Cùng với những biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng
đã và đang có những bước chuyển mình đầy ấn tượng. Nhận thức được tầm quan
trọng của ngoại thương của mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Việt Nam đã có được sự đầu tư đúng hướng trong việc lựa chọn sản phẩm và
thị trường xuất khẩu, thể hiện bằng những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt được, rất nhiều những hạn chế vẫn còn tồn tại. Chúng ta
vẫn chưa thực sự tận dụng được những lợi thế vốn có của đất nước và những cơ hội
mới trong quá trình hội nhập, vẫn chỉ xuất khẩu những gì ta có, vì vậy, không thể
theo kịp những thay đổi của thị trường thế giới, xa rời thị trường và luôn bị động
trước những biến động bên ngoài, không làm chủ được tình hình.
107 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4239 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khẩu điều đạt 670 triệu USD, đến năm 2020 là 820 triệu USD .Việt
Nam đang hướng đến mục tiêu năm 2020 là nước xuất khẩu điều nhân lớn nhất thế
giới, và là trung tâm chi phối về sản lượng và giá cả điều thế giới. Để đạt mục tiêu
này, ngành điều sẽ tập trung đầu tư khoa học công nghệ vào lĩnh vực trồng và chế
biến, nhằm nâng cao sản lượng và giá trị của hạt điều. Các doanh nghiệp cần liên
kết xuất khẩu, đẩy mạnh tiếp thị, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến, nhằm đáp ứng
nhu cầu tiêu thụ điều trong nước và xuất khẩu.
Thị trường chủ yếu của xuất khẩu điều là Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.
Về cà phê: nếu thuận lợi xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với
kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Côlômbia để trở thành
nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới.
Cùng với chiến lược công nghiệp hóa , hiện đạ i hóa của Việt Nam , Vinacafe
đang tập trung đầu tư mạnh cho hệ thống máy móc tiên tiến cũng như dần thay thế
máy móc cũ kỹ lạc hậu . Trên tinh thần đó , dự kiến xu hướng sẽ là tăng cường nhập
khẩu công nghệ chế biến hiện đại và các dây chuyền chế biến công suất lớn và vừa.
Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore, Nhật Bản.
Về cao su: dự kiến kim ngạch cao su đạt 2.786 triệu USD vào năm 2010. Tuy
nhiên, trong giai đoạn 2010-2015, do hạn chế về diện tích trồng cao su và giới hạn
về khả năng tăng sản lượng nên dự báo tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sẽ chậm lại và đạt 12,5%/năm, đưa kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt
Nam lên 5.020 triệu USD vào năm 2015.
76
Trong xuất khẩu, cao su Việt Nam cần phải tăng giá trị gia tăng, với cơ cấu
mặt hàng mới nhằm giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc, hướng tới các thị
trường có giá trị gia tăng cao như Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu, hạn chế xuất
khẩu thô.
Về lâm sản: Định hướng kim ngạch xuất khẩu lâm sản là 3.7 tỷ USD vào năm
2010 và 7.8 tỷ USD vào năm 2020 trong đó giá trị xuất khẩu các sản phẩm gỗ đạt
3.4 tỷ USD vào năm 2010 và 7 tỷ USD vào năm 2020. Trong thời gian tới cần tổ
chức nghiên cứu, đào tạo, thiết kế mẫu mã hàng gỗ gia dụng, đổi mới công nghệ sản
xuất, chế biến lâm sản, đa dạng hóa và không ngừng nâng cao chất lượng mẫu mã
sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước.
Sản phẩm chế biến và chế tạo
Mục tiêu đến năm 2010 là 20 - 21 tỷ USD và chiếm khoảng 40% kim ngạch
xuất khẩu.
Về ngành dệt may: định hướng xuất khẩu dệt may đạt 12 tỷ USD vào năm
2010 với tăng trưởng bình quân đạt 20%, kim ngạch 25 tỷ vào năm 2020 với tăng
trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15%.
Về hàng giày dép: định hướng xuất khẩu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu giày
dép đạt khoảng 6.3 tỷ USD (giày dép 5.3 tỷ và cặp túi ví 0.89 tỷ USD, chiếm
10.29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước).
Với giai đoạn 2011 – 2020, định hướng kim ngạch xuất khẩu da giày khoảng
16.5 tỷ USD, chiếm 9.68% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trong những năm tới, cần phát triển ngành dệt may và giày dép trở thành một
trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, nâng cao khả
năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Cần mở rộng thêm
thị trường Trung Đông và Đông Âu, tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của
người tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra những ngành hàng mới.
Về thủ công mỹ nghệ: phấn kim ngạch xuất khẩu đạt và 1,5 tỷ USD vào năm
2010. Hiện hàng thủ công mỹ nghệ đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới, đây là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu rất lớn, tuy nhiên tính
bền vững chưa cao, do quy mô sản xuất nhỏ nên chưa đáp ứng được nhu cầu của
77
khách hàng nước ngoài. Chính vì vậy trong thời gian tới cần mở rộng quy mô các
cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nhằm thâm nhập sâu vào các thị trường khó
tính. Thị trường định hướng cho mặt hàng này là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị
trường như Trung Đông, châu Đại Dương cũng là thị trường tiềm tàng.
Sản phẩm hàm lƣợng công nghệ và chất xám cao
Đây là ngành hàng tương đối mới nhưng có kim ngạch lớn, trong đó chủ yếu là
hàng điện tử và tin học.
Trong nhiều năm qua, xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của
nước ta không ngừng tăng mạnh. Đây là những mặt hàng có tiềm năng lớn, được
xếp vào nhóm trọng tâm ưu tiên phát triển trong những năm tới. Định hướng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính đạt 5 tỷ USD vào năm 2010.
Trong những năm tới, các doanh nghiệp cần có các biện pháp nâng cao chất
lượng các sản phẩm điện tử và linh kiện, tăng tính năng sản phẩm để đạt được giá
trị gia tăng cao, cải thiện mẫu mã để tăng thị phần ở nước ngoài.
