Đề tài Mối liên hệ giữa dân số và môi trường

Bùng nổ dân số không chỉ tạo nên áp lực đối với nguồn tài nguyên mà còn là khâu liên kết dẫn tới các quá trình khai thác làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên đó. Quan điểm về mối quan hệ tương hỗ giữa dân số và điều kiện môi trường là mối quan hệ phức tạp, đa dạng và chứa đựng nhiều biến số. Môi trường là vấn đề quan trọng có tính quyết định trong sự phát triển và tiến hoá của nhân loại. Trong mối quan hệ biện chứng giữa dân số và sự phát triển, không thể tách rời vấn đề môi trường. Dân số tăng, kinh tế phát triển làm tăng mức sống, đồng thời làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, mất đất đai, mất rừng, sa mạc hoá là hậu quả của gia tăng dân số. Báo cáo của UNICEF đã viết: "Sự tăng trưởng dân số thế giới đã làm tăng thêm sự nghiêm trọng cho khả năng bảo vệ cuộc sống của hành tinh chúng ta".

doc30 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 15083 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối liên hệ giữa dân số và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18 triệu người, chiếm 0,018% dân số toàn thế giới). Sự gia tăng dân số thế giới sẽ diễn ra chủ yếu tại các nước ít phát triển hơn. Dân số của các nước này sẽ tăng từ 5,4 tỷ người trong năm 2007 lên 7,9 tỷ trong năm 2050. Dân số của các nước nghèo như Afghanistan, Burundi, Congo, Guinea- Bissau, Liberia, Niger, Đông Timor và Uganda dự đoán sẽ tăng ít nhất 3 lần vào giữa thế kỷ này. Cứ 4 ngày thì thế giới bổ sung thêm 1 triệu người hay nói cách khác thì mỗi giây có 3 người chào đời. Chính sự gia tăng dân số làm ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm. Có khoảng 88 nước trên thế giới đang ở tình trạng nghèo đói, trong đó Châu Phi chiếm tới một nửa. 1.2.2. Gia tăng dân số của Việt Nam Việt Nam thuộc các nước đang phát triển, dân số gia tăng nhanh. Với sinh suất 3,8% và tử suất 1,7% như hiện nay thì tỉ lệ gia tăng dân số của nước ta là 2,1%/năm (1987). Với đà gia tăng này, khoảng năm 2030, dân số nước ta tăng gấp đôi con số hiện nay (77 triệu), để đạt tới con số 154 triệu người! Bảng 1.1: Tăng trưởng dân số Việt Nam (1921-2005) Năm Số dân (triệu người) Số dân tăng thêm sau 10 năm (triệu người) Tỷ lệ tăng dân số trung bình hằng năm trong kỳ (%) 1921 1931 1941 1951 1955 1965 1975 1985 1995 2005 15,5 17,7 20,9 23,1 25,1 35,0 47,6 59,9 72,0 83,1 - 2,2 3,2 2,2 9,9 12,6 12,3 12,1 11,1 - 1,33 1,66 1,00 3,32 3,07 2,29 1,96 1,37 II. TÁC ĐỘNG CỦA DÂN SỐ LÊN TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG 2.1. Mối tương quan giữa dân số, tài nguyên và môi trường 2.1.1. Công thức chung Công thức (1): mô tả mối quan hệ giữa tài nguyên và ô nhiễm môi trường như sau: (1) Rt = Ro . ekt Hoặc (2) Rt = Ro : Ro kt Trong đó: Rt: tài nguyên của loài người tại thời điểm t cần nghiên cứu – tính từ khi loài người xuất hiện. Ro: tài nguyên khi mới xuất hiện loài người. e: cơ số lg tự nhiên (e= 2,7183). t: thời gian loài người đã sử dụng tài nguyên. Khi t=0 có nghĩa là lúc mới xuất hiện loài người, lúc này (1) hoặc (2) sẽ có Rt = Ro đó là tính đúng đắn của công thức. k: hệ số tiết kiệm tài nguyên (3) k= P . F/ γ Trong đó: P: dân số trên hành tinh. Trong những điều kiện khác nhau nếu dân số càng đông thì tài nguyên còn lại của loài người càng ít (theo (1) và (2)). F: Mức độ ô nhiễm môi trường do con người sản sinh ra: + Khi mức độ ô nhiễm càng lớn thì F>1,0 + Khi môi trường trong lành thì F =1,0 Như vậy: F ≥ 1,0 γ: khả năng khai thác khoa học và tái tạo tài nguyên của con người. γ ≤ 1,0. γ = 1,0 khi con người biết khai thác tài nguyên một cách có khoa học và biết cách tái tạo tài nguyên. γ < 1,0 khi con người không biết cách tái tạo tài nguyên và khai thác tài nguyên không khoa học, không hợp lý. Công thức (2): Tác động môi trường của sự gia tăng dân số có thể mô tả bằng công thức đơn giản hơn như sau: I= C.P.E Trong đó: C: Sự gia tăng tiêu thụ tài nguyên trên đơn vị đầu người. P: Sự gia tăng tuyệt đối dân số thế giới. E: Sự gia tăng tác động đến môi trường của một đơn vị tài nguyên được loài người khai thác. I: Tác động môi trường của sự gia tăng dân số và các yếu tố liên quan đến dân số. Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở các khía cạnh: Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường Trái Đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp, v.v... Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức. Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn. 2.1.2. Tóm tắt các ảnh hưởng 2.1.2.1 Dân số lên tài nguyên Số lượng dân xác định nhu cầu tài nguyên, cách thụ, số lượng dùng. Các nhân tố dân số (trình độ xã hội, kinh tế của một nước) có ảnh hưởng lên việc sử dụng tài nguyên. Các nước công nghiệp có nhu cầu về tài nguyên phức tạp và có khuynh hướng sử dụng nhiều tài nguyên không thể tái tạo. Các nước đang phát triển sử dụng nhiều tài nguyên tái tạo được. Sự phân bố dân cư cũng ảnh hưởng lên sự cung cấp, khai thác và sử dụng tài nguyên. 2.1.2.2 Dân số lên ô nhiễm Dân số gây ra ô nhiễm qua việc khai thác và sử dụng tài nguyên. Ô nhiễm có thể xảy ra từ việc sử dụng một tài nguyên như là nơi chứa rác thải sinh hoạt và công nghiệp. Ngoài ra khai thác tài nguyên (than đá, dầu và khí) gây ra sự suy thoái môi trường. Khối lượng tài nguyên và cách thức khai thác và sử dụng chúng xác định khối lượng ô nhiễm. 2.1.2.3 Tài nguyên lên dân số Tác động dương. Khám phá và sử dụng tài nguyên mới (dầu, than) làm tăng dân số, cũng như sự phát triển xã hội, kinh tế, công nghệ. Tài nguyên cho phép con người di chuyển đến các nơi ở mới cũng như việc lấy và sử dụng tài nguyên trước đây không được dùng. Thêm vào đó sự phát triển tài nguyên tạo nhiều nơi ở trong các môi trường khó khăn. Tác động âm. Cạn kiệt tài nguyên làm giảm dân số và làm giảm sự phát triển xã hội, kinh tế, công nghệ. Suy thoái môi trường (ô nhiễm không khí) có thể làm giảm dân số hay tiêu diệt quần thể. 2.1.2.4 Tài nguyên lên ô nhiễm Khối lượng, cách thức khai thác và sử dụng tài nguyên có thể ảnh hưởng lên ô nhiễm. Càng khai thác và sử dụng nhiều tài nguyên thì càng gây nhiều ô nhiễm. Cạn kiệt tài nguyên có thể làm giảm ô nhiễm. 