Lời mở đầu
Thời đại chúng ta được phát triển bằng sự liên kết chặt chẽ giữa đầu tư phát triển công nghệ với sức mạnh công nghiệp của mỗi quốc gia. Tuy vậy, những nền kinh tế hiện đại phải luôn nghiên cứu, tìm nguồn thu nhập thực sự để chuyển các phát minh trí tuệ thành những đổi mới mang lại nhiều lợi nhuận.
Do đổi mới là phát minh kỹ thuật đã trở thành sản phẩm kinh tế và kiến thức cơ bản cùng khoa học ứng dụng ít có khả năng phân ly nên kỹ thuật ngày càng gắn bó với công nghệ hơn.
Từ mục đích kích thích cạnh tranh công nghiệp, mục tiêu đổi mới công nghệ đã được mô tả ở nhiều khía cạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Các chương trình nghiên cứu phát triển công nghệ đã gắn liền với hiệu quả phát triển.Chuyển giao công nghệ và khai thác kết quả nghiên cứu. Việc phổ biến kết quả nghiên cứu hướng về doanh nghiệp là một trong những lợi thế ưu tiên. Vấn đề được chỉ ra là phần lớn các dự án hỗ trợ đã được hình thành từ những kết quả nghiên cứu mang tính chất áp dụng thương mại.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự trao đổi, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia ngày càng có chiều hướng gia tăng và trở thành một trong những nội dung quan trọng trong mối bang giao quốc tế hiện nay. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đang thực sự quan tâm phát triển thị trường khoa học và công nghệ bên cạnh thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường tài chính . để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong báo cáo này mục đích tìm hiểu những kiến thức, những khái niệm cơ bản về “Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế”. Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Hoàng Trọng Thanh em đã nhanh chóng nắm bắt được những vấn đề cơ bản và tầm quan trọng của Văn hóa trong quản trị sản xuất kinh doanh. Do nội dung kiến thức của đề tài tương đối rộng, điều kiện thời gian cũng như kiến thức có hạn, điều kiện nghiên cứu chủ yếu dựa trên lý thuyết và tài liệu tham khảo nên chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề tài được chính xác, đầy đủ và phong phú hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh Tế & Quản Trị Kinh Doanh đã giúp đỡ em trong thời gian qua. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Trọng Thanh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
Lời mở đầu 3
I. Các khái niệm 5
1. Khái niệm công nghệ 5
2. Khái niệm chuyển giao công nghệ 10
II Nguồn gốc và thị trường chuyển giao công nghệ 11
1. Nguồn gốc chuyển giao công nghệ. 11
2. Thị trường chuyển giao công nghệ 11
3. Tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ. 12
III . Thực trạng của chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 15
1. Thực trạng nền kinh tế ở nước ta. 15
1.1 Sự thay đổi môi trường kinh doanh 15
1.2 Sứ mạng hay lợi nhuận 16
2. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế 18
2.1 Tác động của công nghệ đối với nền kinh tế quốc gia 18
2.2 Tác động của công nghệ vào lợi ích và sự tăng trưởng của công ty 20
3. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. 20
IV. Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ 25
1. Quy tắc chuyển giao công nghệ: 25
2. Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và Chuyển giao công nghệ 29
2.1 Các dòng chuyển giao công nghệ quốc tế chủ yếu. 29
2.2 Nội dung chuyển giao công nghệ. 31
1.3 Các kênh chuyển giao công nghệ. 32
2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở Trung Quốc 38
V. Một số phương pháp chuyển giao công nghệ hiệu quả. 44
1. Phương pháp chuyển giao bằng dòng thông tin công nghệ. 45
2. Phương pháp chuyển giao công nghệ dựa vào sự di chuyển con người. 46
Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 50
49 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2564 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luận án Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưa cao.
Theo tôi, Chính phủ cần đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh để tạo áp lực đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục cải thiện chính sách thu hút đầu tư FDI vào VN, thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI, coi đây vừa là nguồn cung quan trọng cho đổi mới công nghệ, vừa là yếu tố tạo áp lực buộc doanh nghiệp trong nước phải quan tâm tới đổi mới công nghệ; có chính sách tăng cường liên kết ngang giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ tài chính cho đổi mới công nghệ hiện hành của Nhà nước phải chuyển từ tài trợ trực tiếp theo cơ chế xin - cho sang cơ chế hỗ trợ gián tiếp, chủ yếu nên tập trung tạo điều kiện kỹ thuật hạ tầng, tạo khung pháp lý để hình thành thêm nhiều kênh cung ứng nguồn tài chính cho đổi mới công nghệ (chẳng hạn như quĩ đầu tư mạo hiểm). Phát triển thị trường khoa học và công nghệ theo hướng khuyến khích quá trình thương mại hóa sản phẩm công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển mạnh hệ thống các tổ chức dịch vụ công nghệ, thông tin môi giới công nghệ, các trung tâm giao dịch và thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ.
Chỉ 3% doanh thu chi cho đổi mới công nghệ
Kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp tại TP HCM và Hà Nội do UNDP tiến hành cho thấy, mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của các đơn vị chỉ đạt khoảng 3% doanh thu mỗi năm.
Trung bình mỗi doanh nghiệp chỉ đầu tư khoảng 5 tỷ đồng/năm cho đổi mới công nghệ, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng. Hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ từ những năm 1980. Tới 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 53% phụ thuộc vào thiết bị công nghệ nhập khẩu của nước ngoài nhưng chỉ có 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Theo UNDP (Chương trình phát triển của Liên hợp quốc), điều này cho thấy, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm.
Cuộc khảo sát chỉ ra rằng áp lực cạnh tranh chưa tác động đáng kể đến đầu tư đổi mới công nghệ. Hầu hết doanh nghiệp đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, không có kế hoạch dài hạn. Phương thức được sử dụng nhiều nhất là nhập khẩu công nghệ nước ngoài. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 7%.
Riêng với ngành dệt may, sự yếu kém về thông tin khiến các doanh nghiệp bị lệ thuộc cả về đơn hàng, nguồn nguyên liệu lẫn công nghệ. Doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ chỉ biết tìm thông tin trên mạng. Họ không có địa chỉ nào (ví dụ như một Trung tâm tư vấn thông tin) để cung cấp thông tin thị trường, khách hàng, công nghệ, và để thẩm định công nghệ.
Các chuyên gia khuyến cáo Nhà nước cần tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, và sớm cho ra đời Quỹ đầu tư mạo hiểm của Chính phủ để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Quan trọng hơn, theo các chuyên gia, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế, hoàn thiện môi trường pháp lý, bao gồm ban hành Luật Doanh nghiệp chung, đẩy nhanh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Đẩy mạnh biện pháp tài chính để bình ổn giá
Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng sáng nay cho biết, trong nửa cuối năm, ngành sẽ sử dụng linh hoạt biện pháp tài chính để khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm nhằm bình ổn giá cả hàng hoá, đặc biệt trong bối cảnh giá xăng dầu đắt đỏ như hiện nay.
Ông Hùng cho rằng, việc điều hành giá cả sẽ phải quan tâm tới cả 2 mặt: vừa thúc đẩy sản xuất vừa bảo vệ người tiêu dùng, cũng như lợi ích của Nhà nước. Tuỳ điều kiện mà sử dụng biện pháp tăng hoặc giảm thuế, lãi suất, cho vay vốn... Đối với những mặt hàng Nhà nước còn định giá thì thực hiện điều chỉnh mức hoặc giá định hướng phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế như điện, xăng dầu. Việc sử dụng linh hoạt, có hiệu quả chính sách tài chính - tiền tệ nhưng không quá lạm dụng biện pháp này để gây ảnh hưởng đến cam kết quốc tế.
