Có thể khẳng định việc hình thành và phát triển các TĐKT là một thành
tựu to lớn của Việt Nam trong công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và
cải cách các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Các TĐKT này đã khắc phục
được những hạn chế của các DNNN riêng lẻ trước đây như hạn chế về vốn, về
quy mô, về công nghệ, về thị trường.để không ngừng lớn mạnh và khẳng
định được vị trí trụ cột của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các TĐKT này
hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như
dầu khí, điện lực, khoáng sản.đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của
Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời là trung gian quan trọng để Chính
phủ quản lý các DNNN và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên,
mô hình này vẫn tồn tại những vấn đề cần khắc phục đặc biệt là tình trạng độc
quyền hay kinh doanh kém hiệu quả của một lượng lớn các TĐKT.
96 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của bộ máy lãnh đạo tập đoàn.
3.2.2. Xác định địa vị pháp lý của tập đoàn kinh tế
Đối với 8 tập đoàn thí điểm: Cần phân biệt rõ “tập đoàn” có tƣ cách
pháp nhân tức là nói đến CTM của tổ hợp tập đoàn, còn “tập đoàn” không có
tƣ cách pháp nhân nghĩa là ám chỉ toàn bộ tổ hợp, có mối liên kết với nhau theo
mô hình tập đoàn. Làm rõ địa vị pháp lý sẽ tránh những hiểu lầm trong quan hệ
với các đối tác trong và ngoài nƣớc. Từ góc độ pháp lý, theo pháp luật hiện hành
Việt Nam, không có pháp nhân gọi là tập đoàn. Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu
lực từ 1.7.2006 có ghi: “TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy
định, hƣớng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT”.
Nhƣ vậy, địa vị pháp lý của TĐKT có thể đƣợc xác định trên các
phƣơng diện chủ yếu sau: (1) Định nghĩa pháp lý về TĐKT; (2) Hệ thống
thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của TĐKT trƣớc pháp luật; (3)
Mối quan hệ với đại diện chủ sở hữu và các cơ quan quản lý Nhà nƣớc khác
có liên quan.
- Cần quy định rõ tập đoàn là một tổ hợp các pháp nhân, có mối liên kết
kinh tế với nhau, không phải là một chủ thể của pháp luật, không có tƣ cách
pháp nhân.
- Thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ “tập đoàn” trong tên của
CTM nhằm tránh những nhầm lẫn có thể xảy ra. Cần xác định rõ địa vị pháp
lý của CTM trong tập đoàn, quyền và các nghĩa vụ liên quan cũng nhƣ mối
quan hệ của chúng với đại diện chủ sở hữu và các cơ quan Nhà nƣớc liên
quan. Đối với tập đoàn theo nghĩa một số tổ hợp, nên hiểu theo đúng Luật
Doanh nghiệp 2005, tập đoàn không phải là pháp nhân, chúng là nhóm công
ty có quan hệ với nhau về vốn, công nghệ, thị trƣờng... Hiểu theo cách này sẽ
71
tạo tiền đề cho việc củng cố và phát triển liên kết CTM - CTC, phù hợp với
xu hƣớng của thế giới và hiện trạng nền kinh tế Việt Nam.
3.2.3. Lựa chọn mô hình và hoàn thiện cấu trúc nội bộ
3.2.3.1 Lựa chọn mô hình
Lựa chọn mô hình tập đoàn cần đảm bảo phát huy đƣợc những ƣu thế,
thế mạnh của các TCT 91 đồng thời khắc phục những nhƣợc điểm của mô
hình cũ, từng bƣớc tạo lập các tập đoàn thực thụ. Tùy đặc điểm ngành nghề,
lĩnh vực, có thể lựa chọn một trong các mô hình sau:
- Mô hình với liên kết cùng ngành: Phù hợp với các tổ hợp nhƣ than và
khoáng sản, xi măng, giấy, lƣơng thực, cà phê, cao su,...Trong mô hình này, CTM
thƣờng nắm giữ các doanh nghiệp quan trọng, có thị phần lớn (CTM sản xuất),
đồng thời điều phối, chỉ đạo, định hƣớng chung cho toàn tập đoàn. Điểm gắn kết
giữa CTM với các CTC trong tập đoàn đƣợc thực hiện bằng quyền lực của CTM
dựa trên năng lực sản xuất, thị phần, mức độ sở hữu công nghệ...
- Mô hình với liên kết khác ngành: Phù hợp với các tập đoàn nhƣ Điện
lực, Viễn thông, Công nghiệp tàu thủy và các TCT nhƣ Đƣờng sắt, Khoáng
sản...Trong mô hình này, CTM thƣờng nắm giữ khâu then chốt nhất trong quy
trình sản xuất (điểm quan trọng nhất trong chuỗi giá trị của toàn tập đoàn)
hoặc nắm giữ tài chính, thị phần (CTM kinh doanh), đồng thời thực hiện điều
phối, chỉ đạo, định hƣớng. Điểm gắn kết giữa CTM với các CTC dựa trên
tiềm lực tài chính hoặc quyền lực chi phối về sản xuất, về thị trƣờng của
CTM.
- Mô hình với liên kết hỗn hợp: Đây là mô hình cho phép khai thác
đƣợc lợi thế của cả mô hình liên kết cùng ngành và liên kết khác ngành, là mô
hình các TĐKT Việt Nam sẽ hƣớng tới trong quá trình phát triển. Tuy nhiên,
trong giai đoạn đầu, mở rộng các liên kết hỗn hợp trong tập đoàn cần chú ý
đến năng lực quản lý, tiềm lực vốn, sức mạnh trong ngành chủ lực.
Để phát huy thế mạnh của mỗi mô hình, lợi thế về quy mô, việc lựa
chọn cần chú ý những nội dung sau:
- Các liên kết (cùng ngành, khác ngành, hỗn hợp) không phải duy nhất
trong tập đoàn, đó chỉ là những liên kết chủ yếu, ngoài ra còn có những liên
kết khác tuỳ theo chiến lƣợc và lựa chọn của mỗi tập đoàn.
72
- Ngoài việc xây dựng và củng cố các liên kết bên trong. Nhà nƣớc cần
thúc đẩy các “liên kết ngoài”, tạo tiền đề để các doanh nghiệp độc lập có cơ
hội, có điều kiện hợp tác với các tập đoàn lớn, trở thành các khâu trong quy
trình sản xuất quy mô lớn, tránh bị thôn tính hoặc trở thành bộ phận của các
tập đoàn nƣớc ngoài.
- Lựa chọn mô hình tập đoàn không phải là giải pháp duy nhất khắc
phục những nhƣợc điểm của các TCTNN hiện nay. Xây dựng TĐKT không
phải là mục tiêu, mà là kết quả của quá trình phát triển mang tính tự nhiên, tất
yếu. Không lấy cơ cấu sở hữu để giải thích những yếu kém khi lựa chọn mô
hình. Nhiều tập đoàn trên thế giới có tỷ trọng SHNN lớn nhƣng hoạt động rất
hiệu quả, chẳng hạn nhƣ: Temasek, Singapore Airline (Singapore) hay
Petronas (Malaysia).
3.2.3.2. Hoàn thiện cấu trúc công ty mẹ - công ty con
Hoàn thiện cấu trúc CTM - CTC một mặt củng cố các quan hệ vững
chắc cho các TĐKT đang thí điểm, mặt khác tạo tiền đề để hình thành các tập
đoàn trong tƣơng lai. Để cấu trúc CTM - CTC thực sự phát huy hiệu quả,
trƣớc mắt cần tập trung giải quyết một số nội dung sau:
- Nâng cao năng lực CTM bằng các biện pháp nhƣ bổ sung vốn, tăng
cƣờng tiềm lực tài chính, nắm giữ khâu quan trọng trong quy trình sản xuất
của tập đoàn...Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, các CTM một mặt
chƣa đủ năng lực tài chính cần thiết, do đó có thể vừa nắm vốn, vừa nắm sản
xuất. Qua quá trình phát triển, các CTM lớn mạnh và có thể lựa chọn phƣơng
án chỉ nắm vốn hoặc vừa nắm vốn, vừa nắm sản xuất còn tuỳ thuộc vào chiến
lƣợc của mỗi tập đoàn. Nếu CTM hƣớng vào nắm vốn, cần từng bƣớc tách
các doanh nghiệp kinh doanh khỏi CTM, chuyển các công ty này thành CTC
và thực hiện các quyền của CTM thông qua tỷ lệ góp vốn.
