MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể: cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng năm 2000 là 36,77% tăng lên 41,52% năm 2006. Đạt được kết quả đó có sự đóng góp một phần của ngành CNCBTP, ngành luôn chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị ngành công nghiệp – xây dựng.[1]
So với các ngành công nghiệp khác, CNCBTP nước ta là ngành có truyền thống lâu đời nhưng sự phát triển của ngành còn này rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự đóng góp của ngành vào sự phát triển kinh tế đất nước và cải thiện nhu cầu thực phẩm cho nhân dân là không nhỏ, có thể kể đến đó là việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu nói chung, kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng (mặc dù chỉ dừng lại ở việc sơ chế) cụ thể: xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều đứng thế hai thế giới; hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới, Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến nông sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của đất nước. Lý do thì có nhiều, song tựu trung lại bao gồm: liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất thu gom đến giết mổ, chế biến; công nghệ sản xuất lạc hậu; máy móc thiết bị lỗi thời; đầu tư vào lĩnh vực này còn nhiều bất cập, hạn chế; giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào có chất lượng không cao, thiếu ổn định. Một lý do không thể không kể đến là tập tục tự giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi tận dụng phục vụ cho tiêu dùng của của gia đình còn phổ biến. Trước khi dịch cúm gia cầm xảy ra, cả nước có 28 cơ sở lớn chế biến thịt, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở chế biến thịt lợn, thịt bò, còn chế biến gia cầm thì chưa đáng kể.[2]
Là nước nông nghiệp, hàng năm, Việt Nam sản xuất ra khối lượng nông sản rất lớn. Tuy nhiên, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, tính mùa vụ cao, vì vậy, tình trạng thất thoát sau thu hoạch là rất đáng kể (lúa: dao động trong khoảng 12% đến 20%; rau quả trung bình 20%)[3], sản phẩm tiêu hao nhiều, chất lượng suy giảm do thiếu công cụ bảo quản, chế biến. Đối với chăn nuôi, do tập quán chăn nuôi phân tán, nhỏ lẻ cùng với tình trạng giết mổ, chế biến thủ công, thô sơ, tràn lan, nên khi có dịch bệnh xảy ra, một mặt chúng ta không kiểm soát chặt chẽ được nguồn lây bệnh và công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặt khác, do tâm lý e ngại bệnh tật, không có công nghiệp chế biến mà thị trường sản phẩm này gần như đóng băng còn người chăn nuôi thì điêu đứng. Hơn nữa, Nhà nước phải chi ra lượng tiền hàng ngàn tỷ đồng để phòng và chống dịch nhằm đảm tính mạng cho con người và khôi phục lại tình trạng sản xuất.
Mặc dù, hàng năm ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng lớn (năm 2006 đạt 3,1 triệu tấn)[4], song tỷ lệ qua chế biến mới đạt khoảng 8%. Đây là con số rất thấp, phản ánh thực trạng công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta còn rất sơ khai, cũng như tập quán tiêu dùng của người dân về thực phẩm tươi sống còn phát triển.
Với dân số trên 84 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7,5%/năm trong những năm qua, làm cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi người dân Việt Nam từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng, nhất là các sản phẩm sạch, các sản phẩm qua chế biến thậm chí qua chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh tế cao. Hơn thế nữa, do yêu cầu sản xuất, do đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp thời gian dành cho nội trợ, tự chế biến thực phẩm cũng giảm đi. Những tác động này làm thay đổi dần tập quán và cơ cấu tiêu dùng nên nhu cầu về các sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn trở nên thiết yếu.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng với giá rẻ, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào nước ta gây không ít khó khăn cho ngành công nghiệp còn yếu ớt này. Vì thế, khiến cho chúng ta dễ “thua ngay trên sân nhà” chứ chưa nói đến “chiến thắng trên sân người“ nếu như chúng ta không có chiến lược phát triển và đầu tư thích hợp.
Nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta sử dụng những nguồn lực quý giá có hiệu quả nhất, tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh và vững chắc thì việc vạch hướng đi cho ngành là đòi hỏi tất yếu. Chính vì lẽ đó, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” là việc làm cần thiết, cấp bách, xuất phát từ đòi hỏi thực tế khách quan của ngành.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Một Là, xác định vị trí, vai trò của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm;
Hai là, xác định thực trạng năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam; và
Ba là, đề xuất phương án chiến lược và khuyến nghị các điều kiện để thực hiện phương án đó.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý thuyết và thực tiễn về phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực chế biến sản phẩm từ thịt (thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm) của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp so sánh tổng hợp.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Sự cần thiết lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 3: Phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
94 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2694 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm tới Bộ Tài Chính.
. Như vậy, cuộc cạnh tranh khốc liệt giành thị phần của thịt và các sản phẩm thịt chế biến nhập ngoại tại thị trường Việt Nam đã thực sự bắt đầu, đó là cuộc cạnh tranh toàn cầu nơi mà các doanh nghiệp CBTP Việt Nam sẽ có thêm rất nhiều đối thủ mới với “hành trang” của họ đã có sẵn nhiều lợi thế như: giá rẻ, chất lượng, đa dạng chủng loại, đảm bảo VSATTP sẽ có thêm cơ hội để “hạ gục” sản phẩm cùng loại trong nước vốn dĩ có nhiều hạn chế: công nghệ chế biến lạc hậu, năng suất lao động thấp, VSATTP không đảm bảo được tạo ra từ các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, trong khi trình độ quản lý yếu, khả năng tiếp cận thị trường chậm thể hiện rõ nhất ở các doanh nghiệp Nhà nước nơi mà di sản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn tồn tại khá nặng bởi họ quen được “Nhà nước bao cấp tư duy, bao cấp về chức năng và bao cấp về trách nhiệm” Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010.
, thêm vào đó là sự am hiểu luật pháp quốc tế còn nhiều hạn chế;
Ba là, việc hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi (đầu vào của CNCB thịt) khó thực hiện trong thời gian trước mắt do:
+ Giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng mạnh;
+ Chăn nuôi phân tán: hiện nay, cả nước có 16.012 trang trại (tính đến 1.10.2006) và khoảng 7 triệu hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm Nguyễn Anh Tuấn (2007), “Chăn nuôi trang trại giai đoạn 2001-2006 và một số giải pháp phát triển giai đoạn 2007-2015”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ II – tháng 1, trang 8-9.
. Tuy nhiên, chăn nuôi trang trại vẫn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch. Đến nay, một số địa phương mới bắt đầu quan tâm đến quy hoạch các khu chăn nuôi tập trung, công nghiệp;
+ Liên kết 4 Nhà (Nhà nông, Nhà khoa học, Nhà quản lý và Nhà doanh nghiệp) quá lỏng lẻo và còn nặng hình thức, do đó không tận dụng được thế mạnh của nhau, làm một số chi phí tăng (chi phí giao dịch, thu gom, lựa chọn,..);
+ Năng suất lao động của nước ta nói chung, của ngành nói riêng còn thấp, cùng với sự khan hiếm lao động có trình độ, tay nghề cao và tốc độ cải thiện thu nhập cho người lao động còn chậm là thách thức lớn đối với việc phát triển ngành trong thời gian tới;
+ Chăn nuôi tận dụng là chủ yếu, khoảng 65% sản phẩm chăn nuôi hiện nay được nuôi dưới hình thức tận dụng trong các hộ, 25% chăn nuôi bán công nghiệp, còn lại là chăn nuôi công nghiệp Cục Chăn nuôi, Bộ NN & PTNT.
