Đề tài Loạt bài về phân tích thị trường tài chính và Chứng khoán Việt Nam

PHẦN I KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TTCK 1.1.1 Khái niệm TTCK TTCK, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn (Capital market). Ở đây các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khốn cĩ thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu được mua bán. TTCK là thị trường tạo lập và cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Các cơng cụ ở TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu cơng ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp. Các cơng cụ trên thị trường vốn thường cĩ thời hạn dài như trái phiếu, cổ phiếu do đĩ giá cả của nĩ dao động rộng hơn so với các cơng cụ của thị trường tiền tệ. Vì vậy, nĩ được coi là những CK cĩ độ rủi ro cao hơn, và vì vậy cơ chế phát hành và lưu thơng chúng khá chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế 1.1.2 Phân loại TTCK  Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khốn, TTCK được chia làm 2 cấp: - Thị trường sơ cấp: hay thị trường phát hành; là hoạt động chào bán ra cơng chứng lần đầu tiên một loại chứng khốn của Chính Phủ hay doanh nghiệp, đĩ chính là việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Trừ trái phiếu chính phủ, tất cả các tổ chức kinh tế muốn phát hành chứng khốn đều phải được phép của UBCKNN. Thơng thường việc phát hành CK ra cơng chứng được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính trung gian như cơng ty chứng khốn, ngân hàng đầu tư - Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành CK là hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu CK từ tay nhà đầu tư này sang tay nhà đầu tư khác. Trên thị trường này các nhà đầu tư cĩ thể mua và bán chứng khốn rất nhiều lần. Hàng ngày một khối lượng rất lớn chứng khốn được giao dịch qua các TTCK trên thế giới lên đến hàng ngàn tỷ USD. - Mối liên quan giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp bởi vì chính nơi đây đã tạo ra hàng hĩa cho thị trường giao dịch. Ngược lại, thị trừơng thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. Chính việc giao dịch mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính thanh khoản cho CK, đĩ là tính chất dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Các nhà đầu tư nắm giữ các loại CK thường nhắm các cơ hội bán đi CK để kiếm lời, chính tính thanh khoản đã thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK  Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia ra: TTCK tập trung (SGDCK) hay TTCK khơng tập trung (OTC) TTCK tập trung: là địa điểm hoạt động chính thức của các giao dịch chứng khốn gọi là SGDCK. Đĩ là nơi các nhà mơi giới kinh doanh chứng khốn gặp gỡ để đấu giá, thương lượng mua bán chứng khốn cho khách hàng hay cho chính mình theo những nguyên tắc và quy chế giao dịch của SGDCK đề ra trên cơ sở của Luật chứng khốn. TTCK khơng tập trung ( thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của CK khơng thơng qua SGDCK, mà thực hiện bởi các cơng ty chứng khốn thành viên ở rải rác khắp nơi trên đất nước. Phương thức giao dịch thơng qua mạng điện thoại và vi tính.  Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị trường Thị trường giao ngay (Spot market) là thị trường của những giao dịch CK mà lệnh của khách hàng được thực hiện ngay căn cứ vào giá trị hiện tại và sẽ thanh tốn vào một ngày gần sau đĩ. .

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2678 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Loạt bài về phân tích thị trường tài chính và Chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH SÁCH HỌC VIÊN CAO HỌC NHÓM 4 STT HỌ TÊN Ngày sinh Ký tên 1 Trần Thị Kiều Oanh 28.09.1981 2 Lê Ngọc Anh 25.11.1982 3 Nguyễn Trường Sinh 28.12.1982 4 Đặng Thanh Hương 20.06.1982 5 Vũ Hồng Minh 6 Nguyễn Hà Lê Huy 30.06.1982 7 Trịnh Đoàn Tuấn Linh 20.08.1978 8 Lư Thanh Nhã 10.02.1981 MỤC LỤC š›&š› LỜI NÓI ĐẦU š›&š› Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội trong những năm qua ở Việt Nam, thị trường chứng khoán cũng chuyển mình và có những bước phát triển vược bậc và là một trong những kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế. Sự lớn mạnh của thị trường chứng khoán gắn liền với hoạt động của các công ty chứng khoán mang lại những dịch vụ thiết yếu hỗ trợ các nhà đầu tư và góp phần không nhỏ vào việc điều tiết nền kinh tế. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, điều này đồng nghĩa với việc các công ty chứng khoán đã và đang cải cách để phát triển về mọi mặt nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển để có thể cạnh tranh trực tiếp với các tổ chức tài chính quốc tế. Xuất phát từ thực tế trên nhóm tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện tiểu luận với đề tài “Tìm hiểu về công ty chứng khoán”. Hy vọng những kiến thức của nhóm chúng tôi sẽ mang lại một cái nhìn tổng quát về hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1- Khái niệm về công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. 