Trao đổi với báo giới về việc nhiều hàng hoá dịch vụ chuẩn bị tăng giá sau khi xăng dầu được điều chỉnh, ông Hùng cho rằng, đây không phải là giải pháp duy nhất. Các doanh nghiệp có thể cố gắng tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất để ổn định giá, đặc biệt là với các chi phí liên quan đến xăng dầu. "Nếu doanh nghiệp tiết kiệm thêm được 10% chi phí sử dụng mặt hàng này thì giá thành sản phẩm sẽ không bị ảnh hưởng nhiều", ông Hùng nói.
Tăng cường năng lực điều hành, quản lý thị trường, chống đầu cơ, độc quyền hoặc liên kết với nhau về giá là biện pháp quan trọng tiếp theo để bình ổn giá mà ngành tài chính đề ra trong những tháng cuối năm. Chẳng hạn, đối với những mặt hàng như điện, dịch vụ, hàng không, bưu chính viễn thông Nhà nước thực hiện kiểm soát thông qua hình thức định giá chuẩn. Bên cạnh đó, những mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến quốc kế dân sinh như thuốc chữa bệnh, lương thực... Nhà nước sẽ thực hiện biện pháp định giá giới hạn như khung giá bán lẻ đối với một số loại thuốc chữa bệnh thiết yếu, giá sàn định hướng với thóc. Hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón sẽ được bình ổn thông qua điều hành cung - cầu trên thị trường.
Theo Phó thủ tướng Vũ Khoan, trong hoàn cảnh Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều thị trường thế giới như xăng dầu, sắt thép, phân bón, dược phẩm... thì để giữ một giá cả ổn định là rất khó khăn. Vì vậy, Phó Thủ tướng cho rằng, cần phải có cách hiểu về bình ổn giá thống nhất để xã hội quen dần với hoàn cảnh sống trong môi trường hội nhập quốc tế. "Xử lý giá xăng dầu vừa rồi đã làm theo hướng đó, nghĩa là tiến dần đến thị trường của nhiều mặt hàng, dù rằng là không tràn lan", ông nói.
"Để làm tốt công tác bình ổn giá trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu với quốc tế thì cần phải làm tốt hơn vấn đề dự báo tình hình biến động của thị trường thế giới. Tiếp đến là các biện pháp điều hành ổn định vĩ mô, thu chi ngân sách, tiền hàng, cân đối ngoại tệ, chứ không chỉ giá cả từng mặt hàng. Vĩ mô thì dứt khoát phải giữ cho được, vừa rồi chúng ta đã thành công mặc dù giá cả có tăng. Bên cạnh đó, những vấn đề về thuế, phí,... sẽ cần phải linh hoạt", Phó thủ tướng nhấn mạnh.
IV. Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ
Quy tắc chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ nhằm mục đích tăng cường phát triển sản phẩm trong công nghiệp, hỗ trợ các nỗ lực nghiên cứu trong khu vực hàn lâm và thương mại hóa các công nghệ được phát triển trong các viện nghiên cứu của Chính phủ.
Một quy tắc quan trọng bao trùm trong chuyển giao công nghệ là chuyển giao công nghệ không giống nhau đối với những người khác nhau. Đối với các thành viên thuộc Hiệp hội các nhà quản lý công nghệ của trường đại học thì chuyển giao công nghệ là sự chuyển giao chính thức các sáng chế và các khám phá mới thu được từ hoạt động nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các trường đại học cho khu vực thương mại. Đối với các phòng thí nghiệm quốc gia thì nó là một quá trình mà các kiến thức, phương tiện hay năng lực, được phát triển nhờ nguồn tài trợ cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Chính phủ, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu công cộng và tư nhân. Trong công nghiệp thì đó là một cơ chế cho phép các công ty giải quyết các nhu cầu công nghệ của mình bằng cách mua li-xăng công nghệ và kiến thức của các công ty khác. Chuyển giao công nghệ rõ ràng không hạn chế về bản chất và chứa đựng tất cả các thuộc tính này. Về cơ bản, nó bao hàm chuyển giao việc sử dụng sở hữu trí tuệ từ một tổ chức này sang một tổ chức khác, thông thường bằng tiền thanh toán trả cho việc sử dụng hay phí lixăng. Nhưng chính việc thanh toán phí chuyển giao trong mọi giao dịch sẽ gây ra những vấn đề liên quan đến tình trạng lãi hay thua lỗ của một tổ chức.
Dưới đây là một số quy tắc cần chú ý để có thể tăng cường lợi nhuận và giảm thiểu thua thiệt trong các thoả thuận chuyển giao công nghệ. Những quy tắc này hoàn toàn không phải là tất cả để đánh giá một giao dịch chuyển giao công nghệ. Chúng chỉ nhấn mạnh một số vấn đề phức tạp cần phải cân nhắc nhằm dáp ứng được các mục tiêu chiến lược của các tổ chức:
(1) Không được đánh giá sai giá trị của công nghệ: Thông thường, những người tham gia vào một thỏa thuận chuyển giao công nghệ sẽ định giá thấp chi phí để phát triển sản phẩm từ giai đoạn mẫu trình diễn sang sản xuất thương mại đầy đủ. Những người mua thường sẽ trở nên quá say mê với công nghệ mà đánh giá thấp những chi phí thực hiện như công cụ, vật tư, bao gói, gia công và bảo đảm chất lượng/kiểm tra. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của chuyển giao công nghệ thất bại là chi phí quá cao trong giai đoạn chuẩn bị các chi phí sản xuất. Người mua công nghệ cần mời các chuyên gia sản xuất có kinh nghiệm đánh giá toàn bộ những chi phí này trong giai đoạn đánh giá. Những người sử dụng nên cộng thêm một khoản 15% phí đột xuất vào các chi phí sản xuất ước tính cuối cùng để bù đắp những chi phí phát sinh ngoài dự kiến.
(2) Hiểu rõ thị trường mục tiêu: Có một số người tham gia vào giao dịch chuyển giao công nghệ sẽ mua công nghệ nhưng chưa hiểu kỹ thị trường thương mại tiềm năng đối với công nghệ đó. Các chuyên gia khuyên rằng những người mua công nghệ cần sớm xác định nhu cầu thị trường trong giao dịch chuyển giao công nghệ và chắc chắc rằng sản phẩm cuối cùng có ưu thế thương mại rõ ràng so với công nghệ cạnh tranh tiềm năng của nó. Họ cũng khuyên những người mua công nghệ sớm tham khảo những người sử dụng sản phẩm và xem thị trường nói chung sẽ cần những gì đối với công nghệ mới này. Thời gian cũng là một vấn đề mà người mua cần lưu ý bởi thị trường có thể thay đổi trong giai đoạn đưa công nghệ vào sản xuất sản phẩm thương mại.
(3) Sử dụng những người giỏi: Những người thực hiện đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ cần phải giỏi về công nghệ đó, cùng với hiểu biết kinh doanh và một chút kiến thức luật pháp. Nếu không có những yếu tố này, nhóm kinh doanh của bạn sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tất cả các kiến thức của họ sẽ được vận dụng trong các cuộc thương lượng đó.
(4) Tìm kiếm giải pháp 2 bên đều thắng: Chuyển giao công nghệ là việc đưa công nghệ ra thị trường. Do vậy, một giải pháp 2 bên cùng thắng thường được các bên theo đuổi bởi bên cung cấp và bên mua có các năng lực bổ sung cho nhau nhằm mục đích sao cho một công nghệ tốt được sản xuất có hiệu quả và được thương mại có kết quả trong một thị trường cần và muốn có công nghệ đó. Thông thường, các công ty với năng lực giống nhau trong khi tìm hiểu các yêu cầu của nhau có thể thấy thích hợp, nhưng trên thực tế không bên nào có thể đặt lên bàn một thứ gì mà các bên còn thiếu.
(5) Có nhiều lĩnh vực hợp tác: “Sáng kiến Công nghệ nanô Quốc gia” của Mỹ là một thí dụ rất rõ làm sao nghiên cứu được Chính phủ tài trợ có thể dẫn đến sự phát triển các ngành công nghiệp mới và cung cấp hỗ trợ nghiên cứu cơ bản tiếp theo để tăng cường các nỗ lực phát triển của công ty. Nhiều công nghệ nanô đang được hỗ trợ bằng chi phí R&D của Chính phủ và được phát triển trong các phòng thí nghiệm liên bang, trong khi đối tác chuyển giao công nghệ trong công nghiệp có thể giúp thương mại hóa chúng.