; và
+ Năng suất của chăn nuôi thấp: với lợn chỉ bằng khoảng 80 - 85%, với gà bằng 85 - 90% so với các nước trong khu vực và so với nước xuất xứ;
Bốn là, đầu vào CNCBTP không đảo bảo chất lượng, VSTY kém:
+ Chất lượng con giống chưa đảm bảo;
+ Phương thức chăn nuôi truyền thống tận dụng vẫn chiếm tỷ lệ cao;
+ Tỷ lệ nạc của lợn thấp dao động từ 35% đến 45% là chủ yếu Cục Chăn nuôi, Bộ NN & PTNT.
;
+ Chúng ta chưa kiểm soát được việc sử dụng các chất kích thích, chưa kiểm soát được VSTY trong chăn nuôi; và
+ Các phòng phân tích, kiểm tra chất lượng thịt, chất lượng con giống và cả giai đoạn trước đó là kiểm tra chất lượng thức ăn gia súc, chất lượng thuốc thú y cũng chưa được quan tâm đúng mức;
Năm là, người mua ngày càng khó tính, khắt khe: trên thị trường toàn cầu, người tiêu dùng có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn cho hàng hoá mà họ cần. Không những thế, người tiêu dùng ngày nay không chỉ quan tâm đến chất lượng, VSATTP, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả mà họ còn quan tâm đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sản xuất, đến vấn đề môi trường trong sản xuất, đến thái độ của doanh nghiệp với người lao động,..Vì thế, nhiều người tiêu dùng mong muốn các sản phẩm của họ được sản xuất ở các nước phát triển. Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, VSTY và VSATTP đối với sản phẩm thịt ngay càng cao, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Do vậy, để thâm nhập được thị trường toàn cầu đòi hỏi hàng hoá Việt Nam phải đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn đó, đây là thách thức không phải một sớm một chiều các doanh nghiệp CBTP của ta làm được;
Sáu là, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển. Chi phí về đầu tư, dịch vụ, vận tải còn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (chẳng hạn, chi phí vận tải trong nước cao hơn các nước trong khu vực 1.5 đến 2 lần), hạn chế đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp;
Bảy là, việc triển khai thực hiện các chính sách và cơ chế hỗ trợ của Chính phủ về phát triển ngành CNCBTP còn nhiều bất cập; cải cách hành chính còn chậm nên đã ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư;
Tám là, dịch cúm gia cầm và bệnh LMLM ở gia súc đang diễn biến rất phức tạp và mang tính chu kỳ;
Chín là, bên cạnh những thách thức về tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, ngành CNCBTP còn gặp không ít thách thức trong lĩnh vực xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, vấn đề mà lâu nay các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp CNCBTP Việt Nam nói riêng thường bỏ ngỏ. Khi hội nhập, đây là vấn đề mà đối tác nước ngoài thường quan tâm rất sát sao. Điều này khiến các doanh nghiệp và Chính phủ không thể làm ngay tức khắc;
Mười là, gia súc, gia cầm nhập lậu qua biên giới với số lượng lớn diễn ra thường xuyên và ngày càng phức tạp, trong khi đó lực lượng chuyên ngành còn mỏng về số lượng và thiếu về phương tiện do đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành;
Mười một là, chúng ta ở gần các nước có ngành CNCB khá phát triển như: Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan,..một mặt thuận lợi cho việc học hỏi kinh nghiệm và tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, mặt khác là thách thức rất lớn lớn cho các doanh nghiệp trong ngành bởi chất lượng sản phẩm của họ cao, giá thành thấp, cùng với chi phí vận chuyển đến Việt Nam không đáng kể nên sức cạnh tranh của hàng hoá cao hơn nước ta; và
Mười hai là, việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu mã diễn ra tràn lan và chưa được giải quyết triệt để làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó cạnh tranh bình đẳng và đúng luật trên thị trường thế giới.
2.4 PHÂN TÍCH SWOT NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
2.4.1 Ma trận SWOT ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của VN
Khung phân tích SWOT được trình bày dưới dạng ma trận, gồm 4 phần thể hiện 4 nội dung của SWOT: Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Thách thức cùng một số câu hỏi mẫu và câu trả lời được điền vào các phần tương ứng
Nhằm đưa ra những định hướng chiến lược cho công nghiệp chế biến thực phẩm, chúng ta vận dụng phân tích ma trận SWOT, như sau:
Điểm mạnh của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam (S):
- Một số doanh nghiệp đầu tư chiều sâu dây chuyền, công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo VSATTP được người tiêu dùng chấp nhận;
- Lực lượng lao động trong ngành dồi dào, khả năng thích ứng với công việc cao, năng động, giá nhân công rẻ;
- Tỷ suất vốn đầu tư thấp, thời gian thu hồi vốn nhanh;
- Ngày càng có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào ngành, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Các doanh nghiệp lớn đã có chiến lược phát triển phù hợp; và
- Tốc độ tăng trưởng của ngành cao trong thời gian qua.
Điểm yếu của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam (W):
- Giết mổ chế biến nhỏ lẻ, phân tán còn phổ biến;
- Máy móc, thiết bị chế biến, bảo quản, chuyên chở cũ, công nghệ chế biến phần lớn lạc hậu;
- Phần lớn chất lượng sản phẩm thấp, VSATTP không được đảm bảo;
- Liên kết bốn nhà trong sản xuất kinh doanh còn lỏng lẻo, chưa đảm bảo tạo ra sức mạnh tổng hợp;
- Giá thành sản phẩm thịt chế biến cao;
- Ngành chưa có thương hiệu mạnh, phần lớn doanh nghiệp chế biến nhỏ chưa xây dựng được thương hiệu cho các sản phẩm chế biến của mình;
- Quy mô vốn, lao động của các doanh nghiệp trong ngành còn rất thấp;
- Phần lớn người lao động có trình độ tay nghề thấp. Chưa thu hút được lao động có trình độ cao do thu nhập và điều kiện làm việc chưa đảm bảo;
- Thịt chế biến mới thâm nhập được thị trường dễ tính;
- Quy trình kiểm soát giết mổ, chế biến chưa được thực hiện nghiêm túc;
- Kỹ năng quản lý sản xuất và quản lý kỹ thuật còn yếu kém. Còn nhiều doanh nghiệp chế biến thịt chưa am tường về nghiên cứu thị trường, thị trường trong nước đầy tiềm năng chưa được quan tâm đúng mức; và
- Công tác thông tin, thị trường nhất là thị trường thế giới còn yếu, chưa đầy đủ và chưa kịp thời.
Cơ hội cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam (O):
- Nhu cầu thịt chế biến tăng;
- Nguồn nguyên liệu đầu vào đa dạng, phong phú;
- Môi trường trong nước cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hơn;
- Việt Nam được đối xử bình đẳng trong “sân chơi” toàn cầu;
- Chính phủ quan tâm thúc đẩy ngành phát triển;
- Nhà nước còn có khả năng tăng cường hỗ trợ cho ngành trong khung khổ của WTO; và
- WTO cho phép các nước đang phát triển áp dụng chính sách hỗ trợ.