- Cơ cấu của CTM cần xây dựng theo hƣớng phát huy sự liên kết, phối
hợp giữa các CTC, nghĩa là cần xây dựng những phòng ban chức năng, phân
công nhiệm vụ cụ thể, tập trung vào các nội dung nhƣ uỷ thác, phối
hợp...CTM có thể cung cấp thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, thủ tục cho các CTC
thông qua các phòng ban chức năng. Nhiệm vụ trọng tâm của các CTM là đầu
tƣ vào các CTC nhằm nhiều mục tiêu, trong đó tối đa hoá lợi nhuận là mục
73
tiêu quan trọng hàng đầu. Trong giai đoạn đầu,CTM ở các TĐKT Việt Nam
nên vừa trực tiếp thực hiện sản xuất kinh doanh, vừa đầu tƣ vốn. Với những
tỷ lệ vốn góp khác nhau, CTM có thể thực hiện quyền giám sát hoặc kiểm
soát CTC tuỳ từng trƣờng hợp cụ thể và tùy vào mục tiêu của CTM. Mỗi
CTM có thể lựa chọn các tỷ lệ đầu tƣ nhƣ sau:
+ Nắm giữ trên 50% đến 100% cổ phần: Trong trƣờng hợp CTM muốn
kiểm soát hoạt động của CTC.
+ Nắm giữ dƣới 50% cổ phần: Trong trƣờng hợp CTM chỉ thực hiện
giám sát tài chính. Mục tiêu của CTM trong các quyết định đầu tƣ là nhằm
tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động của CTC hoặc đơn thuần với mục
đích mua đi bán lại. Nếu CTM thấy CTC hoạt động không hiệu quả, quyết
định đƣa ra là rút phần vốn của mình bằng cách bán số cổ phần mà CTM sở
hữu. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nếu CTM nắm giữa dƣới 50% cổ phần
trong nhiều trƣờng hợp vẫn có thể thực hiền quyền kiểm soát hoạt động bởi
CTM vẫn là cổ đông lớn nhất. Khi thị trƣờng chứng khoán phát triển mạnh và
có sự liên minh chiến lƣợc giữa các cổ đông, trƣờng hợp CTM sở hữu dƣới 50
% cổ phần có thể không còn thực hiện quyền kiểm soát, lúc đó CTM có thể
mua thêm cổ phần để thực hiện quyền này nếu thấy cần thiết.
- Về HĐQT của CTM: Bên cạnh cách bổ nhiệm hiện tại, cần bổ sung
những quy định về quy trình lựa chọn, đối tƣợng lựa chọn theo hƣớng tìm
kiếm những nhà quản trị tài năng. Trƣớc mắt, Chính phủ nên thành lập một bộ
phận giúp việc Thủ tƣớng theo dõi các quyết định của các thành viên HĐQT.
- Các CTC: Đƣợc tổ chức dƣới nhiều hình thức nhƣ CTCP, công ty
TNHH một thành viên, công ty TNHH nhiều thành viên, công ty liên kết (liên
kết bằng vốn hoặc hợp đồng, liên kết trong và ngoài nƣớc...). Trong mọi
trƣờng hợp, các CTC phải tạo thu nhập cho CTM bằng: (1) Cổ tức từ lợi
nhuận; (2) Khoản hoa hồng trên các giao dịch mà CTM là đại diện; (3) Các
khoản đóng góp dƣới dạng quỹ.
- Về HĐQT của CTC: Tổ chức và hoạt động theo quy định hiện hành.
Riêng đối với các CTC do CTM nắm giữ 100% cổ phần, không nên thành lập
HĐQT bởi chỉ tồn tại mang tính hình thức, mọi quyết định của CTC này đều
74
do HĐQT của CTM chi phối. Loại hình này CTM có thể thuê giám đốc điều
hành dƣới sự kiểm soát trực tiếp của HĐQT CTM.
Ngoài ra, các quy định liên quan đến quan hệ CTM - CTC, giữa các
CTC với nhau, CTM với công ty liên kết, cơ chế tài chính và báo cáo tài
chính hợp nhất trong tập đoàn...cần đƣợc quy định cụ thể, thống nhất.
3.2.4. Cơ cấu lại các tổng công ty được xây dựng theo mô hình tập đoàn và
tiếp tục hoàn thiện các tập đoàn đang thí điểm
3.2.4.1. Đối với các TCTNN đƣợc xây dựng hƣớng tới mô hình
TĐKT
Đánh giá lại tổng quan hiện trạng của các TCT trƣớc khi xây dựng các
phƣơng án phát triển thành các TĐKT. Việc đánh giá cần độc lập, khách
quan, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nƣớc, các đơn vị tƣ vấn trong nƣớc và
các tổ chức quốc tế.
Từ kết quả đánh giá của mỗi doanh nghiệp thành viên và toàn TCT, các
phƣơng án phát triển cần đƣợc xây dựng trên cơ sở các thông tin khách quan,
trung thực từ các báo cáo phân tích. Trƣớc khi tiến hành các bƣớc chuyển đổi,
cần xuất phát từ phƣơng án tổng thể sắp xếp DNNN đã đƣợc phê duyệt. Đây
là căn cứ để xác định phƣơng án cho từng doanh nghiệp thành viên cụ thể.
Trên cơ sở đó, các bƣớc để chuyển TCT thành các tập đoàn có thể là:
- Bƣớc 1: Đánh giá các doanh nghiệp thành viên TCT trên các mặt:
kinh tế, tài chính, kỹ thuật và nguồn nhân lực.
Trƣớc hết, cần đánh giá hiện trạng tài chính của mỗi thành viên và toàn
TCT bằng nhiều biện pháp khác nhau nhƣ: Kiểm toán nhà nƣớc, thuê các tổ
chức tài chính, các đơn vị định giá, các cơ quan tƣ vấn độc lập nhằm đánh giá
đúng thực trạng tài chính mỗi doanh nghiệp cũng nhƣ toàn bộ TCT. Tiếp theo
với đánh giá tài chính là đánh giá năng lực các bộ phận chức năng trong TCT
nhƣ bộ phận thƣơng mại, bộ phận kỹ thuật, bộ phận quản lý...nhằm làm rõ
năng lực của từng bộ phận.
Trên cơ sở đánh giá tài chính và đánh giá bộ phận chức năng , lập báo
cáo phân tích về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức (phân tích SWOT)
nhằm chỉ rõ thế mạnh và nhƣợc điểm của bản thân các doanh nghiệp thành
viên cũng nhƣ toàn bộ TCT.
75
Bƣớc đánh giá doanh nghiệp thành viên cho các kết quả tổng quan về
tình hình tài chính (tổng giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu/ tổng vốn kinh doanh,
nợ phải trả, lao động, doanh thu, lợi nhuận...). Bƣớc này sẽ tạo cơ sở để xây
dựng một kế hoạch hành động rõ ràng và các phƣơng án chuyển đổi phù hợp,
hiệu quả nhất đối với các đơn vị đƣợc đánh giá.
- Bƣớc 2: Lựa chọn doanh nghiệp trở thành CTM và xây dựng chiến
lƣợc kinh doanh tổng thể
Sau khi đã có kết quả ở bƣớc 1, việc lựa chọn doanh nghiệp trở thành
CTM phải đẳm bảo các yêu cầu về doanh nghiệp lớn, quy mô lao động, khả
năng sinh lời, lãi gộp, xu hƣớng thị trƣờng, xu hƣớng cạnh tranh...Nếu một
doanh nghiệp có các chỉ số nêu trên tốt thì đảm bảo các yếu tố chính có thể
trở thành CTM. Tuy nhiên, trong điều kiện đặc thù ở các TCTNN, nhất là các
TCT 91 hiện nay, CTM ngoài những yếu tố nêu trên còn cần tiêu chí chi phối
các công ty khác bằng nhiều biện pháp (nắm giữ ngành kinh doanh chủ lực,
công nghệ, thị trƣờng, thƣơng hiệu, tài chính chi phối...)