Về thị trường cho mặt hàng điện tử và linh kiện, trong những năm tới, cần mở
rộng và củng cố các thị trường lớn của mặt hàng này như Ba Lan, các nước EU, Hà
Lan, Phần Lan, Anh, Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc...ngoài ra cần khai thác các
thị trường mới có mức tăng kim ngạch xuất khẩu mạnh như tiểu vương quốc Ả rập
Thống nhất, Ucraina, Nam Phi…
(Nguồn: Bộ Công Thương (2005); Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2007))
2.2. Về thị trường xuất khẩu
Một trong những khâu then chốt của chiến lược phát triển xuất khẩu đến hết
năm 2010 và tầm nhìn 2011- 2020 là mở rộng và đa dạng hóa thị trường. Theo đó,
định hướng tổng quát cho việc lựa chọn thị trường thời kì này đó là:
- Tích cực chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, tận dụng những lợi ích do
WTO mang lại.
- Đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn
động đột ngột.
- Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm các thị trường có sức mua lớn.
- Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ La- tinh, Châu Phi.
(Bộ Công Thương, 2005)
78
2.2.1 Cơ cấu thị trường
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, năm 2010, xuất khẩu hàng hoá sang thị trường
châu Á chiếm khoảng 45,0%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 23%, thị trường
châu Mỹ chiếm khoảng 24%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 5,0% và thị
trường khác chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
(Bộ Công Thương, 2005)
2.2.2. Định hướng cho từng thị trường cụ thể
Theo Đề án chiến lược phát triển xuất khẩu 2006 – 2010, các định hướng cụ
thể cho từng thị trường như sau:
Thị trƣờng Châu Á
Tiếp tục coi khu vực này là thị trường trọng điểm trong những năm tới vì có vị
trí địa lý gần với nước ta, có dung lượng lớn, tiếp tục là khu vực phát triển tương
đối năng động. Thị trường trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nước ASEAN,
Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
Nhật Bản: tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản phải được nâng từ 12% như hiện
nay lên 17 – 18 %, ngang với mức của năm 1997. Với đà phục hồi của kinh tế Nhật,
cùng với việc tận dụng những ưu đãi thuế quan từ Hiệp định đối tác kinh tế Việt -
Nhật (AJCEP) có hiệu lực từ tháng 12/2008, cần phải tăng xuất khẩu vào Nhật ở
mức 18%/năm để đến hết năm 2010 tổng kim ngạch vào thị trường này đạt mức
11.5 tỷ USD).
Trong những năm tới, mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Nhật sẽ là hải sản,
hàng dệt may, giày dép và sản phẩm da, than đá, cao su, cà phê, rau quả, thực phẩm
chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ.
ASEAN là một thị trường khá lớn, với trên 500 triệu dân, ở sát nước ta và Việt
Nam là một thành viên của ASEAN. Tuy nhiên, mặc dù cơ cấu hàng hóa của Việt Nam
và ASEAN có nhiều điểm giống nhau, nhưng Việt Nam ở trình độ phát triển thấp hơn
nên hàng hóa của Việt Nam chưa thâm nhập được nhiều vào thị trường này.
Hàng hóa của Việt Nam có một lợi thế thâm nhập vào thị trường các nước
ASEAN do chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA. Tuy nhiên,
79
những lợi thế này vẫn chưa được các doanh nghiệp tận dụng để thâm nhập vào thị
trường khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp của Việt Nam cần tích cực, chủ động thuận lợi do cơ chế
AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu sang các thị trường này. Trong đó, cần khai thác
tốt thị trường Lào và Campuchia trong bối cảnh mới bởi phát triển buôn bán với
Lào và Campuchia không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế mà còn bởi đây còn là
các nước láng giềng của Việt Nam.
Mặt hàng trọng tâm cần được đẩy mạnh sang thị trường này sẽ là gạo, cà phê,
thủy sản, hàng dệt may và dày dép, hàng điện tử và linh kiện, một vài sản phẩm cơ
khí, hóa phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hàng bách hóa…
Trung Quốc: Trung Quốc là thị trường lớn, lại ở sát nước ta do đó đây là một
bạn hàng rất quan trọng và đầy tiềm năng đối với Việt Nam. Trong thời gian tới,
cần tích cực chủ động hơn trong việc thúc đẩy buôn bán với Trung Quốc, đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường này.
Các mặt hàng có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong
thời gian tới gồm: thuỷ sản, rau quả nhiệt đới, hạt điều, gạo, sắn lát, dây và cáp
điện, đồ gỗ giả cổ…
Hàn Quốc: hiện nay, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Việt Nam
và lớn thứ 5 của ASEAN. Với mục tiêu thiết lập Hiệp định tự do thương mại
ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) vào năm 2010, ASEAN và Hàn Quốc đã ký nhiều
văn kiện quan trọng như Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện (năm 2005),
Hiệp định về thương mại dịch vụ (năm 2007) và Hiệp định về đầu tư (năm 2008).
Hiện tại và sắp tới, các mặt hàng mà thị trường Hàn Quốc có nhu cầu lớn lại
chính là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nên đây cũng là một
thuận lợi. Đó là các mặt hàng như thủy sản, giày dép, gỗ và các sản phẩm gỗ, cao
su, dầu thô, cà phê, thủ công mỹ nghệ…trong thời gian tới cần đẩy mạnh xuất khẩu
vào Hàn Quốc các mặt hàng này.
Nhìn chung, hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc
trên thị trường Hàn Quốc do khả năng cạnh tranh còn yếu, Hàn Quốc vẫn duy trì
80
hàng rào thuế và phi thuế ở mức khá cao. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất
khẩu vào Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh quyết
liệt từ nhiều đối tác trên thị trường, đồng thời hướng tới những phương thức buôn
bán linh hoạt hơn.
Đài Loan: hiện nay, Đài Loan là một trong những bạn hàng xuất khẩu quan
trọng của Việt Nam sau EU, Nhật Bản và Singapore. Quan hệ thương mại của Việt
Nam và Đài Loan trong những năm tới có thể có thêm một số thuận lợi. Làn sóng di
chuyển sản xuất từ Đài Loan ra nước ngoài đang tăng lên do giá nhân công trong
nước tăng và do chính sách tăng cường hợp tác phía Nam của chính quyền Đài Bắc.
Ta có thể tận dụng xu thế này để nâng cao năng lực sản xuất trong các ngành da
giày, may mặc, cơ khí, chế biến gỗ, sản phẩm nhựa và đồ điện. Ngoài ra, Đài Loan
cũng đã gia nhập WTO với những cam kết về mở cửa thị trường rộng hơn cả Trung
Quốc. Đây sẽ là một thuận lợi cho việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường Đài Loan.
Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như
sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè, sản phẩm cơ khí và
điện gia dụng do các cơ sở mà Đài Loan đã đầu tư sản xuất tại Việt Nam.
Thị trƣờng Châu Âu chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại Châu Âu được
xác định trên cơ sở chia Châu Âu thành hai khu vực cơ bản: EU và Đông Âu.
EU là một thị trường rất lớn và tiềm năng đối với Việt Nam với chủ yếu các
thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp, Italia, Hà Lan, Bỉ. Trong thời gian tới, cần tiếp
tục khai thác triệt để các thị trường trọng điểm này, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xúc
tiến thương mại vào các thị trường mới của EU.
Các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu là hàng dệt may, giày
dép, nông thủy sản, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ. Các mặt hàng này đã có chỗ
đứng khá vững trên thị trường EU. Tronng thời gian tới, cần phát triển các mặt hàng
mới, có triển vọng tăng kim ngạch cao như sản phẩm cơ khí, linh kiện điện tử…
Bên cạnh đó, để phát triển hơn nữa xuất khẩu sang EU, do đòi hỏi cao về chất
lượng và luật lệ phức tạp ở EU, cần tăng cường thu thập, phổ biến thông tin cho các
doanh nghiệp, chú trọng nâng cao chất lượng hàng hóa để bảo đảm cho hàng hóa
81
Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hóa của các nước khác khi EU điều tra
và thi hành các biện pháp chống bán phá giá, đồng thời chuẩn bị điều kiện gia tăng
cạnh tranh trong việc thâm nhập thị trường này do hiện nay đã được dỡ bỏ hạn
ngạch, phấn đấu duy trì tỷ trọng 15% xuất khẩu vào thị trường này (tương đương
9.5 tỷ USD).
Các nước Đông Âu và SNG, nhất là là Liên Bang Nga là các thị trường có
nhiều tiềm năng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Trong thời gian tới, cần
tăng cường khả năng hợp tác và khôi phục mối quan hệ với các bạn hàng truyền
thống, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này. Tuy
nhiên, các thị trường này cũng yêu cầu hàng hóa có sức cạnh tranh cao và vận hành
theo cơ chế thị trường với đặc thù của giai đoạn chuyển đổi. Theo hướng đó, Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường này.
Trọng tâm về hàng hóa xuất khẩu vào các thị trường này sẽ là cao su, chè, thực
phẩm chế biến, rau quả, sản phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ.
Khu vực Châu Mỹ
Trọng tâm tại khu vực này là thị trường Hoa Kỳ. Đây là nước nhập khẩu lớn
hàng đầu thế giới với nhu cầu hàng hóa rất đa dạng, năm những đỉnh cao về khoa
học – công nghệ. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực đã tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa của ta, đồng thời thúc đẩy cho các nước đầu
tư vào Việt Nam để xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Trong những năm tới đây, Hoa Kỳ sẽ
vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của nước ta. Phấn đấu đưa tỷ trọng xuất
khẩu vào thị trường này đạt 25% tổng kim ngạch xuất khẩu, tức là xấp xỉ 16 tỷ USD
vào năm 2010.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào thị trường Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giày dép,
sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí – điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà
phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến.
Một số thị trƣờng tiềm năng khác:
Châu Đại Dương: trọng tâm tại khu vực Châu Đại Dương là Australia và New
Zealand. Quan hệ thương mại của Việt Nam với hai thị trường này phát triển khá
tốt trong những năm gần đây, điều đó chứng tỏ tiềm năng của thị trường này là
82
không nhỏ, tuy nhiên mức khai thác vẫn còn thấp. Do đó, trong thời gian tới, cần
kiên trì tìm kiếm, tạo lập và củng cố quan hệ bạn hàng. Hàng hóa chủ yếu xuất khẩu
vào khu vực này sẽ là dầu thô, dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm
nhựa, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí điện.
Trung Cận Đông, Nam Á, Châu Phi và Mỹ Latinh
Hàng hóa của Việt Nam hiện đã xuất hiện trên các thị trường này nhưng chủ
yếu là qua thương nhân nước thứ ba, kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé.
Tại khu vực Nam Á, thị trường trọng điểm sẽ là Ấn Độ. Với dân số gần 1 tỷ
người, có quan hệ hữu nghị đặc biệt với Việt Nam, Ấn Độ luôn là một đối tác quan
trọng. Tuy nhiên, do hàng rào bảo hộ dày đặc của nước bạn nên trong những năm
gần đây xuất khẩu của ta vào thị trường này giảm. Trong thời gian tới, cần cố gắng
thâm nhập tốt hơn vào thị trường này bằng các biện pháp gắn nhập khẩu với xuất
khẩu , yêu cầu bạn mua lại hàng của ta khi ta có nhu cầu mua hàng của bạn (ta
thường nhập khẩu tân dược, thuốc trừ sâu, nguyên liệu, một số chủng loại máy móc
và thiết bị từ thị trường này.
Tại khu vực Trung Đông, thị trường trọng điểm sẽ là Đubai (Các tiểu vương
quốc Ả – rập thống nhất) và I – rắc. Là cửa ngõ của khu vực Trung Cận Đông và là
địa điểm trung chuyển hàng hóa của Xi-ri, A – rập Xê – út, Châu Phi, Châu Âu,
Đubai có vai trò rất quan trọng. Các công ty của Đubai nói chung làm ăn khá
nghiêm chỉnh, môi trường kinh doanh tự do do đó trong thời gian tới các doanh
nghiệp Việt Nam cần cố gắng thâm nhập vào thị trường này, lấy đây làm bàn đạp đi
vào các nước lân cận. Hàng hóa chủ yếu là điện tử, hạt tiêu, giày dép, dệt may, thủ
công mỹ nghệ và sản phẩm nhựa.
I – rắc cũng là một thị trường đầy tiềm năng nhưng việc buôn bán với nước
này trong thời gian qua có những đặc thù riêng do phải tuân thủ chắc chẽ các quy
định của Ủy ban cấm vận Liên Hợp Quốc. Sau thời kì chiến tranh, đến giai đoạn tái
thiết ta cần tranh thủ thời cơ để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.