Thách thức đối với ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của VN (T):
- Người tiêu dùng chưa “mặn mà” với sản phẩm thịt chế biến;
- Thịt chế biến nước ngoài giá rẻ, chất lượng cao tràn vào Việt Nam;
- Giá thành sản phẩm chăn nuôi khó hạ thấp trong thời gian trước mắt;
- Phần lớn đầu vào chưa đảm bảo chất lượng, VSTY kém;
- Người mua ngày càng khó tính, khắt khe;
- Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm;
- Thực thi chính sách hỗ trợ của Nhà nước còn nhiều bất cập;
- Dịch cúm xảy ra có tính chu kỳ hàng năm;
- Vấn đề chất thải và môi trường trong sản xuất còn bị bỏ ngỏ;
- Hàng nhập lậu qua biên giới diễn biến phức tạp; và
- Chúng ta ở gần các nước có ngành CNCBTP phát triển.
Trên cơ sở phân tích môi trường bên ngoài (cơ hội thách thức), môi trường bên trong (điểm mạnh, điểm yếu) ngành CNCBTP của Việt Nam ta thành lập ma trận SWOT cho ngành như sau:
Bảng 2.12 Ma trận SWOT ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
của Việt Nam
S
W
S1: Một số doanh nghiệp đầu tư chiều sâu;
S2: Lao động dồi dào, năng động, giá nhân công rẻ;
S3: Tỷ suất vốn đầu tư thấp, thời gian thu hồi vốn nhanh;
S4: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tăng cường đầu tư;
S5: Các DN lớn đã có chiến lược phát triển phù hợp.
W1: Giết mổ chế biến nhỏ lẻ, phân tán;
W2: Máy móc, thiết bị, dây chuyền lạc hậu;
W3: Chất lượng SP và VSATTP thấp;
W4: Liên kết bốn nhà còn lỏng lẻo;
W5: Giá thành sản phẩm thịt chế biến cao;
W6: Chưa có thương hiệu mạnh.
O
O1: Nhu cầu thịt chế biến tăng;
O2; Nguồn nguyên liệu đa dạng, phong phú;
O3: Môi trường trong nước cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hơn;
O4: VN được đối xử bình đẳng trong WTO;
O5: Chính phủ quan tâm thúc đẩy ngành phát triển.
P1 = S1 + S4 + S5
O1 + O3 + O4
“Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”
P2 = O1 + O2 +
O5 + W2 + W3
“Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Vịêt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước”
T
T1: Người tiêu dùng chưa “mặn mà” với sản phẩm thịt chế biến;
T2: Thịt CB nước ngoài tràn vào VN;
T3: Giá thành sản phẩm chăn nuôi khó hạ thấp;
T4: Chất lượng đầu vào thấp, VSTY kém;
T5: Người mua ngày càng khó tính, khắt khe;
T6: CNg phụ trợ phát triển chậm.
P3=S2 + S3 +
T1 + T3 + T4
“Tận dụng lợi thế về tỷ suất vốn đầu tư thấp, lao động trong ngành dồi dào, năng động, giá nhân công thấp để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm giá rẻ“
Không đưa ra phương án
2.4.2 Các phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam
Thông qua một số kết hợp từng cặp được rút ra từ Bảng SWOT ngành CNCBTP của Việt Nam, các phương án chiến lược phát triển của ngành được đưa ra đó là:
P1 (Phương án 1): “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”.
P2 (Phương án 2): “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Vịêt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước”.
P3 (Phương án 3): “Tận dụng lợi thế về tỷ suất vốn đầu tư thấp, lao động trong ngành dồi dào, năng động, giá nhân công thấp để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm giá rẻ”.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
3.1 LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
3.1.1 Phân tích các phương án chiến lược
Phương án 1: “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu”.
Ưu điểm : thông qua chế biến sâu sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm VSATTP, tạo ra sản phẩm chế biến giàu dinh dưỡng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Cũng nhờ quá trình chế biến này, sản phẩm có thêm đặc tính mới, đa dạng chủng loại, vì thế khả năng cạnh tranh cao hơn và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là nhóm khách hàng khó tính. Vì thế, sản phẩm có khả năng thâm nhập thị trường thế giới. Cùng với nguồn nguyên liệu sẵn có, đa dạng, tại chỗ giúp giảm thiểu chi phí vận chuyển. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi để sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao hơn.
Nhược điểm: chế biến sâu đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành phải đầu tư mạnh vào máy móc, thiết bị, dây chuyền, công nghệ sản xuất, chi cho đào tạo và bồi dưỡng tay nghề cho đội ngũ người lao động. Mặt khác, các doanh nghiệp dành khoản tiền phục vụ cho nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu thị trường, chi phí cho việc khuếch trương sản phẩm mới,..Ngoài ra, cần đội ngũ các nhà quản lý, lãnh đạo nhạy bén, có tầm chiến lược. Chính vì thế, phương án này sẽ hạn chế số lượng doanh nghiệp tham gia do họ không có đủ điều kiện để thực hiện. Hơn thế nữa, sản phẩm chăn nuôi, đầu vào của ngành CNCBTP, của Việt Nam còn nhiều hạn chế như: chất lượng đầu vào thấp, chưa đảm bảo VSTY,..gây khó khăn cho việc thu gom, tuyển chọn đầu vào. Vì thế, làm cho giá thành sản phẩm thịt chế biến tăng cao khiến cho nhiều người tiêu dùng không có khả năng chi trả mặc dù họ biết đó là sản phẩm có chất lượng cao, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh và có lợi cho sức khoẻ.
Tính khả thi: mặc dù, nước ta vẫn thuộc nhóm nước có thu nhập thấp nhất thế giới, song trong vòng hơn một thập kỷ qua tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức cao khiến cho đời sống của nhân dân không ngừng tăng lên (năm 2006 là 723 USD/người). Hội nhập kinh tế quốc tế, một mặt tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho dân cư, mặt khác thời gian dành cho tự chế biến sẽ giảm dần. Do đó, tập tục sử dụng sản phẩm tươi sống sẽ giảm, thay vào đó là nhu cầu thực phẩm qua chế biến tăng lên.
Trong thời gian qua, một số doanh nghiệp đã đầu tư nâng cao năng lực sản xuất để chế biến sâu như: Vissan, đồ hộp Hạ Long, Việt Đức,.. thu được những thành công nhất định. Tương lai, các doanh nghiệp khác có điều kiện phát triển thông qua liên doanh, liên kết với các đối tác khác đặc biệt là đối tác nước ngoài để tăng năng lực sản xuất, giảm bớt gánh nặng chi phí thông qua lợi thế của ngành và sự hỗ trợ của Chính phủ.
Việt Nam có nguồn nguyên liệu đầu vào dồi dào, đa dạng, đội ngũ người lao động năng động, thích ứng nhanh với công việc, bảo hộ của Nhà nước về sở hữu trí tuệ được trú trọng hơn, các chính sách của Chính phủ ngày càng phù hợp với xu thế phát triển, đặc biệt là nước ta đã là thành viên của WTO, chúng ta có nhiều cơ hội phát triển ngành CNCBTP theo hướng chế biến sâu để có sản phẩm chất lượng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn, nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm hướng tới thay thế sản phẩm nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu.
Phương án 2: “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước”.
Ưu điểm: đầu tư nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong ngành để đổi mới trang thiết bị, dây chuyền công nghệ, tận dụng thế mạnh về nguồn nguyên liệu tạo nhằm ra sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng hoá chủng loại, đảm bảo các tiêu chuẩn VSATTP đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của đông đảo người tiêu dùng trong nước.
Khi thực hiện phương án chiến lược này, chúng ta chưa cần đáp ứng ngay các tiêu chuẩn quốc tế về sản phẩm thực phẩm chế biến, mà sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc gia, do vậy, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí đầu tư.