Sau khi xác định đƣợc CTM, trên cơ sở phƣơng án tổng thể đã đƣợc
phê duyệt, bƣợc tiếp theo là xây dựng chiến lƣợc kinh doanh ở cấp độ toàn
tập đoàn. Yêu cầu của xây dựng chiến lƣợc cấp này là tính tƣơng tác với các
cấp độ khác trong hệ thống, tạo điều kiện để các doanh nghiệp thành viên có
thể thực hiện đƣợc chiến lƣợc. Chiến lƣợc tổng thể cấp tập đoàn cùng là một
trong những căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng chiến lƣợc cụ thể.
- Bƣớc 3: Tái cơ cấu các doanh nghiệp thành viên
Bƣớc tái cơ cấu bao gồm chuyển đổi sở hữu ở các doanh nghiệp mà
Nhà nƣớc không cần nắm giữ 100% vốn, chuyển đổi từ DNNN sang công ty
TNHH một thành viên, xác định những doanh nghiệp mà Nhà nƣớc nắm giữ
trên 50% vốn. Một điểm cần lƣu ý là bƣớc này tiến hành giải thể, phá sản các
doanh nghiệp thua lỗ mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ nhằm tạo điều kiện để
xây dựng mô hình mới từ các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Ngoài ra,
việc sáp nhập các doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực với cùng công nghệ,
cùng thị trƣờng (có thể dẫn đến cạnh tranh nội bộ) là cần thiết nhằm tăng hiệu
quả hoạt động tổng thể. Bƣớc tái cơ cấu sẽ góp phần giảm chi phí hoạt động,
phát huy các điểm mạnh cũng nhƣ giảm thiểu các rủi ro, đảm bảo sự cân đối
76
trong mô hình mới, xoá bỏ sự chồng chéo trong hoạt động và giúp CTM phân
bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Các biện pháp hiệu quả nhất trong bƣớc tái cơ cấu là chuyên môn hoá
và sáp nhập: Xác định các doanh nghiệp mạnh nhất trong chuỗi giá trị của mô
hình mới (theo sản xuất, theo phân phối...), trong mỗi khâu, mỗi quá trình cần
lựa chọn doanh nghiệp có thế mạnh, có kinh nghiệm và triển vọng, đồng thời
phân nhóm các doanh nghiệp theo chuyên môn hoá. Sau đó, có biện pháp cụ
thể với các doanh nghiệp cùng nhóm, trong đó chú ý đến biện pháp sáp nhập.
Đây là biện pháp phù hợp với điều kiện và đặc thù của các TCTNN.
- Bƣớc 4: Xây dựng cơ cấu tổ chức mới và thiết lập quan hệ nội bộ
Cơ cấu tổ chức đƣợc lựa chọn dựa trên mục tiêu của mỗi TCT. Tái lập
tổ chức mới phải đảm bảo nguyên tắc phát huy thế mạnh của mỗi đơn vị
thành viên và toàn bộ tổ chức (kiểu nhƣ 1+1>2). Dựa trên chiến lƣợc đã đƣợc
xác định, mô hình mới cần đảm bảo thực hiện các nội dung nhằm đạt mục tiêu
tổng thể và mục tiêu cụ thể. Sau khi đã xác định mục tiêu và phạm vi kinh
doanh, cơ cấu tổ chức mới xây dựng theo cấu trúc CTM - CTC, trong đó quy
định cụ thể vai trò của CTM và trách nhiệm của các CTC. CTM có thể là
công ty đầu tƣ tài chính, công ty sản xuất, công ty phân phối. Các CTC đƣợc
sắp xếp theo đề án tổng thể đã đƣợc phê duyệt nhƣng cần lựa chọn, bố trí dựa
trên các quy trình kinh doanh và mục tiêu của mô hình mới. Mối quan hệ giữa
CTM-CTC đƣợc thiết lập dựa vào mục tiêu và đặc thù của ngành kinh doanh
chính: có thể thông qua vốn đầu tƣ, có thể thông qua thị trƣờng, kỹ thuật…tùy
việc lựa chọn liên kết của CTM.
Thiết lập mối quan hệ giữa CTM và các CTC trên các mặt: pháp
lý,quan hệ sản xuất kinh doanh, vốn...đồng thời với nó là xây dựng các công
cụ chi phối nhƣ thƣơng hiệu, công nghệ, thị trƣờng. Xây dựng cơ chế tài
chính chung toàn tập đoàn nhƣ chế độ bảo lãnh tín dụng, vay nội bộ, báo cáo
tài chính hợp nhất dựa trên một văn bản có tính chất pháp lý. Hình thành và
xây dựng quy chế sử dụng thƣơng hiệu chung của tập đoàn.
- Bƣớc 5: Chuẩn hoá hệ thống
Bƣớc này nhằm thiết lập các mối quan hệ nội bộ theo chuẩn mực, có
thể áp dụng cho tất các mối quan hệ nội bộ giữa các đơn vị thành viên và với
77
CTM. Về thông tin: thông tin hai chiều đảm bảo thông suốt, cập nhật và chính
xác, về tài chính: xây dựng hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất toàn tập đoàn
theo chuẩn mực kế toán quốc tế, bao gồm cả công ty mẹ và công ty con, cả
trong và ngoài nƣớc sau khi đã trừ đi những giao dịch nội bộ sẽ phản ánh
trung thực giá trị sản phẩm và lợi nhuận thực; về cơ chế kiểm soát và báo cáo:
tôn trọng nguyên tắc độc lập, khách quan với cơ chế giám sát đảm bảo sự
minh bạch; kiểm toán: sử dụng cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Bên
cạnh đó, quyền và trách nhiệm của các phòng ban chức năng và mỗi chức
danh quản lý đƣợc quy định rõ, phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp
hiện hành, tránh chồng chéo trong hoạt động.
Năm bƣớc cơ cấu lại nêu trên là một trong những biện pháp tập đoàn
hoá các TCTNN mà không cần các quyết định hành chính và sự can thiệp quá
cụ thể của Nhà nƣớc. Trong giai đoạn đầu xây dựng các TCT theo hƣớng tập
đoàn, một số nội dung có thể thực hiện ngay bao gồm: (1) Xác định các hoạt
động chính, sản phẩm chủ lực trong tƣơng lai gần; (2) Xây dựng chiến lƣợc
kinh doanh và định hƣớng phát triển theo giai đoạn, có thể là 5 năm, 10 năm
và từng năm; (3) Tổ chức lại các doanh nghiệp thành viên trên các mặt tài
chính kế toán, cơ chế thông tin và mối quan hệ nội bộ; (4) Minh bạch hoá tài
chính; (5) Lựa chọn các doanh nghiệp thành viên trên cơ sở tái cơ cấu, sáp
nhập, giải thể, đồng thời tiến hành đa dạng hóa sở hữu bằng CPH. Thực hiện
đồng bộ các biện pháp trên sẽ tạo điều kiện để các TCT phát triển theo mô
hình tập đoàn dựa trên các quy luật phát triển, các quyết định hành chính
không còn cần thiết nữa và chỉ nhằm hợp thức hoá mô hình này.
3.2.4.2. Đối với các TĐKT trong giai đoạn thí điểm
Có thể khẳng định, với việc đƣợc quản lý, khai thác các nguồn lực quan
trọng của quốc gia, vị thế độc quyền và các biện pháp hỗ trợ của Nhà nƣớc,
nhất là hỗ trợ về vốn, các TĐKT trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển. Yêu
cầu đặt ra là làm thế nào để các tập đoàn này phát huy hiệu quả, xứng đáng
với vị thế và tiềm lực đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ, đáp ứng đƣợc kỳ vọng cũng nhƣ
mục tiêu của Chính phủ khi quyết định thành lập mô hình này.