2.1.2.5 Ô nhiễm lên dân số Ô nhiễm có thể làm giảm dân số cũng như giảm sự phát triển xã hội, kinh tế và công nghệ. Ô nhiễm làm gia tăng tử vong và bệnh tật nên ảnh hưởng xấu lên kinh tế và xã hội. Ô nhiễm có thể làm thay đổi thái độ của con người từ đó làm thay đổi luật lệ, cách thức khai thác và sử dụng tài nguyên. 2.1.2.6 Ô nhiễm lên tài nguyên Ô nhiễm một môi trường có thể gây thiệt hại lên môi trường khác. Các luật mới nhằm làm giảm ô nhiễm có thể thay đổi sự cung cầu, khai thác và sử dụng tài nguyên. Nhìn chung, sự đông dân khiến người ta sử dụng nhiều tài nguyên hơn và làm suy thoái môi trường nhiều hơn. Chừng nào chúng ta chưa thay đổi cách sống, chưa ngừng hủy hoại môi sinh và các sinh vật khác thì sự sống sót và sự phát triển cuả chúng ta còn bị nhiều nguy cơ. Các thành phố và thị trấn càng phát triển thì càng phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên cũng như tác động môi trường - mà người ta thường gọi là “dấu chân sinh thái”. Dấu chân sinh thái của London, Vương quốc Anh rộng gấp 120 lần diện tích thành phố này. Một thành phố cỡ trung bình của Bắc Mỹ với số dân 650.000 người cần diện tích đất là 30.000 km2 để phục vụ các nhu cầu của thành phố. Trái lại, một thành phố có diện tích tương tự nhưng kém khả giả hơn ở Ấn Độ chỉ cần 2.800 km2. Từ 1950, tổng mức tiêu thụ nhiên liệu đã tăng 500%. Mức tiêu thụ nước tăng gấp đôi tính từ 1960 và công suất đánh bắt hải sản tăng gấp 4 lần. Một thành phố với 10 triệu dân, như Manila, Cairo hoặc Rio de Janeiro- mỗi ngày phải nhập ít nhất là 6.000 tấn thực phẩm. Hơn một nửa lượng nước ngọt khai thác cho con người được sử dụng để cung cấp cho các khu đô thị: công nghiệp, nước uống và sinh hoạt, hoặc tưới nước cho cây trồng. Có tới 65% lượng nước sử dụng để tưới bị thất thoát. Nhiệt độ không khí ở đô thị có thể nóng hơn các vùng nông thôn xung quanh tới 5oC một khi thảm che phủ đất tự nhiên bị thay thế bằng đường sá và các toà nhà. 2.2. Các tác động cụ thể 2.2.1. Cạn kiệt tài nguyên Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Tài nguyên thiên nhiên phân bố không đồng đều giữa các nơi trên Trái Đất và trên cùng một lãnh thổ có thể tồn tại nhiều loại tài nguyên, tạo ra sự ưu đãi của tự nhiên đối với từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia. Đại bộ phận các nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị kinh tế cao được hình thành qua quá trình lâu dài của tự nhiên và lịch sử. Trong khoa học môi trường, người ta chia tài nguyên thiên nhiên ra làm 2 loại: - Tài nguyên tái tạo (renewable resources) như là nước, đất, sinh vật… là loại tài nguyên mà sau một chu trình sử dụng sẽ trở lại dạng ban đầu, nó có thể tự duy trì và tự bổ sung nếu được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, các loại tài nguyên này có thể bị suy thoái nếu sử dụng và quản lý không hợp lý. - Tài nguyên không tái tạo (unrenewable resources) là dạng tài nguyên bị biến đổi và mất đi sau quá trình sử dụng. Tài nguyên không tái tạo thường giảm dần về số lượng sau quá trình khai thác của con người. Thí dụ như tài nguyên khoáng sản và nguồn gen con người là dạng tài nguyên không tái tạo được. Nhìn chung, tài nguyên là hữu hạn và phải biết khai thác sử dụng và bảo vệ một cách hợp lý. Vì dân số thế giới tiếp tục gia tăng, nhiều nguồn tài nguyên cần thiết cho sự sống còn của con người và hàng triệu sinh vật khác sẽ ít đi. Các nước đang phát triển thì sử dụng quá đáng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo được, trong khi các nước phát triển thì tiêu xài quá mức các nguồn tài nguyên không thể tái tạo được. Theo báo cáo của Quỹ Quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF), hiện nay con người tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của Trái Đất. Các vùng đất ngập nước, rừng, savan, cửa sông, ngư trường đánh bắt ven biển và các nơi cư trú khác tham gia vào chu trình khí, nước và chất dinh dưỡng cho tất cả sinh vật sống trên Trái Đất đang bị huỷ hoại. - Do nhu cầu của con người đối với lương thực, nước ngọt, gỗ, sợi và nhiên liệu, đất đai ngày càng bị khai thác cho nông nghiệp, trong 60 năm qua, diện tích được khai thác nhiều hơn cả thế kỷ 80 và 90 gộp lại. - Ước tính 24% diện tích bề mặt Trái Đất đang được canh tác. - Lượng nước bơm hút lên từ các sông và hồ đã tăng gấp đôi trong thời gian 40 năm qua. Con người hiện nay sử dụng 40-50% lượng nước ngọt có sẵn chảy ra từ đất liền. - Ít nhất một phần tư trữ lượng thuỷ sản đã bị khai thác quá mức. Tại một số nơi, sản lượng đánh bắt hiện thấp hơn 100 lần so với trước khi đánh bắt công nghiệp. Số lượng động vật sống trên cạn, nguồn nước và các loài sinh vật biển đã được con người sử dụng hết 40% từ năm 1970-2000. - Kể từ 1980, khoảng 35% các khu rừng ngập mặn đã biến mất, 20% các rạn san hô thế giới bị huỷ hoại và 20% khác bị suy thoái trầm trọng. - Sự tiêu thụ nguồn nhiên liệu liệu như than, khí và dầu lửa cũng tăng khoảng 700% từ năm 1961-2000. Một số tài nguyên điển hình bị cạn kiệt có thể kể ra như sau: 2.2.1.1. Cạn kiệt tài nguyên đất Đất là nguồn tài nguyên vô giá đang bị xâm hại nặng nề. Diện tích đất đai bình quân trên một đầu người ngày càng thu hẹp dần mà nguyên nhân cơ bản nhất chính là vấn đề tăng dân số một cách nhanh chóng trên toàn thế giới, trong đó các quốc gia đang phát triển và kém phát triển là có tỉ lệ tăng dân số mạnh mẽ nhất. Diện tích đất phân bố rất không đồng đều trên toàn thế giới: hiện nay, diện tích các thành phố trên thế giới chiếm 0,3% diện tích Trái Đất và 40% dân số thế giới. Diện tích trên Trái Đất với hơn 70% là đại dương còn lại là đất liền nhưng con người chỉ cư trú được với một diện tích chiếm 32% diện tích đất liền, mặt khác dân số lại phân bố không đồng đều ở các quốc gia. Các nước kém phát