2. Hình thức tổ chức: Có 2 loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản là: Công ty TNHH và công ty cổ phần. Do công ty cổ phần có nhiều ưu điểm, nên đa số các công ty chứng khoán chủ yếu tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần, thậm chí nhiều nước (như Hàn Quốc chẳng hạn) còn quy định công ty chứng khoán bắt buộc phải là công ty cổ phần. Các công ty chứng khoán cũng là một loại hình công ty nhưng do hoạt động nghiệp vụ của nó đặc biệt khác với công ty sản xuất hay thương mại nói chung nên về mặt tổ chức của chúng cũng có nhiều sự khác biệt. Các công ty chứng khoán ở các nước hay trong cùng một nước vẫn được tổ chức rất khác nhau tùy thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ phát triển của thị trường. Tuy nhiên, chúng vẫn có cùng một số đặc trưng cơ bản như sau: Chuyên môn hóa và phân cấp quản lý: Các công ty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ phận, từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ. Do chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm nảy sinh việc có quyền tự quyết. Một số bộ phận trong tổ chức công ty nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau (ví dụ bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay bộ phận bảo lãnh phát hành…) Nhân tố con người Nói chung, trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trong nhất. Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Ảnh hưởng của thị trường tài chính Thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của các công ty chứng khoán. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì càng có khả năng tạo thêm các công cụ tài chính và đa dạng hóa dịch vụ, qua đó có thêm các cơ hội thu lợi nhuận. Với những mức độ phát triển khác nhau của thị trường, cơ cấu tổ chức của các công ty chứng khoán cũng khác nhau để đáp ứng những nhu cầu riêng. Công ty chứng khoán ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản có cơ cấu tổ chức rất phức tạp, trong khi cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán ở một số nước mới có thị trường chứng khoán như ở Đông Âu và Trung Quốc đơn giản hơn nhiều. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phu thuộc vào nhiều loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô hoạt động kinh doanh chứng khoán của nó. Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công việc mà công ty chứng khoán đảm nhận: Khối I (Front office): Do một phó giám đốc trực tiếp phụ trách, thực hiện các giao dịch mua bán kinh doanh chứng khoán, nói chung là có liên hệ với khách hàng. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với các nhu cầu đó. Trong khối này, ứng với một nghiệp vụ chứng khoán cụ thể, công ty có thể tổ chức một phòng để thực hiện. Vì vậy công ty thực hiện bao nhiêu nghiệp vụ sẽ có thể có từng ấy phòng và nếu công ty chứng khoán chỉ thực hiện một nghiệp vụ, có thể sẽ chỉ có một phòng thuộc khối này. Riêng phòng thanh toán và lưu giữ chứng khoán thì mọi công ty chứng khoán đều phải có và có thể ở khối I do nó trực tiếp liên hệ với khách hàng. Xem sơ đồ sau: Phó Giám đốc điều hành khối I Phòng môi giới Phòng tự doanh Phòng bảo lãnh phát hành Phòng Tư vấn đầu tư Phòng quản lý quỹ đầu tư Phòng Tư vấn tài chính Phòng Thanh toán và lưu giữ CK Phòng quản lý thu nhập chứng khoán Phòng Ủy quyền Phòng Cho vay chứng khoán Tuy vậy, tùy quy mô từng nghiệp vụ và mức độ trú trọng vào các nghiệp vụ khác nhau mà công ty có lợi thế, công ty chứng khoán có thể kết hợp một số nghiệp vụ vào một phòng (ví dụ phòng nghiên cứu phân tích với phòng tư vấn hay bảo lãnh phát hành); hoặc có thể chia nhỏ các phòng ra nhiều tổ do khâu đoạn phức tạp (như phòng giao dịch có thể tách ra thành tổ marketing và tổ thực hiện lệnh). Khối II (back office): Cũng do một phó giám đốc phụ trách, thực hiện các công việc yểm trợ cho khối I. Nói chung, bất kỳ một nghiệp vụ nào ở khối I đều cần sự trợ giúp của các phòng ban thuộc khối II. Xem sơ đồ sau: Phó Giám đốc điều hành khối II Phòng nghiên cứu và phát triển Phòng tổ chức hành chánh Phòng thông tin và phân tích CK Phòng ngân quỹ Phòng kế toán Phòng ký quỹ (QL TK vay mua) Phòng hạch toán tín dụng Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng phát triển sản phẩm mới Phòng tin học Phòng pháp chế Ngoài sự phân biệt rõ ràng hai khối như vậy, công ty chứng khoán còn có thể có thêm một số phòng như phòng cấp vốn, phòng tín dụng, … nếu công ty này được thực hiện các nghiệp vụ mang tính ngân hàng. Đối với những công ty chứng khoán lớn, còn có thêm chi nhánh văn phòng ở các địa phương, hoặc các nước khác nhau, hay có thêm phòng quan hệ quốc tế … Để thuận tiện cho quan hệ với khách hàng, mạng lưới tổ chức mộ công ty chứng khoán thường gồm văn phòng trung tâm và các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại các địa phương, khu vực cần thiết. Cũng có thể công ty chứng khoán ủy thác cho một ngân hàng thương mại ở địa phương hướng dẫn và nhận các lệnh đặt hàng mua bán chứng khoán của khách hàng. Mạng lưới tổ chức một công ty chứng khoán. Nhà đầu tư Quỹ đầu tư Quỹ bảo hiểm Doanh nghiệp CN Cty chứng khoán Phòng giao dịch VP đại diện Cty CK Công ty chứng khoán Tổng hợp đặt lệnh Môi giớictại sàn giao dịch 3. Chức năng nhiệm vụ của công ty chứng khoán: 3.1 Chức năng môi giới chứng khoán a. Khái niệm Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. b. Chức năng - Nói liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư: cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư. - Nói liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách hàng tấc cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính. Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời. Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sợ hãi và tham lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo. Đề xuất thời điểm bán hàng 3.2 Chức năng tự doanh chứng khoán a. Khái niệm Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình. b. Mục đích của hoạt động tự doanh Mục đích của hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán nhằm thu lợi nhuận cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng yêu cầu về vốn và con người. c. Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh Tách biệt quản lý Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Các công ty chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ tư doanh. Các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với các tài sản của chính công ty. Ưu tiên khách hàng Công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Bình ổn thị trường Do tính đặc thù của thị trường chứng khoán, đặc biệt là các thị trường chứng khoán mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao. Điều này rất dẽ biến động bất thường trên htị trường. Vì vậy, các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các công ty chứng khoán với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tư doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. 3.3 Chức năng bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành  thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Tổ chức bảo lãnh chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng. Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần phải có được sự bảo lãnh của một công ty nhỏ, và số lượng phát hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn, và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho người đầu tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được. Bảo lãnh phát hành gồm có các phương thức sau: - Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP)[1] và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu. - Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất. - Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại. - Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành  yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành. - Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ. 3.4 Chức năng tư vấn đầu tư a. Khái niệm Tư vấn đầu tư chứng khoán là đưa ra lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng. b. Nguyên tắc của hoạt động tư vấn - Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thề làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau: + Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán. + Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó. + Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lôgích, khoa học. 3.5 Chức năng quản lý danh mục đầu tư Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận. PHẦN B: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năn 2000, tính đến nay Ủy Ban Chứng Khoán Nhà nước đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty , với tổng vốn điều lệ đạt 6.959 tỷ đồng. Trong đó có 47 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngoài ra các công ty còn thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như : Lưu ký chứng khoán, cầm cố chứng khoán, repo chứng khoán, dịch vụ thị trường vốn, dịch vụ thị trường nợ, quản lý tài sản, tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 1. Hoạt động môi giới. Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những Công ty chứng khoán đã có bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như: VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường; BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; CTCK Sài Gòn (SSI) có 26.746 tài khoản, chiếm 10,48%; Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Bên cạnh đó, một số Công ty chứng khoán tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần, ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần, Công ty chứng khoán Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2.04% thị phần... Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các Công ty chứng khoán đạt 25.196 tỷ đồng. Những Công ty chứng khoán có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số là những công ty đã có nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản (xem bảng dưới đây). Đơn vị: tỷ đồng Công ty chứng khoán Doanh số giao dịch tháng 6/2007 Thị phần giao dịch tháng 6/2007 VCBS 6.362,5 25,25% ACBS 3.361 13,34% SSI 3.253 12,91% BVSC 2.182 8,66% BSC 1.313 5,21% 2. Hoạt động tự doanh. Thời điểm hiện nay các CTCK hoạt động tự doanh vẫn chưa thực sự nổi bật, các CTCK mới chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có thể được nhìn nhận dưới rất nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp của hoạt động tự doanh hay các CTCK chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp vụ môi giới trước để từ đó rút kinh nghiệm triển khai các hoạt động có liên quan trong tương lai... Phức tạp bởi vì muốn tự doanh thành công phải trải qua nhiều bước như: xây dựng chiến lược đầu; khai thác và tìm kiếm cơ hội đầu tư; phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư; thực hiện đầu tư; quản lý đầu tư và thu hồi vốn. Từ năm 2006 đến năm 2007 nghiệp vụ tự doanh đang trên đà phát triển nhanh chóng. Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực: Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình. Tuy nhiên, hiện nay do số lượng các chứng khoán niêm yết còn ít nên nghiệp vụ này hầu như chưa được triển khai. Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức như mua chứng khoán không niêm yết trên OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định. Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán.  Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình. Năm 2004, cùng với môi giới, nghiệp vụ tự doanh cũng được các công ty chú trọng thực hiện, nhiều công ty tăng vốn điều lệ để được thực hiện nghiệp vụ này như CTCK Sài Gòn tăng vốn 2 lần lên 20 tỷ đồng, CTCK Thăng Long tăng vốn từ 9 tỷ lên 43 tỷ đồng, CTCK Ngân hàng ĐT&PT và CTCK Ngân hàng NN&PTNT tăng vốn lên 100 tỷ để gia tăng tiềm lực tài chính, có điều kiện mở rộng các loại hình kinh doanh chứng khoán. Tổng giá trị giao dịch và doanh thu tự doanh đã tăng mạnh qua các năm mặc dù mức độ có khác nhau ở từng công ty. Hiện đã sự thay đổi về kết cấu danh mục đầu tư chứng khoán tự doanh ở các CTCK. Nếu như 2 năm đầu mới đi vào hoạt động (2000-2002), các công ty tập trung vào tự doanh cổ phiếu chưa niêm yết thì bắt đầu từ nửa cuối năm 2002 đến nay các công ty tập trung vào tự doanh trái phiếu và cổ phiếu niêm yết. Những CTCK tự doanh nhiều cổ phiếu là CTCK Đệ Nhất, CTCK ACB. Những CTCK tự doanh nhiều trái phiếu là CTCK Ngân hàng NN&PTNT, CTCK Ngân hàng ngoại thương, CTCK Ngân hàng công thương, CTCK ngân hàng ĐT&PT. Sự gia tăng về giá trị trái phiếu tự doanh trong thời gian gần đây đã góp phần kích hoạt thị trường thứ cấp về trái phiếu, điều mà hơn 2 năm trước đây không có được. Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CTCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao. Đối với khối CTCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CTCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CTCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CTCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng). 3. Hoạt động bảo lãnh phát hành. Ở Việt Nam, theo qui định tại Thông tư 01/1998/TT-UBCK ngày 13/10/1998 của UBCK Nhà nước hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng thì bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau: - Mua toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu được phép phát hành để bán lại. Đây chính là phương thức cam kết chắc chắn vì tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua toàn bộ lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu của đợt phát hành. - Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết Đây thực chất cũng là một dạng của phương thức cam kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết. Hoạt động bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị. Trong 6 tháng đầu năm 2007 chỉ có 4 hợp đồng bảo lãnh được thực hiện, xem số liệu sau: Công ty Khối lượng bảo lãnh Giá bảo lãnh (đồng) Vốn chủ sở hữu của CTCK (tỷ đồng) Hình thức bảo lãnh Số hợp đồng bảo lãnh Giá trị bảo lãnh (triệu đồng) BVSC 5.314 33.500 150 Chắc chắn 1 178 ACBS 880.000 67.000 250 Chắc chắn 1 58.960 Cty CK Thăng Long 108.758 451.000 120 Chắc chắn 2 49.050 Số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít công ty chứng khoán thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này. 4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. 4.1 Tư vấn đầu tư chứng khoán. Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CTCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CTCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CTCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CTCK An Bình hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng). 4.2 Tư vấn niêm yết. Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CTCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Những CTCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CTCK Sài Gòn (30 hợp đồng), CTCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á. 4.1 Tư vấn khác. Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng  này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng). Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CTCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt. 5. Các hoạt động khác. 5.1 Lưu ký chứng khoán Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK). Theo Quyết định này, TTLKCK là đơn vị sự nghiệp có thu, thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)- Bộ Tài chính. Việc ra đời TTLKCK là đòi hỏi tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam ở giai đoạn phát triển hiện nay; đó cũng là xu hướng và theo thông lệ trên thị trường chứng khoán quốc tế, nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Thông thường ở các nước trên thế giới, các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán do một hoặc một số tổ chức độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán đảm nhận. Các tổ chức này được xây dựng theo một trong hai mô hình sau: (i) TTLKCK thực hiện toàn bộ các dịch vụ đó; hoặc (ii) TTLKCK và một tổ chức bù trừ cùng cung cấp các dịch vụ đó. Ở Việt Nam, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương IX và Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam tới năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự kiến sẽ đưa tổng giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán đến năm 2005 đạt khoảng 2-3% GDP và đến năm 2010 sẽ đạt mức 10-15% GDP. Để đáp ứng được yêu cầu này, Bộ Tài chính, UBCKNN sẽ phải thực hiện đồng thời nhiều giải pháp phát triển thị trường, từ xây dựng Luật Chứng khoán, tạo cung cầu hàng hoá trên thị trường cho tới việc tạo dựng sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng của thị trường chứng khoán. TTLKCK ra đời tại Việt Nam sẽ góp phần tạo dựng lên sự đồng bộ kết cấu hạ tầng này, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Quy mô thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam hiện nay chưa lớn: Với gần 300 loại chứng khoán được niêm yết, đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) Tp. Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội (trong đó có 30 loại cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh, 6 loại cổ phiếu đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội; khoảng 260 trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty; và 1 loại Chứng chỉ Quỹ đầu tư); hơn 24.000 tài khoản giao dịch chứng khoán của các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở tại 13 công ty chứng khoán. Số chứng khoán này đã và đang được các nhà đầu tư giao dịch mua/ bán trên thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là nhu cầu đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán là “có thực” trên thị trường chứng khoán hiện nay. Hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán chứng khoán hiện nay Việc lưu ký chứng khoán hiện nay được thực hiện qua 2 cấp: Cấp I- Người sở hữu chứng khoán phải lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký (hiện có 13 công ty chứng khoán, 2 ngân hàng trong nước và 3 ngân hàng nước ngoài là thành viên lưu ký); Cấp II- Thành viên lưu ký sẽ tái lưu ký chứng khoán đó tại TTGDCK. Thực tế hiện nay, hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán chứng khoán (bao gồm cả chứng khoán niêm yết/đăng ký giao dịch và chứng khoán không niêm yết/đăng ký giao dịch trên 2 TTGDCK) được thực hiện thông qua 2 Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ- Lưu ký chứng khoán của 2 TTGDCK. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ- Lưu ký chứng khoán tại TTGDCK là: (i) Đăng ký chứng khoán: Thực hiện đăng ký lưu ký chứng khoán; ghi nhận quyền sở hữu chứng khoán; thực hiện quyền cho người sở hữu và cấp mã số kinh doanh chứng khoán cho nhà đầu tư nước ngoài; (ii) Lưu ký chứng khoán: Mở và quản lý tài khoản lưu ký chứng khoán cho các thành viên lưu ký, Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng; lưu giữ an toàn chứng khoán; chuyển giao chứng khoán qua hệ thống bút toán ghi sổ; (iii) Thanh toán bù trừ: Thực hiện phương thức bù trừ đa phương và thanh toán giao dịch chứng khoán theo chu kỳ T+3; thực hiện nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với thanh toán tiền; quản lý Quỹ hỗ trợ thanh toán. Trong thời gian tới, cầu về dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ việc hoàn tất giao dịch mua/bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung là rất lớn bởi vì: (i) Chính phủ đang thực hiện quyết liệt cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tạo hàng hoá cho thị trường cộng với trên 2.000 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá và hàng nghìn công ty cổ phần đang hoạt động sẽ tạo lên một khối lượng hàng hoá “khổng lồ” cho thị trường chứng khoán; (ii) Các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ Hỗ trợ phát triển, cùng với hơn 250 doanh nghiệp trong danh sách các công ty cổ phần thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCK Việt Nam trong năm 2005 theo Quyết định số 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, sẽ tạo khối lượng lớn hàng hoá cho thị trường chứng khoán tập trung trong năm nay và những năm tiếp theo. Trước đòi hỏi thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam và theo thông lệ quốc tế, việc “gộp” 2 bộ phận đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán tại 2 TTGDCK để hình thành một TTLKCK độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán/TTGDCK là một “thực tiễn khách quan”, làm cho loại hình dịch vụ này trở lên an toàn hơn và chuyên nghiệp hơn. TTLKCK đi vào hoạt động ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho thị trường chứng khoán Việt Nam; cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký và thanh toán, bù trừ chứng khoán như đã đề cập ở trên còn mang lại nhiều lợi ích khác như: i) Giảm rủi ro và chi phí liên quan đến việc thanh toán các giao dịch chứng khoán do giao dịch mua/bán chứng khoán được thực hiện tự động và không thanh toán bằng tiền mặt, trao tay; ii) Nâng cao hiệu quả cho nghiệp vụ sau thanh toán đối với các thành viên của TTLKCK từ đó sẽ nâng cao tính hiệu quả trong các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư như chi trả cổ tức; iii) Tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham gia thị trường, từ đó tạo ra sự hài hoà, đồng bộ giữa các mặt của thị trường chứng khoán; iv) Góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình phát triển và hội nhập của thị trường chứng khoán Việt Nam vào thị trường tài chính khu vực và thế giới, mà đặc biệt là thực hiện kết nối giữa các thị trường chứng khoán khu vực cũng như việc hình thành thị trường trái phiếu chung của khu vực trong thời gian tới; v) TTLKCK cung cấp các dịch vụ liên quan tới giao dịch chứng khoán cho người đầu tư nước ngoài thông qua các tổ chức lưu ký toàn cầu hoặc thông qua quan hệ đại lý giữa TTLKCK trong nước và các TTLKCK nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc tham gia đầu tư của người đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam có thể được hình dung như sau: Trên thị trường chứng khoán có 3 nhóm thành viên tham gia thị trường: Nhóm thứ nhất là các tổ chức phát hành chứng khoán, nhóm thứ 2 là các nhà đầu tư chứng khoán và nhóm thứ 3 là các tổ chức tài chính trung gian tham gia thị trường. TTLKCK cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán và tổ chức định mức tín nhiệm hình thành nên nhóm thứ 3 kể trên. TTLKCK sẽ được tổ chức theo mô hình thứ nhất như đã đề cập ở phần đầu của bài viết, nghĩa là các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ do một tổ chức độc lập duy nhất thực hiện là TTLKCK, không cần có thêm tổ chức bù trừ chứng khoán cùng đảm nhận. 5.2 Cầm cố chứng khoán Các nguyên tắc và phương thức cầm cố CK:   A. Là một nghiệp vụ kinh doanh CK - ít nhất có hai chủ thể tham gia:   a/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người đi vay uỷ quyền giao CK cho bên nhận cầm cố;   b/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người cho vay uỷ quyền nhận cầm cố CK bên cầm cố.   