Triết học Hy Lạp cổ đại, tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn
toàn tách khỏi yếu tốthần linh. Theo Platông, thểxác con người được cấu thành từ
lửa, nước, không khí và đất cho nên không bất diệt. Còn linh hồn thí bất diệt, bởi
linh hồn là sản phẩm linh hồn vũtrụ được tạo ra từlâu bởi thượng đế. Nếu Platông
phủnhận khảnăng của con người đối với thếgiới khi ông nói: nhận thức chỉlà phản
ánh cái bóng mờmà thôi, thì Hêracrít quan niệm: linh hồn của con người cũng được
hình thanh từlửa. Bên cạnh lửa là ẩm ướt. Linh hồn là sựthống nhất giữa lửa và sự
ấm ướt. Lửa nhiều hơn ấm ướt thì người đó thiện hơn ác và ngược lại .
Đêmôcrít cũng rất đềcao con người khi ông cho rằng, con người khác với con vật ở
chỗ: nguyên tửcấu tạo nên con người sạch sẽhơn nguyên tửcấu tạo nên con vật .
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2952 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông (3), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..................6
1.2.2.2. Trường phái Êlê ............................................................................7
1.2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan .................................................8
1.2.3. Chủ nghĩa nhị nguyên............................................................................9
Phần II: QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH XUNG ĐỘT GIỮA ĐƯỜNG LỐI DUY
VẬT ĐÊMÔCRÍT VÀ ĐƯỜNG LỐI DUY TÂM PLATÔNG
2.2. Tiểu sử và các quan điểm của Đêmôcrít và Platông ......................................10
2.2.1. Đêmôcrít (460-370 TCN) .....................................................................10
2.2.1.1. Thuyết nguyên tử ..........................................................................10
2.2.1.2 .Lý luận về nhận thức.....................................................................11
2.2.1.3. Quan điểm về con người ...............................................................12
2.2.1.4. Quan điểm về đạo đức xã hội........................................................13
2.2.2. Platông (427-437 TCN) .........................................................................14
2.2.2.1. Thuyết ý niệm ...............................................................................14
2.2.2.2. Quan điểm về nhận thức ...............................................................15
2.2.2.3. Quan điểm về chính trị xã hội.......................................................16
2.3. So sánh các tư tưởng đối lập của Đêmôcrít và Platông .................................17
2.4. Nhận xét .........................................................................................................19
Phần III: MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI
3.1. Những thành tựu của triết học Hy Lạp cổ đại ................................................22
3.2. Những hạn chế ...............................................................................................23
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 1
Phần I: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1 Hoàn cảnh ra đời và các đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm miền
Nam bán đảo Bancăng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển
Êgiê. Vùng bờ biển ở phía đông bán đảo Bancăng khúc khủy tạo nên nhiều vịnh, hải
cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Trong khi đó, biển Êgiê giống như một
cái hồ lớn, êm ả, sóng yên, gió nhẹ tạo thuận lợi cho nghề đi biển buôn bán giữa Hy
Lạp với các nước Tiểu Á và Bắc Phi. Còn vùng ven biển Tiểu Á là một vùng giàu có
và là chiếc cầu nối liền Hy Lạp với các nước phương Đông cổ đại. Với điều kiện tự
nhiên thuận lợi nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có
nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hoá tinh thần phong phú đa dạng.
Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4 thời kỳ
¾ Thời kỳ Cờrét-Myxen (đầu thiên niên kỷ thứ III - thế kỷ XII TCN)
¾ Thời kỳ Hôme (thế kỷ XI _ IX TCN): Đây là thời kỳ Hy Lạp cổ đại bước vào
xã hội chiếm hữu nô lệ với sự xuất hiện nhanh chóng khẳng định chế độ sở hữu tư
nhân kéo theo sự phân hoá giàu nghèo, sự ra đời và xung đột giai cấp diễn ra mạnh
mẽ
¾ Thời kỳ thành bang (thế kỷ VIII – VI TCN): Đây là thời kỳ quan trọng nhất
trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Xã hội bị phân hoá thành hai giai cấp xung đột nhau là
chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hoá thành lao động chân tay và lao động trí óc.
Đất nước bị phân chia thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước lấy một thành phố trung tâm,
trong đó Xpát (Sparte) và Aten là hai thành bang hùng mạnh nhất, làm nồng cốt cho
lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Aten nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy
Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 2
của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển
kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Aten. Thành Sparte nằm ở
vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý
tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết
chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do sự tranh
giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc
liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Aten. Cuộc
chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự
của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng
lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có
ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã
hội, chính trị.