Trong các tập đoàn thí điểm, những cơ sở ban đầu cho việc phát triển
thành các tập đoàn thực thụ đã hình thành. Đến nay, chƣa đủ thời gian để
78
đánh giá toàn diện các TĐKT thí điểm, tuy vậy, để chúng phát triển bền vững,
trƣớc mắt cần thực hiện những nội dung sau:
- Thứ nhất: Củng cố mối liên kết CTM -CTC, thúc đẩy chúng hình
thành bằng các biện pháp: (1) Tích tụ, tập trung và tự mở rộng quy mô; (2)
Mua lại, thâu tóm hoặc giành quyền kiểm soát thông qua các biện pháp đầu
tƣ, chiếm lĩnh; (3) Tự nguyện liên kết trên cơ sở lợi ích. Để phát huy hiệu quả
của liên kết này, cần kết hợp đan xen cả phƣơng pháp quyết định nhƣ hiện
nay và phƣơng pháp phát triển tự nhiên theo quy luật. Nếu chỉ sử dụng
phƣơng pháp hành chính nhằm xây dựng các liên kết mang nặng tính chủ
quan sẽ tạo ra những rủi ro tiềm ẩn.
- Thứ hai: Trao quyền quyết định lựa chọn CTC cho CTM, nghĩa là
“mẹ” toàn quyền lựa chọn “các con”, tránh hiện tƣợng áp đặt, thành lập các
CTC sau đó gò ép các liên kết. Điều này đồng nghĩa với việc một số CTC
trong tập đoàn hiện nay phải giải thể hoặc phá sản bởi không đáp ứng đƣợc
yêu cầu của CTM, không mang lại hiệu quả hoặc không cùng mục tiêu. Song
song với quá trình này là việc thu hút các công ty đa sở hữu thuộc các thành
phần kinh tế khác, tạo quan hệ mẹ - con đa chiều, nhiều hình thức sở hữu.
Xây dựng CTM đạt hiệu quả cao, có sức hấp dẫn sẽ thu hút các công ty độc
lâp khác tham gia.
- Thứ ba: Tách chức năng công ích ra khỏi tập đoàn. Mục tiêu của các
tập đoàn là lợi nhuận tối đa, giao các chức năng công ích cho tập đoàn một
mặt sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh chung, mặt khác sẽ là “cái cớ” để lãnh
đạo doanh nghiệp lấy lý do nghĩa vụ công ích để bao biện các quyết định sai
lầm hoặc hiệu quả hoạt động thấp kém. Mặc dù Chính phủ có những mục tiêu
chính trị xã hội nhất định khi thành lập các TĐKT nhƣng các nhà quản lý, bản
thân các TĐKT cần tập trung vào các biện pháp nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
- Thứ tƣ: Mở rộng diện các doanh nghiệp tiến hành CPH và đẩy nhanh
tiến trình này. CPH một mặt giúp cho mỗi doanh nghiệp thành viên và cả tập đoàn
huy động nguồn vốn lớn trong bối cảnh thị trƣờng chứng khoán phát triển mạnh
từ giữa năm 2006 đến nay. Mặt khác, tiến hành CPH nhƣ một biện pháp hiệu quả
để xác định chính xác thực lực của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tiến hành
79
CPH cần lựa chọn nhà đầu tƣ chiến lƣợc theo hƣớng tìm kiếm các đối tác có kinh
nghiệm, có tiềm lực tài chính và không giới hạn quốc tịch.
- Thứ năm: Minh bạch hoá các thông tin liên quan, nhất là thị trƣờng về
vốn và tài sản. Việc tiếp cận với các số liệu cơ bản nêu trên hiện nay rất khó
khăn và không cập nhật không chỉ với giới nghiên cứu mà cả đối với cơ quan
quản lý nhà nƣớc và nhà đầu tƣ. Trƣớc mắt, các tập đoàn cần công bố thông
tin trên trang thông tin điện tử (website) chính thức của mình và sau đó là
những thông cáo chính thức truyền tải trên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng, để một mặt tăng cƣờng thông tin phân phối, mức độ giám sát của
những ngƣời quan tâm, mặt khác cung cấp thông tin đầy đủ (trƣớc hết là cáo
bạch tài chính) nhằm thu hút các nhà đầu tƣ, nhất là các nhà đầu tƣ chiến lƣợc
nƣớc ngoài. Song song với quá trình này là áp dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế thay vì các chuẩn mực kế toán hiện nay.
- Thứ sáu: Nâng cao năng lực quản trị của mỗi doanh nghiệp thành viên
cũng nhƣ toàn tập đoàn. Với quy mô ngày càng lớn, không ngừng mở rộng
lĩnh vực hoạt động và thị trƣờng, các tập đoàn thí điểm cần áp dụng phƣơng
pháp quản trị hiện đại dựa trên cơ sở khoa học với những quy định cụ thể về
quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi bộ phận trong tổ chức thay vì
quản trị truyền thống nhƣ hiện nay (kết hợp giữa quản trị mệnh lệnh hành chính và
quản trị theo sự thuận tiện dựa trên niềm tin cá nhân và quyền lực tổ chức). Nâng
cao năng lực quản trị không phải là việc áp dụng các bộ tiêu chuẩn nhƣ ISO hay
các chứng chỉ chất lƣợng mà ngƣợc lại, các tiêu chuẩn hay chứng chỉ nêu trên là
kết quả của phƣơng pháp quản trị hiện đại. Vì vậy, nâng cao năng lực quản trị
trƣớc hết cần thay đổi về tƣ duy, về phong cách làm việc, cần xây dựng quy chế
hoạt động nội bộ và cơ cấu tổ chức khoa học cho mỗi khâu, mỗi bộ phận trong
quy trình sản xuất và mỗi mắt xích trong cơ cấu tổ chức.
- Thứ bảy: Xây dựng mối quan hệ giữa đội ngũ quản lý cấp cao. Các
TĐKT cần lƣu ý đến mối quan hệ này bởi HĐQT hiện nay chỉ là những “đại
diện” và họ đƣợc bổ nhiệm theo một quy trình gần giống với bổ nhiệm công chức.
Xây dựng và nâng cao vai trò của giám đốc tài chính. Các tập đoàn thí
điểm hiện nay chỉ có kế toán trƣởng, chƣa có giám đốc tài chính. Nếu nhƣ kế
toán trƣởng chủ yếu thực hiện nghiệp vụ thì giám đốc tài chính cần có tầm
80
nhìn, chiến lƣợc, đƣa ra các phƣơng án đầu tƣ, lựa chọn lĩnh vực đầu tƣ chiến
lƣợc...Sự thành công của các tập đoàn hàng đầu cho thấy vai trò rất quan
trọng của giám đốc tài chính bên cạnh giám đốc điều hành và HĐQT. Hiện
tại, thị trƣờng nhân lực cấp cao có đủ đội ngũ giám đốc tài chính, có thể đảm
đƣơng đƣợc các yêu cầu của các tập đoàn hiện nay nhƣng nguồn nhân lực này
chủ yếu làm việc cho các tập đoàn nƣớc ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.
Để có chiến lƣợc tài chính phù hợp với các chiến lƣợc kinh doanh khác, các
tập đoàn hiện nay cần có những biện pháp cụ thể để thu hút các nhà quản lý
cấp cao này bằng nhiều biện pháp khác nhau nhƣ chế độ lƣơng, thƣởng...
- Thứ tám: Tuyên truyền, phổ biến bằng nhiều hình thức nhằm thống
nhất nhận thức về TĐKT, từ tên gọi, phƣơng thức hình thành đến địa vị pháp
lý, cơ cấu tổ chức...Vấn đề không nằm ở tên gọi, các TCT đổi tên thành tập
đoàn không đồng nghĩa với việc hoạt động hiệu quả hơn, quy mô lớn hơn,
“oai” hơn mà là liệu mô hình mới đã thực sự hoạt động nhƣ một tập đoàn hay
chƣa. Về tên gọi CTM - tập đoàn có thể gây nhầm lẫn giữa tập đoàn theo định
nghĩa và tập đoàn tên doanh nghiệp, do đó mỗi tập đoàn cần có những quy
định cụ thể việc sử dụng thuật ngữ này trong các trƣờng hợp khác nhau, nhất
là các hoạt động liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài.
