Quyết định số 217/QĐ - HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng nay là
Chính phủ ban hành ngày 14/11/1987 là văn bản đầu tiên nhằ m cụ thể hóa 
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 3 (Khóa VI) về các chính sách đổi mới 
kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp 
quốc doanh; có nội dung chủ yếu là: (1) Chỉ kiểm soát từ 1 – 3 chỉ tiêu pháp 
lệnh, doanh nghiệp nhà nước được quyền chủ động trong kế hoạch, phương 
án kinh doanh, được lựa chọn mặt hàng, số lượng hàng hóa dịch vụ; (2) Xóa 
bỏ chế độ cấp phát vật tư bằng việc mua bán vật tư, sản phẩm; (3) Không giao 
kế hoạch tiêu thụ, giá cả; (4) Cấp phát một phần ban đầu tài sản cố định và
lưu động cho doanh nghiệp nhà nước, nhà nước ủy quyền cho Hội đồng quản 
trị và cán bộ công chức trong doanh nghiệp trực tiếp quản lý – sử dụng; (5) 
Buộc doanh nghiệp nộp khấu hao tài sản cố định vào ngân sách nhà nước; (6) 
Cho phép doanh nghiệp được quyền chủ động vay vốn từ nhiều nguồn khác 
nhau, được ký kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh với doanh nghiệp 
khác
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 112 trang
112 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình quản trị: Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước thể 
hiện đúng vai trò của một nhà đầu tư và quản lý nền kinh tế, không can thiệp 
vào hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh những ưu điểm đạt được của quá 
trình thực hiện tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp 
trong các doanh nghiệp nhà nước, Chương II cũng đã chỉ ra một số nhược 
điểm còn tồn tại như: sự tồn tại của chế độ hành chính chủ quản dẫn đến việc 
quản lý vốn lỏng lẻo; một số vấn đề liên quan đến sở hữu và quyền tự chủ; 
chế độ sử dụng, đãi ngộ cán bộ… Chương III – chương tiếp theo của khóa 
luận sẽ tập trung vào việc đưa ra một số định hướng và đề xuất giải pháp chủ 
yếu để đẩy mạnh việc thực hiện tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị 
doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước. 
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẨY MẠNH VIỆC 
THỰC HIỆN TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI 
QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC DOANH 
NGHIỆP NHÀ NƢỚC 
I. CÁC ĐỊNH HƢỚNG NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC TÁCH QUYỀN 
CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP 
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC. 
 77 
1.1 Nhà nước và sự bình đẳng với các doanh nghiệp trong vai trò một nhà 
đầu tư. 
1.1.1 Vai trò nhà đầu tư của nhà nước. 
Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của mình với vai trò là 
người đầu tư vốn bình đẳng như các nhà đầu tư khác. Trong tiến trình Việt 
Nam thực hiện tổ chức, cải cách lại nền kinh tế cho phù hợp với quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, cơ chế vận hành nền kinh tế theo nguyên tắc 
kinh tế thị trường từng bước được hiểu rõ hơn, khi mà các đối tượng tham gia 
hoạt động sản xuất kinh doanh cùng một loại hàng hóa thì đều được Nhà nước 
với tư cách là người quản lý đối xử một cách bình đẳng theo các quy định của 
pháp luật. Các cơ quan nhà nước được giao cho trách nhiệm quản lý phần vốn 
tại các doanh nghiệp có góp vốn của nhà nước cũng phải chịu sự chi phối của 
các quy định pháp luật, cũng có trách nhiệm và quyền lợi như bất kỳ một nhà 
đầu tư khác nào góp vốn vào trong doanh nghiệp. Như vậy thì nhà nước mới 
thực hiện được công khai, minh bạch các chính sách kinh tế, thực hiện đối xử 
bình đẳng với mọi thành phần kinh tế như cam kết trong Hiệp định gia nhập 
WTO của Việt Nam. 
1.1.2 Chuyển từ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước làm chức 
năng quản lý vĩ mô đối với doanh nghiệp nhà nước. 
Từ bài học của nhiều nước trên thế giới có thể thấy rằng: một trong 
những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu 
quả đó là do sự can thiệp quá sâu của Chính phủ vào công việc kinh doanh 
của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý vĩ mô tham gia vào việc xây dựng các 
quyết định mang tính tác nghiệp hàng ngày của các doanh nghiệp. 
Ở nước ta trong một thời gian dài chức giám đốc từng được coi là 
cái ghế chứ không phải là nghề vì vậy mà Chính phủ thường chọn các nhà 
chính trị làm giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Do vậy mà ý chí chính trị đã 
chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra cơ chế 
 78 
vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán, nhiều tầng lớp trung gian làm triệt tiêu 
tính năng động tự chủ của giám đốc, người lao động trong các doanh nghiệp 
nhà nước. Cũng như những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, 
doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế mà không phải là tổ chức chính 
trị, chức năng cơ bản nhất của chúng là tiến hành các hoạt động sản xuất kinh 
doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Quản lý của Nhà 
nước đối với nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng là 
không thể thiếu được, vấn đề là nội dung và phương pháp quản lý phải thay 
đổi. Mọi sự áp đặt chủ quan các chỉ tiêu pháp lệnh và cả sự ưu đãi của Chính 
phủ đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua giá cả, lãi suất, thuế 
khóa…đều không có hiệu quả. Vì thế Nhà nước phải chuyển từ sự can thiệp 
trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước 
sang chức năng tạo môi trường cho các doanh nghiệp ấy tự do hoạt động, đó 
là môi trường chính trị – xã hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi 
trường y tế… 
1.2 Đẩy mạnh chất lượng quản lý bộ máy Nhà nước. 
Việc tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước ra khỏi 
chức năng quản lý hành chính nhà nước để từng bước nâng cao chất lượng và 
hiệu quả của bộ máy công quyền, nâng cao khả năng đáp ứng và phục vụ yêu 
cầu của xã hội, giảm thiểu đến mức tối đa các điều kiện có thể nảy sinh tham 
nhũng. Khi tách bạch chức năng của chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà 
nước sẽ tạo điều kiện thực hiện sự chuyên môn hóa cao đối với cơ quan quản 
lý hành chính bởi vì mục tiêu cả hai nhiệm vụ này là không như nhau: đối với 
việc quản lý nhà nước thì mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi tới mức tối đa 
cho cộng đồng doanh nghiệp, còn mục tiêu của chủ sở hữu là lợi nhuận mà 
doanh nghiệp thu được. 
Cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước về kế 
hoạch, về lao động, về phân phối thu nhập, về tài chính, kế toán thống kê, về 
 79 
thanh tra, kiểm tra, về đầu tư xây dựng cơ bản…đã tạo lập hành lang pháp lý 
tương đối đồng bộ theo hướng doanh nghiệp nhà nước thực hiện quyền tự 
chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, phân phối tiền lương, lợi 
nhuận để lại. Khi giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, 
mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để nhà nước vẫn kiểm soát được các 
doanh nghiệp của mình. Tình hình thực tế cho thấy việc mở rộng quyền tự 
chủ của doanh nghiệp nhà nước đã dẫn đến nâng cao tính năng động của các 
doanh nghiệp nhà nước nhưng về cơ bản lại chưa đi liền với việc nâng cao 
chất lượng giám sát của Nhà nước. Dẫn đến có tình trạng chồng chéo trong 
giám sát của các cơ quan nhà nước, không giảm được sự lãng phí, vi phạm lợi 
ích của nhà nước. Do vậy mà cần đẩy mạnh chất lượng quản lý bộ máy nhà 
nước, đảm bảo cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước cũng như bảo 
toàn và phát triển vốn Nhà nước. 
1.3 Quản lý vốn của nhà nước tại doanh nghiệp. 
Thực hiện các quyền chủ sở hữu tập trung và thống nhất để đảm 
bảo việc quản lý nguồn vốn tại các doanh nghiệp thì cần phải có một bộ máy 
quản lý biên chế gọn, có năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, ít khâu 
trung gian. Các cơ quan thực hiện quyền chủ sở hữu được có đủ thẩm quyền 
trong việc quyết định đầu tư, bổ nhiệm cán bộ và phải chịu trách nhiệm trước 
nhà nước về những quyết định của mình. Việc thành lập các cơ quan quản lý 
tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp để nâng cao trách nhiệm của các cơ 
quan được giao quản lý vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước theo hướng là 
gắn quyền lợi với trách nhiệm. 
Không giống như các chủ đầu tư khác, người được giao quyền đại 
diện phần vốn của Nhà nước không phải là chủ thực sự của phần vốn đó vì 
vậy mà Nhà nước cần có những quy định để đánh giá hiệu quả đầu tư và sử 
dụng vốn tại doanh nghiệp, từ đó cũng đánh giá được khả năng của đội ngũ 
cán bộ công chức làm công tác quản lý tại doanh nghiệp và có chế độ đãi ngộ 
 80 
hợp lý. Xây dựng một đội ngũ những người làm công tác quản lý doanh 
nghiệp mới có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị: tạo mọi điều kiện 
thuận lợi và các biện pháp hỗ trợ người lao động nâng cao năng suất, giảm chi 
phí nguyên vật liệu và giá thành sản phẩm, tạo lợi nhuận cho Nhà nước cũng 
như người lao động, để bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà nước. 
II. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ 
HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC 
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 
2.1 Làm rõ và thực hiện tốt chức năng quản lý nền kinh tế của Nhà nước 
đối với các doanh nghiệp. 
Việc phân định rõ chức năng quản lý hành chính của các cơ quan 
hành chính Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp 
nhà nước giúp cho doanh nghiệp nhà nước thực sự thực hiện được quyền tự 
chủ kinh doanh, linh hoạt và thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, có tác 
dụng thúc đẩy quá trình cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và 
chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước. Cùng với 
việc tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh còn 
cần phân biệt rõ hoạt động hành chính với hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công 
trong các cơ quan hành chính nhà nước để tạo điều kiện cho các cơ quan này 
tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước, 
không can thiệp cụ thể để đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các 
doanh nghiệp nhà nước. 
Nhà nước cần quản lý các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh 
tế khác nhau bằng pháp luật, bằng các công cụ, phương tiện công nghệ thông 
tin hữu hiệu. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều 
bình đẳng với nhau trước pháp luật, do vậy cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ 
sung hoàn chỉnh Luật và các văn bản dưới Luật có liên quan đến doanh 
nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo được những đối xử bình đẳng giữa 
 81 
doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế 
khác bằng cách gỡ bỏ những ưu đãi, những đặc quyền đối với doanh nghiệp 
nhà nước trong các lĩnh vực như tuyển dụng lao động, vay vốn ngân hàng, 
chính sách bảo vệ tài nguyên môi trường… Ví dụ trong lĩnh vực vay vốn ngân 
hàng, nên bãi bỏ hình thức bảo lãnh hành chính của các cơ quan chủ quản cấp 
trên cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiện vẫn còn có những quy định đối xử 
không công bằng của ngân hàng đối với các công ty cổ phần, công ty trách 
nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp nhà nước theo hướng giành thuận lợi 
nhiều hơn cho doanh nghiệp nhà nước. 
Tại nghị quyết Đại hội Đảng X đã xác định đến hết năm 2009 phải 
tiến hành sắp xếp xong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh 
doanh theo hướng cổ phần hóa hoặc giao bán, khoán doanh nghiệp mà Nhà 
nước không cần giữ cổ phần chi phối. Do đó cần có nghị định hướng dẫn để 
đến sau năm 2009 này tất các cả doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam đều 
phải tuân thủ thực hiện theo một nguồn Luật. Các doanh nghiệp không phân 
biệt sở hữu đều phải có trách nhiệm đóng góp chi phí bảo vệ môi trường theo 
nguyên tắc làm ảnh hưởng nhiều đến môi trường thì đóng góp nhiều, có 
những hoạt động bảo vệ môi trường thì được khuyến khích. 
Tóm lại, nhà nước cần tập trung vào 3 vấn đề lớn sau 53: (1) Xây 
dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất tạo 
khung pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động; xác định chiến lược, 
quy hoạch phát triển chung cho các ngành, các lĩnh vực; xây dựng cơ sở hạ 
tầng kỹ thuật, ổn định kinh tế vĩ mô và môi trường thuận lợi cho doanh 
nghiệp nhà nước hoạt động; (2) Tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật như 
tổ chức đăng ký kinh doanh, lưu giữ các thông tin cơ bản về doanh nghiệp 
nhà nước, theo dõi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đảm 
53 Hoàng Hà (2005) Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 
từ 1986 đến nay, thực trạng và giải pháp, Đại học Kinh tế Quốc dân. 
 82 
bảo để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo đúng điều kiện quy định tại 
quyết định thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. 
Ngoài ra nhà nước xây dựng, quy hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 
quản lý doanh nghiệp; (3) Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp nhà pháp 
luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm theo quy định của pháp 
luật. 