¾ Thời kỳ Maxêđôin: Năm 337 TCN, nhờ giành chiến thắng quyết định mà vua
Philíp II của xứ Maxêđôin triệu tập hội nghị toàn Hy Lạp thông qua quyết định giao
cho Maxêđôin quyền chỉ huy quân đội toàn Hy Lạp để tấn công Ba Tư. Năm 336
TCN, Philíp II mất, con là Alexandre lên ngôi, đã chinh phục cả một vùng Ba Tư
rộng lớn, Tây Ấn Độ, Bắc Phi và lập nên đế quốc Maxêđôin đóng đô ở Babylon.
Năm 323 TCN, Maxêđôin chết đột ngột, các tứơng lĩnh đánh nhau để chia giành
quyền lực. Sang thế kỷ III TCN đế quốc này chia thành 3 nước lớn ( Maxêđôin-Hy
Lạp, Ai Cập và Xini). Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại kéo dài cho đến thế
kỷ thứ IV TCN. Trong thời kỳ này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô
cùng xán lạn với nhiều thành tựu rực rỡ thụôc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ
sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại. Vì vậy Ăngghen nhận xét
“Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu
hiện đại được”
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 3
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản:
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại, và là
một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới
¾ Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống trị.
¾ Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật duy tâm, biện chứng-siêu hình, vô thần-hữu thần. Trong đó điển
hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của
Platông,..
¾ Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp
mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như
một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong nó
¾ Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác: các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng
biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý.
¾ Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, đã đưa ra nhiều quan
điểm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ linh hồn thể xác, về đời sống
– chính trị - xã hội của họ.
1.2. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
1.2.1. Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê - trường phái
Hêraclít, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái
Nguyên tử luận.
1.2.1.1. Trường phái Milê
Trường phái duy vật và biện chứng tự phát đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ
đại, thế kỷ VI TCN. Milê (Milet) là một đô thị ven biển vùng cận đông là trung tâm
thương mại, hàng hải lớn, điều này tạo điều kiện mở rộng tầm nhìn của con người,
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 4
kích thích sự phát triển khoa học và văn hoá. Những nhà triết học Milê: là Talet
(Thales), Anaximăngđrơ (Anaximandre), Anaximen (Anaximene) không tin vào thần
thoại truyền thống (coi các thần linh là nguyên nhân tạo ra thế giới), cho rằng bản chất
duy nhất, bản nguyên vật chất của thế giới là một vật thể xác định (Talet cho là nước,
Anaximen cho là không khí có thể biến thành nước, đất đá hay lửa, Anaximăngđrơ
cho là apeiron là cái vô hình, vô thuỷ vô chung,vĩnh viễn vận động, tự tách ra những
mặt đối lập đấu tranh với nhau (nóng và lạnh), kết hợp lại hoặc phân rã ra tạo thành
thế giới muôn hình vạn trạng. Những quan niệm triết học của trường phái Milê tuy
còn mộc mạc thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại
đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác
1.2.1.2. Trường phái Hêraclít : (530-470 TCN)
Hêraclít sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ nô ở thành phố
Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện
chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật
đều từ lửa mà ra, rồi sau đó mất đi để quay về với lửa. Vũ trụ không phải do Thượng
Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã”, “đang” và “sẽ” mãi mãi
là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo
cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “vừa tồn
tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật
chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”,bao gồm
các sự vật hiện tượng những trạng thái qúa độ của lửa, chứa đựng trong mình các
mặt đối lập, mọi vật đối lập đều phải thông qua đấu tranh, “đấu tranh” là cha đẻ của
tất cả. Đồng thời ông cũng cho rằng ,nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt, tức
cái quy luật, trật tự của vũ trụ, phát hiện ra tính hài hoà và xung đột của các mặt đối
lập tồn tại trong các sự vật hiện tượng đa dạng trong thế giới. Dù quá trình nhận thức
bắt đầu từ cảm tính, nhưng cảm tính không đủ để khám phá bí ẩn của tự nhiên, vì
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 5
vậy muốn nhận thức thấu suốt tự nhiên phải sử dụng tư duy, lý tính. Tuy nhiên, chân
lý mang tính tương đối vì còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh,..
Như vậy, Hêraclít là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi
sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Hêraclít vào kho
tàng tư tưởng của nhân loại.