- Thứ chín: Rà soát và giảm bớt các DNNN thành viên giữ cổ phần trên
50% bởi cách thức này một mặt không hấp dẫn các nhà đầu tƣ, nhất là các nhà
đầu tƣ chiến lƣợc, mặt khác hình thức tổ chức này hiện nay còn đang có
những vƣớng mắc pháp lý trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, nhiều DNNN
giữ cổ phần trên 50% không cần thiết, trong khi Nhà nƣớc rất cần vốn để đầu
tƣ phát triển các lĩnh vực khác quan trọng hơn.
- Thứ mƣời: Đa dạng hoá ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Mặc dù
đa dạng hoá kinh doanh là đặc trƣng của các tập đoàn truyền thống nhƣng
trong điều kiện Việt Nam và thực trạng của các tập đoàn đang thí điểm, nếu
quá trình đa dạng hoá vƣợt quá năng lực quản lý và tầm kiểm soát sẽ dẫn đến
những rủi ro về tài chính cho mỗi tập đoàn và cho cả nền kinh tế, trong khi đó
ngành kinh doanh chính không đƣợc đầu tƣ phát triển (khắc phục tình trạng
nhƣ điện lực, đầu tƣ phát triển sang lĩnh vực viến thông nhƣng chất lƣợng
81
dịch vụ không tốt, trong khi luôn kêu thiếu vốn và liên tục đề xuất tăng giá
điện).
- Thứ mƣời một: Tổng kết, rút kinh nghiệm về mô hình và kết quả hoạt
động. Chính phủ có thể giao cho bộ phận giúp việc (hoặc tổ công tác) theo
dõi, đánh giá những ƣu, nhƣợc của mô hình. Thay vì những nhận xét, đánh
giá chung chung qua các cuộc hội thảo, hội nghị, cần có những nghiên cứu
sâu trên từng nội dung theo chuyên đề nhƣ vấn đề sở hữu, mối quan hệ CTM -
CTC, cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu...Qua từng nội dung, nhóm công tác
sẽ tổng hợp, rút ra những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế, vƣớng mắc và
nguyên nhân, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Phƣơng pháp tổng kết cũng cần kết hợp giữa các báo cáo của các tập đoàn và
kết quả nghiên cứu, khảo sát độc lập của các chuyên gia để đảm bảo tính
khách quan.
3.2.5. Nhóm giải pháp nhằm tạo lập môi trường, điều kiện cho các tập đoàn
kinh tế ra đời và phát triển
- Thứ nhất, ổn định môi trƣờng kinh tế vĩ mô và môi trƣờng chính trị xã hội.
ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh
doanh của các TĐKT. Việc giá cả thay đổi thất thƣờng, tỷ giá tăng mạnh hoặc
giảm mạnh sẽ làm cho chủ đầu tƣ không tính toán đƣợc lỗ lãi. Chỉ trong môi
trƣờng kinh tế vĩ mô ổn định, các tập đoàn kinh tế mới có thể tiến hành kinh
doanh một cách lành mạnh, thực hiện hạch toán đầy đủ và đảm bảo những kết
quả kinh doanh không bị hóp méo do sự biến động của thị trƣờng. Việc ổn
định nền kinh tế vĩ mô tránh cho nền kinh tế khỏi những khủng hoảng dẫn đến
tàn phá nền kinh tế, tạo ra sự tin tƣởng của các nhà kinh doanh vào tƣơng lai.
Để thực hiện điều đó, Nhà nƣớc cần chú trọng đến những nội dung sau:
- Gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tƣ cho phát triển.
- Duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách Nhà nƣớc nhằm kiểm
soát lạm phát.
- Duy trì sự cân đối trong cán cân thƣơng mại bằng một tỷ giá hối đoái
hợp lý.
- Bảo đảm sự cân đối giữa tích lũy và đầu tƣ, tránh sự lệ thuộc vào nƣớc ngoài.
82
- Đẩy lùi các tệ nạn tiêu cực nhƣ: nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu
và gian lận thƣơng mại.
Sự ổn định về chính trị - xã hội tạo ra môi trƣờng thuận lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các TĐKT
đƣợc đảm bảo an toàn về đầu tƣ, quyền sở hữu và các loại tài sản khác, do đó
họ sẵn sàng đầu tƣ những khoản tiền lớn và thực hiện các dự án dài hạn. Nhà
nƣớc đảm bảo sự ổn định về xã hội có nghĩa là Nhà nƣớc giải quyết các vấn
đề xã hội theo hƣớng tích cực, cho phép các tổ chức kinh doanh có điều kiện
hoạt động có hiệu quả hơn. Những vấn đề xã hội đó bao gồm: vấn đề về dân
số, vấn đề việc làm, dân chủ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ
các tệ nạn xã hội, đạo đức kinh doanh, bảo vệ môi trƣờng, cung ứng các dịch
vụ về y tế, giáo dục và pháp luật. Các giá trị chung của xã hội, các tập tục
truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tƣ tƣởng tôn giáo, vấn đề cơ cấu
dân số, thu nhập của dân cƣ cũng là những yếu tố xã hội có tác động nhiều
mặt đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh.
- Thứ hai, xây dựng chiến lƣợc và chính sách phát triển kinh tế đồng bộ
và nhất quán.
Việc xác định chiến lƣợc tổng thể và chiến lƣợc ngành có tác động
quan trọng đến việc xây dựng các TĐKT, đồng thời là cơ sở để các tập đoàn
này thực hiện đầu tƣ phát triển sản xuất. Xây dựng chiến lƣợc ngành cần đặt
trong mối quan hệ với chiến lƣợc tổng thể, phục vụ mục tiêu chung, tránh tình
trạng biệt lập, tách rời, quá nhiều ngành mũi nhọn...dẫn đến đầu tƣ phân tán,
giảm hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Trong các ngành đƣợc xác định là
chiến lƣợc, có tiềm lực, có lợi thế cạnh tranh, có hạ tầng kinh tế tốt sẽ khuyến
khích hình thành và phát triển các TĐKT nhằm khai thác các thế mạnh trên,
tạo nên những trụ cột của ngành và của cả nền kinh tế.
Việc xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách từ tổng thể
đến cụ thể cần dựa trên phƣơng pháp khoa học, có cơ sở khoa học, khắc phục
tƣ duy bao cấp theo kiểu năm sau cao hơn năm trƣớc, tránh bệnh thành tích và
tƣ duy chỉ tiêu, đạt chỉ tiêu bằng mọi cách, sau đó để lại những hậu quả khó
khắc phục. Các chỉ tiêu có thể công bố chính thức nhƣng không phải cách làm
nhƣ hiện nay: lấy biểu quyết của cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân
83
dân các cấp), bởi chỉ tiêu phải xây dựng trên các luận cứ khoa học và căn cứ
thực tiễn, là công việc của các nhà chiến lƣợc, các chuyên gia hoạch định
chính sách, các nhà khoa học, do đó chỉ tiêu không nên dựa vào “nghị quyết”
để thực hiện mà chỉ nên là số liệu tham khảo.
Xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch và chính sách cần đảm bảo
tính đồng bộ giữa các tổng thể và bộ phận, giữa các ngành khác nhau dựa trên
nguyên tắc công khai, minh bạch và ổn định bởi sự ổn định một mặt là căn cứ
để các TĐKT xây dựng các chiến lƣợc phát triển cho riêng mình, mặt khác
định hƣớng cho các TĐKT đầu tƣ, lựa chọn ngành, lĩnh vực phù hợp với mục
tiêu và chiến lƣợc của Nhà nƣớc. Nếu chiến lƣợc của tập đoàn phù hợp với
chiến lƣợc và hƣớng ƣu tiên của quốc gia thì sẽ nhận đƣợc những ƣu đãi nhất
định nhƣ đầu tƣ, vay vốn...Đảm bảo minh bạch và ổn định trong chiến lƣợc,
chính sách đảm bảo cho các TĐKT phát triển, tạo những lực lƣợng vật chất
quan trọng để Nhà nƣớc tác động trở lại nền kinh tế.
- Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế. Hoàn thiện thể chế kinh tế
không chỉ có tác động thúc đẩy phát triển TĐKT mà tác động toàn diện đến
sự phát triển nói chung. Xây dựng và hoàn thiện thể chế hỗ trợ phát triển các
TĐKT trƣớc hết cần tập trung giải quyết các mối quan hệ giữa Đảng và chính
quyền, quan hệ giữa công đoàn và lãnh đạo tập đoàn, về cơ chế uỷ quyền, cơ
chế đại diện, cơ chế trách nhiệm, giữa các nhóm lợi ích với nhau...theo hƣớng
quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của các bên, xác định mối quan hệ
trong những trƣờng hợp cụ thể.
Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế bằng nhiều biện pháp,
trong đó cần tạo lập môi trƣờng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Không
quá nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nƣớc mà xem nhẹ các thành
phần kinh tế khác, cần xác định cụ thể chủ đạo là dẫn dắt, định hƣớng, mở
đƣờng và là điển hình của công nghệ mới, quản lý hiện đại, hiệu quả cao. Sự
lớn mạnh của các thành phần kinh tế sẽ tất yếu hình thành các TĐKT ngoài
quốc doanh, nói cách khác, Nhà nƣớc chỉ là một cổ đông trong rất nhiều cổ
đông khác và tham gia với tƣ cách là nhà đầu tƣ. Sự phát triển của các thành
phần kinh tế cũng sẽ tạo những liên kết kinh tế bền chặt hơn, những mối quan
hệ đan xen - là tiền đề hình thành những tập đoàn trong tƣơng lai. Mặc dù đại
84
diện cho sức mạnh kinh tế quốc gia nhƣng các TĐKT không thể tồn tại và
phát triển độc lập, nó cần hợp tác, liên kết với các loại hình doanh nghiệp
khác, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhƣ vậy, sự phát triển mạnh
của các khu vực kinh tế ngoài Nhà nƣớc cũng là một yếu tố thúc đẩy hình
thành và phát triển các TĐKT.
Thứ tƣ, phát triển đồng bộ các loại thị trƣờng. loại thị trƣờng: thị
trƣờng vốn, thị trƣờng lao động, thị trƣờng bất động sản, thị trƣờng vật tƣ, thị
trƣờng công nghệ...Để tạo điều kiện cho sự hình thành các TĐKT, cần đặc
biệt chú trọng đến các thị trƣờng nhƣ thị trƣờng chứng khoán, thị trƣờng lao
động, thị trƣờng công nghệ, thị trƣờng bất động sản.
Thứ năm, phát triển kinh tế đối ngoại. Trƣớc mắt, phát triển kinh tế đối
ngoại cần thực hiện nghiêm túc những cam kết gia nhập WTO trên từng lĩnh
cực cụ thể, với từng đối tác, sau nữa là sửa đồi hệ thống luật lệ phù hợp với
định chế của WTO. Trong nền sản xuất quốc tế hóa cao độ và phân công lao
động mang tính toàn cầu, các TĐKT Việt Nam không thể tách rời quá trình
này. Do đó, Nhà nƣớc cần có những biện pháp và chính sách mang tính hỗ trợ
sự hợp tác, liên kết, tạo thuận lợi cho luân chuyển các yếu tố đầu vào nhƣ
vốn, lao động, kỹ thuật...Với nền tảng chính sách phù hợp, các TĐKT trong
nƣớc và các công ty đa quốc gia sẽ xuất hiện nhu cầu hợp tác, tạo cơ hội cho
các tập đoàn của Việt Nam tham gia thị trƣờng thế giới.
Thứ sáu, xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển. Xây dựng và phát
triển đồng bộ các kết cấu hạ tầng cứng (nhƣ giao thông, thủy lợi, sân bay, bến
cảng...) và hạ tầng kinh tế mềm (nhƣ thông tin, dịch vụ ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm...). Phát triển kết cấu hạ tầng trong giai đoạn hiện nay có thể kết hợp
cả hai biện pháp sau:
+ Nhà nƣớc trực tiếp xây dựng các cơ sở hạ tầng thông qua vốn đầu tƣ
từ ngân sách hoặc vốn vay.
+ Nhà nƣớc khuyến khích sự tham gia của tƣ nhân, của các thành phần
kinh tế ngoài Nhà nƣớc, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia đầu tƣ lĩnh vực
này bằng nhiều hình thức nhƣ BOT, BT, BOO...với những quy định cụ thể.
85
Trong phát triển kết cấu hạ tầng, cần chú trọng đến sự phát triển nhanh
của hạ tầng mềm trên thế giới thông qua việc ứng dụng những sản phẩm công
nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin.
3.2.6. Nhóm giải pháp về chính sách
- Thứ nhất: xây dựng chính sách khuyến khích hợp tác, tạo các kiên kết
giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhằm tạo tiền đề cho hình
thành và phát triển các TĐKT. Xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia, các
doanh nghiệp sẽ tự nguyện liên kết để đạt mục tiêu, công việc của Nhà nƣớc
không phải xác lập mối quan hệ theo kiểu thu gom, lên danh sách các công ty
nhƣ trƣớc đây mà hƣớng vào xây dựng các quy định điều chỉnh các liên kết.
Các quy định về liên kết nội bộ TCT, TĐKT và liên kết giữa các thực thể nêu
trên với các pháp nhân ngoài tập đoàn.
Ngoài ra cần thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung và các công ty
trong tập đoàn nói riêng. Kiên quyết thực hiện lộ trình CPH 71 TCTNN,
TĐKT giai đoạn 2007-2010 đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ban hành
kèm theo Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006. Song song với tiến trình
CPH, cần quy định tỷ lệ tham gia của nhà đầu tƣ, nhất là các nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài, khắc phục tình trạng các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài hiện nay ít có cơ hội tham
gia vào các lĩnh vực tiềm năng nhƣ bƣu chính viễn thông, ngân hàng.
- Thứ hai: Chính sách tăng cƣờng kiểm soát trong các TĐKT theo
hƣớng áp dụng các biện pháp kiểm soát nội bộ chặt chẽ dựa trên nền tảng
quản trị khoa học. Một trong những biện pháp lành mạnh hóa hoạt động của
các DNNN, các TCTNN tiến tới xây dựng mô hình tập đoàn cần tăng cƣờng
kiểm soát, trong đó có kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát nội bộ công ty.
+ Kiểm soát từ bên ngoài thông qua việc thu hút các nhà đầu tƣ. Các
nhà đầu tƣ sẽ bầu đại diện của họ tham gia vào HĐQT nhƣng họ sẽ có cách
kiểm soát từ bên ngoài để không làm giảm giá trị của công ty, không làm mất
giá trị nguồn vốn mà họ đã đầu tƣ.
+ Kiểm soát nội bộ công ty có thể đƣợc tiến hành bằng việc thuê các cơ
quan kiểm toán độc lập báo cáo kết quả định kỳ về tình hình hoạt động của
mỗi doanh nghiệp thành viên cũng nhƣ toàn tập đoàn. Trong trƣờng hợp tập
đoàn đa sở hữu, kiểm toán độc lập có thể báo cáo với cơ quan chính quyền, cơ
86
quan quản lý vốn, HĐQT hoặc các nhà đầu tƣ nhằm lành mạnh hóa tình hình
tài chính. Mặt khác chủ SHNN tại CTM kiểm soát thông qua việc hoàn thành
kế hoạch đƣợc phê duyệt của các bộ phận, các đơn vị thành viên. Các bộ phận
xây dựng kế hoạch, trình đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Sau khi đƣợc phê
duyệt, các đơn vị phải bảo đảm thực hiện các nội dung đã xây dựng và kết quả
hoạt động sẽ đƣợc tổng hợp vào các năm tài khóa.
- Thứ ba: Về chính sách đầu tƣ, tiếp tục hoàn thiện các quy định liên
quan đến đầu tƣ ra bên ngoài của các tập đoàn (ngoài tập đoàn, ngoài nƣớc).