Tại khu vực Châu Phi và châu Mỹ Latinh, thị trường trọng điểm sẽ là Nam Phi
và Braxin bởi đây là những thị trường có sức tiêu thụ khá. Các doanh nghiệp cần
tăng cường khảo sát tìm hiểu thị trường này.
83
Thị trƣờng Châu Phi là thị trường đầy tiềm năng và hết sức mới mẻ. Trong
những năm gần đây, kinh tế Châu Phi có mức tăng trưởng khá cao, đạt mức bình
quân 6%/năm. (Tổng cục hải quan, 2009). Chính điều này đã và đang hấp dẫn, thu
hút các nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh việc kinh doanh, trao đổi thương
mại với thị trường Châu Phi. Xác định đây là tiềm năng và là nơi vươn tới của các
doanh nghiệp Việt Nam, trong thời gian tới chúng ta cần tích cực thúc đẩy hợp
tác kinh tế, thương mại với thị trường này, đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng
vào các nước trong khu vực có nhu cầu cao như nông sản, gạo, thực phẩm, hàng
dân dụng…
Các mặt hàng xuất khẩu chính sang Châu Phi và Mỹ Latinh bao gồm gạo, sản
phẩm dệt may, cà phê, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, giày dép, hàng
hải sản, hạt tiêu, săm lốp các loại. Kim ngạch các mặt hàng này sang Châu Phi đã
tăng đáng kể trong những năm vừa qua, tuy nhiên cơ cấu mặt hàng chưa có nhiều
thay đổi, do đó nhu cầu đặt ra là phải đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu để tiếp
tục duy trì tốc độ xuất khẩu sang khu vực Châu Phi mà Việt Nam có nhiều lợi thế
cạnh tranh.
Tóm lại, trong thời gian tới, trong chiến lược lựa chọn thị trường xuất khẩu,
Việt Nam vẫn tiếp tục quán triệt phương châm đa phương hóa và đa dạng hóa thị
trường. Bên cạnh việc củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường chủ lực
như châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông),
châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada) thì cần tiếp tục khai thác, thâm
nhập một số thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như Nga, Trung Đông, Mỹ
La tinh, châu Phi.
II. Một số giải pháp cho sự lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu
của Việt Nam
1. Những kiến nghị đối với nhà nƣớc
1.1. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách
Việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu có được hiệu quả hay không,
có thể phát huy được tối đa lợi thế của đất nước hay không phụ thuộc rất nhiều vào
84
cơ chế chính sách của nhà nước. Rõ ràng, một cơ chế chính sách thông thoáng,
minh bạch sẽ tạo điều kiện để việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu diễn
ra trôi chảy hơn. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công việc
lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu, cần hoàn thiện môi trường pháp lý,
đồng thời tiếp tục đổi mới, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất – nhập
khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế theo các hướng:
- Hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa theo xu hướng tự do hóa
thương mại, xóa bỏ dần những cản trở đối với hoạt động ngoại thương, tạo mọi điều
kiện cho xuất khẩu, đơn giản hóa hơn nữa thủ tục hành chính, chính sách quản lý
phải rõ ràng, minh bạch, công khai để các cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp
thực hiện đúng.
- Nhà nước cần tăng cường quản lý các hoạt động ngoại thương thông qua hệ
thống pháp luật và văn bản pháp quy, rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy
định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ, trước hết là Luật Thương Mại, Luật
Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng phạm vi điều
chỉnh sao cho phù hợp với các quy định của WTO, tạo hành lang pháp lý hoàn
chỉnh giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển.
- Ban hành các văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới
phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như văn bản pháp luật về tối huệ
quốc(MFN) và Đối xử quốc gia (NT), Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật
chống bán phá giá và Chống trợ cấp, Luật Phòng vệ khẩn cấp, Luật Chống chuyển
giá - một chính sách quan trọng để thu hút vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc
gia. Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các
mảng kinh doanh ngày càng quan trọng nhưng chưa có đủ khung pháp lý.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hóa – dịch vụ xuất khẩu cho phù hợp
với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo
hướng xóa bỏ các thủ tục phiền hà, phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm
lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu
85
dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu
có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán
hiệu quả kinh doanh.
- Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt căn cứ vào từng điều
kiện, thời gian khác nhau. Bởi lẽ tỷ giá hối đoái thay đổi có ảnh hướng rất lớn đến
hoạt động xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ
có thể sẽ làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ thâm nhập vào thị trường nước ngoài
hơn, tuy nhiên sẽ ảnh hưởng tới việc nhập khẩu các thiết bị đầu vào phục vụ cho
xuất khẩu.
1.2. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu bao gồm cung
cấp thông tin, kết quả xử lý và phân tích thông tin và các loại hình dịch vụ khác
Trong việc lựa chọn sản phẩm nào, thị trường nào sao cho phát huy tối đa lợi
thế của đất nước, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất thì thông tin là một trong những
vấn đề vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Cung cấp thông tin thị trường
và xúc tiến xuất khẩu là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ
biến thông tin về thị trường nước ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính
sách của nhà nước, dự báo các chiều hướng cung, cầu hàng hóa và dịch vụ…để
thông tin đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm
nhất. Bộ Công Thương cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ
(web) của bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
Tuy nhiên, hiện nay, việc “cung cấp đầy đủ thông tin” chưa hoàn toàn có thể
đáp ứng cho các quyết định lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu mà quan
trọng hơn, đó là “kết quả xử lý và phân tích thông tin”. Chính vì vậy, trong thời
gian tới, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển loại hình
dịch vụ này, cụ thể là phân tích thị trường và tư vấn doanh nghiệp. Nắm bắt được
kết quả xử lý và phân tích thông tin sẽ là chìa khóa vô cùng quan trọng để việc lựa
chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu hiệu quả. Ngoài ra, nhà nước cần mở cửa thị
trường cho các công ty cung ứng dịch vụ ở cả nước ngoài để nhanh chóng phát triển
loại hình dịch vụ này.