1.2.1.3. Trường phái đa nguyên
Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật
Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagore ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan
niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milê- trường phái Hêraclít
xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empêđốc
thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí
chúng chịu tác động của hai loại lực tình yêu và hận thù. Dưới tác dụng lực tình yêu,
đất, nước không khí, lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật; nhưng dưới tác dụng của lực
hận thù chúng bị chia tách ra làm vạn vật mất đi. Empêđốc cho rằng, vũ trụ luôn vận
động và trải qua 4 giai đoạn: Giai đoạn 1, tình yêu chiến thắng và ngự ở tâm vũ trụ,
hận thù bị thất bại và bị đẩy ra ngoài biên, vũ trụ như một quả cầu duy nhất, đồng
nhất, thống nhất không phân chia. Giai đoạn 2, hận thù tiến dần vào tâm vũ trụ, tình
yêu bị đẩy ra khỏi tâm, vũ trụ-quả cầu duy nhất, đồng nhất, thống nhất bắt đầu phân
hoá. Giai đoạn 3, hận thù chiến thắng và ngự trị ở tâm vũ trụ, tình yêu thất bại, bị
đẩy ra ngoài biên, vũ trụ hoàn toàn bị phân hoá ra thành 4 yếu tố đất, nước, không
khí, lửa; Giai đoạn 4, tình yêu tiến dần vào tâm vũ trụ, hận thù bị đẩy ra khỏi tâm,
dưới sự tác động của tình yêu và hận thù 4 yếu tố đất, nước, không khí, lửa kết hợp
lại với nhau tạo nên sự vật, hay tách ra khỏi nhau làm sự vật mất đi. Trong khi đó
Anaxago nhà triết học đầu tiên ở Aten không cho rằng, vạn vật là sự kết hợp của đất,
nước, không khí và lửa; mà ông cho rằng vạn vật được sinh ra từ những cái tương tự
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 6
như chúng, và ông gọi cái đó là “hạt giống”, “mầm nào sẽ sinh ra giống nấy” ,“mỗi
cái chứa mọi cái”
Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn
chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết
này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính.
1.2.1.4. Trường phái nguyên tử luận
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể
hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III TCN với các đại biểu Lơxíp,
Đêmôcrít, Êpicua (Leucippe, Démorite và Epicure). Trong đó Lơxíp là người đầu
tiên nêu lên các quan niệm về nguyên tử, và Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển
còn Êpicua là người cũng cố và bảo vệ thuyết nguyên tử vào thời La Mã hoá.
Leucippe (500 – 440 TCN), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ
những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó
vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu
được. Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua
những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Đêmôcrít (460 – 370 TCN) là học trò
của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện
mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân
không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
1.2.2. Chủ nghĩa duy tâm
Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường
phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong
trường phái duy tâm khách quan của Platông, tức thế giới ý niệm.
1.2.2.1. Trường phái Pythagore
Pytago (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh
ra và lớn lên trên đảo Samos thuộc vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông
cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 7
ứng với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pytago cũng
thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vốn
có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẵn
và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối,
tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán
học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã
hội. Chính trường phái Pytago đã đặt nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời
cổ đại của triết học Hy Lạp.
1.2.2.2. Trường phái Êlê
Trường phái Êlê (V – IV TCN) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy
vật, nhưng sau đó Parmenide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Đênông
nhiệt thành bảo vệ và phát huy.
Xénophane (570 – 478 TCN) là bạn của Talet nên chịu ảnh hưởng của nhà
triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là
cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Bản thân nước
cấu thành những đám mây, các đám mây đó tạo thành các hành tinh, kể cả Mặt
Trăng và Mặt Trời. Ông xem biển cả là cội nguồn của nước và của gió. Bởi vì nếu
không có biển cả thì mây không thể nào sinh ra bảo táp và cũng không thể có sông
ngòi dâng tràn, cũng không thể có mưa trong không trung. Ông cũng cho rằng,
không phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra thần
thánh theo trí tưởng tượng của mình. Vì vậy mỗi dân tộc có quan niệm riêng về thần
thánh của mình, người như thế nào thì thần thánh như thế ấy. Ông cho rằng, nhận
thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ. Bằng cảm tính chúng ta
không thể nhận thức được bản chất sự vật. Quan điểm duy lý này được Parmenide
phát triển thành chủ nghĩa duy lý
Parmenide (500 – 449 TCN) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở
Êlê. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 8
trong thế giới. Không có cái gì trên thế giới được sinh ra từ hư vô hay không tồn tại.