Việc thực hiện cầm cố CK trên cơ sở hợp đồng pháp lý cầm cố CK của hai chủ thể tham gia, trong đó quy định rõ giá trị CK cầm cố, số tiền vay, lãi suất và thời hạn trả nợ, phương thức xử lý CK cầm cố.   B. TTGDCK sau khi kiểm tra thủ tục, nhất là tính hợp pháp, hợp lý của nó thì trung tâm phải mở tài khoản cầm cố và chuyển CK vào tài khoản cầm cố theo yêu cầu của bên cầm cố.   Trường hợp bên cho vay (hoặc bên vay) không phải là thành viên lưu ký, bên cho vay (hoặc bên vay) phải uỷ quyền việc nhận cầm cố CK (hoặc việc giao CK cầm cố) cho một thành viên lưu ký khác. C. Tài khoản cầm cố phải tách biệt với tài khoản lưu ký các CK khác của bên cầm cố. Sau khi ghi vào tài khoản cầm cố CK, thì phải đình chỉ việc rút, chuyển khoản hoặc chuyển nhượng các CK trên tài khoản cầm cố trong thời gian cầm cố. TTGDCK gửi thông báo bằng công văn cho bên nhận cầm cố về việc đã thực hiện cầm cố CK.   D. Việc giải toả cầm cố CK được thực hiện theo các nguyên tắc:   - Người giải toả cầm cố CK phải là bên nhận cầm cố CK;   - Có thể giải toả toàn bộ hoặc một phần CK cầm cố bằng hình thức rút chứng chỉ hay chuyển khoản;   - Có văn bản đề nghị giải toả cầm cố CK của bên nhận cầm cố. Trên cơ sở đó, TTGDCK thực hiện huỷ bỏ việc cầm cố CK trong đăng ký người sở hữu CK và thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố việc huỷ bỏ cầm cố CK và giải toả tài khoản cầm cố sang tài khoản khác.   Nếu bên cầm cố CK thực hiện không đúng theo thoả thuận thì CK cầm cố đó được xử lý do các bên thoả thuận hoặc đưa ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật 5.3 Repo chứng khoán Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có đảm bảo bằng các chứng khoán và các tài sản đảm bảo khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại ( còn gọi là hợp đồng rp) trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng. Một hợp đồng repo quy định các điều sau : + Tư cách của các bên tham gia : là nhà đầu tư ( người cho vay tiền), nhà buôn ( người đi vay) + Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên + Tài sản đảm bảo + Tài sản dùng để repo : như là trái phiếu, cổ phiếu, hay các chúng khoán khác. Trên thế giới sử dụng nhiều nhất là các trái phiếu chínhphủ vì tính an toàn của nó. + Cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại chứng khoán cơ sở, biên độ giao động, khoản giảm trừ. + Các điều khoản xử lý các vấn đề phát sinh trong thời gian thực hiện repo + Các điều khoản khác Khi hai bên thực hiện kí một hợp đồng repo thì bên A tức bên Nhà buôn sẽ thực hiện bán số chứng khoán tương đương với một khoản tiền vay nào đó tại một tỉ lệ lãi suất chấp nhận được cho cả hai bên cho bên B ( nhà đầu tư) và cam kết sẽ mua lại vào một thời gian nào đó ( thông thường dưới 1 năm vì hợp đồng repo là công cụ trên thị trường tiền tệ). Giá mua lại chưng khoán là : Giá mua lại = Giá bán lần 1*( 1 + lãi suất repo/365* số ngày thực sự sở hữu chứng khoán) Nói chung thì một giao dịch repo có hai giai đoạn là giai đoạn bán chứng khoán và giai đoạn mua lại chứng khoán. Tham gia chủ yếu vào giao dịch repo là các nhà đầu tư có tổ chức lớn như ngân hàng, công ty chưng skhoán., các quỹ đầu tư..., các nhà buôn, nhà kinh doanh chưng skhoán, ngân hàng trung ương, các tổ chức cung cấp dịch vụ riêng cho hoạt động repo. Hợp đòng repo cũng được coi là một công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong ngắn hạn. Để hoạt động repo diễn ra suôn sẻ và tránh thiệt hại cho mỗi bên khi giá các chứng khoán repo bị biến động bởi thị trường thì các bên tham gia thường thỏa thuận với nhau một biên độ giao động giá hay một khoản giảm trừ đối với các chứng khoán repo. Vì thế giá của các chứng khoán cơ sở thường thấp hơn so với giá thị trường. Khoản giảm trừ này là tương đối nhỏ đối với các trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ và lớn hơn đối với cổ phiếu. Nghiệp vụ repo làm tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu vì thế rất quan trọng nếu muốnphát triển thị trường trái phiếu. Còn ở Việt Nam, nghiệp vụ repo được các công ty chứng khoán và ngân hàng thực hiện từ năm 2003 đối với các trái phiếu chính phủ, đến nay nghiệp vụ này đã đi tới cổ phiếu với mức độ rủi ro hơn nhiều so với trái phiếu. Đây cũng là nghiệp vụ mang lại doanh thu lớn cho các công ty chứng khoán. PHẦN C: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ. 