2.2 Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương Đảng 
khóa IX đã nêu rõ mục tiêu cơ bản của sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh 
nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh 
nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm 
các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của 
quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và 
tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Trong thời gian qua, nước ta đã tích cực sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu 
doanh nghiệp nhà nước hiện có, cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà 
nước không cần giữ 100% vốn; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh 
nghiệp hoạt động không có hiệu quả; giao bán, khóa kinh doanh, cho thuê các 
doanh nghiệp quy mô nhỏ, không cổ phần hóa được và Nhà nước không cần 
nắm giữ; đồng thời thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với 
doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn… Cần tiếp tục thực hiện việc sắp xếp 
lại các doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp đa dạng (ví dụ như sáp 
nhập các doanh nghiệp nhà nước để giảm đầu mối; giải thể, tổ chức lại bộ 
máy và thay đổi nhân sự, bán toàn bộ hay một phần tài sản của doanh nghiệp, 
cho thuê tài sản nhà xưởng mặt bằng, khoán quản lý doanh nghiệp; đặc biệt là 
đẩy nhanh và hoàn thành tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước) 
nhằm loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản xuất kinh doanh kém 
 83 
hiệu quả và dồn vốn vào các doanh nghiệp còn lại. Việc sắp xếp lại các doanh 
nghiệp nhà nước sẽ đem lại những kết quả tích cực, khu vực doanh nghiệp 
nhà nước được lành mạnh hóa, thích ứng và năng cao khả năng cạnh tranh, 
hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. 
2.3 Tăng cường việc quản lý vốn của Nhà nước đối với nguồn vốn Nhà 
nước trong các doanh nghiệp. 
Vốn hóa toàn bộ tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước kể 
cả là giá trị quyền sử dụng đất có thời hạn. Nhà nước sẽ quản lý vốn theo tính 
hiệu quả sinh lời trên nguồn vốn đầu tư chứ không phải là quản lý hiện vật 
của các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh 
doanh cần đánh giá lại tài sản của mình. Nhà nước giao cho doanh nghiệp 
nguồn vốn này và chỉ quản lý giá trị đã được giao, còn hiện vật dưới hình 
thức nào là thuộc quyền quản trị của doanh nghiệp nhà nước miễn là các 
doanh nghiệp này sử dụng có hiệu quả. Nhà nước sở hữu vốn của doanh 
nghiệp còn pháp nhân doanh nghiệp sở hữu các tài sản cụ thể của doanh 
nghiệp, như vậy đã tách biệt giữa quyền của chủ sở hữu pháp nhân và quyền 
của pháp nhân đó. 
Khi đã công ty hóa doanh nghiệp nhà nước thì các quyết định bên 
trong của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự định đoạt. Nhà nước chỉ có nhiệm 
vụ là kiểm soát hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hiệu quả tài 
chính. Doanh nghiệp nhà nước tự chủ về tiền lương, tiền thưởng, các phục lợi 
tập thể… còn Nhà nước kiểm soát tỷ suất sinh lời trên vốn của Nhà nước để 
đảm bảo suất sinh lời trên vốn của Nhà nước, bảo đảm và phát triển nguồn vốn. 
Theo chỉ thị số 316/CP của Hội đồng bộ trưởng, các doanh nghiệp 
nhà nước được trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh 
doanh hay gọi là khoán vốn. Với hình thức khoán vốn về cơ bản là không tách 
được chức năng sở hữu ra khỏi chức năng kinh doanh, sự can thiệp của bộ 
máy hành chính nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
 84 
chưa được khắc phục. Vấn đề doanh nghiệp tự chịu lỗ lãi không được giải 
quyết vì muốn bù lỗ phải lấy vốn tự có hoặc nâng giá sản phẩm mà vốn tự có 
thì khó khăn, nếu nâng giá thì lại không bán được sản phẩm. Hơn nữa hệ số 
khoán trong từng chu kỳ nhận khoán là không thay đổi nên các yếu tố sản 
xuất kinh doanh khó di chuyển được, doanh nghiệp không thể chủ động. Do 
đó đề xuất việc khoán lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhà nước. 
Khoán lợi nhuận cũng có nghĩa là chủ sở hữu chỉ quản lý bằng lợi 
nhuận, chủ sở hữu nắm được lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp 
mà giám đốc tạo ra cho mình. Về phía giám đốc thì có toàn quyền sử dụng 
toàn bộ tài sản vốn liếng của doanh nghiệp miễn là không vi phạm các quy 
định của pháp luật, quy định tài chính do chủ sở hữu đề ra. Nếu tiết kiệm 
được các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra thêm 
được lợi nhuận thì tiền lương, tiền thưởng của giám đốc càng cao và ngược lại 
nếu không đạt được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu theo quy định thì giám đốc phải 
chịu trách nhiệm theo khế ước đã thỏa thuận. Với tư cách là người làm công, 
các giám đốc được thuê rất sợ mất việc, giảm nguồn thu từ họat động chuyên 
môn của mình, thứ nữa là danh dự và địa vị xã hội cho nên giám đốc phải tìm 
mọi cách để duy trì sự phát triển của doanh nghiệp trên cơ sở là tạo ra nguồn 
lợi nhuận ngày càng cao trong kinh doanh. 
2.4 Xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý vốn 
Nhà nước tại doanh nghiệp. 
Các doanh nghiệp nhà nước chịu sự kiểm tra, quản lý, giám sát của 
pháp luật nói chung và của các Bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói 
riêng. Các Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền làm đại diện chủ 
sở hữu nhà nước, phải xây dựng được cơ quan tham mưu riêng cho quản lý 
doanh nghiệp phù hợp với đặc thù ngành và kinh tế quốc tế. Như vậy chỉ có 
một cơ quan chịu trách nhiệm duy nhất trước Nhà nước, trước pháp luật về 
việc bảo toàn và phát triển các loại vốn thuộc sở hữu chung toàn dân; giải 
 85 
quyết nhanh chóng, kịp thời và thống nhất những vấn đề phát sinh trong thực 
tiễn về tài sản, vốn của Nhà nước trong quá trình hoạt động của các loại hình 
doanh nghiệp nhà nước. 
Hình 7: Sơ đồ mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc 
cấp Chính phủ. 
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC – State 
Capital Investment Corporation) là mô hình mới mẻ của Việt Nam, chính thức 
hoạt động từ ngày 17/12/2006. Vậy nhưng SCIC lại thực hiện quyền sở hữu 
nhà nước đối với một số tiền khổng lồ và với danh mục đầu tư hết sức đa 
dạng. Theo thống kê của SCIC, tính đến ngày 28/2/2009 cơ quan này đang 
quản lý 776 doanh nghiệp, tổng giá trị mà SCIC nhận bàn giao (tính đến cuối 
năm 2008) là 6924 tỷ đồng. Đến 2010 khi mà quá trình cổ phần hóa được 
thực hiện xong nếu chỉ khoảng 1/3 số vốn nhà nước chuyển cho SCIC thì họ 
 86 
đã quản lý danh mục tài sản đến 10 tỷ đôla. Do đó việc hoàn thiện tổ chức và 
hoạt động của SCIC có ý nghĩa quan trọng: 
- Khẩn trương tăng cường năng lực quản lý, điều hành, kể cả bổ 
sung chức năng, nhiệm vụ cho SCIC. Thường xuyên đánh giá để xác định 
năng lực của SCIC, tính toán khả năng được nhà nước giao thực thi quyền sở 
hữu. Cho phép SCIC tuyển dụng chuyên gia tài chính nước ngoài, xác lập cơ 
chế lương, thưởng cho nhà quản lý, cho nhân viên… 
- Hoàn thiện quy chế pháp lý và cụ thể hóa điều lệ cho SCIC theo 
quy luật kinh tế thị trường, ngăn chặn việc cơ quan nhà nước can thiệp hoạt 
động của SCIC, cho phép SCIC được hợp tác kinh doanh với các tổ chức kinh 
tế, tài chính quốc tế có uy tín để nâng cao hiệu quả đầu tư, học tập thêm các 
kinh nghiệm quản lý. 