Ngược lại, không có cái gì mất đi mà không để lại dấu vết- tồn tại. Như vậy, trong
thế giới, vạn vật không ngừng biến đổi từ sự vật này sang sự vật khác, từ dạng tồn
tại này sang dạng tồn tại khác; nhưng bản thân tồn tại nói chung thì đứng im chứ
không hề biến đổi, nó đồng nhất với chính bản thân nó. Vì vậy bản chất của tồn tại
là bất biến, vĩnh hằng, đơn nhất. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái
quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Parmenide, cho rằng có hai cách nhận
thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Do phải thông qua các giác
quan mà nhận thức cảm tính cảm nhận thế giới vô cùng đa dạng, phong phú, cảm
nhận vạn vật vận động, biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, nhận thức này chỉ mang
tính ảo giả, hơn nửa bằng cảm tính. nhận thức lý tính đòi hỏi phải thông qua hoạt
động của trí óc để khám ra bản chất đích thực của thế giới- cái tồn tại, nghĩa là phát
hiện ra chân lý. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển
triết học Hy Lạp cổ đại.
Đênông (490 – 430 TCN), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elê. Ông
đưa ra những apôri nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua
chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn
tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực.
1.2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan
Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân
chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây
dựng bởi Xôcrát và Platông
Xôcrát (469 – 399 TCN), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên
cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. “Con
người hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức.
Xuất phát từ đạo đức duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt
là cội nguồn của cái ác; và chỉ có cái thiện phổ biến mới là tiêu chuẩn của đức hạnh;
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 9
ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới có đạo đức và muốn theo cái thiện
phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh
luận, toạ đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau gọi là “ phương
pháp Xôcrát”, phương pháp này gồm 4 bước: mỉa mai - đở đẻ tinh thần – quy nạp -
định nghĩa. Đối với Xôcrát, chỉ có người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết
gia mới là những người có đạo đức.
Platông (427 – 347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở
Aten. Ông trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy
tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư
tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.
1.2.3. Chủ nghĩa nhị nguyên
Triết học Aristote (Arixtốt) :
Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất
sắc của Platông. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platông. Vì ý
niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platông, ông cho
rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platông còn thể
hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể
vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được
thể hiện ra. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự
nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong
không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân
trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 10
Phần II: QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH XUNG ĐỘT GIỮA
ĐƯỜNG LỐI DUY VẬT ĐÊMÔCRÍT VÀ ĐƯỜNG
LỐI DUY TÂM PLATÔNG
2.2. Tiểu sử và các quan điểm của Đêmôcrít và Platông
2.2.1. Đêmôcrít (460-370 TCN)
Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Abđère (Hy Lạp). Ông đã
đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương Đông cổ
đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học
và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói
trên. Ông được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy
Lạp.
Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết
nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn
có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức
2.2.1.1. Thuyết nguyên tử
Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải
đến Đêmôcrít học thuyết đó mới trở nên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành
từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân
chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động
không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và
màu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp
của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm
v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết
hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt.
Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 11
Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như
những nguyên tử khác. Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít,
chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được.
Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với
nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng.
Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng,
khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo
thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử
nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các
hành tinh, kể cả trái đất được hình thành.
Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh
hoặc một ai tạo ra. Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn
chế (hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản
chất của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đêmôcrít
chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận động
với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết
sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học duy vật.
Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là phủ
nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương.
2.2.1.2 .Lý luận về nhận thức
Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp
theo ông là Aristote, kể cả Platông đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học.
Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào
các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân
thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của
sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi
vị, âm thanh, màu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 12
chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng không
có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác
này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và
chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được
dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới
nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ
tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”.
Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn.
Mặt tích cực trong quan điểm trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là
thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự
chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng ông đã thấy được
vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song mặt hạn chế trong
quan niệm này là ở chỗ, ông coi các thuộc tính khách quan của sự vật như âm thanh,
mùi vị, màu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người.
Hạn chế này đã mở đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách
rời sự vật, chất có trước và chất có sau của sự vật v.v.
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn
nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm "Bàn về lôgíc học" (Canon); tác
phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của
Aristote, Platông). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định
nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp
quy nạp có vị trí nổi bật. Aristote đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học,
là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
2.2.1.3. Quan điểm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên
bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như
lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 13
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình
biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động
của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể
học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Đêmôcrít đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là
sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người.
2.2.1.4. Quan điểm về đạo đức xã hội :
Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học giúp là rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn
hành vi thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống
đúng mực ôn hoà không gây hại cho mình và cho người khác là sống có đạo đức.
Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng
lạc vừa phải trong sự thanh thản tâm hồn tự do. Ông luôn đề cao những hành động
vị nghĩa cao thượng của con ngừơi vì chỉ có hành vi đầy nghĩa khí làm cho con
người vĩ đại.
Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan
điểm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô.
Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắng liền với nền thương mại và sản xuất thủ
công, nhưng nó phải gắng liền với tinh thần ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của
công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của
ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là nhà nước của chế độ dân chủ chủ nô phải biết
tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý.
Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao
các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít)
trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và phát triển
học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành những tên tuổi
đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp - La Mã.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 14
2.2.2.Platông(427-347TCN)
Platông xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten. Tên thật của ông
là Aristôclơ. Theo Aristote, lúc đầu Platông là học trò của Cratin (người theo thuyết
tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa).
Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô,
Platông rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên
hệ với phái Pytago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten,
gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu
Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Aristote. Sau 40 năm giảng
dạy, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học. Tác phẩm "Nước
cộng hoà" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.
Platông là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật
đương thời.
Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự
đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông. Tư
tưởng triết học của Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết
học của Pitago và Xôcrát.
Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý
thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu
biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
2.2.2.1.Thuyết ý niệm
Như đã nói ở trên, Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý
trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về
con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem
nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của
khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái
niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 15
Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt
đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các
sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó
là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế
giới các ý niệm như thế nào, Platông đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: “Ở ngoài
cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa
hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên
trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh
của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người”. Thế giới các sự vật cảm tính
cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi.
Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platông cho rằng ý
niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có
sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
Từ thế giới quan trên đây, Platông đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí
về linh hồn. Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và
không khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là
sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi
linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và
nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi
quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn
đã có nhưng bị lãng quên.
2.2.2.2. Quan điểm về nhận thức:
Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ
bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
Platông cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.
Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách quan
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 16
bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của
tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện
ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi,
nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát,
không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi
tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã
bị lãng quên. Tóm lại, Platông đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình
hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.
2.2.2.3. Quan điểm về chính trị xã hội:.
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platông chia linh hồn
làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận
ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng
này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai,
là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục
tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà.
Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương
nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích
nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng
hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platông cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng
ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây
dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước
quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà
nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platông nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng
hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 17
trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà
nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài
hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ
gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa
chọn những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà
thông thái, triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platông chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì
sự bất bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt
khác ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước
dân chủ Aten. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai
cấp chủ nô quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng
cấp của Aicập vào Aten mà thôi.
2.3. So sánh các tư tưởng đối lập của Đemôcrít và Platông:
Đêmôcrít Platông
Về bản thể luận:
Đứng trên lập trường duy vật vô thần,
ông cho rằng khởi nguyên của thế giới là
nguyên tử, là dạng vật chất nhỏ nhất,
không thể phân chia được nữa, nó là cơ
sở của thế giới, của sự vật hiện tượng.
Nguyên tử này không màu, không mùi,
không vị, không nóng, không lạnh, nó
không khác nhau về chất, nó chỉ khác
nhau về hình dáng, về cấu tạo, về tư thế
sắp xếp và các nguyên tử này luôn luôn
Đứng trên lập trường duy tâm, ông
khẳng định rằng bản nguyên của thế giới
là “thế giới ý niệm”, thế giới ý niệm tồn
tại một cách chân thật, vĩnh cửu và bất
biến. Ông chia thế giới thành hai bộ phận
là thế giới ý niệm và thế giới vật cảm
tính. Thế giới ý niệm là thế giới có trước
và sinh ra thế giới vật cảm tính. Thế giới
vật cảm tính là thế giới không chân thật,
không đúng đắn và luôn luôn thay đổi, là
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 18
vận động trong chân không. Các sự vật
hiện tượng khác nhau là do sự liên kết
giữa các nguyên tử có hình dáng khác
nhau, tư thế khác nhau, cấu tạo khác
nhau. Các nguyên tử vận động không
ngừng và chính sự đa dạng của các
nguyên tử tạo nên sự đa dạng của thế
giới sự vật và sự hình thành của vũ trụ
Về nhận thức luận:
Đứng trên quan điểm duy vật: đối tượng
của nhận thức là giới tự nhiên và mục
tiêu của nhận thức là bản chất sự vật
Đêmôcrít chia nhận thức thành hai dạng:
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính là dạng nhận thức
mờ tối, do giác quan đem lại. Nhận thức
cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính là dạng nhận thức
thông qua những phán đoán logic, là
dạng trí tuệ. Ông đã thấy được mối quan
hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính và ông chỉ ra phải bằng nhận thức
lý tính thì con người mới phát hiện được
nguyên tử tức là nguồn gốc của thế giới
Về logíc học:
Lôgíc là công cụ của nhận thức
Coi trọng phương pháp quy nạp
thế giới có sau và là cái bóng của thế
giới ý niệm.