(6) Kiểm tra thị trường: Cách tốt nhất để đánh giá công nghệ là hỏi những người tham gia thị trường về giá trị mà những lợi ích của công nghệ có thể mang lại cho họ. Nếu nó có giá trị thì bạn có thể cố gắng tìm cơ hội bán chúng. Phần lớn các tổ chức công nghiệp không bao giờ suy nghĩ kỹ lưỡng trong việc tiến hành nghiên cứu thị trường về sản phẩm mới được phát triển trong công ty. Nhưng điều này cũng thường xảy ra khi học mua công nghệ từ một tổ chức khác ngoài công ty. Người mua có thể sai lầm khi tin rằng việc nghiên cứu thị trường đã được phía cung cấp công nghệ thực hiện hay làm qua loa. Trong cả 2 trường hợp trên, nghiên cứu thị trường đều không có giá trị đối với bất kỳ sản phẩm mới nào và trong mỗi hợp đồng chuyển giao công nghê, nó cần phải được tiến hành trước khi ký kết các văn bản cuối cùng hay ít nhất cũng là một phần căn bản của hợp đồng. Các bên chuyển giao công nghệ không nên nản lòng vì, từ trước đến nay, chỉ có khoảng 1% đến 5% công nghệ được cấp patăng và được thương mại hoá.
(7) Nguồn lực (vật tư và các nguồn cung ứng khác). Quy trình phân bố nguồn lực công nghệ trong một tổ chức công nghệ là một sự sắp đặt phức tạp gồm các ưu tiên, các thao tác vận hành hàng ngày và các thao tác vận hành then chốt. Trong quá trình chuyển giao công nghệ, khi hợp đồng cuối cùng được ký kết và công nghệ được chuyển giao, các nguồn lực cần phải có để hỗ trợ cho nó trong một thời hạn nhất định có thể đảm bảo cho triển khai thành công. Nếu các vận hành tiếp theo loại bỏ các nguồn lực khỏi công nghệ chuyển giao, thì có thể nảy sinh những khác biệt giữa chiến lược theo kế hoạch của tổ chức và chiến lược triển khai thực tế. Các nguồn lực cần phải được tích cực giám sát, tìm hiểu và kiểm tra hàng ngày, nếu cần.
(8) Không coi nhẹ các khía cạnh luật pháp: Công nghệ có thể được chuyển giao, nhưng nếu bạn không được sở hữu các quyền, bạn có thể gặp rủi ro ở chỗ thực tế bạn có thể sử dụng công nghệ đó vào kinh doanh gì? Để bảo vệ các quyền của mình, bạn phải chắc chắn mình nhận được mọi khía cạnh của công nghệ bạn cần. Có một số trường hợp gây tranh cãi về sáng chế thực tế của công nghệ và một số phần của công nghệ do người khác phát triển.
(9) Hiểu rõ hệ thống pháp lý: Hiện có nhiều quy định pháp lý về chuyển giao công nghệ đã được ban hành sẽ ảnh hưởng đến các trường hợp khác nhau. Những quy định cơ bản này cần hiểu kỹ và thực hiện có thể giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc về sau.
(10) Sử dụng tất cả các nguồn thông tin: Chuyển giao công nghệ đang phát triển mạnh mẽ nên có nhiều cơ quan dịch vụ được thành lập để hỗ trợ công việc này. Các thông tin cần cho những người mua công nghệ tiềm năng cũng có thể tìm kiến trên mạng.
2. Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và Chuyển giao công nghệ
2.1 Các dòng chuyển giao công nghệ quốc tế chủ yếu.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển: Một đặc điểm chung cơ bản trong việc chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển ở đỉnh cao, họ luôn đặt ra những yêu cầu mới, hiện đại nhất so với sự phát triển KH&CN hiện tại. Hình thức chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển chủ yếu là mua bán thiết bị công nghệ, các sản phẩm KH&CN, các bí quyết, bằng phát minh, sáng chế.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển: Đây là dòng chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiêp phát triển sang các nước đang phát triển (còn gọi là quan hệ Bắc-Nam). Các nước đang phát triển tiếp nhận công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển chủ yếu: công nghệ, kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý... Do chi phí nhập khẩu công nghệ và kỹ thuật khá cao, ngoại tệ ở các nước đang phát triển lại thiếu, nếu mở rộng nhập công nghệ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển lại có tình trạng chung là hạ tầng cơ sở kỹ thuật lạc hậu, đội ngũ cán bộ KH&CN và kỹ thuật viên vừa thiếu, vừa kém về trình độ, cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ với trang thiết bị lạc hậu, không đồng bộ, nên cản trở khả năng tiếp nhận công nghệ nhập. Mặt khác, mức độ tổng hợp giữa công nghệ nhập với điều kiện cụ thể ở các nước đang phát triển có những khoảng cách lớn. Người ta ước tính rằng, đến 90% các công nghệ được tạo ra ở các nước công nghiệp phát triển để giải quyết những yêu cầu riêng của các nước này, phần còn lại và những công nghệ đã tương đối lạc hậu mới chuyển giao sang các nước đang phát triển. Tình trạng chung ở các nước đang phát triển là sản xuất nông nghiệp vẫn đang chiếm vị trí chủ đạo, công cụ lao động lạc hậu, bên cạnh đó còn phải đối mặt với những vấn đề khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ như:
Công nghệ sẵn có để lựa chọn rất hạn chế vì bản chất độc quyền của các bên cung cấp công nghệ,
Thị trường giao dịch công nghệ chưa thực sự hoàn hảo, có nơi mới hình thành ở mức độ sơ khai,
Vị thế yếu để mặc cả giá chuyển giao công nghệ,
Các điều kiện và thời gian chuyển giao công nghệ bị hạn chế,
Năng lực tiếp nhận công nghệ thấp,
Năng lực hấp thụ, nghiên cứu và phát triển công nghệ còn yếu kém,
Sự phụ thuộc ngày càng cao vào các nước cung cấp công nghệ do tốc độ đổi mới công nghệ quá nhanh, vòng đời công nghệ ngày càng ngắn,
Các nước đang phát triển thiếu những điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để ứng dụng và triển khai công nghệ hiện đại,
Phần lớn các công nghệ hiện đại của các nước công nghiệp phát triển không thích hợp lắm với những điều kiện cụ thể của các nước đang phát triển,
Phần lớn các nước chậm phát triển, thiết chế xã hội kém năng động, thị trường KH&CN nhỏ hẹp, không thể tạo ra được những động lực lớn cho việc tiếp nhận, làm chủ và đổi mới công nghệ nhập.
Tóm lại, từ việc phân tích trên cho thấy, không phải bao giờ sự chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển cũng hoàn toàn thích hợp để có thể giải quyết ngay các mâu thuẫn gay gắt trong đời sống thấp kém của các nước đang phát triển.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển: Đây là xu thế mới gọi là quan hệ “Nam-Nam”. Loại hình chuyển giao công nghệ này gắn liền với sự hình thành các khối kinh tế khu vực như ASEAN ở châu á, Cộng đồng Đông Phi ở châu Phi, các nước trong Hiệp ước Andean ở châu Mỹ La Tinh… Dòng chuyển giao công nghệ Nam-Nam bắt đầu khởi nguồn từ sự thành công của các nước mới công nghiệp hóa như các nước và lãnh thổ châu á-NICs (Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Hồng Công). Các nước và vùng lãnh thổ này đang là lực lượng đầu tư đáng kể vào các nước kém phát triển ở châu á. Mục tiêu đầu tư vốn, công nghệ của các nước NICs chủ yếu nhằm khai thác nguyên liệu thô, tận dụng nhân công rẻ, thu hồi vốn nhanh.