Khuyến khích các mối liên kết giữa các tập đoàn với nhau, giữa tập đoàn với
các công ty độc lập, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hiện
nay, mỗi tập đoàn, dù có quy mô lớn nhƣng rất cần hệ thống doanh nghiệp vệ
tinh nhằm tăng cƣờng phân công, chuyên môn hóa, đồng thời xây dựng mạng
lƣới tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy các chính sách thúc đẩy các mối quan hệ nêu
trên một mặt thúc đẩy phát triển của bản thân các tập đoàn, mặt khác góp
phần phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên các chính sách cần
chú ý đến giới hạn việc đa dạng hóa ngành nghề, lĩnh vực hoạt động. Mặc dù
chủ trƣơng phát triển tập đoàn theo hƣớng đa ngành, có ngành kinh doanh
chính nhƣng trong điều kiện hiện nay, cả về quy mô vốn, kinh nghiệm thƣơng
trƣờng, năng lực quản trị của các tập đoàn chƣa cho phép mở rộng quy mô,
lĩnh vực với bất kỳ giá nào. Việc mở rộng quy mô, ngành nghề, lĩnh vực mới
cần đƣợc mỗi tập đoàn tính toán, cân nhắc và chủ sở hữu cần có quy định cụ
thể, rõ ràng.
- Thứ tƣ: Kiểm soát độc quyền. Một trong những lo ngại lớn nhất của
các nhà thực thi chính sách là kiểm soát độc quyền trong các TĐKT. Để kiểm
soát độc quyền trong mô hình này, cần thực hiện song song hai nội dung :
+ Thúc đẩy cạnh tranh. Thúc đẩy cạnh tranh bằng nhiều biện pháp khác
nhau nhƣ xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các tập đoàn tƣ nhân phát triển, đa dạng
hóa sở hữu trong mỗi tập đoàn, quy định cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham
gia vào các lĩnh vực đã thành lập TĐKT. Cần tách riêng hạ tầng trong các
ngành độc quyền ra khỏi tập đoàn, thành lập một công ty quản lý phần hạ tầng
nhƣ trục trong lĩnh vực viên thông. Điều này sẽ thu hút các thành phần kinh
87
tế, các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc tham gia khai thác đƣờng trục và cạnh
tranh bình đẳng với các doanh nghiệp của VNPT.
+ Hoàn thiện hệ thống luật pháp, quy định về độc quyền: Sửa đổi Luật
Cạnh tranh theo hƣớng quy định rõ hơn về các hành vi độc quyền. Quy định
hiện nay liệt kê 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh, không bao quát hết
các hành vi diễn ra trên thực tế, chẳng hạn việc VNPT dựa vào vị thế nắm giữ
đƣờng trục, không đáp ứng đủ nhu cầu kết nối cho Viettel rõ ràng là một hành
vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng không nẳm trong 9 hành vi đƣợc liệt kê
trong luật canh tranh nên không thể khởi kiện theo Luật Cạnh tranh.
3.2.7. Nhóm giải pháp về cơ cấu tổ chức tập đoàn kinh tế
Để Việt Nam sớm có những TĐKT thực thụ chúng ta cần chuyển
hƣớng liên kết theo kiểu hành chính, thu gom đầu mối của TCTNN sang liên
kết bằng tài chính phù hợp với mối quan hệ CTM - CTC. Để thực hiện đƣợc
điều này cần ban hành Nghị định về tổ chức, chuyển đổi TCT, DNNN theo
mô hình CTM - CTC để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý
hoạt động theo mô hình trên. Trong đó CTM là một DNNN có thể đƣợc tổ
chức dƣới hình thức công ty Nhà nƣớc, công ty cổ phần, công ty TNHH.
CTM có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh mà chỉ thực hiện hoạt động quản lý và kinh doanh vốn ở các CTC.
Đồng thời, tùy theo tính đa dạng về ngành nghề hoạt động cùng số lƣợng và
loại hình doanh nghiệp thành viên tập đoàn, CTM có thể trực tiếp chi phối các
CTC hoặc chi phối thông qua công ty đầu tƣ tài chính của tập đoàn.
Xây dựng cơ cấu quản lý của TĐKT bao gồm Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Bộ máy điều hành, giám đốc các đơn vị thành viên.
HĐQT là cơ quan quản lý của TĐKT, gồm các chủ sở hữu hoặc đại
diện chủ sở hữu (đối với DNNN) chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật và chủ sở
hữu về phát triển vốn, về sự phát triển của toàn tập đoàn và về việc thực hiện
các nhiệm vụ đƣợc giao. HĐQT sẽ quyết định các vấn đề lớn và quan trọng
nhƣ: chiến lƣợc phát triển, phƣớng án sản xuất kinh doanh, điều hòa và quản
lý vốn, lựa chọn và quyết định tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành
88
viên. Thành viên Hội đồng quản trị có thể đƣợc cử làm chủ tịch Hội đồng
quản trị cổ phần - con (hoặc cháu).
Ban kiểm soát có thể nằm trong hoặc ở ngoài HĐQT, có nhiệm vụ
kiểm tra giám sát hoạt động của tập đoàn và sự điều hành của bộ máy điều
hành trong việc chấp hành pháp luật, nghị quyết của HĐQT.
Bộ máy điều hành gồm Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và bộ
máy giúp việc. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của TĐKT, là ngƣời xây
dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, là ngƣời điều hành. Các phó
tổng giám đốc do Tổng giám đốc và HĐQT bổ nhiệm. Bộ máy giúp việc do
Tổng giám đốc lựa chọn và quyết định sau khi đƣợc sự chấp thuận của
HĐQT.
3.2.8. Giải pháp về cán bộ quản lý và người lao động trong tập đoàn
Hiệu quả hoạt động của các TĐKT phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ quản lý. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động các
TĐKT cần tập trung xây dựng chiến lƣợc đào tạo các nhà quản lý, từng bƣớc
hình thành đội ngũ các nhà quản lý giỏi, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu
quản lý và điều hành công ty lớn trong nền kinh tế thị trƣờng. Có chƣơng
trình, kế hoạch cụ thể đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giám đốc và thành viên
HĐQT hiện nay. Các TĐKT cần liên kết với các trƣờng đại học trong và ngoài
nƣớc, các cơ sở đào tạo, chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo đan xen ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn với các cán bộ quản lý. Đồng thời cần có kế hoạch
cụ thể đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kế cận. Thƣờng xuyên phân loại, đánh
giá đội ngũ cán bộ quản lý TĐKT, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng quy
hoạch và đào tạo, bố trí cán bộ một cách chủ động. Thực hiện chế độ phân
cấp cán bộ quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thƣởng, kỷ luật đối với lãnh
đạo TĐKT.
Ngoài ra, các TĐKT cần có cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong tuyển
dụng doanh nhân nhằm một mặt tạo cơ hội cho những ngƣời có năng lực, có
trình độ và mong muốn trở thành các nhà quản lý chuyên nghiệp, mặt khác
tạo áp lực đối với các nhà quản lý hiện thời.
Đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động
trong các tập đoàn với nhiều hình thức đào tạo: tập trung, tại chức, tập
89
huấn...Có chính sách khuyến khích đối với đội ngũ lao động có tay nghề cao,
trình độ chuyên môn giỏi, đóng góp nhiều cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các TĐKT. Bên cạnh đó là việc tiến hành rà soát mức lao động dựa trên
yêu cầu công việc, đảm bảo giờ công, ngày công theo luật định. Việc đào tạo
nguồn nhân lực là công việc của cả Nhà nƣớc và doanh nghiệp bởi các
chƣơng trình đào tạo của các trƣờng dạy nghề thƣờng có nhiều khác biệt so
với ngành nghề mà ngƣời lao động làm việc sau này. Việc đào tạo tại doanh
nghiệp cần căn cứ vào mục tiêu phát triển, công việc cụ thể và số lƣợng lao
động cần đào tạo. Cần phân loại lao động theo kỹ năng và theo công việc
nhằm thiết kế các khóa đào tạo phù hợp.
Mặt khác, thay đổi cách thức trả lƣơng hiện nay, trƣớc hết đối với đội
ngũ chuyên gia, các cán bộ quản lý có năng lực, sau đó là toàn thế ngƣời lao
động. Đồng thời cần thực hiện những biện pháp ƣu đãi vật chất, các chế độ an
sinh xã hội để đội ngũ cán bộ quản lý và ngƣời lao động yên tâm làm việc.