- Thực hiện nghiêm túc việc chuyển phần vốn nhà nước (của Bộ, 
địa phương) ở các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển đổi cho SCIC. Thí điểm 
chuyển phần vốn nhà nước ở một số Tổng công ty cho SCIC. 
- Nhà nước chỉ nên đặt mục tiêu duy nhất cho SCIC là tối đa hóa 
giá trị vốn nhà nước và hàng năm SCIC được khoán một khoản cố tức cố định 
cho nhà nước. Ngoài mức cổ tức cố định này SCIC được quyền quyết định 
phân chia lương, thưởng theo pháp luật. Ban hành cơ chế đặc thù về kiểm 
toán, giám sát và công khai, minh bạch, niêm yết cho SCIC để đảm bảo sự 
kiểm soát của nhà nước, sự giám sát của dân chúng và các cổ đông liên quan. 
- Xác định ngành, lĩnh vực cho SCIC được phép đầu tư để SCIC 
đầu tư những ngành quan trọng thiết yếu, tránh đầu tư ngành doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh có thể đầu tư được. Hạn chế nắm giữ phần vốn nhà nước ở 
các công ty độc lập quy mô vừa và nhỏ. 
 87 
Hình 8: Mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc tại các 
bộ quản lý ngành. 
Cần chuyển đổi một cách hữu hiệu từ phương thức đầu tư, quản lý 
và sử dụng vốn của Nhà nước theo cách quản lý hành chính thông qua việc 
cấp phát vốn từ ngân sách Nhà nước sang phương thức đầu tư, quản lý và sử 
dụng vốn của Nhà nước theo phương thức hạch toán kinh doanh đối với quá 
trình đầu tư vốn cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước. Với phương thức 
hạch toán kinh doanh này nhằm đảm bảo các mục tiêu đã đề ra, thực hiện 
những chỉ tiêu hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội. 
2.5 Tăng cường hệ thống chế định của Nhà nước đối với các doanh nghiệp 
nhà nước 
2.5.1 Hoàn thiện công cụ pháp luật 
Nhắc đến cơ chế thị trường là sự phong phú, đa dạng của các sản 
phẩm hàng hóa dịch vụ, kết quả của sự tự do linh hoạt và tính mềm dẻo năng 
động trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cũng không thể tự do ăn cắp, tự do 
dùng tài sản của Nhà nước để kinh doanh bất hợp pháp nhằm mục đích vun 
vén cho cá nhân đặc quyền, đặc lợi. Pháp luật ra đời ngoài chức năng tạo hành 
lang cho các doanh nghiệp tự do hoạt động còn góp phần tích cực vào việc 
 88 
ngăn ngừa và xử lý những hành vi kinh doanh bất hợp pháp đảm bảo kỷ 
cương pháp luật. Để tạo ra được luật chơi và cơ hội tốt cho các doanh nghiệp 
nhà nước thực hiện tự chủ chủ của mình, đảm bảo sự quản lý tập trung và có 
hiệu quả của nhà nước trước hết phải có được một hệ thống pháp luật đồng 
bộ. 
Làm rõ một số điều tại Nghị định 86/2002/NĐ-CP ngày 
05/11/2002 của Chính phủ như 54: 
- Điều 8: Về việc thực hiện đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh 
nghiệp có vốn nhà nước (hiện chưa có văn bản pháp luật về thực hiện các 
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước) 
- Điều 10: Về quản lý nhà nước các tổ chức kinh tế tập thể và kinh 
tế tư nhân (chưa làm rõ được mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp 
trong kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể) 
- Điều 14: Về quản lý tài chính, tài sản như hiện nay vẫn còn hạn 
chế giao quyền cho các Bộ trong việc quản lý tài chính, tài sản. Mối quan hệ 
các Bộ trong việc xây dựng, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với 
các ngành, lĩnh vực được phân công theo dõi còn hiều hạn chế dẫn đến giữa 
các Bộ cũng làm mất thời gian xin ý kiến lẫn nhau 
Luật Doanh nghiệp đã mở ra nhiều hình thức trả lương cho người 
làm công tác quản lý: có thể thỏa thuận lương theo thâm niên, theo năng lực 
và theo công việc thực tế đang đảm nhiệm. Vì vậy cũng cần xây dựng Nghị 
định để xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người điều hành. Đặc biệt 
cũng cần có những hướng dẫn về chế độ đãi ngộ phù hợp với sự cống hiến 
của đội ngũ những người làm công tác quản trị doanh nghiệp. Chúng ta cần 
phân biệt được rằng mặc dù người quản trị doanh nghiệp có thể là công chức 
54
 Nguyễn Đặng Tường Anh (2007), Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh 
nghiệp – Mô hình quản trị mới trong doanh nghiệp nhà nước, Đại học Ngoại Thương 
 89 
được cử sang làm quản lý các doanh nghiệp nhà nước thì trong thời gian làm 
quản lý doanh nghiệp họ vẫn có quyền được hưởng thành quả của mình tại 
doanh nghiệp như một doanh nhân thực sự. 
Như vậy sự hình thành đồng bộ hệ thống luật pháp có liên quan 
đến họat đông sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích tại các doanh 
nghiệp nhà nước ở nước ta là không thể chậm trễ. Vấn đề hiện nay là cần có 
sự cụ thể hóa Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ có sự phân công cụ thể cho 
các cơ quan chức năng mà trực tiếp là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, 
…chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Tiến trình cải cách mới theo 
hướng đảm bảo tính tự của của doanh nghiệp nhà nước đồng thời tăng cường 
vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực và chủ 
trương của các cơ quan kể trên. 
2.5.2 Ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2005 về 
một số vấn đề: 
* Nhà nƣớc không can thiệp vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp 
Khác với Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật doanh nghiệp 
2005 đã mở rộng phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp mà không phân 
biệt ai là chủ sở hữu. Trong đó các doanh nghiệp được phép hoạt động kinh 
doanh trên mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm, luật không quy định bắt 
buộc các các doanh nghiệp thuộc Bộ công thương không được tham gia trong 
lĩnh vực ngân hàng hay nông nghiệp… Trên cơ sở quy định này mà nhiều 
Tổng công ty nhà nước đã mở rộng hoạt động thành lập các công ty cổ phần 
hoạt động trong những lĩnh vực hoàn toàn khác với ngành nghề truyền thống 
của mình. 
