LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế nước ta hiên nay đang phát triển theo cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường với đa dạng sản phẩm,chủng loại,phù hợp với nhu cầu cuộc sống. Khả năng cạnh tranh để chiếm thị phần cũng như tạo được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp đang là một vấn đề nóng hổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết lựa chọn con đường đi phù hợp đúng đắn, tạo dựng cho mình một vị thế trên thị trường. Các doanh nghiệp tự lựa chọn con đường đi khác nhau cho riêng mình, nhưng chung quy lại họ cần phải nhận biết được tài sản hữu hình, tài sản vô hình, cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, từ đó khắc phục được ưu nhược điểm của doanh nghiệp, phát triển doanh nghiêp của mình ngày càng lớn mạnh.
Không chỉ đối với doanh nghiêp ở tầm vi mô. Ở tầm vĩ mô,nhà nước muốn nền kinh tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững cũng phải chú trọng đến đầu tư vào tài sản hữu hình, tài sản vô hình, mối quan hệ giữa chúng , xác đinh cơ cấu đầu tư hợp lí, từ đó có những kế hoạch nhằm phát triển kinh tế -xã hội.
Những năm gần đây, vấn đề đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình đã thực sự hợp lý chưa ? có đóng góp như thế nào đối với sự tăng trưởng kinh tế ? còn tồn tại những vấn đề gì ? làm thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất ? sẽ được làm rõ qua đề tài ‘ Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình” dưới đây.
Trong quá trình nghiên cứu, bài làm của chúng em còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn.
Kết cấu và nội dung đề tài được trình bày như sau:
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH 2
I.Tài sản vô hình và tài sản hữu hình 2
II. Đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình 3
1. Khái niệm 3
2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình 4
2.1. Đầu tư tài sản hữu hình 4
2.1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản 4
2.1.2 Đầu tư vào hàng tồn trữ 5
2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình 12
2.2.1.Đầu tư phát triển nhân lực 12
2.2.2. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ. 13
2.2.3.Đầu tư hoạt động marketing 15
2.2.4. Đầu tư xây dựng thương hiệu 15
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH 19
1. Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình đối với đầu tư vào tài sản vô hình 20
1.1.Đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở, nền tảng cho đầu tư vào tài sản vô hình 20
1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình tăng tiềm lực cho đầu tư vào tài sản vô hình 21
2.Tác động của đầu tư vào TSVH đối với đầu tư vào TSHH 22
2.1. Đầu tư vào tài sản vô hình tạo điều kiện thúc đẩy trở lại đầu tư vào tài sản hữu hình. 22
2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình nâng cao giá trị của tài sản hữu hình. 26
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH 28
I.Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình 28
1. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 28
2. Đầu tư vào máy móc thiết bị 33
3. Thực trạng về đầu tư vào hàng tồn trữ 39
II. Thực trạng Đầu tư vào tài sản vô hình 40
1. Đầu tư vào khoa học – công nghệ 40
1.1. Thành tựu 40
1.2.Hạn chế 42
1.2.1.Đầu tư cho KH – CN còn ở mức thấp, dàn trải và mất cân đối giữa đầu tư nhà nước với đầu tư từ xã hội 42
1.2.3. Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ còn kém 43
2. Đầu tư vào thương hiệu 44
2.1.Thương hiệu xưa 44
2.2. Thương hiệu nay 45
2.2.1. Đầu tư tài chính cho phát triển thương hiệu 45
2.2.2 Tên thương hiệu 46
2.2.3.Xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ 47
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 49
3.1. Khái quát chung về nguồn nhân lực ở Việt Nam 49
3.1.1. Nguồn nhân lực từ nông dân: 50
3.1.2. Nguồn nhân lực từ công nhân: 51
3.1.3. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: 52
3.2. Thị trường lao động chất lượng cao ở Việt Nam 54
3.2.1.Thị trường lao động chất lượng cao ở Việt Nam 54
3.2.2. Khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam 56