86
Thực tế là trong hoàn cảnh hiện nay, dịch vụ phân tích thị trường và tư vấn
doanh nghiệp ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển. Chính vì vậy, bên cạnh việc
đầu tư phát triển dịch vụ này thì nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các
loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu khác như dịch vụ giao nhận và
thông quan, phân tích tài chính bao gồm cả phân tích rủi ro về tỷ giá, dịch vụ pháp
lý…Đây cũng là những loại hình dịch vụ hỗ trợ rất hiệu quả cho doanh nghiệp trong
việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
1.3. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu thế vận động của thế giới với những biến chuyển vô cùng to lớn và
mạnh mẽ trong thời đại ngày nay, việc chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc lựa chọn sản phẩm và thị
trường xuất khẩu. Nền kinh tế đất nước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng chiến lược về sản phẩm và thị trường phù hợp
với lộ trình trình hội nhập, tận dụng được mọi lợi thế từ đó mạng lại hiệu quả lựa
chọn cao nhất. Chính vì vậy, để có hướng đi đúng đắn cho việc lựa chọn sản phẩm
và thị trường, cần đẩy mạnh công tác hội nhập, đồng thời không ngừng nâng cao
hiệu quả kinh tế quốc tế, trong đó có việc thúc đẩy đàm phán song phương và đa
phương nhằm tạo hành lang pháp lý và mở cửa thị trường cho hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam. Nghiên cứu, thống kê các rào cản thương mại quốc tế đối với các sản
phẩm xuất khẩu nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục rào cản của nước ngoài, xây
dựng các phương án đối phó và kịp thời xử lý các tranh chấp thương mại phát sinh
đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần tận dụng các thể chế ưu đãi dành cho các nước đang phát
triển và kém phát triển trong đàm phán song phương và đa phương, cùng các nước
đang phát triển đấu tranh cho lợi ích của các nước nghèo. Nắm bắt và tận dụng xu thế
“khu vực hóa” để bắt tay với từng thị trường (hoặc khu vực thị trường) riêng lẻ, vừa tạo
thị trường xuất khẩu ổn định, vừa làm quen dần với hội nhập kinh tế toàn cầu (WTO).
Nhà nước cần tăng cường phổ biến kiến thức cho xã hội về hội nhập, các
doanh nghiệp chủ động tích cực tìm hiểu để tận dụng những thuận lợi mới do quá
87
trình hội nhập đem lại đồng thời ứng phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh,
nhanh chóng áp dụng và khai thác triệt để mọi phương thức kinh doanh đối ngoại,
sử dụng hệ thống tín dụng quốc tế, tham gia các sở giao dịch quốc tế, hoàn chỉnh
các thể chế và tổ chức xúc tiến xuất khẩu, xây dựng và nâng cao chất lượng của các
cơ quan thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài.
1.4. Hoàn thiện và đổi mới các chính sách đầu tư khuyến khích xuất khẩu
Thực tế cho thấy rằng, muốn lựa chọn được những mặt hàng xuất khẩu và tìm
kiếm thị trường sao cho đạt hiệu quả cao nhất thì nhất thiết phải có “đầu tư” hợp lý
và đúng mức. Và muốn có “đầu tư” tốt thì chính sách đầu tư và khuyến khích đầu tư
của nhà nước phải luôn luôn được hoàn thiện và đổi mới. Trong những năm qua,
Nhà nước đã ban hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao
gồm cả đầu tư trong nước và nước ngoài, kết hợp với sự thông thoáng của Luật
Doanh nghiệp, những chế độ và chính sách này đã phát huy tác dụng rất tích cực
trong việc tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng cao và xúc tiến xuất
khẩu được vào các thị trường mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Chính sách đầu tư được tiến hành cụ thể trên nhiều phương diện, bao gồm đầu
tư về vốn, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, đổi mới công nghệ…
1.4.1. Khuyến khích đầu tư về vốn:
Huy động và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả là một biện pháp quan trọng trong
việc lựa chọn và phát triển các mặt hàng xuất khẩu. Chính vì vậy, nhà nước cần có
những chính sách phù hợp và đúng mức đối với hình thức đầu tư này.
Về cơ bản, nguồn vốn đầu tư được huy động từ hai nguồn chính: nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn nước ngoài.
- Nguồn vốn trong nước: nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư
trong nước, một giải pháp có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh tiến trình
cổ phần hóa doanh nghiệp. Đó là việc chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
thành công ty cổ phần bằng cách bán cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cho công
chúng và công nhân viên trong công ty để huy động nguồn vốn trong công chúng.
Để đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp, cần thực hiện các biện pháp nhằm giải
88
quyết vướng mắc làm chậm tiến trình này như những bất cập trong việc đánh giá lại
tài sản doanh nghiệp, trong các chính sách đối với đối tượng mua cổ phần…
- Nguồn vốn nước ngoài: Nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư
nước ngoài để phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu cần:
+ Bổ sung một số điều khoản ưu đãi vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các
cây nông nghiệp như lúa, rau quả, cây công nghiệp ở luật đầu tư nhằm tạo sự thông
thoáng hơn nữa nhằm tăng vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp.
+ Đưa ra thêm các điều kiện ưu đãi, tạo các khu vực thuận lợi về cơ sở hạ tầng
nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có hàm
lượng vốn và công nghệ cao. Đối với các mặt hàng xuất khẩu trong lĩnh vực nông
nghiệp, cần thành lập một số khu vực dạng khu chế xuất hoặc khu công nghiệp tập
trung để gieo trồng, chế biến ở Việt Nam.
+ Đầu tư một cách đồng bộ từ khâu bắt đầu sản xuất đến khi có sản phẩm xuất
khẩu (gồm cả bao bì, bao gói, kho, phương tiện vận tải).
1.4.2. Cải thiện môi trường đầu tư :
Theo các quy định hiện hành (Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước sửa đổi và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan), vẫn
tồn tại một số bất bình đẳng giữa hai khối trong nước và khối FDI. Để khắc phục
tình trạng này, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư theo hướng tạo ra môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Tích cực, chủ động
điều chỉnh Luật Đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần,
tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Duy trì môi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Phát triển hợp lý các khu chế xuất, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài gia
tăng xuất khẩu. Mở rộng thị trường để lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư
ở nước ta, xuất sang thị trường có dung lượng lớn. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa
sự hấp dẫn của các khu này, cần nghiêm túc triển khai cơ chế "thủ tục và dịch vụ
một cửa" cho một số khu chế xuất và khu công nghiệp như Chính phủ đã quy định.