Trong Nghị định hướng dẫn cần quy định rõ số lượng ngành nghề 
yêu cầu phải có sự thỏa thuận đặc biệt của các cơ quan quản lý nhà nước để 
tránh tình trạng luật thì quy định mở còn các cơ quan thực thi lại vận dụng tùy 
tiện để gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cần cân nhắc lại về việc một Tổng 
 90 
công ty nhà nước hay một tập đoàn kinh tế phải có một ngành nghề kinh 
doanh chủ yếu vì như thế không phù hợp với yêu cầu khách quan hình thành 
các doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước phải được tự do lựa chọn và quyết định 
chiến lược kinh doanh, ngành nghề kinh doanh nhằm đảm bảo thu được lợi 
nhuận tối đa. 
* Nhà nƣớc không hạn chế địa bàn kinh doanh 
Các doanh nghiệp được tự chọn địa bàn kinh doanh phù hợp với 
khả năng tài chính, nguồn nhân lực hiện có và khả năng mở rộng thị trường 
mà không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào, qua đó mở rộng khả năng cạnh 
tranh để cung ứng cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tốt, giá 
cả hợp lý… Trong quá trình phát triển, khi doanh nghiệp đã tận dụng được 
các khả năng thuận lợi để mở rộng thị trường, nâng cao sản lượng thì họ có 
quyền quyết định đầu tư tại các địa phương mà họ có khả năng cạnh tranh, có 
khả năng thu được nguồn lợi nhuận lớn. Nếu như tiếp tục ràng buộc doanh 
nghiệp theo phương thức quản lý hành chính sẽ làm mất đi cơ hội kinh doanh, 
phát triển thị trường của doanh nghiệp. 
Trong điều kiện mở cửa kinh tế thì khả năng phát triển thị trường, 
chiếm lĩnh thị trường là yếu tố quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp nhà 
nước. Không vì phân địa giới hành chính mà hạn chế các doanh nghiệp nhà 
nước phát triển thị trường kể cả thị trường nước ngoài. Cần có những chính 
sách khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước phát triển ra thị trường ngoài 
nước ví dụ như Tổng công ty viễn thông quân đội phát triển thị trường di 
động tại Lào, Campuchia; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tham gia hợp đồng 
thăm dò và khai thác dầu khí tại Angeri… 
2.6 Xóa bỏ chế độ hành chính chủ quản và tăng cường quyền tự chủ về quản trị 
doanh nghiệp cho các doanh nghiệp. 
 91 
Việc xóa bỏ cơ chế chủ quản không có nghĩa là xóa bỏ chức năng 
của nhà nước, làm mờ nhạt vài trò của chủ sở hữu, nó đảm bảo quyền tự chủ 
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khắc phục tối đa sự trùng lặp, chồng 
chéo giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp nhà nước. Các cơ quan nhà nước chỉ tập trung vào 
hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, ngành nghề mà mình phụ 
trách. Xóa bỏ cơ chế chủ quản sẽ thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động 
theo pháp luật và các căn cứ thị trường. Cơ chế chủ quản của các Bộ, các cơ 
sở quản lý ngành và sự lẫn lộn giữa quản lý nhà nước và chủ sở hữu sẽ không 
còn lý do để tồn tại. 
Các giải pháp về cơ chế quản lý để tăng cường quyền tự chủ trong 
sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước, đưa các doanh nghiệp 
nhà nước hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh, cạnh tranh bình 
đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác mà vẫn đảm bảo vị trí, vai trò của 
mình. Cần đổi mới các chính sách giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà 
nước trên các nội dung cụ thể: 
2.6.1 Về cơ chế quản lý tài chính 
Nhà nước chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn; chuyển từ 
định mức vốn sang vốn điều lệ cho doanh nghiệp đồng thời nhà nước cũng 
phải đảm bảo đủ vốn điều lệ và không thu tiền sử dụng vốn tạo sự bình đẳng 
giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh 
tế khác. Phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước được tính cả giá trị 
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước tăng quyền tự chủ 
tài chính cho doanh nghiệp nhà nước đồng thời gắn với trách nhiệm bảo toàn 
và phát triển vốn. Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp nhà nước được 
tiếp cận, thu hút các nguồn vốn trên thị trường, doanh nghiệp nhà nước tự 
chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng và trả nợ khoản vốn vay. Chấm dứt tình 
 92 
trạng dùng ngân sách nhà nước để bù lỗ, miễn thuế, xóa nợ cho doanh nghiệp 
nhà nước. 
Về việc vay vốn ngân hàng để kinh doanh sẽ hoàn toàn do ngân 
hàng định đoạt việc cho vay căn cứ vào hiệu quả của dự án mà không có bàn 
tay can thiệp, chỉ định của nhà nước. Mở rộng và đa dạng hóa hơn nữa các 
hình thức thuê mua tài chính, tạo hành lang pháp lý cho họat động này tồn tại 
và phát triển ổn định, đổi mới và tái đầu tư, gắn lợi ích vật chất với hiệu quả 
kinh doanh. Ngoài phần vốn do nhà nước đầu tư vào, doanh nghiệp nhà nước 
có thể tự huy động. Việc huy động vốn để kinh doanh được thực hiện theo 
nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, tự hoàn trả, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn 
được huy động mà không được làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh 
nghiệp nhà nước. Nhà nước quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước bằng giá trị 
tài sản tại doanh nghiệp mà không quản lý bằng tài sản hiện vật, do vậy phải 
để cho các doanh nghiệp nhà nước được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, 
vật tư hay hàng hóa ứ đọng. 
Doanh nghiệp nhà nước được quyền tự chủ trong việc phân phối và 
trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế (như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự 
phòng tài chính, quỹ khen thưởng và phúc lợi…). Nhà nước cũng cần có 
chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp nhà nước đầu tư bằng 
nguồn vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản cũng như là 
chính sách đối với lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện 
hài hòa các lợi ích, phù hợp với từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, từ đó 
khuyến khích được doanh nghiệp tiếp tục đầu tư phát triển. Nhà nước cũng 
cần có phương án xử lý nợ đối với các khoản nợ hiện nay của một số doanh 
nghiệp nhà nước như thông qua công ty mua bán nợ và tài sản, tránh tình 
trạng nhà nước phải xử lý giãn nợ, xóa nợ thuế…giúp cho các doanh nghiệp 
nhà nước được lành mạnh hóa tình hình tài chính. 