Khi CNCBTP phát triển kéo theo các ngành khác phát triển, trong đó có ngành chăn nuôi. Vì thế, đời sống của nông dân được nâng lên, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, thúc đẩy phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, công nghiệp, góp phần hạ giá thành chăn nuôi, hạn chế lây lan dịch bệnh.
Ngoài ra, khi CNCBTP phát triển mạnh sẽ hạn chế được việc giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán trong các khu dân cư, hè phố tiến tới thành lập các khu giết mổ tập trung ở các khu vực được quy hoạch.
Nhược điểm: cùng với sự phát triển của xã hội, đòi hỏi của người tiêu dùng sẽ rất cao, rất khắt khe ở nhiều mặt, nhất là ở các nước phát triển. Họ không chỉ đòi hỏi ở sản phẩm về chất lượng, quy cách, mẫu mã, bao bì, giá cả, VSATTP mà cả các yếu tố xã hội khác có liên quan, kết tinh trong hàng hoá. Vì thế, phương án chiến lược này sẽ không thúc đẩy được các doanh nghiệp trong ngành CNCBTP của Việt Nam vươn tới để đạt được các tiêu chuẩn đó, bởi lẽ họ sản xuất phục vụ cho người Việt Nam và theo tiêu chuẩn của Việt Nam, trong khi các đòi hỏi, các tiêu chuẩn của nước ta chưa cao, chưa khắt khe, thậm chí chưa thay đổi nhanh so với các nước tiên tiến trong khu vực. Chính và thế, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong ngành luôn theo sau các nước, kéo dài khoảng cách tụt hậu so với thế giới. Trong khi đó, ở “sân chơi” toàn cầu, các đối thủ với những lợi thế sẵn có cùng với lợi thế về hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ, sản phẩm của họ sẽ càng có thêm lợi thế để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam khiến cho các doanh nghiệp ngành CNCBTP nước ta khó tồn tại.
Tính khả thi: phương án này, khi thực hiện, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, đảm bảo VSATTP, đáp ứng cho nhu cầu của đông đảo người tiêu dùng trong nước, đồng thời cũng nâng cao được năng lực sản xuất của ngành. Nhưng do đòi hỏi của người tiêu dùng Việt Nam còn thấp, còn chậm so với các nước, nên sẽ không thúc đẩy được các doanh nghiệp trong ngành nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến kỹ thuật đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Vì thế, ngành CNCBTP của Việt Nam có nguy cơ tiếp tục tụt hậu xa so với thế giới.
Với phương châm “phòng thủ tốt nhất là tấn công”, lựa chọn phương án chiến lược này, mặc dù Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO nhưng chúng ta sẽ nhanh chóng trở thành người đứng ngoài cuộc, trở thành “khán giả”.
Phương án 3: “Tận dụng lợi thế về tỷ suất vốn đầu tư thấp, lao động trong ngành dồi dào, năng động, giá nhân công thấp để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tạo ra sản phẩm giá rẻ”.
Ưu điểm: như đã phân tích trên đây, người tiêu dùng Việt Nam chưa “mặn mà” với thực phẩm chế biến bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do thu nhập của họ còn thấp và chăn nuôi tận dụng trong mỗi gia đình còn khá phổ biến, nên phương án chiến lược phát triển CNCBTP tạo ra sản phẩm chế biến giá rẻ sẽ đáp ứng được mong muốn của đông đảo người tiêu dùng có thu nhập không cao. Hơn thế nữa, với việc đầu vào tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ không lớn sẽ giúp cho nhiều doanh nghiệp có khả năng thực hiện được.
Nhược điểm: chất lượng sản phẩm sẽ không cao, VSATTP không đảm bảo. Do đó, chỉ đáp ứng được cho nhu cầu nhóm người có thu nhập thấp. Trong khi, đòi hỏi của người tiêu dùng sẽ tăng khi thu nhập tăng và thực phẩm chế biến nước ngoài giá rẻ, chất lượng đảm bảo ồ ạt tràn vào “theo WTO” khiến cho thực phẩm chế biến giá rẻ của nước ta không thể tồn tại được. Mặt khác, chúng ta không thể đứng ngoài sân chơi lớn khi mà tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm và VSATTP của thế giới ngày càng cao.
Trong điều kiện hội nhập, với chất lượng như vậy hàng hoá của ta không thể thâm nhập vào thị trường thế giới, ngành CNCBTP của Việt Nam không thể phát triển được, nên sẽ kéo theo các ngành sản xuất liên quan dẫm chân tại chỗ.
Tính khả thi: phương án này chỉ đáp ứng được nhu cầu trước mắt, khi các yếu tố nội sinh của ngành, cũng như đòi hỏi của người tiêu dùng còn thấp khi xã hội chưa phát triển về mọi mặt. Trong điều kiện hội nhập, năng lực của toàn nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống của dân cư tăng lên, do đó nhu cầu và đòi hỏi của người dân về TPCB tăng theo, nên phương án này nhanh chóng lỗi thời.
3.1.2 Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam
Thông qua phân tích thực trạng và xem xét tác động của việc gia nhập WTO đối với ngành CNCBTP Việt Nam, trên cơ sở phân tích các phương án chiến lược, tác giả lựa chọn phương án 1: “Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu” là phương án chiến lược phát triển của ngành trong thời gian tới.
Lý do lựa chọn:
Thứ nhất, phương án chiến lược này phù hợp với các mục tiêu phát triển của ngành được đề cập trong: “Chiến lược phát triển Ngành Công nghiệp đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” và “Kế hoạch phát triển công nghiệp 5 năm 2006 – 2010” của Chính phủ CHXHCN Việt Nam;
Thứ hai, căn cứ vào nhu cầu thị trường: (i) Việt Nam là nước có dân số đông. Trong hơn một thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta luôn ở mức cao (trung bình khoảng 7.5%) làm cho thu nhập của người dân không ngừng tăng lên, đời sống của nhân dân ngày một cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Theo Bảng 2.10, co dãn theo chi tiêu đều dương và lớn hơn 1 (ngoại trừ co giãn theo chi tiêu của sản phẩm thịt gà của người dân đô thị), do đó khi thu nhập tăng nhu cầu về thực phẩm sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng của thu nhập. Mặt khác, trị tuyệt đối độ co giãn về giá ở nông thôn cao hơn thành thị, điều đó cho thấy trong thời gian tới nhu cầu thực phẩm sẽ tăng nhanh ở khu vực nông thôn, nơi tập trung khoảng 75% dân số với hơn 55% lực lượng lao động xã hội, đang chuyển mình nhanh chóng. Cùng với đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của WTO, khối lượng việc làm gia tăng, thu hút lao động từ nông nghiệp, nông thôn sang lĩnh vực công nghiệp nên thời gian dành cho tự chế biến thực phẩm giảm xuống. Ngoài ra, vấn đề chất lượng thực phẩm và VSATTP đang là nỗi lo của mỗi người, mỗi nhà trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, việc sử dụng các hoocmon và chất kích thích tăng trưởng tràn lan Nhà nước chưa kiểm soát được, thì đòi hỏi tăng của người tiêu dùng về thực phẩm sạch, có giá trị dinh dưỡng cao là điều tất yếu; (ii) trong “sân chơi“ lớn – WTO, hàng hoá nói chung, thực phẩm chế biến nói riêng từ các nước có nền công - nông nghiệp phát triển, nhất là các nước trong khu vực có sức cạnh tranh cao về giá cả, chất lượng, chủng loại, mẫu mã bao bì,..sẽ tràn vào Việt Nam là tất yếu nhất là khi các cam kết trong WTO được chính thức thực hiện ở nước ta. Là nước nông nghiệp, Việt Nam đang có nhiều lợi thế trong việc phát triển ngành CNCBTP, trong khi đó, năng lực sản xuất của ngành còn quá thấp và thua xa các nước trong khu vực. Vì thế, chúng ta cần có hướng đi cho riêng mình vừa tận dụng thế mạnh, tranh thủ thời cơ để vượt qua thách thức là vấn đề thời sự đối với ngành CNCBTP nước ta hiện nay; (iii) một nghịch lý là trong khi hàng năm chúng ta sản xuất ra khoảng 3 triệu tấn thịt hơi xuất chuồng, nhưng lại nhập khẩu thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt từ nước ngoài (như nhập thịt bò từ Mỹ), còn xuất khẩu của ta thấp về sản lượng, sơ sài về chủng loại với các sản phẩm như lợn sữa, lợn choai, thịt lợn mảnh cho các thị trường như Nga, Hồng Kông, còn các thị trường khác hầu như vắng bóng; và (iv) theo đánh giá của FAO, chăn nuôi đang hướng đến năm 2020 như một “cuộc cánh mạng“ về thực phẩm trong mối phát triển tương quan về mức thu nhập, môi trường và y tế cộng đồng. Châu Á sẽ trở thành khu vực sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm chăn nuôi lớn nhất. Nhu cầu về thịt ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển, ước tính tăng trưởng 7,8%/năm http//agroviet.gov.vn.