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI SẢN VÔ HÌNH 58
1. Phát triển đầu tư tài sản hữu hình làm tiền đề nâng cao phát triển tài sản vô hình. 58
1.2. Chính phủ sử dụng các biện pháp phát triển đầu tư tài sản hữu hình. 60
2. Phát triển đầu tư tài sản vô hình làm tăng giá trị tài sản hữu hình. 63
KẾT LUẬN 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3136 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh của công ty cũng như xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cần được hoạch định một cách rõ ràng trong chiến lược kinh doanh của công ty. Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall's cùng toàn bộ nhà máy, dây chuyển sản xuất của nhà máy kem Wall's của Tập đoàn Unilever được giới chuyên gia đánh giá cao về tính nhạy bén thị trường trong chiến lược kinh doanh của Kinh Đô. Đây là tín hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp nội địa đã tiếp cận tính chuyên nghiệp trong đầu tư vào thương hiệu. Thực ra, trên thế giới, các hợp đồng mua bán công ty, mua bán thương hiệu hay nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu là chuyện thường gặp. Câu chuyện này tuy còn mới ở Việt Nam , nhưng không phải là hiếm có. Công ty Phương Đông bán nhãn hiệu P/S cho Unilever; đối tác nước ngoài trong Liên doanh bia Đông Nam Á mua thương hiệu bia Halida; Công ty sản xuất xe máy tư nhân Hoa Lâm mua lại quyền sử dụng thương hiệu động cơ xe máy Daelim của Hàn Quốc để tiêu thụ trên thị trường Việt Nam...
Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thương hiệu của các doanh nghiệp Việt nam phải cạnh tranh với các thương hiệu mạnh của nước ngoài. Đó là một cuộc chiến không cân sức mà các thương hiệu Việt đang nằm ở thế yếu. Bởi lẽ các doanh nghiệp của ta thua hẳn các doanh nghiệp nước ngoài về tài chính, về bề dày, về đội ngũ, về tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm.Trong điều kiện ta yếu hơn các thương hiệu mạnh, Việt Nam cần biết tận dụng nguồn lực để tạo sự khác biệt, để tăng tính cạnh tranh. Doanh nghiệp nhỏ muốn thách thức với các thương hiệu lớn, trước hết phải tạo vị trí trong lòng khách hàng.
Tất nhiên, thành công của thương hiệu chung sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự gắn kết, hợp sức của các doanh nghiệp trong các bước từ giám sát chất lượng sản phẩm, thực hiện các cam kết về giao dịch... đến xây dựng chiến lược. Song, đây lại là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam . Rất nhiều chuyên gia kinh tế thừa nhận rằng, các doanh nghiệp Việt Nam trong cùng ngành nghề nhìn nhau với con mắt là đối thủ cạnh tranh nhiều hơn là đối tác hợp tác kinh doanh. Chính vì vậy, sự tích cực trong liên kết các doanh nghiệp cùng ngành nghề hầu như không được các doanh nghiệp Việt Nam khai thác.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
3.1. Khái quát chung về nguồn nhân lực ở Việt Nam
Nhận thức về nguồn nhân lực của Việt Nam đang còn có những ý kiến khác nhau. Trên phương tiện thông tin đại chúng, người ta thường nói đến thế mạnh của Việt Nam là nguồn nhân công rẻ mạt và kêu gọi các nhà đầu tư hãy đầu tư vào Việt Nam vì Việt Nam có nguồn nhân công rẻ mạt. Tại sao lại nói như vậy? Một số người chưa đánh giá đúng về nguồn nhân lực của Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo về vấn đề này cũng chưa rõ ràng. Khả năng để tổ chức khai thác nguồn nhân lực còn bất cập. Vì vậy, để nghiên cứu nó, phải tìm hiểu xem nguồn nhân lực ở Việt Nam xuất phát từ đâu và đang ở trong tình trạng nào?
3.1.1. Nguồn nhân lực từ nông dân:
Dân số cả nước hiện nay là trên 86 triệu người, trong đó khoảng 70% trong số đó là nông dân. Như vậy nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Hiện nay cả nước có khoảng hơn 110.000 trang trại; hơn 7000 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản.; có hơn 200 làng nghề và 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện có tới 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi vào túi những ông có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách đối với người nông dân.