2.6.2 Về đầu tư và đổi mới, hiện đại hóa công nghệ 
 93 
Nhà nước cần tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp 
nhà nước trong quyết định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển 
đã được phê duyệt; được quyết định các dự án đầu tư, sử dụng quỹ khấu hao 
để đầu tư, đổi mới tài sản cố định; sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp để 
liên doanh liên kết, góp vốn với các doanh nghiệp khác; thuê, mua một phần 
hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh 
của mình. Doanh nghiệp nhà nước phải được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư, 
tái đầu tư theo quy định của pháp luật; xóa bỏ cơ chế xin – cho trong đầu tư 
và quan hệ tài chính giữa nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả 
khi cần phải đầu tư mới hoặc cần hiện đại hóa, phát triển doanh nghiệp theo 
chương trình quốc gia, nhà nước cũng không theo phương thức cấp phát như 
trước mà chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính của 
nhà nước. 
Doanh nghiệp nhà nước được áp dụng các chế độ ưu đãi với người 
có công đóng góp vào đổi mới công nghệ, mang lại hiệu quả thiết thực cho 
doanh nghiệp. Đối với các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, công nghệ, cơ chế quản 
lý, các biện pháp tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu… thì tùy 
theo giá trị làm lợi mà doanh nghiệp nhà nước sẽ có quyền tự quyết định mức 
thưởng cho các cán bộ, nhân viên của mình để khuyến khích mọi người hăng 
hái tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả và tính 
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nhà nước cũng có các chính 
sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới 
máy móc thiết bị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mở 
rộng thị trường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như là: khuyến khích đầu 
tư tài chính cho khoa học và công nghệ; được vay vốn từ ngân hàng, quỹ phát 
triển khoa học và công nghệ với mức lãi suất ổn định, hợp lý… 
2.6.3 Về cơ chế sử dụng lao động, tiền lương 
 94 
Doanh nghiệp nhà nước thực hiện chuyển chế độ biên chế sang 
hợp đồng; cơ chế tuyển chọn, đào tạo, sử dụng lao động theo quy định của 
pháp luật trên cơ sở của hợp đồng lao động và sự thỏa ước tập thể. Đối với 
lượng lao động dôi dư nhà nước cần có chế độ, chính sách giải quyết một 
cách dứt điểm thông qua trợ cấp mất việc, thôi việc hoặc là cho đi đào tạo lại. 
Về tiền lương áp dụng việc không chế lương tối thiểu nhưng không khống chế 
mức lương tối đa. Các doanh nghiệp nhà nước được tự chủ trong việc trả tiền 
lương, tiền thưởng trên cơ sở là tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ 
tăng năng suất lao động và không bị gò bó bởi đơn giá lương, các thang, bảng 
lương. Nhà nước ban hành quy định làm cơ sở về pháp lý cho việc tính toán 
lương của doanh nghiệp trên cơ sở hiệu quả kinh doanh đồng vốn nhà nước 
đầu tư. Có như vậy thì tiền lương, tiền thưởng mới thực sự tạo động lực 
mạnh, gắn người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh, để người lao động 
sáng tạo, mang hết sức của mình vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp; 
đồng thời góp phần thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao làm việc 
tại doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước 
trong nền kinh tế thị trường. 
2.6.4 Về tổ chức bộ máy và nhân lực 
Mở rộng quyền tự chủ, đổi mới quản lý nội bộ doanh nghiệp theo 
mô hình Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch doanh nghiệp, xác định rõ ràng trách 
nhiệm của giám đốc điều hành. Tăng trách nhiệm của mỗi cá nhân tương 
xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đối với doanh nghiệp nhà nước có 
Hội đồng quản trị cần quy định rõ quyền hạn là cơ quan đại diện chủ sở hữu 
nhà nước tại doanh nghiệp; Hội đồng quản trị phải là cơ quan quyền lực cao 
nhất, hoàn toàn chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thành lập doanh 
nghiệp (chủ đầu tư nhà nước) và trước pháp luật về kết quả sản xuất kinh 
doanh cũng như những hoạt động khác của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị 
có toàn quyền nhân danh doanh nghiệp nhà nước để giải quyết các vấn đề liên 
 95 
quan đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của doanh nghiệp 
nhà nước trừ một số thẩm quyền của chủ sở hữu phân cho các cơ quan, tổ 
chức khác đại diện chủ sở hữu thực hiện. Nhà nước cần có quy định về chế độ 
tiền lương, thưởng cũng như các hình thức khen thưởng, kỷ luật cụ thể để 
khuyến khích, động viên và qui rõ trách nhiệm của các thành viên Hội đồng 
quản trị tương ứng với kết quả sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp nhà 
nước đó thu được. 
Hội đồng quản trị có quyền chỉ định hoặc thuê giám đốc theo hợp 
đồng, chủ động tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiễm hoặc ký hợp đồng, chấm 
dứt hợp đồng theo hướng chủ yếu là thi tuyển. Giám đốc doanh nghiệp có 
thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với 
cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp theo phân cấp của Hội đồng quản trị. Nhà 
nước cần có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần đồng thời nâng cao trách 
nhiệm của giám đốc doanh nghiệp nhà nước: có quyền chủ động tổ chức bộ 
máy quản lý và tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ nhà nước 
giao; đặt chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước. Chủ tịch Hội 
đồng quản trị không thể kiêm chức vụ giám đốc doanh nghiệp nhà nước vì 
như thế sẽ dẫn đến sự trùng lặp chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng 
quản lý kinh doanh tại doanh nghiệp. 
2.7 Hình thành đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi. 
Trong hoạt đông sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp nhà nước 
cán bộ quản lý có vai trò vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành 
công hay thất bại, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong quá 
trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước từ nền kinh tế kế hoạch 
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và trong công cuộc công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước thì vai trò của cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp 
nhà nước lại càng quan trọng. Cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước phải 
vừa đảm bảo tổ chức quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả 
 96 
cao, vừa phải trực tiếp thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước. 
Muốn vậy người cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước phải là người có kiến 
thức về quản lý, về kinh tế và chuyên môn kỹ thuật cao, có sức khỏe tốt, có 
năng lực lãnh đạo và quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. 
Trong cơ chế mới hiện nay khi mà chủ sở hữu nhà nước đã dần về 
đúng với chức năng quản lý vĩ mô còn quyền sử dụng tài sản vốn liếng thuộc 
về doanh nghiệp thì giám đốc có toàn quyền tổ chức, điều hành doanh nghiệp 
trên cơ sở định hướng của nhà nước bằng pháp luật và chính sách kinh tế. 