2.2 Nội dung chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ phần cứng sản xuất, bao gồm vật liệu, máy móc, thiết bị,
Chuyển giao tài liệu sản xuất, bao gồm paten, các bí quyết thiết kế, quản lý, các tài liệu kỹ thuật, các tiêu chuẩn sản xuất, các quy trình vận hành.
Chuyển giao tài liệu tổ chức, gồm tài liệu dùng cho quản lý như các quy chế vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý nhân sự, kiểm soát tài chính,
Chuyển giao các kỹ năng sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng được tích lũy và sử dụng trong quy trình sản xuất.
Các kênh chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ qua thương mại hàng hóa: Công nghệ có thể được chuyển giao xuyên qua các đường biên giới quốc tế với rất nhiều kênh, trong đó kênh thương mại hàng hoá được coi là một trong những kênh rất quan trọng. Thông qua khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, ẩn chứa trong đó tiềm năng các loại hình chuyển giao công nghệ. Chỉ tính riêng việc nhập khẩu cho ngành công nghiệp một số công nghệ thiết bị mới đã có thể cải thiện một cách trực tiếp hiệu quả sản xuất khi được đưa vào dây chuyền sản xuất. Như vậy, bản thân thương mại quốc tế cũng là một hình thức trung tâm của việc chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài: Kênh chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thông qua các Tập đoàn đa quốc gia (MNEs). Về nguyên lý, các MNEs sẽ chuyển giao cho các công ty con của nó ở những nước có nhu cầu tiếp nhận công nghệ, những tri thức công nghệ mới và hữu ích cho những doanh nghiệp bản địa. Nguyên nhân là do các công ty con có động cơ muốn trở thành một công ty đa quốc gia nắm giữ quyền sở hữu một số tài sản tri thức để khai thác nhiều lợi nhuận ở các doanh nghiệp nhập công nghệ. Có nhiều quan điểm cho rằng một dạng tiếp nhận công nghệ toàn diện nhất là FDI. Vì FDI không những mang lại công nghệ mà còn kỹ năng quản lý, các liên kết thị trường và vốn. Vì vậy, FDI là một kênh chính quan trọng, thông qua đó các doanh nghiệp có cơ hội vươn lên, không những có khả năng cạnh tranh về công nghệ trên thị trường nội địa mà còn vươn ra khu vực và thế giới.
Chuyển giao công nghệ thông qua bằng sáng chế: Kênh quan trọng thứ ba là cấp giấy phép sáng chế công nghệ, việc này vừa có thể được thực hiện trong các doanh nghiệp, giữa các liên doanh hoặc giữa các doanh nghiệp không có mối liên hệ. Bằng sáng chế (Paten) thể hiện một cách điển hình việc mua bản quyền sản xuất hoặc phân phối, thông tin kỹ thuật cơ bản và bí quyết. Có sự khác biệt quan trọng giữa chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp và cấp bằng sáng chế. ở trường hợp đầu tiên, MNEs giữ lại việc kiểm soát độc quyền sở hữu trí tuệ và bí quyết, trong khi ở trường hợp thứ hai việc tiếp cận những tài sản này phải dành cho người được cấp bằng sáng chế. Vì vậy, bằng sáng chế, các bí mật thương mại, bản quyền và thương hiệu có thể là những tiện ích của việc chuyển giao tri thức. Do hợp đồng cấp bằng sáng chế đạt được thông qua đàm phán giữa người bán và người mua nên việc chuyển giao mang tính tự nguyện. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể ban hành những mệnh lệnh bắt buộc trao quyền sử dụng cho các doanh nghiệp bản địa, trong trường hợp này chuyển giao công nghệ mang tính cưỡng ép. Rõ ràng rằng các bằng sáng chế nếu bị cưỡng ép thì không thể thành công trong việc thu được những bí quyết đích thực.
Chuyển giao công nghệ dưới hình thức liên doanh: Cấp bằng sáng chế và FDI có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc thành lập các liên doanh. Đó là các thỏa thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều hơn hai doanh nghiệp, với mỗi doanh nghiệp cung cấp một số lợi thế làm giảm chi phí của việc hoạt động chung. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp quốc tế có thể cung cấp những thông tin sản xuất tiên tiến hơn về mặt công nghệ thông qua việc cấp bằng sáng chế, trong khi các đối tác địa phương cung cấp các mạng lưới phân phối, thông tin về thị trường lao động, các kỹ năng quản lý đặc biệt hoặc một số những lợi thế mang tính địa phương khác. Một số sự dàn xếp đạt được thông qua chia sẻ bất cứ lợi nhuận hay rủi ro nào của liên doanh.
Chuyển giao công nghệ qua con đường hợp đồng sản xuất/ chế tạo: Do lợi thế nguyên vật liệu tại chổ, giá nhân công thấp, phương tiện giao thông thuận lợi và do lợi nhuận giữa các bên, Bên A(là bên có vốn và công nghệ) ký hợp đồng kinh tế với Bên B để gia công, chế tạo từng nguyên công, từng chi tiết, hoặc lắp ráp từng cụm thiết bị….Bên B dần dần tích lũy được các công nghệ mà Bên A hợp tác sản xuất. Đây là loại hình chuyển giao công nghệ cũng khá phổ biến đối với các nước đang phát triển hiện nay vì những công nghệ mà Bên B tiếp nhận được rất cụ thể và dễ làm chủ vì đã qua sản xuất, chế tạo”thuê” cho Bên A.
Chuyển giao công nghệ qua Mạng INTERNET/INTRANET: Đây là loại hình chuyển giao công nghệ đang được phổ biến, nhất là các nước có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin và viễn thông phát triển. Việc giao dịch qua mạng như là một “Thị trường trung gian” để kết nối giữa người bán và người mua công nghệ. Người có nhu cầu công nghệ có thể tiếp cận được trực tiếp với nhà sản xuất, mà không cần thông qua môi giới, tư vấn. “Thị trường trung gian” này có nhiều ưu thế là không tốn kém kinh phí giao dịch, tiếp cận được thông tin tức thời giữa người cung cấp và người có nhu cầu công nghệ. Hiện nay, người ta đang tổ chức “Chợ ảo công nghệ” trên mạng để tiện giao dịch, lựa chọn công nghệ một cách không giới hạn.
Chuyển giao công nghệ thông qua luân chuyển nhân sự xuyên biên giới: Kênh quan trọng thứ năm của chuyển giao công nghệ là luân chuyển nhân sự quản lý và kỹ thuật xuyên biên giới. Trên thực tế, rất nhiều công nghệ không thể được chuyển giao đầy đủ hay hiệu quả mà không có các dịch vụ hỗ trợ và bí quyết của các kỹ sư và những nhà kỹ thuật. Một lợi thế quan trọng của MNEs là khả năng luân chuyển những người lao động có kỹ năng như vậy trong các công ty con khi cần thiết. Thị trường luân chuyển tạm thời những công nhân có kỹ năng giữa các doanh nghiệp có thể bị hạn chế và kém linh hoạt hơn do làm tăng chi phí của các hoạt động chuyển giao công nghệ như vậy. Cần lưu ý rằng, FDI, cấp bằng sáng chế, liên doanh và luân chuyển nhân sự là những quy trình có liên quan, phụ thuộc lẫn nhau.