triển hoặc đang phát triển thì có mật độ dân số cao hơn nhiều so với các quốc gia phát triển. Số liệu của Liên hợp quốc cho thấy cứ mỗi phút trên phạm vi toàn cầu có khoảng 10 ha đất trở thành sa mạc. Diện tích đất canh tác trên đầu người giảm nhanh từ 0,5 ha/người xuống còn 0,2 ha/người và dự báo trong vòng 50 năm tới chỉ còn khoảng 0,14 ha/đầu người. Ở Việt Nam, số liệu thống kê cho thấy sự suy giảm đất canh tác, sự suy thoái chất lượng đất và sa mạc hoá cũng đang diễn ra với tốc độ nhanh. Xói mòn, rửa trôi, khô hạn, sạt lở, mặn hoá, phèn hoá, v.v. đang xảy ra phổ biến ở nhiều nơi đã làm cho khoảng 50% trong số 33 triệu ha đất tự nhiên được coi là “có vấn đề suy thoái”. Bảng 2.1. Suy giảm diện tích đất bình quân đầu người trên thế giới(ha/người) Năm tính 106 105 104 0 1650 1840 1930 1994 2010 Dân số (triệu) 0,125 1,0 5,0 200 545 1000 2000 5000 Diện tích (ha/ng) 12.104 15000 3000 75 27,5 15 7,5 3,0 1,88 Bảng 2.2. Sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam Năm Dân số (triệu người) Diện tích đất nông nghiệp (triệu ha) Bình quân đầu người (ha /người) 1940 1955 1975 1980 1985 1990 1995 20,2 25,1 47,6 53,7 59,7 65,7 74 5,2 4,7 5,6 7,0 6,8 7,1 7,0 0,26 0,19 0,12 0,13 0,11 0,105 0,095 2.2.1.2. Cạn kiệt tài nguyên nước Nước vừa là một nguồn tài nguyên thiết yếu đối với con người vừa là nguồn tài nguyên đặc biệt, sự phân bố của nó không hề tương ứng với những nhu cầu đang ngày càng tăng của con người. Trong tổng lượng nước của toàn thế giới, có tới 97% là nước mặn và trong số 3% nước ngọt có thể sử dụng, có tới 70% tồn tại dưới dạng băng ở hai vùng cực và tuyết trên những đỉnh núi cao. Nước ngọt có thể sử dụng chỉ chiếm 1% tổng lượng nước toàn cầu. Về mặt địa lí, sự phân bố của nước là không đồng đều. 15% lượng nước ngọt toàn cầu được giữ tại khu vực Amazon. Ngay trong khu vực Địa trung hải, các nước giàu về tài nguyên nước (Pháp, Ý, Thổ Nhĩ Kì, Nam Tư cũ) chiếm tới 2/3 lượng nước toàn khu vực. Tình trạng này dẫn đến sự phân hóa những nước giàu và nghèo tính theo tỉ lệ tài nguyên nước trên đầu người: giao động từ chưa đến 100m3/năm đến 10.000m3/năm. Dưới ngưỡng 1000m3/năm/đầu người những căng thẳng bắt đầu xuất hiện và ngưỡng thiếu nước được xác định ở mức 500m3/năm. Không những thế lượng nước lại có sự phân bố không đồng đều theo thời gian. Có một sự mất cân đối về lượng nước giữa mùa khô hạn và mùa mưa và giữa các năm. Trong vòng một thế kỉ vừa qua, trong khi dân số toàn cầu tăng lên ba lần thì mức tiêu thụ nước đã tăng lên sáu lần, trong đó nông nghiệp tiêu thụ tới 75% lượng nước ngọt toàn cầu và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển dân số. Ngay cả những nước có khí hậu ôn hòa như Pháp thì lượng nước dành cho nông nghiệp cũng chiếm tới 30% tổng lượng nhu cầu. Tiêu thụ ở những thành phố lớn cũng không ngừng tăng lên, nhất là trong hoạt động du lịch. Tính trung bình, một khách du lịch trong một khách sạn hạng sang tiêu thụ từ 500 đến 800l nước/ngày, gấp nhiều lần mức tiêu thụ của cư dân bản địa. Kèm theo là các dịch vụ giải trí và vệ sinh. Một sân golf hằng năm tiêu thụ khoảng 10.000m3 nước cho một ha, tương đương với một diện tích trồng trọt trong nông nghiệp. Thêm vào đó thủy điện và công nghiệp cũng là những kẻ tiêu thụ nước với số lượng lớn. Cùng với những tác động xấu đến sinh thái và văn hóa – xã hội ở các khu vực nhà máy. Sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước đã dẫn đến việc cạn kiệt nguồn nước. Theo Liên Hợp Quốc thì một nửa trong tổng số 500 dòng sông lớn nhất thế giới đang trở nên cạn kiệt và ô nhiễm trầm trọng. Lượng nước của các con sông lớn nhất thế giới đang sụt giảm làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, các loài vật và tương lai của cả hành tinh. Liên Hợp Quốc đã đưa ra cảnh báo về một thảm họa đối với một số con sông trong số này. Sông Nile ở châu Phi và sông Hoàng Hà ở Trung Quốc từng được xem là các hệ thống tưới tiêu lớn của thế giới nay đang có lượng nước đổ ra đại dương ở mức thấp kinh khủng. Tất cả 20 con sông lớn nhất thế giới hiện đang bị các con đập ngăn chặn. Hậu quả là 1/5 chủng loài cá hoặc đã tiệt chủng hoặc đang bên bờ tuyệt chủng. Sông Jordan (bang Utah, Mỹ) và sông Rio Grande được xem là 2 con sông cạn nhất so với chiều dài của nó. Tại Anh, 1/4 tổng số 160 con sông của nước này đang cạn dần do quá nhiều nhà cửa và do các ngành nông nghiệp, công nghiệp phát triển tạo ra nhiều chướng ngại vật. Tại Việt Nam, lượng nước sẵn có trên đầu người ngày càng giảm đi. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự gia tăng dân số với tỷ lệ tăng dân số hàng năm 1,7% ở nước ta, nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt và các ngành kinh tế tăng lên không ngừng trong khi đó tài nguyên nước trong tự nhiên là có hạn chính vì thế lượng nước sẵn có theo đầu người có xu hướng giảm dần theo thời gian. Năm 1943 lượng nước bình quân đầu người của Việt Nam là 16.641 m3/người, nếu dân số nước ta tăng lên 150 triệu người thì chỉ còn đạt 2467 m3/người, năm xấp xỉ với những quốc gia hiếm nước. Hiện nay lượng nước bình quân đầu người của Việt Nam chỉ khoảng 3.840m3/người/năm, thấp hơn 160m3 so với quy định của thế giới (trên 4.000m3/người/năm). 2.2.1.3. Suy giảm tài nguyên rừng, đa dạng sinh học Không gian sống của con người luôn luôn cần mở rộng. Do đó con người luôn giành giật với sinh vật mà điển hình nhất chính là tình trạng phá rừng diễn ra khắp nơi trên thế giới. Nhiều diện tích đất rừng bị phá hoại nghiêm trọng. Con người phá rừng với các mục đích mở rộng diện tích đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu sản xuất lương thực, trong đó những người sản xuất nhỏ du canh là nguyên nhân quan trọng nhất, nhu cầu lấy củi, chăn thả gia súc, khai thác gỗ và các sản phẩm rừng, phá rừng để trồng cây công nghiệp và cây đặc sản. Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác làm giảm diện tích rừng là do việc cháy rừng nhưng nguyên nhân sâu xa cũng là do các hoạt động của con người gây ra cháy rừng. Vào thời kỳ tiền sử diện tích rừng đạt tới 8 tỷ ha (2/3 diện tích lục địa), đến thế kỷ 19 còn khoảng 5,5 tỷ ha và hiện nay chỉ còn khoảng 2,6 tỷ ha. Năm 1991 diện tích rừng bị phá của toàn thế giới lên tới 17 triệu hecta so với 11,3 triệu hécta của 10 năm trước đó. Việc chặt phá rừng ở vùng nhiệt đới bắt đầu diễn ra mạnh từ thế kỷ XVIII và XIX do mở rộng diện tích trồng cây nông nghiệp và cây công nghiệp, đặc biệt là từ năm 1945. Theo FAO thì khoảng 50% rừng nhiệt đới bị phá huỷ từ năm 1950, nhiều nhất ở Trung Mỹ (66%), tiếp đến là Trung Phi (52%), Nam Phi và Đông Nam Á tương ứng là 37 và 38%. Số liệu thống kê cho thấy diện tích rừng đang suy giảm với tốc độ chóng mặt (mỗi phút mất đi khoảng 30 ha rừng) và theo dự báo với tốc độ này chỉ khoảng 160 năm nữa toàn bộ rừng trên Trái Đất sẽ biến mất. Nước ta rừng cũng đã từng suy giảm nhanh. Đầu thế kỷ 20 độ che phủ đạt khoảng 50% sau đó suy giảm mạnh đến cuối những năm 80 chỉ còn gần 30%. Năm 1943 ước tính có khoảng 14 triệu ha, với tỉ lệ che phủ là 43%, năm 1995 còn khoảng 8 triệu ha và tỉ lệ che phủ là 28%, diện tích rừng bình quân cho một người là 0,13 ha (1995), thấp hơn mức bình quân ở vùng Đông Nam Á (0,42 ha/người). Trong thời kỳ 1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha/năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng ở giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Trung bình mỗi năm nước ta chỉ trồng được trên 72.000 ha rừng, trong khi tỉ lệ mất rừng hiện nay từ 120.000 đến 150.000 ha/năm. Không chỉ người dân lén lút phá rừng mà các xí nghiệp thực hiện việc khai thác theo chỉ tiêu pháp lệnh thường thực hiện quá chỉ tiêu cho phép. Rừng bị mất đi gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với đất và nước. Đất bị xói mòn, thoái hoá tới mức cây trồng không cho năng suất, đất bị bỏ hoang, ảnh hưởng đến sản xuất nông lâm nghiệp. Bên cạnh đó, mất rừng còn làm giảm đa dạng sinh học, gây mất cân bằng sinh thái và con người phải nhận hậu quả về thiên tai, lũ lụt do không có rừng bảo vệ. Cùng với rừng, đa dạng sinh học cũng đóng vai trò quan trọng đối với con người và thiên nhiên. Từ nhiều thập kỷ nay, hoạt động của con người đã tác động mạnh tới thế giới sinh vật, được xem là tương đương hoặc thậm chí lớn hơn nhiều so với các đợt tuyệt chủng lớn nhất trong thời tiền sử. Hơn 11.000 loài động vật và thực vật hiện đang đứng trước nguy cơ bị tiệt chủng, 12% loài chim, 25% loài động vật có vú, 32% loài lưỡng cư v.v... đang có nguy cơ tuyệt chủng, khoảng 1/3 dải san hô sẽ biến mất trong vòng 30 năm tới. Tốc độ giảm đa dạng sinh học do hoạt động của con người trong 50 năm qua nhanh hơn bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử và số loài động thực vật tuyệt chủng trong 100 năm qua đã tăng cao gấp 1.000 lần. Trữ lượng cá trên thế giới đã giảm tới 90% so với thời kỳ bắt đầu khai sinh ngành công nghiệp đánh cá. Các loài cá nước ngọt đang bị đe doạ tuyệt giống với khoảng 20% của chúng ở 20 nước đã được IVCN-Sách Đỏ của Liên Minh Bảo tồn Thế giới đánh giá một cách toàn diện. Vào khoảng 35% các loài rùa cũng bị đe doạ như vậy. Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới nhưng tốc độ suy giảm được xếp vào loại nhanh nhất. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm phạm, suy giảm diện tích. Trong không đầy 50 năm, diện tích rừng ngập mặn suy giảm gần 3/4. Sự giảm sút nhiều loài động vật trên đồng ruộng đã làm mất cân bằng sinh thái, dẫn đến bùng phát dịch bệnh. Hiện Việt Nam còn trên 800 loài động vật và thực vật hiếm, có nguy cơ bị tuyệt chủng, dễ bị tổn thương hay đang bị đe dọa. 2.2.2. Ô nhiễm môi trường Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi chất lượng môi trường theo chiều hướng tiêu cực đối với mục đích sử dụng môi trường. Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn MT. Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho MT trở thành độc hại. Môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm bởi các loại chất thải do hoạt động cuả con người. Dân số càng tăng thì mức độ ô nhiễm càng cao và chính con người là chủ thể tạo ra ô nhiễm do các hoạt động của mình. Rác thải, nước thải và các khí thải từ các khu dân cư, nhà máy công sở, trường học, bệnh viện hàng ngày làm cho môi trường ngày càng xấu đi. Trong các loại chất thải, có nhiều chất rất độc, khó hay không bị phân hủy sinh học. Một ví dụ, ở Thái Lan có 80 ngàn nhà máy, trong đó có 20 ngàn nhà máy nằm ở Bangkok và các thành phố lân cận. Các chất thải độc hại năm 1986 là 1,2 triệu tấn. Tính đến năm 2001, lượng chất thải sẽ tăng lên 6 triệu tấn/năm. Mưa acid, mỏng màn ozon, thay đổi khí hậu toàn cầu là hậu quả đáng ngại của sự phát triển của xã hội loài người. Cùng với ô nhiễm nước, đất và không khí chúng kìm hãm và đe doạ sự phát triển của con người. Bảng 2.3. Lượng các tác nhân ô nhiễm trên toàn thế giới năm 1992 Nguồn gây ô nhiễm Tác nhân ô nhiễm chính CO Bụi SO4 CnHm NOx 1. Giao thông vận tải -Ôtô chạy xăng -Ôtô chạy dầu diezen -Máy bay -Tàu hỏa và các loại khác Cộng 53,5 0.2 2.4 2,0 58,1 0,5 0.3 0.0 0,4 1,2 0,2 0.1 0.0 0,5 0,8 13,8 0.4 0.3 0,6 15,1 6,0 0.5 0.0 0,8 7,3 2. Đốt nhiên liệu -Than -Dầu, xăng -Khí đốt tự nhiên -Gỗ,củi Cộng 0,7 0,1 0,0 0.9 1.7 7,4 0,3 0,2 0.2 8.1 18,3 3,9 0.0 0.0 22.7 0,2 0,1 0.0 0.4 0.7 3,6 0,9 4,1 0,2 8.8 3. Quá trình sản xuất công nghiệp 8.8 6.8 6.6 4. 2 0.2 4. Xử lý chất thải rắn 7.1 1.0 0.1 1.5 0.5 5. Hoạt động khác -Cháy rừng -Đốt các sản phẩm -Đốt rác thải -Hàn đốt xây dựng Cộng 6,5 7.5 1.1 0.2 5.3 6,1 2.2 0.4 0.1 8.8 0.0 0.0 0.5 0.0 0.5 2.0 1.5 0.2 0.1 3.8 1.1 0.3 0.2 0.0 1.6 Ô nhiễm môi trường làm cho chất lượng môi trường nói chung xuống cấp. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh thường dẫn đến ô nhiễm các thành phần môi trường như nước, đất và không khí…nhiều vấn đề vệ sinh môi trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị. Năm 1950, cứ 3 người thì có gần một người sống ở thành phố hay thị trấn. Hiện nay, gần nửa dân số thế giới sống ở đô thị. Đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ là hơn 60%. Trong một phần tư thế kỷ tới, tăng dân số hầu hết diễn ra ở các đô thị thuộc các nước kém phát triển. Tăng dân số nhanh nhất sẽ diễn ra ở các đô thị có số dân dưới 500.000 người chứ không phải là các thành phố lớn hơn. Năm 2000, thế giới có 402 thành phố với số dân từ 1 đến 5 triệu người; và 22 thành phố có số dân từ 5 đến 10 triệu người. Năm 1950, New York là thành phố duy nhất có số dân hơn 10 triệu. Đến năm 2015, có 23 thành phố như New York, trong đó 19 thành phố ở các nước đang phát triển. Tại các nước phát triển hơn, 75% dân số sống trong đô thị. Ở châu Á, tỷ lệ này là dưới 40%, nhưng số dân đô thị của cả khu vực này là 1,5 tỷ người, nhiều hơn châu Âu, Châu Mỹ La tinh, châu Đại dương và Bắc Mỹ cộng lại. Châu Phi là châu lục có tốc độ đô thị hoá thấp nhất, song dân số đô thị tăng nhanh nhất. Đô thị hoá và phát triển kinh tế thường đi đôi với mức tiêu thụ tài nguyên và tỷ lệ phát sinh chất thải tính theo đầu người tăng lên. Dân thành thị ở các nước phát triển phát sinh chất thải nhiều hơn các nước đang phát triển 6 lần. Dân số và lượng rác tỷ lệ thuận với nhau, tuy với hệ số rất cao. Theo một nghiên cứu thì tỷ lệ tăng dân số (tự nhiên) khoảng 2%/năm, trong khi tỷ lệ tăng rác lại đến 30-40%/năm, như vậy có thể xác định dân số cứ tăng 1% thì lượng rác tăng tương ứng 15-20% (cách tính trên chưa xét đến yếu tố tăng dân số cơ học). Các thành phố có thể phải chi đến hơn 30% ngân sách để tiêu huỷ chất thải, chủ yếu chi phí cho việc vận chuyển. Các khoản chi này thường đội lên rất nhiều do diện tích đất thích hợp bị thu hẹp khi mà các khu đô thị mở rộng và giá đất tăng lên. Chi phí quản lý chất thải rắn ở các nước đang phát triển có thể lên tới 50% ngân sách hàng năm. Ngoài ra, còn thiếu cơ sở hạ tầng để xử lý an toàn chất thải. Khoảng 30% đến 60% lượng chất thải rắn đô thị không được thu gom và chỉ có dưới 50% dân số đô thị được cung cấp dịch vụ thu gom. 2.2.2.1. Ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất trong khí quyển sinh ra từ hoạt động của con người hoặc các quá trình tự nhiên và nếu nồng độ đủ lớn và thời gian đủ lâu, chúng sẽ ảnh hưởng đến sự thoải mái, dễ chịu, sức khỏe hoặc lợi ích của con người hoặc môi trường. Các hoạt động của con người gây ô nhiễm không khí chính là ô nhiễm do đốt nhiên liệu và do các phát triển cá ngành công nghiệp. - Quá trình đốt nhiên liệu xảy ra ở khắp mọi nơi. Trong sản phẩm cháy do nhiên liệu sản sinh ra khi cháy có chứa nhiều loại khí độc hại cho sức khỏe con người, nhất là khi quá trình cháy không hoàn toàn. Các loại khí độc hại đó là: SO2, CO2, NOx, hydrocacbon và tro bụi. Người ta phân biệt các nguồn gây ô nhiễm do đốt nhiên liệu thành các nhóm: Các phương tiện giao thông; Do đun nấu; Các nhà máy nhiệt điện; Do đốt các loại phế thải . - Ô nhiễm do các ngành công nghiệp: công nghiệp gang thép, luyện kim màu, công nghiệp sản xuất ximăng, công nghiệp hóa chất, công nghiệp lọc dầu. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau, làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Hàng năm có: 20 tỉ tấn cácbon điôxít,1,53 triệu tấn SiO2, Hơn 1 triệu tấn niken, 700 triệu tấn bụi, 1,5 triệu tấn asen, 900 tấn coban, 600.000 tấn kẽm (Zn), hơi thuỷ ngân (Hg), hơi chì (Pb) và các chất độc hại khác. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2, NOx, CH4, CFC đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%, ozon tầng đối lưu là 7%, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%. Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiẹt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60°C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30°C. Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40°C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50°C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ozone. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ozon. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ozon sẽ bị mỏng dần rồi thủng, không còn làm tròn trách nhiệm của một tấm lá chắn bảo vệ mặt đất khỏi bức xạ UV-B, làm cho lượng bức xạ UV-B tăng lên, gây hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và các sinh vật sống trên mặt đất. 2.2.2.2. Ô nhiễm nước Sự ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước gây ảnh hưởng đến hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật. Khi sự thay đổi thành phần và tính chất của nước vượt quá một ngưỡng cho phép thì sự ô nhiễm đã ở mức nguy hiểm và gây ra một số bệnh ở người. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước hầu hết là do hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người tạo nên như: nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải nông nghiệp thường cuốn theo chất rắn, chất hữu cơ, thuốc trừ sâu, phân bón... gây ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước ngầm, nước biển… Dấu hiệu đặc trưng của nguồn nước bị ô nhiễm: - Có xuất hiện các chất nổi trên bề mặt nước và các cặn lắng chìm xuống đáy nguồn. - Thay đổi tính chất lý học (độ trong, màu, mùi, nhiệt độ…) - Thay đổi thành phần hoá học (pH, hàm lượng của các chất hữu cơ và vô cơ, xuất hiện các chất độc hại…) - Lượng oxy hoà tan (DO) trong nước giảm do các quá trình sinh hoá để oxy hoá các chất bẩn hữu cơ vừa mới thải vào. - Các vi sinh vật thay đổi về loài và về số lượng. Có xuất hiện các vi trùng gây bệnh. Nguồn nước bị ô nhiễm có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thuỷ sinh vật và việc sử dụng nguồn nước vào mục đích cấp nước hoặc mỹ quan của thành phố. Khối lượng lớn nước thải này đang và sẽ làm nhiều nguồn nước trên phạm vi cả nước ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là các sông, hồ trong các đô thị lớn. Tình trạng ô nhiễm nước trên thế giới Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp độ đáng lo ngại. Tiến độ ô nhiễm nước phản