Như đã trình bày ở trên, đó là quyền xây dựng và vận hành kế hoạch kinh 
doanh, là quyền tìm kiếm thị trường, khai thác vật tư và tiêu thụ sản phẩm, 
quyền lựa chọn công nghệ và dây chuyền sản xuất, quyền tổ chức bộ máy 
quản lý doanh nghiệp, quyền mở rộng quan hệ hợp tác và liên doanh, liên 
kết…Đồng thời giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu 
trong việc làm tăng giá trị tài sản, vốn liếng và các khoản đóng góp vào ngân 
sách nhà nước, chịu trách nhiệm về đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ 
công nhân viên trong doanh nghiệp. Với những chức năng này nếu giám đốc 
không có năng lực quản lý giỏi thì tính tự chủ của doanh nghiệp nhà nước chỉ 
là hình thức và dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ 
tránh khỏi những khó khăn. Do vậy yêu cầu đặt ra là tập trung xây dựng đội 
ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi có đủ sức quản lý doanh nghiệp nhà nước 
tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong cơ chế thị trường: 
- Đẩy tới một bước việc đào tạo mới và đào tạo lại giám đốc 
doanh nghiệp nhà nước. Ở nước ta các trường đại học kinh tế đều đã tiến hành 
thành lập khoa quản trị kinh doanh hoặc không cũng đã đưa bộ môn quản trị 
kinh doanh vào chương trình. Song do nhu cầu của thực tiễn cũng như kinh 
nghiệm của một số quốc gia khác, cần có chủ trương, tiến hành thành lập 
trường đại học chuyên ngành để đào tạo nghề giám đốc. 
 97 
- Song song với quá trình đào tạo mới, đào tạo lại, cần đẩy mạnh 
hình thức bồi dưỡng nhằm bổ sung kiến thức, hiện đại hóa bộ não của các 
giám đốc. Đây cũng là một trong những con đường đào tạo lại có kết quả đối 
với phần đông các giám đốc còn đang đương chức. Tuy nhiên cần phải tổ 
chức lại hệ thống trường lớp nhằm thống nhất sự quản lý của nhà nước về 
chương trình, về tài chính, phương thức tiến hành… 
- Đa dạng hóa loại hình đào tạo bồi dưỡng, gắn đào tạo lý thuyết 
với hoạt động thực tiễn. 
- Ngoài ra đội ngũ giám đốc doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 
hiện nay có thể còn được hình thành, nâng cao kiến thức từ: hình thức đào tạo 
từ xa qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các sách báo viế về quản 
trị doanh nghiệp; tổ chức các câu lạc bộ giám đốc, hội thảo khoa học nhằm 
trao đổi và học tập kinh nghiệm giữa các nhà doanh nghiệp… 
Như vậy, Chương III của khóa luận đã chỉ ra những phương 
hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc tách quyền chủ sở 
hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước ở nước ta 
hiện nay. Các giải pháp được đưa ra nhằm tập trung vào giải quyết các vấn 
đề: 
1. Tăng cường quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước đi 
đôi với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
2. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền sở hữu nhà nước, tăng 
hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát, xóa bỏ bao cấp đối với doanh 
nghiệp nhà nước theo định hướng Nhà nước là chủ đầu tư bình đẳng với các 
chủ thể đầu tư khác. 
3. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hóa hình thức 
sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ cơ chế hành chính chủ quản. 
 98 
4. Xây dựng cơ chế công khai, minh bạch trong tổ chức hoạt 
động của chủ thể kết hợp với tăng cường năng lực của Nhà nước trong việc 
kiểm tra, giám sát tổ chức hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. 
5. Đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính 
chuyên nghiệp và nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước 
và đội ngũ quản lý. 
 99 
KẾT LUẬN 
Qua quá trình nghiên cứu về mặt lý thuyết, thực tiễn việc tách 
quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh 
nghiệp nhà nước cũng như nghiên cứu đưa ra các phương hướng và giải pháp, 
em xin có một số những kết luận sau đây: 
1. Doanh nghiệp nhà nước được hình thành và phát triển ở các 
quốc gia trên thế giới mà không chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa. Có 5 
nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành của doanh nghiệp nhà nước: (1) Do 
nhu cầu khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh; (2) 
Thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các xí nghiệp tư bản nước ngoài sau khi 
giành được độc lập; (3) Thành lập các doanh nghiệp nhà nước để cung cấp 
các hàng hóa công cộng, tạo công ăn việc làm… ; (4) Thành lập các doanh 
nghiệp nhà nước như những đàu tàu dẫn dắt nền kinh tế ở những nước đang 
phát triển; (5) Thành lập các doanh nghiệp nhà nước để nắm giữ những ngành 
công nghiệp đặc biệt quan trọng. Ở nước ta hiện nay, do quá trình sắp xếp lại 
doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động sản 
xuất của chúng mà số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm đi đáng kể. Tuy 
nhiên, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc 
dân. 
2. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng như 
những loại hình doanh nghiệp khác, phải thể hiện sự nhanh nhạy, năng động 
của mình để sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, tiếp cận và không ngừng 
mở rộng thì trường, nâng cao năng suất lao động… Do đó, Nhà nước với tư 
cách là chủ sở hữu không được can thiệp vào quá trình quản trị của doanh 
nghiệp, các doanh nghiệp có quyền quản trị, tự quyết định các kế hoạch sản 
xuất, tự chủ về tài chính, chế độ tiền lương…, có quyền quyết định các 
 100 
phương án vay và sử dụng nguồn vốn miễn là chịu trách nhiệm trả nợ và hiệu 
quả sử dụng nguồn vốn vay, bảo đảm và phát triển nguồn vốn của Nhà nước. 
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Nhà nước ta đã 
từng bước có những cải cách trong cơ chế quản lý, các quy định của luật pháp 
để mở rộng quyền cho các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên để đảm bảo 
quyền sở hữu của Nhà nước, đồng thời nhằm đảm bảo trật tự Nhà nước mà 
việc thực hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước luôn kèm theo cụm từ 
‘theo quy định của pháp luật’, do vậy quyền tự chủ của các doanh nghiệp nhà 
nước ở Việt Nam là quyền tự chủ có điều kiện, trong khuôn khổ của pháp 
luật. 
3. Quá trình thực hiện tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị 
doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có rất nhiều ưu 
điểm như mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà 
nước, các doanh nghiệp nhà nước chủ động thực hiện các quyền kinh doanh 
của mình, tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, tham gia liên doanh liên 
kết…để phát triển. Đồng thời các cơ quan quản lý Nhà nước cũng xác định rõ 
nhiệm vụ của mình, không can thiệp sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp, 
đóng vai trò như những nhà đầu tư khác: đầu tư và thu lợi…Tuy vậy vẫn còn 
tồn tại một số những vấn đề liên quan đến chế độ hành chính, chế độ nhân sự 
- đãi ngộ, quyền sở hữu và quyền tự chủ… Trong quá trình từng bước thực 
hiện việc tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong các 
doanh nghiệp nhà nước, xuất hiện mô hình chủ quản. Mặc dù chế độ chủ quản 
đã góp phần quản lý được toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp nhà 
nước theo phân công của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; Chính phủ, 
Thủ tướng Chính phủ trực tiếp giải quyết các vấn đề lớn, có tính định hướng 
và cơ chế hoạt động cho các Tổng công ty 91 nhưng có rất nhiều những hạn 
chế về chế độ báo cáo; về thẩm quyền quyết định đầu; về báo cáo tình hình 
 101 
của Tổng công ty… Từ đó đặt ra vấn đề cần xóa bỏ chế độ chủ quản, để nâng 
cao tính tự chủ, tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. 