Chuyển giao công nghệ qua thị trường trung gian: Có nhiều luồng chuyển giao công nghệ khác nhau đã và đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây, đó là xuất khẩu hàng hóa, hàng hóa chuyên sâu về lao động có kỹ năng và hàng hóa công nghệ cao từ các nền kinh tế của các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) có thu nhập cao tới tất cả các nước được phân theo nhóm mức độ thu nhập thấp hơn (được Ngân hàng Thế giới phân nhóm). Các nước có thu nhập bậc trung trở lên làm cho thị trường xuất khẩu công nghệ từ các nước OECD tăng lên nhanh chóng. Qua nghiên cứu cho thấy việc cấp bằng sáng chế và các dạng mậu dịch về công nghệ khác được xác định bằng các luồng thu nhập tiền bản quyền phần lớn thuộc về các nước OECD. Các nước có thu nhập trung bình trở lên, chủ yếu là các nền kinh tế đang phát triển đang trở thành những thành viên mới quan trọng của thị trường công nghệ từ những năm đầu thập kỷ 80 và những nước này vẫn chiếm ít hơn 3% tổng xuất khẩu của OECD. Trong rất nhiều kênh chuyển giao công nghệ khác nhau, các nước có mức thu nhập trung bình và kém hơn chiếm phần lớn ở các luồng FDI chính thống của OECD ví dụ như Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư. Thực vậy, đối với các nước này, phần đóng góp FDI tăng nhanh hơn nhiều so với thương mại công nghệ hoặc mậu dịch các hàng hóa chuyên về công nghệ. Tình trạng này cũng diễn ra ở những nước có thu nhập thấp, FDI tăng nhanh nhất từ những năm 1970-2003, mặc dù sự đóng góp của các hình thức thương mại chuyên về công nghệ và chuyên vê kỹ thuật cũng như FDI lại giảm. Sự đóng góp của Châu Phi cận Sahara ở tất cả các luồng công nghệ không chính thống của các nền kinh tế OECD đã giảm trong giai đoạn này. Từ đó, có thể dễ dàng hiểu được những mối quan ngại về sự phân hóa trong cách tiếp cận chuyển giao công nghệ giữa các nước có thu nhập trung bình và những nước kém phát triển.
Các kênh chuyển giao công nghệ phi thị trường: Ngoài các kênh thị trường còn có các kênh chuyển giao công nghệ phi thị trường. Có lẽ quan trọng nhất là phương pháp mô phỏng, đó là phương pháp mà một doanh nghiệp đối thủ học được các bí mật về thiết kế hoặc công nghệ của sản phẩm hoặc công thức của doanh nghiệp khác. Phương pháp mô phỏng có thể diễn ra thông qua việc xem xét kỹ sản phẩm, kỹ thuật, phá mã phần mềm… Phương pháp mô phỏng có hợp pháp hay không phụ thuộc vào phạm vi của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và Luật Cạnh tranh không công bằng. Vì mô phỏng không phải đền bù cho người sở hữu công nghệ, nên coi nó là một hình thức “Học sao chép”, điều này lại hấp dẫn đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, phương pháp mô phỏng rất tốn chi phí và có thể làm cho năng lực sáng tạo bị chệch hướng.
Chuyển giao công nghệ qua việc rời bỏ công ty của người lao động: Một hình thức chuyển giao công nghệ nữa, đó là những nhân sự về quản lý và kỹ thuật, những người mang tri thức và công nghệ của một doanh nghiệp của mình rồi rời bỏ doanh nghiệp này và gia nhập hoặc thành lập một doanh nghiệp đối thủ trên cơ sở những tri thức và công nghệ mà họ đã tích luỹ được. Đây là loại hình chuyển giao công nghệ mà không phải đền bù một cách chính thức cho người sở hữu công nghệ và phạm vi của hoạt động này phụ thuộc vào cách giải quyết theo luật pháp về sự luân chuyển lao động.
Chuyển giao công nghệ trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu những dữ liệu trên các bằng sáng chế và dữ liệu thử nghiệm: Một phương pháp nữa để tiếp thu được công nghệ mà không phải đền bù là nghiên cứu để tiếp thu những thông tin có sẵn về những công nghệ. Đó là những dữ liệu đã được mô tả về các ứng dụng của các bằng sáng chế, cả những ứng dụng được đăng ký ở một nước và được đăng ký ở nước ngoài, đều có sẵn cho mục đích này. Về nguyên tắc, các doanh nghiệp đối thủ có thể nghiên cứu những ứng dụng này, học hỏi những công nghệ cơ bản, triển khai các sản phẩm và phương pháp cạnh tranh mà không vi phạm đến quyền lợi của những người nộp đơn đăng ký bản quyền đầu tiên. Vì vậy, bằng sáng chế vừa là một nguồn chuyển giao công nghệ trực tiếp, thông qua FDI và cấp bằng sáng chế, lại vừa là hình thức không trực tiếp thông qua việc nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn có sự không thống nhất là liệu những thông tin công khai về các bản mô tả sáng chế như vậy có thực sự cung cấp đầy đủ thông tin để các chuyên gia, các kỹ sư của doanh nghiệp đối thủ có thể nắm bắt được công nghệ một cách chính xác không? Một nguồn thông tin quan trọng nữa là những dữ liệu thử nghiệm công nghệ mật của các nhà sáng chế. Có thể sau một giai đoạn độc quyền về các công nghệ để thưởng cho các nhà sáng chế, các cơ quan của các Chính phủ có thể lựa chọn để công bố những dữ liệu như vậy với các doanh nghiệp đối thủ nội địa để tránh những chi phí nghiên cứu trùng lặp và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực. Đây là cơ hội để các nhà nghiên cứu, các kỷ sư của các doanh nghiệp đối thủ nghiên cứu để tạo ra những công nghệ mới cho riêng mình.
Chuyển giao công nghệ thông qua di cư tạm thời: Hình thức cuối cùng, phần lớn công nghệ dường như được chuyển giao thông qua việc di cư tạm thời của các sinh viên, các nhà khoa học, các nhà kỹ thuật-quản lý tới các trường đại học, phòng thí nghiệm và các hội nghị khoa học có vị trí ở những nước phát triển và đang phát triển. Đây là loại hình chuyên giao công nghệ đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, các nước đang phát triển nên tận dụng loại hình thức chuyển giao công nghệ này mà không tốn kém về đào tạo, bằng cách khuyến khích các sinh viên sau khi tốt nghiệp, các nhà khoa học đang làm việc ở nước ngoài quay trở lại quê nhà gánh vác việc phát triển kinh doanh, giáo dục, nghiên cứu phục vụ đất nước.
Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở Trung Quốc
Bốn công nghệ nổi tiếng ở Trung Quốc là 4 phát minh lớn ở thời đại cổ, đó là thuốc nổ, la bàn, công nghệ chế tạo giấy và công nghệ in. Bốn công nghệ này là bằng chứng thể hiện năng lực sáng tạo công nghệ của người Trung Quốc đã có từ lâu. Hơn một thế kỷ trước, từ các sự kiện như phá hủy Vườn Viên Minh, cuộc tiến công Hổ Môn Trại, người Trung Quốc đã bắt đầu ý thức được sự chậm tiến của nước mình, một bộ phận quan chức nhà Thanh đã tiến hành vận động hiện đại hóa để bảo vệ quyền lực chính quyền chuyên chế phong kiến. Người ta gọi phong trào này là “Phong trào Dương Vụ”. Tư tưởng chủ đạo của phong trào này là “Sự di trưởng kỷ dĩ chế di” của “Ngụy Nguyên” (Học hỏi những công nghệ tiên tiến của đối phương để chế áp đối phương), những quan lại phái Dương Vụ đã có tư tưởng nỗ lực tiếp thu công nghệ mới.
So với Minh Trị Duy Tân của Nhật Bản, phong trào Dương Vụ của Trung Quốc bị thất bại, nên đã rơi vào nội chiến, bất ổn định trong vòng 60 năm.