Đứng trên quan điểm duy tâm: đối tượng
và mục tiêu nhận thức là “thế giới ý
niệm” Do Platông cho rằng nhận thức
cảm tính có sau nhận thức lý tính nên
ông cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng
của linh hồn về thế giới ý niệm có trước
vật chất. Ông cho rằng nhận thức cảm
tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý
niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ
không phải là tri thức chân thực. Chỉ có
nhận thức lý tính, tức nhận thức khái
niệm mới đạt đến tri thức chân thực.
Lôgíc xen kẻ với phép biện chứng duy
tâm
Coi trọng phương pháp suy diễn
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 19
Về chính trị- xã hội:
Đêmôcrít đứng trên lập trường của chủ
nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten
chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho
rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ
cũng quý hơn cái hạnh phúc của công
dân dưới thời quân chủ y như là tự do
quý hơn nô lệ”. Nhưng do xuất thân từ
tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến
dân chủ của chủ nô và công dân tự do;
còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ.
Về con người:
Đêmôcrít bác bỏ quan niệm thần thánh
sinh ra con người. Ông cho rằng con
người xuất hiện trên trái đất là kết quả
của sự tiến hóa tự nhiên và linh hồn được
cấu tạo từ nguyên tử.
Platông đưa ra học thuyết về một nhà
nước lý tưởng, đó là nhà nước cộng hòa
bao gồm 3 đẳng cấp: nhà triết học làm
vua, vệ binh bảo vệ đất nước và người
lao động sản xuất, chống lại nhà nước
dân chủ Aten.
Platông thì cho rằng con người gồm thể
xác và linh hồn tồn tại độc lập với nhau.
Trong đó thể xác được tạo thành từ đất,
nước, lửa và không khí còn linh hồn do
Thượng đế tạo ra và nó là bất tử, tồn tại
vĩnh hằng.
2.4. Nhận xét
Qua bảng so sánh ta thấy được các mặt đối lập của Đêmôcrít và Platông
về cách nhìn về thế giới quan, quan điểm về nhận thức, về chính trị xã hội và con
người. Để dung hòa cho cuộc đấu tranh xung đột này, Arixtốt (384-322 TCN nhà
triết học và bác học Hy Lạp cổ đại. Con một thầy thuốc của vua xứ Makêđônia
(Makedonija). Thầy của Alêchxanđrơ Đại Đế (Alexandre le Grand), từ khi
Alêchxanđrơ 13 tuổi cho đến khi lên ngôi vua. Là môn đồ xuất sắc nhất của Platông
(HL. Platông) trong 20 năm, từ lúc 17 tuổi. Sau khi Platông mất, Arixtốt chọn
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 20
Lykâyôt (Lykeios), trường thể dục ở gần điện thờ thần Apôlông (Apollon) ở Aten,
làm nơi vừa dạo chơi vừa bàn luận, giảng giải về khoa học, triết học với các học trò
của ông, do đó trường phái của ông mang tên là trường phái Pêripatôt. Là học trò
xuất sắc của Platông, Arixtốt sớm trở thành nhà triết học và khoa học cổ Hy Lạp.
ông viết nhiều tác phẩm về mọi đề tài, về mọi lĩnh vực khoa học đương thời. Arixtốt
để lại cho nhân loại một hệ thống tri thức đồ sộ và có ảnh hưởng sâu rộng về nhiều
mặt đến đời sống của nhân loại, đặc biệt ông đã xây dựng logic học,… Mặc dầu, là
học trò xuất sắc của Platông và học được nhiều kiến thức, những tư tưởng và quan
điểm từ người thầy của mình, tuy nhiên, Arixtốt không đồng tình về những quan
điểm của thầy học mình trước hết là “thuyết ý niệm”.