ánh trung thực tiến bộ phát triển kỹ nghệ. Sau đây là vài thí dụ tiêu biểu: - Anh Quốc: Đầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống cống lộ thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước khi người ta đưa ra các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt. - Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán, nhiều sông rộng lớn, nhưng vấn đề cũng không khác bao nhiêu. Cuối thế kỷ 18. các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi không còn dùng làm nước sinh hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm mãn tính. Tình trạng ô nhiễm nước ở Việt Nam Nước ta có nền công nghiệp chưa phát triển mạnh, các khu công nghiệp và các đô thị chưa đông lắm nhưng tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở nhiều nơi với các mức độ nghiêm trọng khác nhau. - Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, dùng để tưới lúa và hoa màu, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Việc sử dụng nông dược và phân bón hoá học càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nông thôn. - Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi ngành có một loại nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến Sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt… xuống Sông Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng kể. Khu công nghiệp Biên Hoà và TP.HCM tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm nhiễm bẩn tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận. - Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do tăng dân số và các đô thị. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cộng với nước thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở nước ta. - Các loại nước thải hầu hết đều được trực tiếp thải ra môi trường, chưa qua xử. Theo số liệu thống kê, hàng năm có khoảng hơn 500 tỷ m3 nước thải (trong đó phần lớn là nước thải công nghiệp) thải vào các nguồn nước tự nhiên và cứ sau 10 năm thì chỉ số này tăng gấp đôi. Khối lượng nước thải này đã làm ô nhiễm hơn 40% lưu lượng nước ổn định của các dòng sông trên Trái Đất. Ở nhiều đoạn sông, kênh rạch đã bị bẩn vượt quá tiêu chuẩn cho phép, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống, đến các hệ sinh thái nước ngọt. Ví dụ khu vực Hà Nội nước các sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... rất bẩn, màu sẫm, mùi thối, tanh, hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp nhiều khi bằng 0, lượng BOD5 cao trên 50mg/l, NH4+ trên 10mg/l, NO2- cũng tăng vọt, H2S gần 30mg/l. ở khu vựcthành phố Hồ Chí Minh nước kênh Tham Luông màu đen xẫm, thối, chất hữu cơ cao COD có khi tới 596 mg/l, BOD5 184,5mg/l. Hàm lượng oxy hòa tan thường bằng 0. Nước sông Sài Gòn có hàm lượng CO2 giảm, NH4+ tăng sau khi nhận nước của kênh Tham Luông và rạch Thị Nghè, kênh Bến Nghé. ở khu Lâm Thao - Việt Trì trong mùa cạn nhánh sông chảy qua khu vực thành phố và các nhà máy bị nhiễm bẩn nặng, độ pH quá thấp (4,0) độ axit tự do lớn, hàm lượng sắt, chất hữu cơ, NH4+, NO2- tăng cao. 2.2.2.3. Ô nhiễm đất Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả... ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con người và động vật. Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ nông dược và phân hoá học, chúng tích luỹ dần trong đất qua các mùa vụ. Thứ hai là các loại chất thải trong hoạt động của con người (rắn, lỏng, khí). Thứ ba, đất cũng là một yếu tố của môi trường cùng với không khí, nước và vành đai sinh vật, nên nó tiếp nhận những chất ô nhiễm từ các yếu tố khác mọi nơi, mọi lúc. Ngoài ra, các vùng khai thác khoáng sản kim loại thường tạo thành một khu vực khuếch tán, khiến cho hàm lượng nguyên tố này trong vùng đất xung quanh cao hơn nhiều so với đất thông thường, đây cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ô nhiễm đất vì nước thải Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một cách khoa học các loại nước thải để tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng được lượng Nitơ, Photpho, Kaki... trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu như nước ô nhiễm chưa qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có hại trong nguồn nước vào đất gây ô nhiễm. Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô nhiễm đất, ảnh hưởng tới người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “Cadimi” xảy ra ở Nhật Bản năm 1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước thải của một nhà máy luyện kẽm gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước thải tích luỹ dần trong lúa gạo ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị chứng đau nhức các khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều tra nông thôn Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là 190.000 ha, làm thiệt hại 22 tỷ Yên. Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử dụng tràn lan các nước thải thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến cho khả năng sản xuất của đất giảm, gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường ruột ở người do nông phẩm ở những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi khác. Ô nhiễm đất do nông dược và phân hoá học Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng. Vì số lượng lớn nông dược tích luỹ trong đất, đặc biệt là các thuốc có chứa các nguyên tố như chì, asen, thuỷ ngân... có độc tính lớn, thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu trong đất tới 10 đến 30 năm, những loại nông dược này có thể được cây trồng hấp thu, tích trong quả và lá và đi vào cơ thể người và động vật qua thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Thuốc trừ sâu đồng thời với việc diệt các côn trùng gây hại, cũng gây độc đối với các vi sinh vật và côn trùng có ích, các loại chim, cá... và ngược lại một số loại sâu bệnh thì lại sinh ra tính kháng thuốc. Theo điều tra của tổ chức nông lương thế giới: năm 1965, có 182 loài côn trùng gây hại có khả năng kháng thuốc, năm 