Đến năm 1949, cục diện chính trị ở Trung Quốc bước vào thời kỳ mới - Nhà nước CHND Trung Hoa ra đời, Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền lãnh đạo. Vào thời điểm này, Chính phủ Trung Quốc kế thừa khoảng 40 cơ quan nghiên cứu với 50.000 người tham gia nghiên cứu, trong đó chỉ có khoảng 600 người là nghiên cứu chuyên môn và nghiên cứu phát triển công nghệ. Thập kỷ 50 (của thế kỷ 20), kinh tế Trung Quốc vẫn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn ưu tiên kinh phí cho hoạt động KH&CN. Đến năm 1960, chi phí cho nghiên cứu khoa học toàn quốc đã tăng lên 60 lần so với năm 1952. Nửa đầu thập kỷ 60, khi trên thế giới đang tiến hành cuộc cách mạng công nghệ, thì ở Trung Quốc bắt đầu “Cuộc cách mạng Văn hóa”. Cuộc cách mạng này đã làm cho Trung Quốc phải chịu tổn thất lớn kể từ khi thành lập nước, cũng như mất cơ hội theo kịp trình độ các nước đang phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ trong việc chấn hưng đất nước, các thế hệ lãnh đạo của Nhà nước Trung Hoa đã có những sách lược rất mạnh mẽ trong việc nhập khẩu công nghệ, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ để đưa đất nước Trung Quốc phát triển như ngày nay.
Con đường du nhập công nghệ của Trung Quốc
Nhiệm vụ chủ yếu sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời là xây dựng một hệ thống công nghiệp. Năm 1952, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất để phát triển kinh tế và nhập khẩu thiết bị, công nghệ của Liên Xô cũ với quy mô lớn, đó cũng là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch này. Trung Quốc đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xây dựng công nghệ công nghiệp bước đầu. Kết quả là đã dẫn đến sự “bùng nổ” về nhập khẩu công nghệ lần thứ nhất trong thập kỷ 50.
Từ năm 1950 đến 1959, chỉ có 150 quy trình công nghệ viện trợ từ Liên Xô cũ (thường nói là 156 quy trình) nhưng trên thực tế chỉ có 150 quy trình được tiến hành), bao gồm từ 400-500 hạng mục công nghệ, chi phí khoảng 2,7 tỷ USD. Tất cả những khoản mục công nghệ đó đều rất quan trọng. Những công nghệ trọng điểm được đưa vào là động lực, cơ khí và đồ dùng cho quân sự. Viện trợ công nghệ của nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa là đường dây nhập khẩu công nghệ quan trọng nhất của Trung Quốc vào thập kỷ 50. Thời đó các nước Tây Âu thực hiện chính sách cấm xuất nhập khẩu đối với Trung Quốc cho nên chỉ có thể nhập khẩu công nghệ từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Những công nghệ được đưa vào là những công cụ quan trọng phục vụ sản xuất, không chỉ trực tiếp tăng cường sức mạnh công nghiệp của Trung Quốc mà còn là nền tảng để phát triển công nghệ. Trên cơ sở nhập khẩu những công nghệ này, ở một trình độ nhất định Trung Quốc đã thành công trong việc nâng cao năng lực công nghệ, đó là cơ sở quan trọng chủ đạo để tạo ra nền tảng công nghiệp hóa sau này.
Bảng 1. Nhập khẩu thiết bị công nghệ của Trung Quốc những năm 50
(Đơn vị: Số hợp đồng)
Nguồn du nhập
Loại thiết bị
Số lượng du nhập
Số lượng đưa vào sử dụng
Hợp đồng hủy bỏ
Tự triển khai
Liên Xô cũ
Thiết bị sơ cấp
304
149
89
66
Quy trình đơn lẻ
64
25
35
Các nước Đông Âu
Thiết bị sơ cấp
108
Máy móc đơn lẻ
82
Nguồn: “Đánh giá 40 năm đưa kỹ thuật mới vào Trung Quốc” - “Thế giới quản lý”, số 6/1991.
Vào những năm 60, quan hệ Liên Xô cũ và Trung Quốc trở nên xấu đi, Liên Xô cũ ngừng cung cấp thiết bị công nghệ cho Trung Quốc. Vì thế chiến lược của Trung Quốc buộc phải thay đổi, từ chỗ học hỏi Liên Xô sang tự lực phát triển. Trung Quốc tổ chức lại và chuyên môn hóa năng lực KH&CN trong nước, tự mình giải quyết các vấn đề khó khăn. Vì vậy, bước đầu Trung Quốc đã đạt thành quả to lớn trong lĩnh vực mũi nhọn quốc phòng và công nghiệp, như đã thực hiện được “Nhất tinh, nhì đạn” nghĩa là bom nguyên tử, thủy lôi và vệ tinh vũ trụ. Từ năm 1963, Trung Quốc đã nhập khẩu thiết bị công nghệ từ Nhật Bản và các nước Tây Âu. Những công nghệ trọng điểm được đưa vào là công nghệ luyện kim, hóa dầu, công nghiệp hóa học, dệt, cơ khí. Có 84 hạng mục công nghệ được đưa vào trong giai đoạn này, với kim ngạch 300 triệu USD. Quy mô không lớn như lần trước nhưng những hạng mục được nhập khẩu là những thiết bị, công nghệ tiên tiến, đóng vai trò quan trọng đối với việc nâng cao năng lực sản xuất và tích lũy công nghệ của Trung Quốc vào thời điểm đó. Giai đoạn này, Trung Quốc xúc tiến tích lũy công nghệ mô phỏng, thành công trong sản xuất một phần thiết bị, công nghệ mũi nhọn. Do ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966, Trung Quốc đã ngừng nhập khẩu công nghệ thời kỳ này. Cuộc Cách mạng Văn hóa đã tác động mạnh đến việc nhập khẩu công nghệ, trong danh mục được nhập trước đây, nhiều hạng mục phá sản. Từ 1966 đến 1972, Trung Quốc bị cô lập hoàn toàn khỏi dòng chảy phát triển công nghệ của thế giới, việc nhập khẩu công nghệ mới cũng rơi vào tình trạng ngừng trệ. Sau năm 1972, Trung Quốc được thừa nhận tham gia vào tổ chức của Liên Hiệp Quốc, quan hệ Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu được cải thiện. Chính phủ Trung Quốc đầu tư 4,3 tỷ USD để nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới. Như vậy, cuộc du nhập công nghệ lần thứ hai đã bắt đầu. Thời kỳ này có thể chia làm 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất (1973-1977), là giai đoạn nhập khẩu thiết bị.
Giai đoạn thứ hai, (1978-1979) được gọi “Dương Mao Tiến” nghĩa là đưa vào áp dụng nhanh những công nghệ của nước ngoài. Những công nghệ được đưa vào trong giai đoạn thứ nhất tập trung vào 26 loại thiết bị cỡ lớn, với tổng số chi phí là 3,5 tỷ USD, cụ thể gồm thiết bị cắt kim loại, 13 tổ hợp thiết bị phân bón hóa học cỡ lớn, 4 tổ hợp thiết bị tơ sợi hóa học, 3 tổ hợp thiết bị hóa dầu, thiết bị phát điện 2,3 triệu kW, 43 tổ hợp thiết bị máy khai thác than tổng hợp.
Nhờ nhập khẩu những công nghệ mới trong thời kỳ này nên đã cải thiện được tình hình sản xuất cơ bản vốn đã lạc hâu, xúc tiến phát triển một phần quan trọng các ngành sản xuất mới, kinh tế được phát triển nên mức sống của nhân dân cũng được nâng cao. Tuy vậy, do sự thất bại và yếu kém trong công tác quản lý vĩ mô, nên đã xuất hiện một chuỗi các nguy cơ: thứ nhất, là nhập khẩu trùng lặp. Trọng điểm của nhập khẩu là thiết bị công nghệ, thế nhưng số lượng thiết bị công nghệ này lại bị hạn chế do chưa sử dụng được hết công suất. Thứ hai, là cơ cấu nhập khẩu bất hợp lý. Thứ ba, công nghệ được đưa vào không thống nhất, không đồng bộ với nghiên cứu khoa học. Thứ tư, chưa giải quyết được vấn đề điều chỉnh cơ cấu hợp lý trong nội bộ các doanh nghiệp, các công ty nên việc tiếp thu, làm chủ công nghệ nhập còn hạn chế nên chi phí sản xuất cao.