4. Từ việc nghiên cứu lý thuyết và tình hình thực tiễn, khóa luận đã 
đưa ra một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh 
việc thực hiện tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong 
các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Các giải pháp mà khóa luận đề cập 
đến bao gồm: làm rõ và thực hiện tốt chức năng quản lý nền kinh tế của Nhà 
nước đối với các doanh nghiệp; tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà 
nước; tăng cường việc quản lý vốn của Nhà nước đối với nguồn vốn Nhà 
nước trong các doanh nghiệp; xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của 
cơ quan quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; tăng cường hệ thống chế 
định của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước; xóa bỏ chế độ hành 
chính chủ quản và tăng cường quyền tự chủ về quản trị doanh nghiệp cho các 
doanh nghiệp nhà nước; hình thành đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp 
giỏi. 
5. Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được 
thành công là phụ thuộc rất nhiều vào kết quả sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp nhà nước, cụ thể hơn nữa là phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng 
vốn nhà nước hiện đang nằm ở trong các doanh nghiệp. Chính từ nguồn lợi 
nhuận và các khoản thuế thu được từ các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước 
sẽ dùng để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, tạo ra thêm 
nhiều công ăn việc làm mới, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy mà 
vấn đề tạo ra được những động lực mới tác động tích cực đến doanh nghiệp 
nhà nước là vấn đề rất quan trọng, từng bước xóa bỏ chế độ chủ quản, để các 
doanh nghiệp nhà nước thực sự nắm quyền tự chủ. 
 102 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. Nhà 
xuất bản Chính trị Quốc Gia 
2. Bộ Luật Dân sự 2005. Nhà xuất bản Tư pháp 
3. Luật doanh nghiệp 2005, Nhà xuất bản Thống kê 
4. Luật đầu tư. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 
6. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006) Báo cáo kết quả giám sát việc thực 
hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 
7. Hoàng Hà (2005), Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà 
nước ở Việt Nam từ 1986 đến nay – Thực trạng và giải pháp, Đại học 
Kinh tế Quốc dân 
8. Tiến sĩ Võ Đại Lược, Giáo sư, Tiến sĩ Cốc Nguyên Dương (1997), Cải 
cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc – So sánh với Việt Nam, 
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 
9. Nguyễn Văn Đặng (2006) Tổng công ty nhà nước hướng tới hội nhập 
kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Giao thông vận tải 
10. Nguyễn Văn Đặng (2006) Xu hướng và giải pháp cạnh tranh, kiểm soát 
độc quyền trong công nghiệp, Nhà xuất bản Lao động 
11. Nguyễn Đặng Tường Anh (2007), Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi 
quyền quản trị doanh nghiệp – Mô hình quản trị mới trong doanh 
nghiệp nhà nước, Đại học Ngoại Thương 
12. Đoàn Phúc Thanh (1996), Đảm bảo tính tự chủ kinh doanh của doanh 
nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, Học viện 
Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh 
 103 
13. Dương Hoàng Oanh (2002), Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung 
Quốc từ 1978 đến nay, Viện Kinh tế Thế giới 
14. Phạm Minh Tuấn (2007), Quan hệ pháp lý giữa nhà nước và doanh 
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Học viện Hành chính Quốc gia 
15. Vũ Đình Bách (2001) Đổi mới tăng cường thành phần kinh tế nhà 
nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 
16. Lê Đăng Doanh (1996), Cơ sở khoa học và thực tiễn của công cuộc đổi 
mới kinh tế ở Việt Nam, Đại học Kinh tế Quốc dân. 
17. PGS. TS Ngô Quang Minh (2004), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi 
mới doanh nghiệp nhà nước 
18. Tập thể tác giả (1996) Cải cách doanh nghiệp nhà nước – Thực tiễn 
Việt Nam và kinh nghiệm thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 
19. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2002) Cải cách doanh 
nghiệp nhà nước – tình hình ở Việt Nam và kinh nghiệm một số nước 
trên thế giới 
20. Vũ Minh Trai (2000) Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các doanh 
nghiệp nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc 
gia 
21. Nguyễn Thị Thanh Hà (2001) Nâng cao hiệu quả cải cách doanh 
nghiệp nhà nước, Tạp chí Lý luận Chính trị số 12 
22. Lee Kang Woo (2002), Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở 
Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn. 
23. Malcolm Gillis, Dwight H.Perkins, Michael Roemer,… (1990), Kinh tế 
học của sự phát triển (Bản tiếng Việt), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế 
Trung ương 
24. Trương Văn Bân – chủ biên, Nguyễn Khang – người dịch (1996), Bàn 
về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị 
Quốc gia 
 104 
25. Paul A.Samuelson, William D.Nordhaus (1989), Kinh tế học (Bản tiếng 
Việt), Viện kinh tế học 
26. Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/03/1988: 
0001 
27. Số 388/HĐBT – Quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước 
0001 
28. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946: 
1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 
29. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959: 
1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 
30. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980: 
1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 
31. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992: 
32. Luật doanh nghiệp nhà nước 1995: 
e=25 
33. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003: 
0001 
34. Quyết định 217/QĐ - HĐBT ngày 14/11/1987: 
e=25 
 105 
35. Nghị định số 98 – HĐBT ngày 02/06/1988: 
0001 
36. Nghị định số 27 – HĐBT ngày 22/03/1989: 
0001 
37. Quyết định số 195 – HĐBT ngày 02/12/1989: 
e=51 
38. Nghị định số 133/2005/NĐ-CP: 
00003/lawdocument_view 
39. Luật tổ chức Chính phủ: 
/lawdocument_view 
40. Nghị định số 86/2002/NĐ-CP: 
50001/lawdocument_view 
41. Nghị định số 55/2003/NĐ-CP: 
42. Nghị định 39/CP: 
03_ND-CP.htm 
43. Số 39/1995/NĐ-CP - Điều lệ mẫu về Tổ chức và hoạt động của Tổng 
công ty nhà nước: 
0001 
44. Lịch sử phát triển ngành Dầu khí Việt Nam 
8 
 106 
D%E1%BA%A7u_kh%C3%AD_Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB
%87t_Nam 
45. Xuân Hòa, Doanh nghiệp nhà nước cần thể hiện vai trò ổn định vĩ mô 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4358_2863.pdf 4358_2863.pdf