1. Đánh giá về thực trạng hiện nay của các công ty chứng khoán. - Thị trường chứng khoán trầm lắng trong suốt mấy tháng qua đã làm cho phí môi giới của các CTCK sụt giảm nghiêm trọng, hơn nữa phần tự doanh được xem như là nguồn thu lớn thì cũng bị cắt giảm đáng kể. Tại nhiều công ty chứng khoán thì nguồn thu từ nghiệp vụ này chiếm tới gần 50% thu nhập hằng tháng. Chính vì thế, các công ty chứng khoán mới được thành lập trong thời điểm hiện nay lại lâm vào tình thế khó khăn. - Lượng công ty chứng khoán thành viên của TTGDCK TP HCM giờ đã vượt qua con số 60, với khoảng 140 sàn đang hoạt động nhưng chưa đáp ứng nhu cầu nhập lệnh của nhà đầu tư khi thị trường bùng nổ như cuối năm 2006 và đầu năm 2007, tình trạng nghẽn lệnh liên tục xảy ra tại nhiều công ty chứng khoán. - Cơ hội lựa chọn nhiều hơn nhưng nhiều nhà đầu tư mới vẫn có thói quen chọn sàn có tên tuổi. Bằng chứng là số tài khoản mới mở tại các công ty chứng khoán lớn như SSI, BSC, VCBS, ACBS vẫn tăng đều đặn ngay cả trong giai đoạn thị trường chìm lắng. - Với các nhà đầu tư kỳ cựu lại rất ngại đóng tài khoản để dời sang sàn khác bởi thủ tục khá nhiêu khê. Vì thế cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán trong lĩnh vực môi giới vẫn chủ yếu dừng ở việc thu hút khách hàng mới. Bốn công ty chứng khoán lớn là Công ty chứng khoán Sài Gòn, Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương, Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư Phát triển VN và chứng khoán Ngân hàng ACB nắm tới gần 80% thị phần do vậy cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán mới càng quyết liệt. - Các công ty môi giới chứng khoán ở Việt Nam cũng chưa đảm nhiệm tốt việc truyền bá thông tin về các cổ phiếu cho nhà đầu tư, không hình thành được mối liên kết thường xuyên giữa nhà môi giới và khách hàng. - Hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán đang có nguy cơ sẽ bị thổi còi bất cứ lúc nào nếu không cẩn thận. Theo Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC, ở điều 34 về hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán có ba mục đang đánh đố nhà điều hành các công ty chứng khoán. + Mục 3, điều 34, nói rằng công ty chứng khoán phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác trong giao dịch trực tiếp với khách hàng và không được thu phí giao dịch của khách hàng trong trường hợp này. + Mục 4 điều 34 quy định rằng trong trường hợp lệnh mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng có thể ảnh hưởng lớn tới giá của một loại chứng khoán nào đó, công ty chứng khoán không được mua hoặc bán trước cùng một loại chứng khoán cho chính mình hoặc tiết lộ thông tin cho bên thứ ba mua hay bán chứng khoán đó. + Điều khoản quy định việc tự doanh của công ty chứng khoán cũng đề cập khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được mua hoặc bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện. Các quy chế được ban hành là nhằm để quản lý chặt chẽ tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán và để bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ, tuy nhiên những quy định như vậy sẽ là không công bằng với các công ty chứng khoán trên cương vị họ cũng là một trong số những nhà tạo lập thị trường, đầu tư một cách chuyên nghiệp và có tổ chức. - Nghề môi giới tư vấn chứng khoán (broker) đòi hỏi phải có trình độ cao, có khả năng phân tích tài chính, thu thập, dự đoán thông tin chứng khoán nhanh để tư vấn cho khách hàng đầu tư với xác suất thành công cao nhất. Tuy nhiên, phần lớn các chuyên viên tư vấn chuyên nghiệp ở Việt Nam vẫn còn thiếu và yếu, không chỉ thiếu về số lượng mà nghiệp vụ tư vấn và đạo đức của nhà tư vấn về kinh doanh chứng khoán còn rất hạn chế. - Cả nước hiện chỉ có khoảng hơn 300 nhà môi giới, tư vấn chuyên nghiệp. Song phần lớn nhân viên môi giới và tư vấn chuyên nghiệp khi tư vấn cho nhà đầu tư vẫn thuộc dạng thụ động còn nặng về cảm tính. 2. Những thách thức đối với công ty chứng khoán trong thời điểm hiện nay. Với kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 khá vượt trội của nhiều CTCK trong bối cảnh thị trường rơi vào xu thế trầm lắng, kéo dài sang các tháng của quý III/2007, đã phần nào phản ảnh rõ nét những bước đi vững chắc của các khối CTCK. Sự ra đời của hàng loạt các CTCK đã góp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng, đồng thời tạo ra áp lực cạnh tranh buộc các CTCK phải tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng. Mặc dù vậy, do hiện nay tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư chứng khoán vẫn còn rất nhỏ, nên việc số lượng các CTCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đã dẫn đến một số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế, vì mục tiêu lợi nhuận của mình một số CTCK đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Trên thực tế, hiện nay với số lượng trên 60 CTCK được cấp phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000 khách hàng (là các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân, trong khi đó các CTCK lớn và hoạt động lâu năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đã thâu tóm khoảng 85% lượng khách hàng, những CTCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật chia nhau 15% thị phần còn lại (chưa kể số CTCK mới đang nộp hồ sơ chờ cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CTCK đã phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị, thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động trong thời gian gần đây số lượng khách hàng đến đầu tư không đáng kể, khiến nhiều CTCK bị thâm hụt vốn sở hữu. Để hút khách trên thị trường, nhiều công ty đã mở rộng dịch vụ repo và hạ phí... Tuy nhiên, nóng bỏng hơn cả là cuộc đua hạ phí. Theo quy định, phí giao dịch thu từ các nhà đầu tư là 0,5% trên giá trị giao dịch. Nhưng hiện nay đã bị một số CTCK hạ đến mức thấp nhất, thậm chí có CTCK không thu phí trong 3 tháng đầu hoạt động. Đặc biệt, nhiều CTCK mới thành lập đã sử dụng chiêu khuyến mại bằng cách tặng tiền cho khách hàng mở tài khoản giao dịch tại công ty và trừ dần vào phí giao dịch. Trên thực tế trong thời gian gần đây, thông tin về việc giảm, miễn phí giao dịch của các CTCK liên tục được công bố trên thị trường. Trong đó, tất cả các CTCK lớn nhỏ lần