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều.
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại. Nông dân ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm; chất lượng lao động thấp, nhưng cho đến nay, qua tìm hiểu, tôi thấy vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp chưa rõ ràng.
3.1.2. Nguồn nhân lực từ công nhân:
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng 5 triệu người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần 375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề.
Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với tình hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong sản xuất, kinh doanh.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân
3.1.3. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức:
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước đến nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, 178 trường cao đẳng, 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới.
Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.
3.2. Thị trường lao động chất lượng cao ở Việt Nam
3.2.1.Thị trường lao động chất lượng cao ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào với dân số hơn 86triệu người,1 trong đó khoảng hơn 50% số người trong độ tuổi lao động và nhóm tuổi từ 15 đến 34 chiếm hơn 45% tổng số lực lượng lao động. Với tốc độ tăng dân số khá cao, hàng năm có khoảng 1,5 tới 1,7 triệu lao động trẻ tham gia thị trường lao động. Do vậy, nói chung cung lao động trên thị trường lao động Việt Nam rất dồi dào và lớn hơn cầu về lao động.2 Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông. Mặc dù tỷ lệ người lao động không biết chữ là rất thấp, khoảng dưới 3,5%, nhưng tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo lại cao và chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng. Cụ thể, có đến gần 77% người lao động trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp và chất lượng lao động ở khu vực thành thị cao hơn so với ở khu vực nông thôn (Tổng cục thống kê, 2005).
Về mặt cầu, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu được phân bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi kỹ năng, tay nghề, và trình độ của người lao động thường không cần cao. Lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và trong khu vực dịch vụ chỉ chiếm khoảng 26%. Điều này phần nào phản ánh cầu lao động giản đơn, phổ thông ở Việt Nam vẫn còn khá lớn. Đồng thời, phần lớn lao động ở Việt Nam hiện nay đang làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh.
Tuy nhiên so với trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp mới nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp ví dụ như marketing, tài chính, bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp, công nghệ thông tin, điện, điện tử và hóa chất ngày càng tăng lên. Trong những năm vừa qua, do Việt Nam đẩy mạnh cải cách hành chính, làn sóng đầu tư trong nước cũng như nước ngoài ngày càng tăng lên. Các doanh nghiệp trong nước được thành lập mới ngày càng nhiều đã tạo ra một lượng cầu nhân lực chất lượng cao ngày càng lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường ưu tiên tuyển lao động chất lượng cao ngay tại Việt Nam vì lao động Việt Nam là người am hiểu thị trường, phong tục tập quán, có nhiều mối quan hệ, và có mức lương thấp hơn so với thuê lao động từ nước khác. Các doanh nghiệp nước ngoài còn sẵn sàng trả mức lương cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm thu hút nhân tài. Do đó, sự cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng găy gắt.
Ví dụđiển hình là nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tài chính ngân hàng. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, các ngân hàng của Việt Nam đã mở thêm rất nhiều chi nhánh. Các ngân hàng thương mại cổ phần đều đồng loạt tuyển dụng một lượng lớn nhân lực (thường đã tốt nghiệp đại học ngành tài chính ngân hàng). Thêm vào đó, các công ty kinh doanh chứng khoán cũng phát triển nhanh chóng làm cho nguồn nhân lực trong ngành này trở nên đặc biệt khan hiếm. Theo dự báo trong năm 2007, nguồn nhân lực cho ngành tài chính ngân hàng sẽ thiếu bởi mỗi năm chỉ có khoảng 2.000 sinh viên ra trường nên chỉđáp ứng được khoảng 40% nhu cầu. Sự khan hiếm nguồn nhân lực có trình độ cao đã khiến cho các doanh nghiệp phải sử dụng chuyên gia nước ngoài và phải trả mức tiền lương rất cao. Một số dịch vụ ngân hàng, y tế có tới 40% tổng số lao động có thu nhập cao từ 14.000USD/năm trở lên đều thuộc người nước ngoài (Ngô Đồng, 2007). Tại một nhà máy gia công giày ở Đồng Nai, tiền lương mà doanh nghiệp phải trả cho 70 chuyên gia nước ngoài tương đương với tổng tiền lương mà doanh nghiệp trả cho 20.000 lao động Việt Nam. Ở nhà máy xi măng Nghi Sơn (Thanh Hoá), 20 vị trí lao động chủ chốt do người Nhật Bản nắm giữđã chiếm một quỹ lương tương đương với tổng số lương của 2.000 công nhân Việt Nam.