1968, tăng lên 228 loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại nông nghiệp chủ yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả năng kháng đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này làm thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này. Ô nhiễm đất do vi sinh vật Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu là chất thải chưa qua xử lý của người và động vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt... trong đó nguy hại lớn nhất là chất thải chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền nhiễm. Rất nhiều vi khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong đất, bám vào các cây trồng nông nghiệp và truyền vào cơ thể người, động vật. Ngoài những nguồn ô nhiễm trên, các hoạt động tưới không thích đáng, chặt cây rừng, khai hoang... cũng tạo thành các hiện tượng rửa trôi, bạc màu, nhiễm phèn... trong đất. Theo thống kê, hàng năm diện tích đất này trên thế giới tăng từ 5.000.000 đến 11.000.000 ha. Có thể thấy rằng, chống ô nhiễm đất đang là vấn đề bức thiết đặt ra cho nhiều quốc gia. Một số biện pháp cơ bản hiện nay là: khống chế các chất thải rắn, lỏng, khí. Mở rộng và phát triển công nghệ tuần hoàn kín hoặc xử lý chất thải để giảm hoặc loại bỏ các chất gây ô nhiễm; khi lợi dụng nước thải để tưới ruộng, cần nắm được thành phần chất ô nhiễm, hàm lượng và trang thái, khống chế số lượng nước tưới hoặc thực hiện xử lý chần thiết; thứ 2 là nên khống chế việc sử dụng nông dược hoá học, hạn chế sử dụng các thuốc có độc tính cao, khả năng tồn tại lớn, phát triển các loại thuốc nông nghiệp mới có hiệu quả cao, độc tính thấp, lượng tồn trữ ít. Thứ 3 là bón phân hoá học một cách hợp lý. Thứ 4, nên tích cực áp dụng rộng rãi các kỹ thuật sinh học phòng trị sâu hại, lợi dụng các loài chim có ích, côn trùng có ích và một số vi sinh vật gây bệnh để chống lại các loại sâu hại, biện pháp này đang được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng. Tóm lại: Đất, nước và không khí là những điều kiện cơ bản cho sự sinh tồn của con người, những hiệu ứng phụ của khoa học công nghệ hiện đại đã hạn chế lớn tới sự phát triển lành mạnh của xã hội loài người, nếu chúng ta không có biện pháp từ hôm nay, chúng ta sẽ chết dần chết mòn trên những mảnh đất ô nhiễm ấy. 2.3. Chất lượng cuộc sống giảm Dưới sức ép của dân số, thừa dân số và thiếu tài nguyên cơ bản do sự gia tăng dân số nhanh chóng dẫn đến sự suy giảm về chất lượng không gian sống chính là vấn đề không khí, đất, nước, và sinh thái bị ô nhiễm và mất dần đi làm cho chất lượng cuộc sống của con người bị ảnh hưởng mạnh mẽ, sức khoẻ con người bị suy giảm và có thể ảnh hưởng đến tính mạng con người. Đặc biệt là sự phát triển dân số đô thị quá nhanh, mật độ dân số đô thị tăng nhanh. Không gian sống bị thu hẹp, con người phải sống chen chúc trong một diện tích không phù hợp; một số người sống dưới mức cho phép tại các bãi rác và các khu nhà ổ chuột; gây ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng. Sự thiếu đất là nhân tố quan trọng làm suy thoái môi trường và là nguyên nhân của sự nghèo đói, không được học hành. Ở Banladesh, 4/5 dân số ở các làng có mức thu nhập thấp hơn mức nghèo tuyệt đối, có đến 54% số dân nông thôn không được cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh; Tỷ lệ trẻ em chết từ 1 đến 5 tuổi còn khá cao; FAO ước tính có 1/4 tỉ hecta đất canh tác sẽ chuyển thành đất xây dựng đô thị. III. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 3.1. Tổng quan về phát triển bền vững Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Chính ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi bị tổn thương. Trên thế giới, trong những năm của thập kỷ 1960 và 1970, các vấn đề môi trường đã được nhận thức. Sự báo trước về một hành tinh không thể sinh sống do sự mở rộng quy mô công nghiệp đã được kết hợp bằng sự tiên đoán của những người theo trường phái Malthus mới (neo-Malthusian) về sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển. Các cuốn sách Mùa xuân im lặng (1962), Bùng nổ dân số (1970), và Giới hạn tăng trưởng (1972) đã nhấn mạnh các viễn cảnh ngày tận thế do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự gia tăng dân số và ô nhiễm môi trường, gây ra sự lo âu của công chúng ở các nước công nghiệp nói chung. Nhưng phải đến năm 1972, Hội nghị Xtốc-khôm về môi trường mới được tổ chức lần đầu tiên, với lời kêu gọi bảo vệ ngôi nhà trái đất. Năm 1980, hiệp hội thế giới bảo tồn thiên nhiên (IUCN) đưa ra "chiến lược bảo tồn thế giới" đã đề xuất việc sử dụng lâu bền các loài và các hệ sinh thái. Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới đưa ra bản báo cáo Tương lai chung của chúng ta, trong đó khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc đến. Và đến năm 1992, trong Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển tổ chức tại Ri-ô đờ Gia-nê-rô (Braxin), khái niệm phát triển bền vững chính thức được đưa ra. Định nghĩa PTBV: Phát triển bền vững là phát triển có khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững là sự phát triển liên tục không ngừng về mọi mặt kinh tế, xã hội, môi trường… nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người hiện tại và tương lai. Và như vậy, phát triển bền vững chính là “vùng giao thoa” giữa ba mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội - môi trường. Điều này có thể khái quát thành ba cấu thành chủ yếu của phát triển bền vững, đó là: tăng trưởng kinh tế ổn định - thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội - môi trường được bảo vệ và giữ gìn trong sạch, lành mạnh. Thông qua đó, mục đích cuối cùng cần hướng tới đó là chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các yêu cầu phát triển văn hoá - xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công nghệ, việc sử dụng hợp lý các nguồn thiên nhiên không tái tạo được và việc phát triển công nghệ sạch. Phát triển bền vững về xã hội: xã hội bền vững phải là một xã hội trong đó phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội; trong đó văn hoá, giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ. Phát triển bền vững về tài nguyên - môi trường là khai thác tài nguyên trong giới hạn chịu tải của chúng; sử dụng môi trường hợp lý; con người được sống trong môi trường trong sạch. Các dạng tài nguyên phải được sử dụng trong phạm vi khôi phục được về số lượng và chất lượng bằng các con đường tự nhiên hoặc nhân tạo. 3.2. Mối quan hệ giữa dân số, môi trường và phát triển bền vững Dân số, môi trường và phát triển có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa với phát triển. Phát triển chỉ dựa trên tăng trưởng đơn thuần thì sự tăng trưởng đó không lâu bền. Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không tương ứng hoặc chỉ đáp ứng tăng nhu cầu cho dân số hiện đại nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của dân số tương lai, phát triển dựa trên vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì sự phát triển đó không thể gọi là bền vững. Tăng trưởng kinh tế là mục đích để phát triển con người, tạo điều kiện để nâng cao đời sống con người, bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. Bảo vệ môi trường kết hợp bảo đảm hài hoà những mục tiêu khác của con người là cần thiết để đạt được sự phát triển bền vững. Dân số và môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Không thể có phát triển bền vững nếu môi trường bị huỷ hoại, suy thoái, chất lượng cuộc sống và sức khoẻ của người dân bị sa sút. Sự phát triển bền vững tuỳ thuộc rất lớn vào công tác dân số và bảo vệ môi trường. Nhiều khi, giá phải trả cho chi phí về môi trường nhiều hơn những cái mà con người thu về từ thiên nhiên. Như vậy, dân số, môi trường và phát triển tạo thành vòng quay tuần hoàn khép kín, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Khi các nhân tố này không tạo ra được sự phát triển hợp lý thì vòng quay đó sẽ bị hỗn loạn, gây tác động tiêu cực ngược trở lại, phá vỡ cấu trúc và làm tổn hại đến nhau. Thực tế cho thấy, cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạp ra áp lực làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường - cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống không lường trước được. Các nước công nghiệp phát triển đã mất hàng chục năm để nhận ra rằng sự phát triển theo kiểu truyền thống đã đến giới hạn của "vạch cấm". Do vậy, cần có sự thay đổi, điều chỉnh để có thể phát triển lâu bền. Hiện nay, thế giới đang phát triển thiếu bền vững, như công bố của bản Báo cáo phát triển bền vững do Chương trình bảo vệ môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đưa ra cuối năm 2004. 3.3. Dân số, môi trường và phát triển bền vững ở nước ta Vấn đề dân số, môi trường trong chiến lược phát triển bền vững luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều này đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010): "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến độ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trờng nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Trong Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21) đã nêu những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc cơ bản; mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là “đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý”, về môi trường là “khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện môi trường”... Những văn bản pháp lý này là cơ sở quan trọng cho quá trình phát triển bền vững ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm qua, phát triển kinh tế - xã hội nước ta chủ yếu vẫn còn dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ sản xuất, quy mô tiêu dùng còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Sức ép dân số và việc làm tiếp tục gia tăng. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, mô hình tiêu dùng của dân cư tiêu tốn nhiều vật liệu năng lượng, thải ra nhiều chất thải độc hại... Môi trường nước ta tiếp tục bị ô nhiễm và xuống cấp, có nơi rất nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá, chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh, không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm....Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên... khiến cho ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá nghiêm trọng. KEÁT LUAÄN Bùng nổ dân số không chỉ tạo nên áp lực đối với nguồn tài nguyên mà còn là khâu liên kết dẫn tới các quá trình khai thác làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên đó. Quan điểm về mối quan hệ tương hỗ giữa dân số và điều kiện môi trường là mối quan hệ phức tạp, đa dạng và chứa đựng nhiều biến số. Môi trường là vấn đề quan trọng có tính quyết định trong sự phát triển và tiến hoá của nhân loại. Trong mối quan hệ biện chứng giữa dân số và sự phát triển, không thể tách rời vấn đề môi trường. Dân số tăng, kinh tế phát triển làm tăng mức sống, đồng thời làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, mất đất đai, mất rừng, sa mạc hoá là hậu quả của gia tăng dân số. Báo cáo của UNICEF đã viết: "Sự tăng trưởng dân số thế giới đã làm tăng thêm sự nghiêm trọng cho khả năng bảo vệ cuộc sống của hành tinh chúng ta". Đã đến lúc chúng ta phải chọn một trong hai khả năng: dân số đông hay là sự thịnh vượng và an toàn của con người? Yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi dân số cả về số lượng và chất lượng. Mục tiêu của sự phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực đến sự phát triển. TAØI LIEÄU THAM KHAÛO Trang web: 1. www.diachatvn.com/forums/lofiversion 2. www.cpv.org.vn/tiengviet/nhungvandetoancau 3. www.thuvienkhoahoc.com 4. www.donre.hochiminhcity.gov.vn 5. www.nea.gov.vn/thongtinmt/noidung 6. www.hau1.edu.vn/khoa/dat_moitruong 7. www.agenda21.monre.gov.vn 8. www.hsph.edu.vn 9. 10.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuc_trang_dan_so_moi_truong_3446.doc
Luận văn liên quan