. Do vậy, phương án chiến lược được lựa chọn sẽ nhanh chóng tận dụng được lợi thế của đất nước và “lấp được“ khoảng trống mà ngành chưa giải quyết được; và
Thứ ba, tính khả thi, chúng ta có khả năng và có điều kiện để thực hiện phương án này, bởi ngoài những thế mạnh sẵn có như đầu vào đa dạng, nhu cầu tiêu thụ lớn và ngày càng tăng,..ngành CNCBTP nước ta có thêm cơ hội huy động nguồn lực từ bên ngoài khi Việt Nam được đối xử bình đẳng trong WTO.
Như vậy, lựa chọn phương án chiến lược này sẽ giúp cho ngành CNCBTP của Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được các đỏi hỏi của người tiêu dùng trong nước và thế giới, đồng thời đưa ngành phát triển nhanh, mạnh, vững chắc có khả năng cạnh tranh cao với sản phẩm cùng loại của các nước, đặc biệt có vị trí xứng đáng trong hàng ngũ các nước có nền CNCBTP trong khu vực và thế giới.
3.2 CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ ĐỀ XUẤT ĐỂ THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC ĐƯỢC LỰA CHỌN
Trên cơ sở phương án chiến lược được lựa chọn, nhằm đưa phương án này vào cuộc sống với mục đích thúc đẩy ngành CNCBTP nước ta phát triển nhanh, mạnh và vững chắc, tác giả khuyến nghị các điều kiện và đề xuất đối với các chủ thể có liên quan như sau:
3.2.1 Về phía cơ quan Nhà nước
3.2.1.1 Chính phủ
Để phù hợp với các quy định trong WTO, Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành CNCBTP:
Thứ nhất, thông qua nghiên cứu khoa học để tạo ra con giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Giống là khâu then chốt, quyết định phần lớn đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Do vậy, (i) Nhà nước cần có hướng ưu tiên đầu tư cho công tác nghiên cứu lai tạo giống, sản xuất đủ con giống đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. Để thực hiện thành công giải pháp này, thông qua Bộ NN & PTNT, với vai trò là bộ quản lý ngành, cần rà soát, sắp xếp lại các cơ sở chăn nuôi con giống gốc, trên cơ sở đó lựa chọn các đơn vị có đủ khả năng, điều kiện để đầu tư nghiên cứu phát triển con giống đáp ứng cho nhu cầu phát triển chăn nuôi lớn, tập trung năng suất cao, chất lượng tốt. Ở địa phương, giao nhiệm vụ cho các trung tâm giống, công ty giống của tỉnh hoặc hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư, chọn lọc, cải tạo nâng cao năng suất vừa giải quyết một phần nhu cầu con giống cho sản xuất tại chỗ vừa tận dụng nguồn gien quý ở địa phương. Đồng thời, khuyến khích và tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp đầu tư xây dựng trang trại giống ông bà, nhất là tại các địa phương có truyền ngành chăn nuôi phát triển; (ii) rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành một số tiêu chuẩn giống vật nuôi, các quy trình kỹ thuật chăn nuôi, các chương trình khảo, kiểm nghiệm giống; và (iii) tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giống vật nuôi. Trên cơ sở việc khảo, kiểm nghiệm, kiểm định giống đó cấp chứng chỉ và công bố chất lượng giống của các cơ sở sản xuất giống trên các phương tiện thông tin đại chúng;
Thứ hai, hỗ trợ cho di dời các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến nhỏ lẻ gia súc, gia cầm đến nơi quy hoạch. Nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do dịch, bệnh ở gia súc, gia cầm gây ra, ngành chăn nuôi, giết mổ và chế biến thực phẩm phải đảm bảo tuân thủ triệt để quy trình chăn nuôi, giết mổ và chế biến. Để làm tốt công tác này, các ngành đó phải được quy hoạch và sản xuất theo hướng tập trung công nghiệp, quy mô lớn, bằng cách giảm dần số hộ chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi truyền thống, tận dụng, phân tán, nhỏ lẻ trong các nông hộ. Trước mắt, các huyện, xã cần kiểm tra, rà soát lại quỹ đất của từng xã, từng huyện; xác định những vùng có thể phát triển trang trại chăn nuôi vừa đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả vừa đáp ứng được môi trường sạch. Từ đó, tuỳ theo quỹ đất mà mỗi huyện, xã quy hoạch từ một đến hai vùng chăn nuôi tập trung và di dời những cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến không đảm bảo VSTY đến. Thực hiện hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân phải di dời cở sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến vật nuôi đến địa điểm mới theo quy hoạch về mức lãi suất và thời hạn được hưởng ưu đãi, về tiền thuê đất, tiền thuế sử dụng đất,..;
Thứ ba, Chính phủ sớm ban hành rào cản kỹ thuật trên cơ sở rà soát lại toàn bộ hệ thống tiêu chuẩn, quy định kỹ thật hiện hành, đồng thời loại bỏ những tiêu chuẩn không còn phù hợp với quy định của WTO. Rào cản kỹ thuật là một trong những rào cản thương mại mà các quốc gia đang phát triển rất khó vượt qua do hạn chế về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bên cạnh đó, các quốc gia phát triển ngày càng dựng lên các rào cản kỹ thuật khắt khe hơn. Vậy, các quốc gia đang phát triển không còn con đường nào khác là phải vượt rào cản đó để bước vào sân chơi WTO – sân chơi toàn cầu. Như vậy, thực hiện giải pháp này nhằm thống nhất các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn kỹ thuật của WTO và không tạo ra sự phân biệt đối xử trong việc thực thi, đồng thời nhanh chóng đưa tiêu chuẩn Việt Nam hoà nhập với tiêu chuẩn quốc tế;
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp: (i) xây dựng mô hình khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, chế biến và tiêu thụ thịt sạch để hình thành vững chắc ngành CNCBTP; (ii) đầu tư chiều sâu các nhà máy giết mổ, đông lạnh xuất khẩu, kết hợp với chế biến thịt nội tiêu theo mô hình của Vissan trên cơ sở rà soát lại các cơ sở chế biến thịt có công suất lớn để nâng cấp, mở rộng; (iii) xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung, trang bị cơ khí phù hợp với quy mô 10.000 đến 20.000 tấn/năm, kết hợp với bảo quản mát và kiểm tra thú y chặt chẽ. Các loại gia súc, gia cầm phải được kiểm tra thú y và phải được đưa vào giết mổ tập trung. Các địa phương ven đô xây dựng các lò mổ tập trung với công suất tối thiểu cho gia súc là 100 con/ngày, gia cầm là 1.000 con/ngày. Các trang thiết bị và phương tiện giết mổ phải đảm bảo VSATTP; và
Thứ năm, Chính phủ nên hỗ trợ cho người nghèo được sử dụng thực phẩm sạch bởi giá cả TPCB cao họ không có đủ thu nhập để chi trả (coi đây như một chính sách xã hội để đảm bảo tính mạng, sức khoẻ cộng đồng không chỉ cho hiện tại mà cho cả tương lai của dân tộc).