3.2.2. Khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Trong lúc tình trạng cung cầu nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang bị mất cân đối thì nền kinh tế phải chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008. Một trong những tác động dễ nhận thấy nhất của cuộc khủng hoảng đó là tình trạng mất việc làm gia tăng do sản xuất bị đình trệ, xuất khẩu giảm sút. Thất nghiệp tăng ngược trở lại, từ 4,64% năm 2007 lên trên mức 5% năm 2008. Theo Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2008), dự kiến năm 2009 khoảng 400- 500 nghìn lao động khu vực doanh nghiệp mất việc làm. Hàng triệu lao động ở các làng nghề cũng đang có nguy cơ mất việc làm. Không dừng lại ở lao động giản đơn, hàng loạt lao động có trình độ, tay nghề cao cũng đã và đang chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi hàng loạt các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, các tập đoàn tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, những ngành nghề vốn là thế mạnh trong năm 2008, buộc phải giảm quy mô nhân sự và cắt giảm chi phí bằng cách sa thải người lao động. Với tình hình kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn như hiện nay, các khu vực tài chính và bất động sản chưa được hồi phục hoàn toàn sẽ khiến nhu cầu nhân lực trong hai ngành này chưa thể lấy lại đà tăng trưởng trong năm 2009. Lĩnh vực công nghệ cao cũng không phải ngoại lệ. Theo giới chuyên môn nhận định thì cho tới tận năm 2010, dự kiến sẽ có khoảng 10% -15% nhân viên IT gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm bởi xu hướng nhu cầu nhân lực IT sẽ không tập trung vào các chuyên gia công nghệ, mà là các công việc chủ yếu liên quan đến lập trình và hỗ trợ dịch vụ sẽ thuê nguồn lực bên ngoài. Và khi cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn chưa hoàn toàn kết thúc thì các lĩnh vực xây dựng, du lịch, dịch vụ cũng sẽ rơi vào tình trạng tương tự.
Mặc dù vậy, theo nhận định của nhiều chuyên gia thì thị trường lao động Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cấp quản lý trở lên ví dụ như các chức danh giám đốc bán hàng, giám đốc tiếp thị, trưởng phòng đối ngoại… Theo một cuộc điều tra tiến hành tại 630 doanh nghiệp trên hai vùng kinh tế trọng điểm là Hà Nội, TP HCM và các tỉnh lân cận của VCCI năm 2009 thì bức tranh về tình hình lao động vẫn không mấy thay đổi, thể hiện ở việc các doanh nghiệp thừa nhận việc tuyển dụng lao động chất lượng cao rất khó khăn. Hầu hết các doanh nghiệp được điều tra đều cho rằng tuyển dụng lao động có kỹ năng đã khó thì tuyển dụng cán bộ quản lý giỏi còn khó hơn nhiều.
Đồng thời, việc giữ lao động ở lại doanh nghiệp mình cũng là vấn đề không dễ dàng. Khi được hỏi về việc giữ lao động giỏi tại doanh nghiệp thì có tới 59% doanh nghiệp khu vực tư nhân, 47% doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và 65% doanh nghiệp nhà nước cho rằng việc giữ lao động giỏi ở lại doanh nghiệp là rất khó. Điều này một lần nữa cho thấy sau khi cuộc khủng hoảng tài chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối cung-cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ TÀI SẢN VÔ HÌNH.