Bước vào thập kỷ 90, Trung Quốc đầu tư ngoại tệ trực tiếp tăng nhanh, nên có nhiều thuận lợi trong việc nhập khẩu công nghệ quan trọng. Cho đến nay, hình thái du nhập công nghệ của Trung Quốc đã chuyển sang một hình thức mới, những công ty lớn buôn bán công nghệ trên thế giới như AT&T, MOTOROLA, Matsushita… đều đã thành lập những căn cứ và các cơ sở R&D tại Trung Quốc và các công ty này có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ của nước này.Nhờ những chính sách hợp lý về nhập khẩu công nghệ, năng lực làm chủ công nghệ nhập và truyền thống sáng tạo, tự cường của người Trung Quốc nên ngày nay Trung Quốc đã xuất khẩu công nghệ và địa bàn xuất khẩu mới chỉ tập trung vào các nước đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu công nghệ của Trung Quốc tăng rất nhanh: Năm 1989 là 880 triệu USD, năm 1990 là 990 triệu USD, năm 1991 là 1.280 triệu USD, năm 1993 là 2,170 tỷ USD, năm 1995 là 1,510 tỷ USD, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003 tổng giá trị hợp đồng xuất khẩu của Trung Quốc đã đạt 2,54 tỷ USD. Có thể khẳng định rằng việc du nhập công nghệ từ nước ngoài đã tạo ra sự phát triển nghiên cứu và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của Trung Quốc.
Bảng 2. Số lượng nhập khẩu công nghệ mới của Trung Quốc
(Số lượng hợp đồng, đơn vị kim ngạch: 100 triệu USD)
Năm
Thiết bị nhà máy
Công nghệ quan trọng
Giấy phép công nghệ
Tư vấn
Dịch vụ công nghệ
Sản xuất cộng đồng
Phần khác
Tổng cộng
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Số hợp đồng
Kim ngạch
Kim ngạch
1981
11
0,51
9
0,09
37
0,45
3
0,01
4
0,03
5
0,04
4
0,03
1,16
1982
29
2,26
17
0,20
34
0,28
2
0,01
3
0,78
4
0,09
3
0,01
3,63
1983
66
2,14
34
0,32
85
1,12
13
0,08
13
1,83
5
1,10
3
0,04
5,63
1984
76
3,83
52
1,97
138
1,85
11
0,07
33
1,27
21
0,52
1
-
9,51
1985
236
20,98
178
3,37
314
2,24
22
0,09
32
0,13
38
4,97
6
0,03
31,99
1986
195
32,98
126
2,23
306
4,20
31
0,13
46
2,36
34
1,36
10
1,57
44,83
1987
184
19,64
80
1,30
235
3,50
24
0,10
30
0,16
25
5,10
3
-
29,80
1988
137
28,65
71
1,54
169
4,77
19
0,28
27
0,14
10
0,10
4
-
35,48
V. Một số phương pháp chuyển giao công nghệ hiệu quả.
Để chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng và hiệu quả, có rất nhiều phương pháp chuyển giao được các doanh nghiệp Nhật Bản áp dụng:
Phương pháp đào tạo tại chỗ (OJT) và tổ chức các hội thảo đào tạo tại các khu vực địa phương là các hoạt động được sử dụng phổ biến nhất cho việc chuyển giao các công nghệ chế tạo. Ví dụ, công nghệ vận hành: bảo dưỡng, kiểm soát chất lượng và kiểm tra quy trình sản xuất, có tới 60% các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng phương pháp này để chuyển giao các công nghệ chế tạo.
Tùy theo trình độ công nghệ được chuyển giao, ví dụ có những công nghệ đơn giản chỉ hướng dẫn thực hành tại chổ không cần phải mở lớp hoặc tổ chức hội thảo. Còn đối với các công nghệ chuyển giao phức tạp hơn phải kết hợp mở lớp, hội thảo và OJT đóng vai trò phụ trợ. Lưu ý rằng hội thảo đào tạo ở Nhật Bản được sử dụng một cách phổ biến như một hình thức chuyển giao công nghệ chủ yếu trong trường hợp giới thiệu các sản phẩm và công nghệ mới. ở Nhật Bản, việc đào tạo chuyên sâu được tổ chức tại trụ sở công ty mẹ và mời các chuyên gia của các công ty nước ngoài đến để chuyển giao các công nghệ phức tạp. Việc sử dụng các hoạt động nhóm nhỏ như một phương tiện chuyển giao công nghệ được hạn chế ở một mức độ nào đó, so với OJT hoặc hội thảo đào tạo. Đặc biệt, chỉ có một số ít các doanh nghiệp Nhật Bản còn sử dụng các hoạt động nhóm nhỏ để chuyển giao các công nghệ phức tạp.
Các tài liệu đào tạo được viết bằng các ngôn ngữ khác nhau thể hiện các vai trò khác nhau. Tài liệu đào tạo viết bằng các ngôn ngữ bản địa có vai trò chủ yếu đối với việc chuyển giao các công nghệ chế tạo, trong khi các tài liệu đào tạo viết bằng tiếng Anh hoặc Nhật lại có vai trò tương đối lớn hơn đối với việc chuyển giao những công nghệ phức tạp. Đặc biệt, các tài liệu viết bằng tiếng Nhật được sử dụng rất nhiều đối với việc chuyển giao các sản phẩm và công nghệ mới. Điều tra của Viện Nikkei cũng nhận thấy các cuộc hội thảo đào tạo ở Nhật Bản và các tài liệu đào tạo viết bằng tiếng Nhật có vai trò quan trọng đối với việc chuyển giao những công nghệ phức tạp cho thấy các cơ hội để những công nhân bản địa tiếp thu được các công nghệ phức tạp bị hạn chế. So với các doanh nghiệp Phương Tây, các doanh nghiệp Nhật Bản ít dựa vào tài liệu đào tạo mà dựa chủ yếu vào OJT nhiều hơn, coi nó như một phương tiện để chuyển giao công nghệ. Các tài liệu được các doanh nghiệp Phương Tây soạn thảo và sử dụng hướng dẫn chi tiết vận hành các thiết bị máy móc. Kết quả là, công nhân bản địa có thể học được cách vận hành các thiết bị máy móc không mấy khó khăn. Ngược lại, các tài liệu do các doanh nghiệp Nhật Bản soạn thảo thiếu các thông tin chi tiết nên các doanh nghiệp Nhật Bản phải dựa vào OJT để vượt qua các hạn chế của tài liệu hướng dẫn đào tạo mà không cần phải giải thích tỉ mỉ. Sự khác biệt về tầm quan trọng của tài liệu hướng dẫn và OJT giữa các doanh nghiệp Nhật Bản và Phương Tây dường như có thể quy cho sự khác biệt về nhận thức của hai bên về ý nghĩa hoặc quan điểm của việc chuyển giao công nghệ và điều đó dẫn đến sự khác nhau về mức độ chuyển giao công nghệ và việc đánh giá chuyển giao công nghệ.
Phương pháp chuyển giao bằng dòng thông tin công nghệ.
Chuyển giao bằng dòng thông tin công nghệ là phương pháp nghiên cứu xem xét suốt từ giai đoạn ban đầu khi mà dòng thông tin công nghệ chưa được xác định, đến các giai đoạn tiếp theo làR&D, giai đoạn xây dựng kế hoạch sản phẩm, giai đoạn chuyển từ sản xuất thử sang công nghệ sản xuất hàng loạt. Dòng thông tin công nghệ được hình thành có tính hệ thống và khái quát toàn bộ “bên trong” của các giai đoạn của một công nghệ, một quy trình công nghệ hay một dây chuyền công nghệ và dòng thông tin công nghệ đó sẽ được chuyển giao. Nội dung thông tin công nghệ được chuyển giao có thể bao gồm:
Những thông tin đã được chuẩn hóa (như bản vẽ thiết kế, bản vẽ công trình, tài liệu hướng dẫn, các bản thuyết minh…).