89
1.4.3. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
Cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để tăng cường khả
năng cụng ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho
sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu và thúc đẩy mối quan hệ bổ trợ liên ngành
giữa các ngành công nghiệp, tăng sự chủ động về nguyên vật liệu đầu vào nhằm
giảm thiểu các tác động từ bên ngoài, giảm chi phí sản xuất và nâng cao giá trị gia
tăng cho các sản phẩm xuất khẩu.
1.4.4. Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ
Cần đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và các hệ thống quản lý
như hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9000), hệ thống quản lý môi trường (ISO
14000)…trong sản xuất kinh doanh để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo dựng uy
tín, thương hiệu, nhãn hiệu cho sản phẩm. Tiến hành đánh giá trình độ khoa học
công nghệ của các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp có khả năng
xuất khẩu cao, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao mặt bằng trình độ công
nghệ chung của ngành.
Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân
hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về
lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản
hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết
và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư. Cần chú trọng tới
việc thi hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp; áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt
hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công
nghệ, đặc biệt là công nghệ sạch.
Đối với nông sản, chú trọng đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị
trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay ta còn
rất hạn chế.
Ngoài ra, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho hoạt động xuất
khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở
90
nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử
đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp
thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi
hỏi...); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về
tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư nguồn nhân lực, đặc biệt cán bộ
quản lý.
1.5. Nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản,
Singapore…) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định
thành công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày này, nhân tố này lại càng có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng
sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất, kinh doanh. Vì
vậy, để việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu mang lại hiệu quả rất cần
tạo dựng được một đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công
nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu. Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức
những lớp đào tạo vào bồi dưỡng kĩ năng quản lý để hình thành dần đội ngũ doanh
nhân có năng lực, có khả năng đánh giá tình hình, xử lý linh hoạt để có thể đưa ra
các quyết định đúng đắn. Đồng thời, bên cạnh đó nhà nước cần có chính sách
khuyến khích doanh nhân giỏi, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
1.6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu hợp lý
Để có thể tìm kiếm các sản phẩm và thị trường xuất khẩu mới hiệu quả và bền
vững thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu xuất khẩu một cách hợp
lý có ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với cơ cấu kinh tế, nhằm phát huy tối đa những thế mạnh của đất nước
cũng như thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cần tiếp tục đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt ngành công nghiệp
nhẹ, công nghiệp chế tạo là những ngành không đòi hỏi nguồn vốn đầu tư quá lớn,
có tốc độ phát triển nhanh, tận dụng được những thế mạnh của Việt Nam. Đồng thời
cần nâng dần tỷ trọng của ngành dịch vụ tương xứng với tiềm năng thực tế, đảm bảo
91
tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ luôn bằng và cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của nền kinh tế quốc dân. Giảm dần ở mức hợp lý tỷ trọng của ngành nông,
lâm, thủy sản và ngành công nghiệp khai khoáng. Một cơ cấu kinh tế hợp lý như
vậy sẽ tận dụng tối đa được những thế mạnh của đất nước, từ đó có thể phát triển
các sản phẩm xuất khẩu mới phù hợp, lựa chọn được những sản phẩm xuất khẩu đạt
được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cần tập trung chuyển dịch theo hướng chú
trọng nâng cao chất lượng hàng nông sản, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh, phù hợp
với nhu cầu trên thị trường; Đối với hàng công nghiệp, cần khai thác tối đa năng lực
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm đang có lợi thế cạnh tranh như hàng may
mặc, giày dép, đồng thời tập trung ưu tiên phát triển các sản phẩm có tiềm năng
xuất khẩu lớn, có giá trị gia tăng cao như cơ khí chế tạo, thiết bị điện – điện tử, máy
vi tính, phần mềm công nghệ thông tin, sản phẩm nhựa, sán phẩm gỗ, thực phẩm
chế biến…để sớm hình thành những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn mới.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng công nghiệp theo hướng gia tăng các sản phẩm
chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao.
Như vậy, rõ ràng, xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý sẽ tạo điều kiện tốt
hơn phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đồng thời cũng dễ dàng hơn trong
việc thâm nhập các thị trường trọng điểm cần hướng tới.
1.7. Chuyển dịch cơ cấu thị trường thích hợp
Yếu tố sống còn quyết định một loại hàng hóa có khả năng tồn tại và phát triển
hay không đó là nó phải được thị trường chấp nhận. Vì vậy, vấn đề xây dựng cơ cấu
thị trường hợp lý sẽ là một biện pháp quan trọng nhằm thúc đẩy việc lựa chọn các
mặt hàng xuất khẩu sao cho đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Mỗi loại thị trường
đòi hỏi một loại mặt hàng nhất định, trái lại tùy theo khả năng sản xuất mà tìm thị
trường để bán được nhiều hàng với giá cao nhất nhằm thu được lợi nhuận cao.
Trong giai đoạn tới, cần coi trọng các thị trương láng giềng và thị trường khu
vực, trong đó chú ý tới thị trường Trung Quốc, thị trường các nước ASEAN vì đây
là những thị trường có vị trí địa lý gần với Việt Nam, có quan hệ buôn bán lâu đời,
có thị hiếu và phương thức tiêu dùng tương đối giống ta. Bên cạnh đó, cũng cần coi
92
trọng thị trường Nhật Bản, EU và Mỹ vì đây là những thị trường có tiềm năng to lớn
cả về nhu cầu hàng tiêu dùng cao cấp, có trình độ khoa học công nghệ và trình độ
quản lý cao, có nhiều điều kiện cho ta tranh thủ vốn, kĩ thuật, công nghệ và tri thức
quản lý. Đây cũng là thị trường vừa tạo cơ hội, vừa đòi hỏi bức thiết để chúng ta đổi
mới quản lý kinh tế, nâng cao trình độ kĩ thuật – công nghệ tùy theo nhu cầu và khả
năng của mình.
Để đạt được cơ cấu thị trường này, cần có chính sách thích hợp để đưa hoạt
động thương mại của nước ta tham gia tích cực vào thị trường thế giới.
2. Những giải pháp đối với doanh nghiệp
2.1. Tăng cường tiếp cận, phân tích thông tin
Trong việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu, nhà nước đóng vai trò
cung cấp thông tin thị trường và doanh nghiệp thế nhưng doanh nghiệp có tiếp nhận
thông tin một cách đầy đủ và tích cực hay không cũng là một vấn đề rất đáng được
quan tâm. Ngoài những thông tin được tiếp nhận từ nhà nước, thu thập thông tin từ
bên ngoài cũng đóng vai trò rất lớn.
Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực trạng hiện nay cho thấy doanh nghiệp
Việt Nam còn chưa nắm bắt kịp thời được những thay đổi trong chính sách của nhà
nước, đồng thời còn thiếu thông tin chiều sâu về thị trường nước ngoài (hàng rào
phi thuế, tiêu chuẩn kĩ thuật, kiểm dịch…). Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp có
điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau, kể cả mạng tin của nước
ngoài thì lại gặp vấn đề trong việc xử lý và nhận định thông tin. Chính vì thế, để có
những chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu hiệu quả, các doanh
nghiệp cần tăng cường tiếp cận và phân tích thông tin. Có nhiều cách để tiếp xúc
với thị trường nước ngoài như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm
trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo nước ngoài, qua đó
tìm kiếm các cơ hội hợp tác và đầu tư, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị để kịp
thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất kinh doanh, chủ
động đi tìm bạn hàng, thị trường, tự lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu
và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào cơ quan nhà nước hoặc trông chờ
93
trợ cấp. Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có
sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kĩ lưỡng đối với từng hoạt động.
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh những lợi thế sẵn có
như chi phí sản xuất tương đối thấp, khả năng linh hoạt cao do quy mô doanh
nghiệp hầu hết là vừa và nhỏ cùng những kinh nghiệm về thị trường không ngừng
được đúc rút trong quá trình phát triển thì còn có rất nhiều những hạn chế lớn, ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Cụ thể, đó
là những hạn chế về quy mô vốn thấp, trình độ công nghệ còn tương đối lạc hậu,
nhận thức về tự do hóa thương mại, về các định chế pháp luật trong nước và quốc tế
liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam gia nhập các
tổ chức thương mại thế giới với những quy định ngặt nghèo trong quan hệ thương
mại là những khó khăn rất lớn, khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam luôn ở thế thua
thiệt trong quan hệ với các đối tác nước ngoài vốn nhiều kinh nghiệm và khả năng
cạnh tranh là rất lớn. Tất cả những yếu tố này là lực cản rất lớn, kìm hãm khả năng
cạnh tranh cũng như lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình để có thể thuận lợi hơn trong việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thực hiện theo các
định hướng:
- Huy động vốn hợp lý nhằm nâng cao năng lực tài chính. Có như vậy tiềm lực
của các doanh nghiệp mới được đảm bảo.
- Có chính sách đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ kĩ thuật linh hoạt, hợp lý, kết
hợp tận dụng những công nghệ kĩ thuật sẵn có và chuyển giao những công nghệ kĩ
thuật nguồn hiện đại, qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất.
- Tăng cường phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các bộ,
ngành liên quan tạo dựng cơ chế hỗ trợ hiệu quả, tạo nên sức mạnh tổng thể trong
việc phát triển thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
94
- Phối hợp với Bộ Thương Mại, các tham tán và đại diện ở nước ngoài để thu
thập và xử lý những thông tin về thị trường và ngành hàng một cách hiệu quả.
2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Nhìn chung, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn có năng lực cạnh tranh khá
hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự hạn chế về chất lượng, mẫu mã
của sản phẩm; chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho các sản phẩm của mình;
chưa đảm bảo về chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế…vì vậy sản phẩm của Việt
Nam chưa thể thâm nhập sâu vào nhiều thị trường, đặc biệt là các thị trường lớn và
khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ…
Trong thời gian tới, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn sản phẩm và
thị trường xuất khẩu, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu
là vô cùng cần thiết và cần dựa trên những định hướng sau:
- Tăng cường đầu tư nghiên cứu xây dựng mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm có
tính cạnh tranh, phù hợp với thị trường mục tiêu trên cơ sở nghiên cứu kĩ lưỡng về
thị trường và thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường đó.
- Hoàn thiện hệ thống sả xuất và kinh doanh nhằm giảm thiểu tối đa những chi
phí không cần thiết, có như vậy giá thành các sản phẩm của Việt Nam mới có thể có
sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới.
- Đầu tư nâng cao hệ thống quản lý chất lượng theo hướng phấn đấu đạt được
những chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng quốc tế tạo sự đảm bảo về chất lượng cho
các sản phẩm của mình.
- Có chính sách xây dựng và phát triển thương hiệu riêng, tránh tình trạng thụ
động, chỉ thực hiện gia công các sản phẩm của nước ngoài.
2.4. Đa dạng hóa chủng loại sản phẩm
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu bên cạnh chiến lược đầu tư có trọng
điểm, ưu tiên các sản phẩm có khối lượng và kim ngạch xuất khẩu lớn cần chú ý đa
dạng hóa sản phẩm để tránh tình trạng lệ thuộc vào một số lượng nghèo nàn các mặt
hàng. Việc đa dạng hóa chủng loại sản phẩm sẽ khiến các doanh nghiệp có nhiều
95
lựa chọn cho sản phẩm xuất khẩu để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, cũng như việc có
nhiều sản phẩm thì sẽ dễ dàng thâm nhập vào nhiều thị trường hơn do đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của các thị trường.
2.5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
Trong điều kiện hội nhập, nhân tố con người đóng vai trò quan trọng hàng đầu
trong việc phát triển của doanh nghiệp. Để có thể có những chính sách lựa chọn sản
phẩm và thị trường đúng đắn, việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ có vai trò
hết sức quan trọng. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu trong điều kiện mới, các
doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo cán bộ hợp lý nhằm nâng cao kiến thức cho
công nhân và cán bộ, đào tạo những cán bộ có năng lực và khả năng thành thạo về
ngoài ngữ và tin học, có khả năng độc lập trong công việc, bên cạnh đó cần am hiểu
về luật pháp trong ngoại thương, đặc biệt là các quy định quốc tế cũng như pháp
luật nhà nước. Đây là một yêu cầu bức thiết được đặt ra để các doanh nghiệp Việt
Nam có thể đứng vững hơn trên thương trường quốc tế.