3.2.1.2 Các Bộ, ngành
- Bộ NN & PTNT, trên cơ sở các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo các sở NN & PTNT và các cơ quan có liên quan thực hiện việc sắp xếp, đổi mới hệ thống chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm ở địa phương:
+ Quy hoạch vùng nguyên liệu sạch, tập trung, công nghiệp: (i) đối với đàn lợn: khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, chăn nuôi công nghiệp tại các vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, một số tỉnh Đông Bắc trên cơ sở đảm bảo VSTY và bảo vệ môi trường; (ii) đàn gia cầm: chăn nuôi tập trung, công nghiệp ở các tỉnh trung du, duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng,..nơi có hiệu quả trồng trọt thấp và dễ xử lý môi trường; (iii) đàn bò thịt: tập trung ở Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ,..;
+ Quy hoạch khu giết mổ, chế biến ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước;
+ Quy hoạch hệ thống phân phối sản phẩm: (i) với thực phẩm chế biến: các cơ sở phân phối phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn vệ sinh; (ii) với thực phẩm tươi sống: việc buôn bán phải tập trung tại các chợ đầu mối có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan thú y).
Đồng thời, Bộ NN & PTNT phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường,..ban hành các quy định liên quan đến sức khoẻ con người, chất thải gây ô nhiêm môi trường; giúp địa phương đào tạo cán bộ kiểm soát giết, mổ động vật.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ đạo các sở KH & ĐT cấp tỉnh xây dựng chính sách ưu đãi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc đầu tư xây dựng các cơ sở chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung, đặc biệt là chế biến sâu.
- Bộ Tài chính, hướng dẫn các sở tài chính các tỉnh triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ, khuyến khích đổi mới chăn nuôi, giết mổ và chế biến gia súc, gia cầm theo hướng tập trung, chế biến sâu.
- Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng Bộ NN & PTNT, Bộ Y tế hướng dẫn và triễn khai áp dụng Hệ thống GHP, GMP, HACCP tại các cơ sở giết mổ, chế biến động vật tập trung, chế biến sâu qui mô lớn.
- Bộ Văn hoá và Thông tin, đài, báo Trung ương phối hợp cùng Bộ NN & PTNT tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về chất lượng và VSATTP cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Định hướng là chăn nuôi, giết mổ, chế biến tập trung, chế biến sâu theo quy hoạnh. Trước mắt, chưa thể xoá bỏ ngay tình trạng này, do đó công tác tuyên truyền vận động là vô cùng quan trọng. Xã hội hoá hoạt động này để đảm bảo chất lượng VSATTP, cung cấp một cách đầy đủ thông tin và kiến thức cho mọi người về việc nhận biết, phòng tránh các nguy hại do việc sử dụng thực phẩm không an toàn.
3.2.1.3 U ỷ ban nhân dân các cấp
UBND cấp tỉnh, chỉ đạo các ngành nông nghiệp, tài nguyên môi trường, UBND cấp huyện triển khai việc quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống chăn nuôi, giết mổ và chế biến động vật. Cụ thể hoá chính sách ưu đãi về việc giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, cá nhân đầu tư chăn nuôi, giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm. Sử dụng ngân sách địa phương hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thụât cho các khu chăn nuôi, giết mổ, chế biến tập trung, chế biến sâu theo quy hoạch.
UBDN cấp huyện, xã: trên cơ sở chỉ đạo của cấp trên và đặc thù của địa phương, triển khai thực hiện các phương án đã được phê duyệt.
3.2.2 Về phía doanh nghiệp
Một là, các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh thích nghi cao với hội nhập, trong đó chiến lược về con người là quan trọng nhất, trên cơ sở nghiên cứu bối cảnh trong nước và quốc tế, cùng với việc xác định điểm mạnh, điểm yếu của mỗi doanh nghiệp giúp cho việc phân tích và lựa chọn chiến lược kinh doanh sát thực nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, với khả năng và lợi thế của doanh nghiệp. Thực hiện chế biến sâu tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đảo bảo các tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp cần tăng cường công tác nghiên cứu, khai thác thị trường. Để thực hiện thành công chiến lược đó, hàng năm các doanh nghiệp cần xác định các yếu tố trọng điểm, mũi nhọn cần ưu tiên để đầu tư và tập trung nguồn lực để thực hiện dứt điểm, nhanh chóng tạo ra sản phẩm mới đáp ứng kịp thời nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước;
Hai là, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định dựa trên yếu tố chi phí thấp và cá biệt hoá. Với năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí thấp, doanh nghiệp cần tập trung khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có để hạ thấp giá thành, hoặc khai thác lợi thế theo quy mô hoặc áp dụng hệ thống quản lý mới để tiết kiệm chi phí, nâng cao giá trị tăng thêm cho sản phẩm; với năng lực cạnh tranh dựa trên sự khác biệt hoá bằng cách tạo ra sự khác biệt về chất lượng, thương hiệu, dịch vụ hậu mãi,..;
Ba là, làm tốt khâu nguyên liệu: các doanh nghiệp cần chú trọng kiểm soát nguồn nguyên liệu đầu vào thông qua xây dựng cho mình nguồn nguyên liệu đầy đủ, ổn định, chất lượng và an toàn bằng cách hỗ trợ người chăn nuôi trong việc tìm kiếm con giống, sử dụng thuốc chữa bệnh, sử dụng thức ăn chăn nuôi hoặc doanh nghiệp hỗ trợ một phần vốn sản xuất để các cơ sở cung ứng có điều kiện tốt hơn trong việc phối hợp cùng doanh nghiệp đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào và đảm bảo chất lượng VSTY; ký hợp đồng cung ứng với các nhà chăn nuôi, liên doanh liên kết hoặc tự mình đầu tư chăn nuôi. Để từ đó, doanh nghiệp dễ dàng kiểm soát được chất lượng, ổn định và hạ thấp được chi phí đầu vào;
Bốn là, không ngừng đổi mới công nghệ chế biến: công nghệ chế biến góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là trong chế biến sâu, doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ giết mổ, chế biến, bảo quản, áp dụng quy trình quản lý sản xuất tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, đa dạng hoá công nghệ sản xuất để tạo ra sản phẩm theo truyền thống Việt Nam, theo kiểu phương Tây,..;