Khắc phục tình trạng nguồn nhân lực chất lƣợng cao đang chuyển dần sang
làm việc cho các công ty nƣớc ngoài, hiện tƣợng chảy máu chất xám đang
diễn ra nhƣ ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng trong thời gian qua.
Riêng đối với ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc tại tập đoàn cần xây
dựng cơ chế khuyến khích gắn với trách nhiệm nhằm đảm bảo đƣợc mục tiêu
của Nhà nƣớc cũng nhƣ sự phát triển của tập đoàn. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy cần sử dụng cơ chế khuyến khích bên trong, xử lý mối quan hệ giữa đại
diện chủ SHNN với HĐQT, giữa HĐQT với ngƣời quản lý nhằm đạt đƣợc
các mục tiêu của chủ sở hữu. Mặc dù quy trình đề cử - bổ nhiệm đƣợc quy
định khá chặt chẽ nhƣng để họ phát huy hết năng lực vì sự phát triển chung
thì cần xây dựng cơ chế để những ngƣời này thấy có lợi khi gắn bó với tập
đoàn. Nhiều biện pháp có thể áp dụng nhƣng trƣớc hết cần tập trung vào hai
biện pháp chủ yếu mà các tập đoàn thuộc SHNN trên thế giới đã áp dụng là
quyền mua cổ phiếu và quỹ khen thƣởng.
90
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định việc hình thành và phát triển các TĐKT là một thành
tựu to lớn của Việt Nam trong công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và
cải cách các doanh nghiệp Nhà nƣớc nói riêng. Các TĐKT này đã khắc phục
đƣợc những hạn chế của các DNNN riêng lẻ trƣớc đây nhƣ hạn chế về vốn, về
quy mô, về công nghệ, về thị trƣờng...để không ngừng lớn mạnh và khẳng
định đƣợc vị trí trụ cột của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các TĐKT này
hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhƣ
dầu khí, điện lực, khoáng sản...đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của
Việt Nam trên trƣờng quốc tế đồng thời là trung gian quan trọng để Chính
phủ quản lý các DNNN và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên,
mô hình này vẫn tồn tại những vấn đề cần khắc phục đặc biệt là tình trạng độc
quyền hay kinh doanh kém hiệu quả của một lƣợng lớn các TĐKT.
Trong phạm vi bài khóa luận này em đã tập trung nghiên cứu và phân
tích, làm rõ tính tất yếu khách quan, điều kiện, con đƣờng hình thành và phát
triển các TĐKT trong nền kinh tế thị trƣờng của Việt Nam. Đồng thời, phân
tích rõ vai trò của chúng trong phạm vi nền kinh tế quốc dân và trên bình diện
thế giới.
Bên cạnh đó, khóa luận lựa chọn phân tích thực trạng các TCT 91 (bao
gồm cả các TĐKT thí điểm) bởi chúng là mô hình bộc lộ đầy đủ nhất những
đặc điểm của một tập đoàn thực thụ. Qua nghiên cứu thực trạng ở nhiều góc
độ phân tích khác nhau nhƣ sản xuất kinh doanh, các quan hệ liên kết, cơ chế,
chính sách...khóa luận rút ra những kết quả ban đầu cũng nhƣ những mặt còn
hạn của mô hình này, từ đó đề xuất một số biện pháp để phát triển mô này
trong thời gian tới.
Em hy vọng rằng khóa luận này sẽ đem lại cho thày cô và các bạn cùng
quan tâm đến đề tài này những thông tin thú vị, bổ ích.
91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TĐKT Tập đoàn kinh tế
TĐDN Tập đoàn doanh nghiệp
CTM Công ty mẹ
CTC Công ty con
SHNN Sở hữu Nhà nƣớc
CNH Công nghiệp hóa
HĐH Hiện đại hóa
DN Doanh nghiệp
XHCN Xã hội chủ nghĩa
LHXN Liên hiệp xí nghiệp
DNNN Doanh nghiệp Nhà nƣớc
TCT Tổng công ty
CPH Cổ phần hóa
HĐQT Hội đồng quản trị
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia
2. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2003), Báo cáo
đẩy mạnh thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2003-2005, Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2007), “Tập đoàn : Tổ chức và điều hành”,
Thời báo kinh tế Sài Gòn, 34, tr 11-12).
4. Bộ Kế hoạch Đầu tƣ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
Ƣơng - Australian Government, AusAID (2005), Hội thảo khái niệm quốc tế
về tập đoàn kinh tế, Hà Nội 24 - 25/2/2005.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Viện nghiên cứu QLKTTW (2006), Hội
thảo về nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 153/2004/NĐ-CP, Hà Nội
29/11/2006.
6. Bộ Tài chính (2007), Công văn số 9520/BTC-TCDN ngày
14/2/2007 về việc xếp loại doanh nghiệp Nhà nƣớc năm 2005 gửi Thủ tƣớng
Chính phủ, Hà Nội.
7. Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính (2006), Tổng hợp số
liệu về các TCTNN giai đoạn 2000-2005, Hà Nội.
8. Công Văn Dị (2005), “Liên kết kinh tế trong công ty mẹ-công ty
con ở nƣớc ta: vấn đề và giải pháp”, Nghiên cứu kinh tế, tr.13-22.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy,
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VII, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
?topic=191&subtopic=9&leader_topic=550&id=BT2880635167.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tƣ,
Ban chấp hành Trung ƣơng khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đaị hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
93
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết hội nghị lần thứ ba
Ban chấp hành Trung ƣơng khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện hội nghị lần thứ chín
Ban chấp hành Trung ƣơng khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Tấn Đức (2007), “Số lƣợng doanh nghiệp tăng nhƣng hiệu quả
giảm”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 14/2007, tr.24 - 25.
17. http:// bwnt.businessweek.com/brand/2006/
18.
19. Phạm Quang Huấn (2007), “Thi hành Luật Doanh nghiệp
chung”, Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2006-2007 Việt Nam và Thế
giới, tr.27-31.
20. Võ Văn Kiệt (2007), “Thận trọng với việc thành lập các tập đoàn
kinh tế”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 31/2007, tr.12 -13.
21. Hà Linh (2005), “Alan G.Lafley - Sự trỗi dậycủa tập đoàn
P&G”, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 250, ngày 16/12/2005, tr.15.
22. Hà Linh (2006), “Indra Nooyi – Nữ thuyền trƣởng mới của tập
đoàn PepsiCo”, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 180, ngày 8/9/2006, tr.3.
23. Phạm Chí Quang – Võ Trí Thanh (2003), “Tổng công ty nhà
nƣớc - Đánh giá từ quan điểm kinh tế phát triển”. Nghiên cứu kinh tế, 296,
tr.3 - 24.
24. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005),
Luật Doanh nghiệp năm 2005, NXB Thống kê, Hà Nội.
25. Tạp chí Fortune, số ngày 17/4/2006.
26. Thủ tƣớng Chính phủ (2005), Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg
ngày 26/12/2005 về việc Thành lập Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản
Việt Nam, Hà Nội.
27. Thủ tƣớng Chính phủ (2005), Quyết định số 58/2005/QĐ-TTg
ngày 23/3/2005 về việc phê duyệt đề án thí điểm hình thành tập đoàn Bƣu
chính Viễn thông Việt Nam, Hà Nội.
94
28. Thủ tƣớng Chính phủ (2006), Quyết định số 148/2006/QĐ-TTg
ngày 22/6/2006 về việc thành lập công ty mẹ-Tập đoàn điện lực Việt Nam,
Hà Nội.
29. Thủ tƣớng Chính phủ (2006), Quyết định số 158/2006/QĐ-TTg
ngày 3/7/2006 Phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mẹ -Tập
đoàn Dệt May Việt Nam, Hà Nội.
30. Từ điển bách khoa toàn thƣ Việt Nam,
NyZncm91cGLkPSZraW5kWV4YWNOJmtleXdvcmQ9VCIMSViYSVhY1
ArJWWMOJTKwTyVjMyU4ME4rSOIOSCtETOFOSA==&page==1).
31. Vũ Huy Từ (2002), Mô hình tập đoàn kinh tế trong CNH, HĐH,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4845_9686.pdf