96
KẾT LUẬN
Cùng với những biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng
đã và đang có những bước chuyển mình đầy ấn tượng. Nhận thức được tầm quan
trọng của ngoại thương của mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Việt Nam đã có được sự đầu tư đúng hướng trong việc lựa chọn sản phẩm và
thị trường xuất khẩu, thể hiện bằng những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt được, rất nhiều những hạn chế vẫn còn tồn tại. Chúng ta
vẫn chưa thực sự tận dụng được những lợi thế vốn có của đất nước và những cơ hội
mới trong quá trình hội nhập, vẫn chỉ xuất khẩu những gì ta có, vì vậy, không thể
theo kịp những thay đổi của thị trường thế giới, xa rời thị trường và luôn bị động
trước những biến động bên ngoài, không làm chủ được tình hình.
Trong điều kiện mới, với bầu không khí hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
khắp nơi, đặc biệt là sau sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại thế giới
WTO, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển
lên một tầm cao mới. Chính vì vậy, để việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất
khẩu diễn ra thực sự hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước, cần phải có sự
nghiên cứu một cách hệ thống và đồng bộ sao cho tận dụng triệt để các lợi thế của
đất nước cùng những cơ hội mới mang lại. Sự nghiên cứu này cần gắn liền với sự
biến động của nền kinh tế thế giới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế đồng thời cần
được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Có như vậy, kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt
động ngoại thương nói riêng mới có thể có những bước phát triển mạnh mẽ, sánh
vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào sự phát triển của ngoại thương Việt
Nam nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung, em đã thực hiện khóa luận này.
Hi vọng đề tài nghiên cứu của em sẽ có những đóng góp tích cực trong việc phân
tích thực trạng cũng như đề ra các giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả của việc
lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của đất nước. Kính mong nhận được sự
góp ý thẳng thắn, tích cực của các thầy cô giáo và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2005), Đề án chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006
– 2010
2. Bộ Công Thương, Báo cáo tổng kết năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009.
3. C. Mác và Ph, Angghen toàn tập (1993), trang 876 , NXB chính trị quốc gia Hà
Nội.
4. THS Lê Thanh Hà; THS Nguyễn Trung Tính (2005), Giáo trình Marketing
quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân – NXB Thống kê.
5. Nguyễn Diệu Hương (2005) – Thực trạng lựa chọn và phát triển mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam – Khóa luận K40 - Khoa Kinh tế và kinh doanh
quốc tế - Trường Đại học Ngoại Thương.
6. GS – TS Bùi Xuân Lưu; PGS – TS Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình Kinh
Tế Ngoại Thương, trang 66 – 76, trang 400, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
7. Niên giám thống kê các năm 1996, 2001, 2007, 2008, 2009 – NXB Thống kê.
8. Phòng thông tin Bộ Thương Mại, Cục diện kinh tế thế giới và Việt Nam 2009
và dự báo 2010.
9. Nguyễn Trần Quế (1998), Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu trong
ngoại thương thời kì công nghiệp hóa của các nền kinh tế Đông Á – NXB
Chính trị Quốc gia.
10. Tạp chí Thủy sản số 122 - tháng 2/2010.
11. Tập thể tác giả trường Đại học Ngoại thương (2000). “Giáo trình Marketing lý
thuyết”. NXB Giáo dục
12. PGS – TS Vũ Thanh Thu (2008) – Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế - NXB
Thống kê.
13. Tổng cục Thống kê (2005), Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi
mới (1986 – 2005) – NXB Thống kê.
14. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X của Đảng.
98
Website
15. Nguyễn Thị Bình (2009), Về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay và tác
động đến Việt Nam, Báo Nhân Dân truy cập ngày 20/3/2010
16. Bộ Công Thương (2010), Cổng thông tin về WTO và tiếp cận thị trường, Xuất
khẩu gạo – Một năm nhìn lại và những thách thức mới.
inh%20t%20Vit%20Nam/Attachments/DispForm.aspx?ID=164
17. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn (2010), Chiến lược phát triển ngành
điều đến năm 2020: Giữ vững vị trí xuất khẩu số 1, truy cập ngày 20/4/2010.
18. Bộ Tài nguyên và môi trường Việt Nam, Thông tin chuyên ngành, ngày truy cập
8/3/2010.
19. Cổng thông tin điện tử của chính phủ nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2007), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, truy cập ngày 20/4/2010.
20. Nguyễn Sinh Cúc (2007), Sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta, Tạp chí Cộng
sản số 15/2007, truy cập ngày 26/4/2010
35798
21. Kim Hiền (2010), Xuất khẩu gạo 2009: Đạt con số kỷ lục, Báo điện tử Công
Thương, truy cập ngày 15/4/2010
khau-gao-2009-dat-con-so-ky-luc/32/0/27074.star
22. Doãn Công Khánh (2007), Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 2000-2006:
thực tiễn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí công sản số 20 năm 2007, truy cập
ngày 15/04/2010
311049915
99
23. Nguyễn Thị Nhiễu (2007), Xuất khẩu của nước ta khi là thành viên của WTO,
Tạp chí cộng sản số 18/2007, truy cập ngày 25/04/2010.
24. Võ Trí Thành (2009), Nghiên cứu, phân tích tình hình kinh tế Việt Nam: Xuất -
nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009, Cổng thông tin về WTO
và tiếp cận thị trường, Bộ Công Thương, truy cập ngày 18/04/2010.
inh%20t%20Vit%20Nam/Attachments/DispForm.aspx?ID=63
25. Thông tấn xã Việt Nam (2009), Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới,
truy cập ngày 28/3/2010
gioi/20098/13972.vnplus
26. Tổng cục hải quan (2009), Hệ thống bảng biểu thống kê hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu.
Lib%2fCac%20Bieu%20Thong%20Ke%2fNam2009&FolderCTID=&View={
B92039C6-9E23-4567-8E69-7B0C33F599D7}
27. Tổng cục hải quan (2010), Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam – Hoa Kì trên
đà phát triển.
28. Nguyễn Trung (2010), Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21,
Tạp chí thời đại mới, số 18, tháng 3/2010, truy cập ngày 14/4/2010.
29. Viện khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, số liệu 522 (2009), truy cập ngày
28/3/2010.
30. PGS,TS Đức Vượng (2010), Về nguồn nhân lực của Việt Nam trong năm 2010
và những năm sau, Viện khoa học nghiên cứu nhân tài, nhân lực, truy cập ngày
10/4/2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5497_9525.pdf