Năm là, xây dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu: để đảm bảo việc phát triển bền vững trên thị trường, doanh nghiệp cần có thương hiệu lớn. Do vậy, các doanh nghiệp trong ngành cần chú trọng đến vấn đề này. Trong điều kiện vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay còn phổ biến, chưa được khắc phục triệt để, vì thế các doanh nghiệp cần đăng ký thương hiệu của mình với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tránh tình trạng để xảy ra tranh chấp mới thực hiện thì đã quá muộn. Để xây dựng thương hiệu lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển dài hạn về mọi mặt như chất lượng, mẫu mã, bao bì, vấn đề VSATTP, hệ thống quản lý chất lượng ISO, dịch vụ sau bán hàng;
Sáu là, làm tốt công tác marketing, đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở rộng thị trường, để thị phần không ngừng mở rộng, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm thị trường, bằng cách hình thành bộ phận nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm mới, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, quan hệ truyền thông (PR),..và cả dịch vụ sau bán hàng. Tham gia giới thiệu sản phẩm tại hội chợ thương mại, tại các hội thảo, trên các trang web. Đồng thời, xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối hiệu quả dựa trên các nghiên cứu đã hoàn thiện thông qua phân khúc thị trường để phục vụ khách hàng nhanh nhất, tốt nhất;
Bảy là, vì người tiêu dùng mà tăng cường hơn nữa việc kiểm soát toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng và an toàn: xây dựng và hoạt động theo hệ thống quản lý chất lượng, tăng cường việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn trong các doanh nghiệp. Áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình sản xuất chế biến thực phẩm như: HACCP, ISO 9000 (Hệ thống tiêu chuẩn về quản lý chất lượng), ISO 14000: 2004 (Tiêu chuẩn về quản lý môi trường), SA 8000 (Tiêu chuẩn đạo đức trong sản xuất hàng hoá của doanh nghiệp) và OHSAS 18001 (Hệ thống đánh giá An toàn và Sức khoẻ nghề nghiệp). Đây là một trong những giải pháp phát triển bền vững với các doanh nghiệp chế biến thực phẩm. Với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng này, các doanh nghiệp có điều kiện kiểm soát toàn diện quá trình hình thành chất lượng và các yếu tố VSATTP, phát hiện và ngăn ngừa các mối nguy hại tiềm ẩn đối với sức khoẻ của người tiêu dùng. Để từ đó mỗi sản phẩm sản xuất ra đều đảm bảo bằng những tiêu chuẩn được thế giới công nhận;
Tám là, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh diễn ra khốc liệt, các doanh nghiệp ngành CNCBTP cần ý thức được vai trò hỗ trợ của Chính phủ, phối hợp chặt chẽ với cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là trong trường hợp có tranh chấp phát sinh hoặc xuất hiện những rào cản khi tham gia cung cấp sản phẩm cho thị trường thế giới, tìm hiểu thị trường nước nhập để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của họ; chú trọng đầu tư hệ thống quản lý chất lượng và quy cách kỹ thuật của sản phẩm trên cơ sở quốc gia và quốc tế, qua đó đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng trên thị trường quốc tế; và
Chín là, ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử trong các giao dịch thương mại nhằm rút ngắn thời gian và khoảng cách, tăng khả năng thu thập thông tin, quảng bá thương hiệu rộng rãi.
3.2.3 Với các chủ thể khác
Đối với các nhà khoa học: nghiên cứu và cho ra đời con giống có chất lượng cao, bởi giống là khâu then chốt quyết định phần lớn đến năng suất và hiệu quả chăn nuôi cũng như chất lượng của ngành giết mổ, chế biến; nghiên cứu, cải tiến để tạo ra máy móc, thiết bị dây chuyền phục vụ cho giết mổ, chế biến với giá thành hạ, thay thế sản phẩm nhập ngoại; nghiên cứu và tư vấn cho các nhà chính trị về chính sách và giải pháp phát triển CNCBTP trong điều kiện hội nhập.
Đối với các nhà chăn nuôi: hiện nay, nước ta có khoảng 7 triệu hộ và trên 16.000 trang trại chăn nuôi. Đây là nguồn cung cấp các sản phẩm chăn nuôi phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày của xã hội và cho ngành CNCBTP. Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán nên hiệu quả chăn nuôi không cao. Theo đề án chăn nuôi của Bộ NN & PTNT thì phấn đấu đến năm 2010 giảm số hộ chăn nuôi xuống còn khoảng 5 triệu hộ và tăng số trang trại chăn nuôi tập trung theo hướng cung cấp sản phẩm sạch. Để làm được điều đó, đòi hỏi các hộ, các trang trại chăn nuôi phải tuân thủ triệt để quy trình chăn nuôi: địa điểm chăn nuôi theo quy hoạch, đảm bảo VSTY, vệ sinh môi trường, quy trình phòng và chữa bệnh, sản phẩm đem tiêu thụ bắt buộc phải có chứng nhận của cơ quan thú y; bày bán, giết mổ, chế biến tại các khu đã được quy hoạch.
Tăng cường liên kết bốn Nhà nhằm kết nối, giải quyết triệt để, giải quyết tận gốc nhiều vấn đề từ khâu nghiên cứu, triển khai, đến chăn nuôi, thu gom, giết mổ, chế biến, lưu thông và cả chính sách áp dụng để thực hiện việc đưa công nghệ vào sản xuất, đưa chính sách vào cuộc sống nhanh hơn, sát thực hơn.
Phát huy vai trò của các Hội, Hiệp hội ngành nghề, vì đây là tổ chức tự nguyện liên kết các doanh nghiệp, không vì mục đích lợi nhuận nhằm phát huy tính năng động, tích cực của doanh nghiệp. Hoạt động của hiệp hội nhằm thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước không nên làm hoặc nếu làm cũng không hiệu quả, đồng thời cũng để bổ sung cho thị trường, khắc phục những khuyết tật của thị trường. Hiệp hội thực hiện chức năng là trung tâm đầu mối tập hợp, phân tích và xử lý thông tin thị trường, là cầu nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong ngành thông qua thương lượng và giải quyết các tranh chấp quốc tế.
KẾT LUẬN
Ngành CNCBTP Việt Nam ra đời từ rất sớm. Do ngành sử dụng phần lớn đầu vào là sản phẩm của ngành nông nghiệp, do vậy, có thể nói rằng CNCBTP phát triển cùng sự tiến bộ của ngành nông nghiệp.
Theo quan điểm và mục tiêu của Đảng thể hiện qua các kỳ đại hội, ngành CNCBTP nước ta được xếp vào nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh và cần được hỗ trợ, ưu tiên phát triển. Cần có chính sách phù hợp để đưa ngành này trở thành ngành công nghiệp trọng điểm của đất nước. Sự phát triển của CNCBTP không chỉ có vai trò quan trọng đối với bản thân ngành mà còn với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là với ngành nông nghiệp – ngành cung cấp phần lớn đầu vào cho CNCBTP và là nơi sinh sống của khoảng 75% dân số với 55% lao động cả nước. Do vậy, phát triển CNCBTP tạo điều kiện phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, thúc đẩy CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, đồng thời, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập. Ngoài ra, phát triển CNCBTP góp phần phát triển nền công nghiệp sạch, tạo ra sản phẩm sạch có chất lượng cao, bảo đảm VSATTP.