Những thông tin công nghệ đã được cụ thể hóa (catalog công nghiệp, các quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật, tài liệu vận hành, các biểu bảng mô tả đặc tính kinh tế kỹ thuât, các loại tài liệu khác có liên quan...).
Chuyển giao những thông tin công nghệ đã được tri thức hóa trong mỗi người (chuyển giao thông tin công nghệ dựa vào việc phái những kỹ thuật gia Nhật Bản đến các nước sở tại để hướng dẫn, đào tạo và phái những nhân viên của các nước sở tại sang thực tập công nghệ ở Nhật Bản).
2. Phương pháp chuyển giao công nghệ dựa vào sự di chuyển con người.
Nếu nhìn tổng quát sự chuyển giao mang tính quốc tế của công nghệ từ quan điểm có tính lịch sử, người ta cho rằng chính sự di chuyển của con người có kỹ thuật, kỹ năng và tay nghề cao là phương pháp phát huy hiệu quả công nghệ được chuyển giao hơn cả.
Trong quá trình công nghiệp hóa ở Tây Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, phổ cập kỹ thuật đã rất có hiệu quả chủ yếu nhờ vào sự di chuyển con người có trình độ công nghệ cao đến những nơi chưa có đủ công nhân. Vào đầu thế kỷ XIX, lục địa châu Âu áp dụng các kỹ thuật công nghiệp được phát triển mới từ Anh, đến năm 1825, việc nhân công Anh có trình độ kỹ thuật di chuyển chỗ ở sang các lục địa khác đã bị pháp luật cấm. Tuy vậy, cũng có tới 2.000 công nhân có kỹ năng đã từ Anh ra đi và đã phát huy tác dụng cung cấp công nghệ cho các lục địa khác. Đặc biệt những người công nhân này đã có sự cống hiến lớn cho việc chuyển giao công nghệ thời đó là “Họ không tiến hành lao động kỹ năng, mà họ dạy những kỹ năng đó cho dân bản xứ”.
Trong quá trình xác lập ngành đóng thuyển, việc chuyển giao công nghệ dựa vào sự di chuyển của con người giữa châu Âu và Mỹ như trên đã trở thành ví dụ. Chẳng hạn, trong nửa sau của thế kỷ XIX có rất nhiều công nhân và đốc công của xưởng đóng tàu của Pháp, Đức, Đan Mạch, Nga là người Anh. Tàu chạy bằng hơi nước do R. Furutor chế tạo ở Mỹ rất nổi tiếng nhưng ông cũng là nhà kỹ thuật di cư sang từ Anh. Hơn nữa trong quá trình xác lập công nghệ đóng tàu, vương quốc đóng tàu Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào những kỹ thuật gia người Pháp. Chẳng hạn như xưởng đóng tàu được xây dựng vào năm 1964 tại Yokosuka được sự chỉ đạo kỹ thuật của một kỹ thuật gia hải quân người Pháp. Chính vì vậy, sở dĩ chủ nghĩa tư bản Nhật Bản có thời kỳ phát triển đột biến, là do Chính phủ Nhật Bản đã có một tầm nhìn xa và tổng quát trong chính sách nhập khẩu công nghệ từ Âu Mỹ, nhằm xác lập một nền móng công nghệ cho công nghiệp.
Trong thời kỳ Minh Trị, Bộ Công nghiệp là cơ quan Chính phủ được thành lập năm 1870 (năm Minh Trị thứ ba) để phát huy vai trò chủ đạo trong việc xác lập cơ sở công nghệ của Nhật Bản. Bộ Công nghiệp này hoạt động trong vòng 15 năm cho đến khi bị giải tán vào năm 1885 đã được đánh giá là đã mở con đường thứ nhất để du nhập công nghệ từ Âu - Mỹ và cũng là nơi thai nghén lớn nhất chủ nghĩa tư bản Nhật Bản. Trong những phương sách được sử dụng khi xác lập cơ sở công nghệ trung tâm là đóng thuyền, khai thác mỏ, thông tin, đường sắt, chế tạo máy móc… do Bộ Công nghiệp quản lý, cần phải chú ý đến hai điểm sau: Thứ nhất, phái lưu học sinh Nhật Bản đi học nước ngoài và một điểm nữa là thuê những chuyên gia nước ngoài. Ta sẽ thử cùng xác nhận số chuyên gia người nước ngoài đã được Bộ Công nghiệp mời vào. Theo “Báo cáo quá trình hoạt động của Bộ Công nghiệp”, số kỹ thuật gia đã được Bộ này mời về cho đến lúc bị giải tán là 760 người, chủ yếu là người Anh, Pháp, Mỹ, Đức, gọi là “người nước ngoài đến làm việc”, phần lớn là giáo viên trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật gia, công nhân. Sau đó, không chỉ Bộ Công nghiệp, mà các cơ quan khác của Chính phủ như Bộ Nội vụ cũng đảm nhận việc du nhập các công nghệ nông nghiệp và công nghệ xe sợi và tổng số người nước ngoài được mời vào Nhật Bản làm việc lên tới khoảng 2000 người trong suốt thời gian từ năm 1867 đến năm 1889 (năm Minh Trị đầu tiên đến năm Minh Trị 22). Số 2.000 người nước ngoài này, như đã nói ở trên cũng gần bằng số kỹ thuật gia đã sang châu Âu từ Anh khi lục địa châu Âu nhận được công nghệ từ Anh vào đầu thế kỷ XIX.
Như vậy, chúng ta đã nhận thức rõ rằng trong quá trình chuyển giao công nghệ dựa vào sự di chuyển của con người có vai trò quyết định. Do vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản đã sử dụng phương pháp chuyển giao công nghệ hữu hiệu vào các nước châu á thông qua sự di chuyển của con người Nhật Bản.
Tóm lại, có thể gọi Nhật Bản là một “Đại gia” về chuyển giao công nghệ vào khu vực châu á. trên thực tế, nhờ việc chuyển giao công của Nhật Bản nên các nước châu á đã có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế-xã hội. Kinh nghiệm cho thấy, trong quá trình chuyển giao công nghệ vào khu vực này, Nhật Bản có chiến lược rất rõ, không phải công nghệ nào cũng chuyển giao cho các nước đồng thời mà tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, mỗi nhóm nước để chuyển giao cấp độ tiến tiến của công nghệ. Nhật Bản phân cấp trình độ phát triển kinh tế của các nhóm nước để chuyến giao công nghệ, người ta gọi một cách hình tượng là ”Đàn nhạn bay”, ví dụ như nhóm nước NICs (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo) là một cấp độ (công nghệ tiến tiến hơn), Thái Lan, Malaixia, Philippin, Trung Quốc là một cấp độ khác (công nghệ thấp hơn nhóm NICs), tiếp theo Việt Nam, Mianma, Lào, Cămpuchia cấp độ thấp hơn (công nghệ thấp hơn nữa). Kinh nghiệm này giúp cho các nhà quản lý, các doanh nghiệp nước ta khi mua một công nghệ của Nhật Bản cần tìm hiểu kỹ mức độ tiến tiến của công nghệ đó để quyết định cho chính xác.
Kết luận
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự trao đổi, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia ngày càng có chiều hướng gia tăng và trở thành một trong những nội dung quan trọng trong mối bang giao quốc tế hiện nay. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đang thực sự quan tâm phát triển thị trường khoa học và công nghệ bên cạnh thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường tài chính... để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nước ta đang đứng trước những cơ hội lớn về hội nhập kinh tế quốc tế nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn về năng lực cạnh tranh đối với chất lượng và giá thành sản phẩm. Các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp cần có thêm những thông tin cần thiết để thúc đẩy quá trình chuyển giao, tiếp nhận, làm chủ công nghệ nhập có hiệu quả vào quá trình sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm của mình trên thị trường trong nước cũng như khu vực và quốc tế.
Tài liệu tham khảo
Harvard Business Essentials.
Các tạp chí Công nghệ.
Các diễn đàn Doanh Nghiệp.
Trung tâm thông tin Khoa học Công nghệ Quốc gia - KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế.docx