Theo Arixtốt, về mặt bản thể luận, việc Platông chia thế giới ra thành thế giới
ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn, vì ý niệm là cái tồn tại bên
ngoài và độc lập với sự vật thì làm sao có thể làm bản chất cho sự vật được, làm sao
có thể coi sự vật là cái bóng của ý niệm; hơn nữa ý niệm là cái trừu tượng phi cảm
tính thì làm sao có thể làm khuôn mẫu cho sự vật cảm tính. Về mặt nhận thức luận,
Platông coi ý niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật là vô dụng và ngược đời
vì nếu ý niệm có trước và độc lập với sự vật thì làm sao ý niệm (khái niệm) có thể
dùng để nhận thức sự vật. Vì vậy, sai lầm của Platông là chỗ ông tách bản chất của
sự vật ra khỏi sự vật, ở chỗ biến cái chung, đáng lẻ là cái khái quát từ sự vật riêng lẻ
và thể hiện trong khái niệm chung, thành cái riêng, nằm bên trên, có trước và quyết
định thế giới sự vật cảm tính. Ông cho rằng, bản chất phải nằm ngay trong bản thân
sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành cái chung dưới dạng
khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù là cái có trước, sinh ra
và quyết định sự tồn tại của sự vật, mà ngược lại, sự tồn tại của sự vật được phản
ánh trong khái niệm, quy luật, phạm trù của nhận thức. như vậy, Arixtốt đã đứng
trên quan niệm duy vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông.
Về con người, sinh thể và linh hồn, Arixtốt phủ nhận quan điểm của Platông
coi thể xác là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử, Arixtốt dựa trên thuyết
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 21
nguyên nhân cho rằng, cũng giống như sự vật được hình thành từ hình thức vật chất,
sinh thể và con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn, không có linh hồn bất
tử, không có linh hồn trong cơ thể chết và cũng không có linh hồn nằm ngoài thể xác
vật chất. Nhưng ông lại chia linh hồn làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi
dưỡng và sinh sản; linh hồn động vật có khả năng cảm ứng với môi trường xung
quanh; linh hồn con người có hoạt động lý tính, đây là loại linh hồn cao nhất. Trong
con người có cả ba loại linh hồn nói trên. Khi người ta chết, riêng linh hồn lý tính
còn tồn tại bất diệt. quan niệm về linh hồn như trên chứng tỏ rằng Arixtốt là nhà triết
học không triệt để, vừa phê phán Platông, vừa kế thừa quan điểm duy tâm của
Platông.
Mặt dầu giữa Đêmôcrít và Platông có những quan điểm đối lập nhau, nhưng
họ là những nhà triết học xuất thân từ chủ nô, quý tộc nên đồng ủng hộ chế độ chủ
nô dân chủ chống lại chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ là hình thức áp bức tàn nhẫn, vô
nhân đạo nhất so với tất cả mọi hình thức áp bức, bóc lột. Người nô lệ là tải sản sở
hữu của chủ nô; họ là những “công cụ” biết nói, bị đối xử như súc vật, không có một
thứ quyền hạn nào , không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị và văn
hoá. Bị áp bức, những người nô lệ đã đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi, nhưng chưa
có sự thắng lợi nào. Tuy nhiên, chế độ áp bức, bóc lột nô lệ cũng là cơ sở kinh tế
trên con đường phát triển của Hy Lạp cổ đại. Có chế độ đó, giai cấp chủ nô Hy Lạp
mới có thể thoát li được cuộc đời lao động chân tay vất vả để xây dựng triết học,
khoa học và nghệ thuật. Ăngghen đã cho rằng: phải có những khả năng của chế độ
nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao động lớn lao hơn trong nông
nghiệp và công nghiệp, mới xây dựng được nước Hy Lạp cổ giàu có. Nếu không có
chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật
Hy Lạp
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 22
Phần III: MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
3.1. Những thành tựu của triết học Hy Lạp cổ đại
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp
cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về văn hoá nghệ thuật mà trước hết là về
khoa học tự nhiên: thiên văn học, vật lý học, toán học làm cơ sở thực tiễn cho sự
phát triễn của triết học trong thời kỳ này. Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển rực rỡ
trở thành nền tảng cho sự phát triển triết học phương Tây sau này.
Triết học Hy Lạp đã có những phát hiện mới về phép biện chứng, và cũng
chính trong thời kỳ này thuật ngữ “biện chứng” được hình thành song nó vẫn là biện
chứng ngây thơ, mộc mạc. Bởi vì, đời sống chính trị của Hy Lạp thời bấy giờ sôi
động , những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải, sự
tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước
ấy sự quan sát các hiện tương tự nhiên một cách trực tiếp như một khối duy nhất và
lòng mong muốn giải thoát chúng một cách khoa học đã góp phần quy định và làm
phát triển thể giới duy vật tự phát và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại.