CNCBTP nước ta đã có những đóng góp rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đặc biệt là việc nâng cao vị thế của Vịêt Nam trên trường quốc tế sau 20 năm đất nước đổi mới bằng việc góp phần đưa một số nông sản chế biến có thứ hạng cao trên thế giới. Hiện nay, ngành CNCBTP và đồ uống nước ta chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp.
Việt Nam là nước nông nghiệp. Hàng năm, chúng ta sản xuất ra khối lượng thịt hơi xuất chuồng lớn, song ngành CNCBTP của ta còn lạc hậu nên tỷ lệ thịt qua chế biến chiếm tỷ lệ rất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao và không đảm bảo VSATTP, vì thế, chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và chưa thâm nhập được thị trường thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt giả rẻ, chất lượng cao, đảm bảo VSATTP, đa dạng chủng loại có thêm cơ hội tràn vào nước ta khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ, khiến ngành CNCBTP Việt Nam vốn dĩ yếu kém nay còn đứng trước thách thức, khó khăn khôn lường mặc dù chúng ta có nhiều thế mạnh, nhiều lợi thế cũng như những cơ hội trong việc phát triển ngành.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng mô hình “kim cương” để đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh và mô hình SWOT để lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành CNCBTP của Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh và thông qua nghiên cứu tác động của việc hội nhập WTO đối với phát triển ngành CNCBTP của Việt Nam, tác giả đưa ra bảng phân tích SWOT cho ngành thông qua phân tích bốn yếu tố: Điểm mạnh (S), Điểm yếu (W), Cơ hội (O) và Thách thức (T). Qua đó, đưa ra 3 phương án chiến lược phát triển cho ngành trong thời gian tới. Thông qua phân tích và đánh giá tác giả lựa chọn phương án 1: ”Phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam theo hướng tăng cường sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao thông qua chế biến sâu đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu” là phương án chiến lược phát triển của ngành CNCBTP nước ta trong thời gian tới.
Trên cơ sở phương án chiến lược được lựa chọn, luận văn đưa ra một số đề xuất có tính chất khuyến nghị đối với các chủ thể có liên quan, gồm: (i) cơ quan Nhà nước: Chính phủ; các Bộ, ngành; Uỷ ban nhân dân các cấp; (ii) các doanh nghiệp; và (iii) các chủ thể khác nhằm thực hiện phương án chiến lược đó với mục đích đưa ngành CNCBTP nước ta phát triển ngang tầm các nước trong khu vực và thế giới,
Lựa chọn phương án chiến lược phát triển cho một ngành, lĩnh vực là vấn đề lớn và phức tạp. Mặc dù, bản thân tác giả đã cố gắng rất nhiều, song nếu có sự tham khảo ý kiến của các nhà lãnh đạo chính trị, các chuyên gia, các nhà quản lý doanh nghiệp thì sẽ có thể kết hợp được nhiều phương án để đưa ra phương án tối ưu nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Dương An (2006), “Những lợi thế trong hỗ trợ cho Ngành Nông nghiệp hậu WTO”, Tạp chí Thương mại, (Số 40), trang 5-6.
2. Trần Kim Anh (2006), “Ngành Chăn nuôi với vấn đề xuất khẩu thịt lợn”, Tạp chí Chăn nuôi, (Số 4), trang 30 – 32.
3. Bộ Công nghiệp, Về chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Bài phát biểu của đại diện Bộ Công nghiệp tại Hội thảo quốc tế “Xây dựng và thực hiện chiến lược công nghiệp Việt Nam” ngày 23.3.2005 tại Hà Nội.
4. Bộ NN & PTNT (2006), Đề án đổi mới chăn nuôi, giết mổ và chế biến gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp giai đoạn 2006-2015, Hà Nội.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Tổng kết chăn nuôi giai đoạn 2001-2005, kế hoạch phát triển 2006-2010 và định hướng 2015, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – CEG/AusAID (2005), WTO & Ngành Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ NN & PTNT (2003), Thông tin phục vụ lãnh đạo, (Số 10).
8. Bộ NN & PTNT (2004), Thông tin phục vụ lãnh đạo, (Số 9).
9. CEG, Tác động của tự do hoá thương mại đối với Ngành Chăn nuôi Việt Nam, 2005.
10. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược phát triển KT – XH 2001-2010.
11. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
12. Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Kế hoạch phát triển Ngành Công nghiệp 5 năm 2005-2010.
13. Cục Chế biến Nông Lâm sản và nghề Muối – MARD (2006), Báo cáo tại Hội thảo dây chuyền giết mổ, chế biến thịt hiện đại, Hà Nội.
14. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), các Báo cáo Phát triển Thế giới.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. TS. Lê Huy Đức (Đồng chủ biên - 2003), Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế - xã hội, Đại học KTQD, Nxb Thống kê, Hà Nội.
17. Hoàng Kim Giao (2006), “Chăn nuôi nước ta năm 2005 và hướng phát triển trong thời gian tới”, Tạp chí Chăn nuôi, (Số 4), trang 20-23.
18. GS.TS. Ngô Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Lê Thế Giới, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam.
20. Lê Xuân Hoa (1997), Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
21. Hiến Pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. PGS.TS. Ngô Thắng Lợi (Chủ biên - 2006), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển Kinh tế – Xã hội, Trường Đại học KTQD, Nxb Thống kê, Hà Nội.
23. GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế Phát triển, Trường Đại học KTQD, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
24. TS. Nguyễn Trần Quế, Nghiên cứu phương pháp phản ánh và phân tích về năng lực cạnh tranh, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.
25. Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ NN & PTNT; Bộ trưởng Bộ Y tế; Bộ trưởng Bộ Công nghiệp liên quan đến đề tài.
26. Nguyễn Thanh (2006), “Ngành Chăn nuôi Việt Nam – cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ I - Tháng 10.
27. Trương Đoàn Thể (2000), Đổi mới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, ĐH KTQD, Hà Nội.
28. TCTK, Niên giám Thống kê 2003, 2004 và 2005, Nxb Thống kê.
29. TCTK (2006), Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
30. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2006), Thông tin phục vụ Lãnh đạo, (Số 10), Hà Nội.
31. Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thông qua mô hình kim cương”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học KTQD, (Số 10), trang 57.
32. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Đổi mới ngành giết mổ, chế biến gia cầm theo hướng tập trung, công nghiệp”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ I - Tháng 6.
33. Nguyến Anh Tuấn (2007), “Chăn nuôi trang trại 2001-2006 và một số giải pháp phát triển giai đoạn 2007-2015”, Tạp chí NN & PTNT, Kỳ II-Th.1, tr.8-9.
34. Hoàng Thị Tuyết (2004), “Thực trạng Công nghệ Sau thu hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí NN & PTNT, (Số 2).
35. TS. Nguyễn Viết Tý (Chủ biên, 2006), Giáo trình Luật thương mại Tập I, Trường Đại học Luật HN, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. TS. Nguyễn Đăng Vang (2006), Gia nhập WTO – Thách thức cho ngành chăn nuôi trong nước, trang 1.
37. Tổng hợp từ các trang web:
- agroviet.gov.vn
- mof.gov.vn
- mot.gov.vn
- irv.moi.gov.vn
- vinanet.gov.vn
II. TIẾNG ANH
38. The Food – Processing Industry in Indian.
39. Ministry of Food Processing Industries Govt of India - Food Processing Policy.
40. What’s Swot in Strategic Analysis?
41. Micheal PORTER (1990), The Competitive Advantage of Nation, Macmillan.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO.docx