lại đường lối Platông. + Trong khi đó Platông đưa ra học thuyết về một nhà nước lý tưởng, đó là nhà nước cộng hòa bao gồm 3 đẳng cấp: nhà triết học làm vua, vệ binh bảo vệ đất nước và người lao động sản xuất. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 28 Phần 3 KẾT LUẬN Dù luôn đấu tranh gay gắt với nhau về thế giới quan và nhân sinh quan trong tư tưởng triết học của Đêmôcrít và Platông nói riêng và các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại nói chung nhưng trên cơ sở đấu tranh lẫn nhau đó đã tạo nên những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời kỳ tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate. Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales, Anaximandre, Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle, Democrite, Socrate, Platông, Aristote…Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là Socrate, triết gia đã sống và chết không phải cho riêng mình. Ăngghen đã đánh giá cao triết học Hy Lạp cổ đại và ông đã nhận định rằng, trong những hình thái muôn vẻ của triết học Hy Lạp đã có mầm mống của tất cả các loại thế giới quan sau này. Nếu không có Hy Lạp và đế chế La Mã thì không có châu âu hiện đại. Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Triết học Hy Lạp cổ đại có những thành tựu to lớn, song do hoàn cảnh lịch sử quy định, nó cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Triết học Hy Lạp cổ đại đã Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 29 đặt ra những vấn đề về triết học như bản thể luận, nhân sinh quan, chính trị -xã hội, những mầm mống của thế giới quan sau này, mở ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, góp phần thúc đẩy sự phát triển của triết học. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là Socrate, triết gia đã sống và chết không phải cho riêng mình. Vì đề tài này khá mới mẽ và hạn chế về mặt tài liệu nên bài viết này không thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông GVHD: thầy Bùi Văn Mưa Tiểu luận triết học SVTH: Nguyễn Văn Học trang 30 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình đại cương lịch sử triết học, NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh. 2. Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính Trị Quốc Gia. 3. Bài giảng lịch sử triết học của thầy Bùi Văn Mưa. 4. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb, Tổng Hợp TP.HCM, 2006. 5. Bộ GD – ĐT, Triết Học, nxb, CTQG, 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdetai6_nguyenvanhoc_d1k19_522.pdf
Luận văn liên quan