Ăngghen nhận xét: “ Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên , lịch sử loài
người, hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta, thì trước nhất chúng ta thấy
một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những tác động qua
lại trong đó không có cái gì đứng nguyên , không thay đổi, mà tất cả đều vận động
biến hoá, phát sinh và mất đi. Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ nhưng thức chất
thì đúng là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại ..”
Hêracrít đứng trên lập trường của duy vật cổ đại. Theo đánh giá của nhà kinh điển
Mác-Lênin thì Hêracrít là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Mác và Ăngghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 23
Ăngghen viết về Hêracrít : “ quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ
nhưng cơ bản là đúng đắn …”
Hêracrít đã khẳng định một cách biện chứng rằng: “không ai tắm hai lần trong một
dòng sông”. Tức là sự vật luôn luôn biến đổi . Ông phỏng đoán về sự phân đôi của
một thể thống nhất thành các mặt đối lập, bài trừ, chuyển hoá, thâm nhập, phủ định
nương tựa vào nhau. Đây là quy luật đấu tranh thống nhất của các mặt đối lập Ông
viết: “ nước biển vừa sạch vừa không sạch” và “ Tất cả là thống nhất: cái phân chia
được và cái không phân chia được, cái được sinh ra và cái không được sinh ra, cái
chết và cái không chết, cái toàn bộ và cái không toàn bộ, cái quy tụ và cái phân tán,
cái động và cái bất động”.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã cống hiến cho khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy
vật tư tưởng về “thuyết nguyên tử” đại biểu là nhà triết gia Đêmôcrít - bản chất thế
giới là vật chất –nguyên tử luôn vận động theo luật nhân quả; vũ trụ vật chất là vô
hạn đa dạng, không được sáng tạo và không bị huỷ diệt bởi các thế lực siêu nhiên
Triết học Hy Lạp cổ đại chính là kết quả của các khoa học tự nhiên .
Anaximăngđrơ cho tổng thể vật chất là không đổi. Đó là quan điểm mang tính vượt
thời. Bởi vì ông phỏng đoán nên định luật bảo toàn năng lượng, bảo toàn vật chất mà
mãi đến thế kỉ XIX sau công nguyên mới có người phát biểu: “Vật chất không phải
mất đi mà chỉ tồn tại từ dạng này sang dạng khác” .Đến đây ta cũng có thể nói giữa
tư tưởng triết học và vật lý học hay các khoa học tự nhiên khác có những tác động
qua lại, có chỗ gần gũi nhau .
3.2. Những hạn chế:
Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
Xénophane cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất- cơ sở
của vạn vật, cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Bản thân nước cấu
thành những đám mây, các đám mây đó tạo thành các hành tinh, kể cả mặt Trăng và
Mặt Trời. Ông xem biển cả là cội nguồn của nước và của gió, vì nếu không có biển
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 24
cả thì mây không thể nào sinh ra bảo táp và cũng không thể có sông ngòi dâng tràn,
cũng không thể có mưa trong không trung.
Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
Triết học Hy Lạp cổ đại, tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn
toàn tách khỏi yếu tố thần linh. Theo Platông, thể xác con người được cấu thành từ
lửa, nước, không khí và đất cho nên không bất diệt. Còn linh hồn thí bất diệt, bởi
linh hồn là sản phẩm linh hồn vũ trụ được tạo ra từ lâu bởi thượng đế. Nếu Platông
phủ nhận khả năng của con người đối với thế giới khi ông nói: nhận thức chỉ là phản
ánh cái bóng mờ mà thôi, thì Hêracrít quan niệm: linh hồn của con người cũng được
hình thanh từ lửa. Bên cạnh lửa là ẩm ướt. Linh hồn là sự thống nhất giữa lửa và sự
ấm ướt. Lửa nhiều hơn ấm ướt thì người đó thiện hơn ác và ngược lại .
Đêmôcrít cũng rất đề cao con người khi ông cho rằng, con người khác với con vật ở
chỗ: nguyên tử cấu tạo nên con người sạch sẽ hơn nguyên tử cấu tạo nên con vật .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
X W
Sách tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Thu – Bùi Văn Mưa, Giáo Trình Đại Cương Lịch Sử Triết Học,
NXB, Tổng Hợp TP.HCM
2. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB, Tổng Hợp TP.HCM,
2006.
3. Nguyễn Thị Hồng Vân, Trần Minh Sơn, Trần Thảo Nguyên, Sách hướng dẫn học
tập triết học Mác Lênin,Chương trình PTIT Học viện công nghệ bưu chính viễn
thông
Các trang web
1.
2.
3.
4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai6_vothibichduyen_d1k19_5343.pdf