lượt vào cuộc, dù đây là nguồn thu đáng kể, nhất là với những thành viên mới hoạt động. Với CTCK, đây là một hình thức khuyến mãi, kéo nhà đầu tư đến sàn giao dịch... Nhưng với nhiều công ty nhỏ, mới tham gia thị trường, kinh doanh đang lỗ thì việc giảm phí sẽ là một gánh nặng lớn. Ngoài việc khó khăn về chiếm lĩnh thị phần, sự thiếu hụt nguồn nhân lực cũng đặt các CTCK vào những tình thế khó khăn. Tính đến thời điểm 30/6/2007, số nhân viên được UBCKNN cấp Chứng chỉ hành nghề chứng khoán đạt khoảng 650 người. Tuy nhiên, do có nhiều CTCK được cấp phép trong những tháng cuối năm 2006 và có khoảng trên 80 Hồ sơ đề nghị thành lập CTCK đã được gửi UBCKNN nên số người hành nghề chứng khoán đã được cấp Chứng chỉ hành nghề chứng khoán tại các công ty lại càng thiếu hụt. Mặt khác, do Quy chế hành nghề chứng khoán chưa chính thức ban hành nên tại một số công ty, một số người hành nghề đã có Hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề nhưng chưa được cấp. Bên cạnh đó, một số công ty có số người hành nghề tương đối ít so với yêu cầu tối thiểu theo quy định, giữa các CTCK có xu hướng dịch chuyển, thu hút, lôi kéo nhân viên hành nghề... Thị trường chứng khoán đang phát triển và dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tới, tạo thêm cơ hội cho các thành viên. Tuy nhiên, thời điểm thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang gần kề, các công ty chứng khoán nước ngoài sắp nhập cuộc, theo đó các thành viên trong nước phải nỗ lực nâng cao sức mạnh của mình với những định hướng nói trên. 3. Các giải pháp và kiến nghị Mặc dù hiện tại hoạt động kinh doanh của các CTCK khá khó khăn theo bối cảnh chung của thị trường, hướng cạnh tranh chính và lâu dài nhất là các công ty không nên quá chú trọng tới việc cạnh tranh bằng phí giao dịch, thay vào đó nên đầu tư công nghệ và tăng tiện ích. Sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường, trong đó có phí giao dịch, nên xây dựng mức phí trần và sàn. Trong đó, mức phí sàn sẽ được xác định để tránh cạnh tranh không lành mạnh. Và trong bối cảnh thị trường chưa ổn định thì cũng cần đưa ra mức trần. Ngoài khả năng áp trần và sàn phí giao dịch đối với các CTCK. Theo dõi hoạt động của các CTCK, cơ quan quản lý thị trường nên ban hành Quy chế người hành nghề chứng khoán, tạo điều kiện để các CTCK có số người hành nghề đảm bảo theo quy định pháp luật hiện hành. Phát triển các công ty chứng khoán phải được đặt trong hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức, tạo điều kiện để các tổ chức này tham gia thị trường với tư cách là nhà đầu tư chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của nhà tạo lập thị trường. Các công ty chứng khoán nên thành lập những trung tâm đào tạo chuyên biệt, tương tự như các ngân hàng thương mại và một số công ty bảo hiểm lớn hiện nay. Ngoài nghiệp vụ, kinh nghiệm còn là yêu cầu bồi dưỡng và nâng cao đạo đức của nguồn nhân lực, bản thân lãnh đạo các công ty chứng khoán cũng là đối tượng của yêu cầu này. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán cần có sự phát triển đồng bộ. Các công ty chứng khoán phải đủ năng lực để đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu thị trường. Vừa qua, một số công ty không đáp ứng được về hạ tầng để phục vụ nhà đầu tư hay như không đáp ứng được kỹ thuật khi có yêu cầu khớp lệnh liên tục… Thay vì để tự quy luật thị trường sàng lọc nên đặt ra những điều kiện gắt gao hơn nữa về năng lực, tài chính của các đơn vị xin thành lập công ty chứng khoán, tương tự như trường hợp ngành ngân hàng quy định về việc thành lập ngân hàng cổ phần. KẾT LUẬN Với mong muốn được nghiên cứu về Hoạt động của công ty chứng khoán mà điển hình là các công ty chứng khoán trên thị trường Việt Nam, là một đề tài tuy không mới nhưng mang tính hiện thực và đang rất cần thiết trong điều kiện phát triển của thị trường tài chính ở nhức ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng vì trình độ và thời gian có hạn, nên tiểu luận khó tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức. Nhóm chúng em rất mong được sự góp ý của quý thầy và các bạn lớp NH1-K16 để những kiến thức trên được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO š›&š› Thị trường chứng khoán – GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền, PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn - Trường ĐH Kinh Tế Tp.HCM. Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và thị trường chứng khoán – TS. Đào Lê Minh – UBCK Nhà nước. Các website: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hastc.org.vn Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM www.vse.org.vn Saga Communication www.saga.vn Vietstock www.vietstock.com.vn Công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương www.vcbs.com.vn Công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư www.bsc.com.vn Bách khoa toàn thư www.wikipedia.org

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.doc
  • docTHỊ TRƯỜNG TIỀN GỬI VÀ CHO VAY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .doc
  • docGiải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.doc
  • docKHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.doc
  • docNHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.doc
  • docNHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.doc
  • docSỬ DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.doc
  • docThị trường hối đoái Việt Nam.doc
  • docTHỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ.doc
Luận văn liên quan