1. Phát triển đầu tư tài sản hữu hình làm tiền đề nâng cao phát triển tài sản vô hình.
1.1 Biện pháp trong doanh nghiệp
1.1.1. Doanh nghiệp tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản hiệu quả
1.1.1.1. Doanh nghiệp chú trọng đầu tư vào máy móc thiết bị
Các doanh nghiệp phải tăng cường nhận những tiến bộ kĩ thuật mới nhưng phải phù hợp với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không tìm hiểu kĩ, bỏ tiền mua những máy móc thiết bị hiện đại, nhưng máy móc thiết bị đó lại quá hiện đại so với phương thức sản xuất hiện tại của doanh nghiệp. Do đó, không thể áp dụng những máy móc thiết bị đó vào sản xuất, và chúng trở thành những vật vô dụng. Vậy là, doanh nghiệp coi như là “vứt” đi 1 số tiền đáng kể làm tổn thất nguồn tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Ngược lại, khi mà doanh nghiệp mua được máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với điều kiện sản xuất hiện tại của doanh nghiệp, thì quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ hiệu quả hơn, năng xuất cao hơn góp phần phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Khi áp dụng nhưng tiến bộ kĩ thuật hiện đại, cách thức sử dụng máy va điều hành hoạt động nâng cao hơn, công nhân học hỏi nhiều kiến thức hơn. Từ đó nâng cao trình độ của công nhân, góp phần phát triển tài sản vô hình của doanh nghiệp
Đồng thời, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra và loại bỏ những máy móc cũ lạc hậu không còn phù hợp với PTSX hiện tại của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp sẽ giảm thiểu tốn kém, giảm những chi phí đáng kể cho việc sửa chữa máy móc cũ kĩ đó.
1.1.1.2 Tạo môi trường làm việc thuận lợi
Doanh nghiệp nên quan tâm đến cơ sở vật chất điều kiện làm việc của công nhân. Thường xuyên đổi mới và trang bị hoàn thiện vi trí làm việc của công nhân, để họ thêm hứng khởi làm việc, và làm việc hiệu quả hơn. Ngoài ra, điều kiện làm việc thoải mái sẽ giúp công nhân phát huy khả năng sáng tạo, có thể đóng góp nhiều ý tưởng sáng tạo góp phần phát triển sản xuất của doanh nghiệp.
1.1.1.3 Đầu tư vào đất đai nhà xưởng bền vững
Doanh nghiệp cần chú trọng vào nguồn tài sản lâu dài phát triển bền vững như : đất đai, nhà xưởng...Phải luôn củng cố, tu bổ và nâng cấp. Tìm kiếm các khu đất có vị trí địa hình thuận lợi hợp lý để mua và xây dựng nhà xưởng mới phát triển mở rộng chi nhánh phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, góp phần tăng thêm giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường khi thực hiện sản xuất kinh doanh. Làm tốt công tác này, dôanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí xử lý hậu quả nhiễm môi trường sau này.
Doanh nghiệp nên tìm vị trí có giao thông vận tải thuận lợi. Như vậy, sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển. Phải khắc phục nếu địa điểm sản xuất kinh doanh không thuận lợi so với điểm tiêu thụ, băng cách tư các phương tiện vận chuyển hợp lý, hoặc đề nghị và xin cấp trên hỗ trợ cải thiện đường xá cho thuận lợi đi lại.
Đầu tư vào hàng tồn trữ hợp lý
Doanh nghiệp cần quan tâm tới hàng tồn trữ , để kịp thời bổ sung khi cần thiết, tránh tình trạng khi sự cố xảy ra không đáp ứng nhu cầu , không cung cấp sản phẩm ra thị trường. Như vậy, khách hàng sẽ tìm kiếm nguồn hàng hóa khác, công ty sẽ mất uy tín và mất dần khách hàng quen, công việc sản xuất kinh doanh tiếp đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, việc cần thiết đầu tư hàng tồn trữ là vì: trong thời gian nghiên cứu thị trường tìm và cho ra đời nhưng sản phẩm mẫu mã mới để cạnh tranh với các đạt công suất cao như trước. Do vậy, cần có hàng hóa và nguyên vật liệu dự trự cung cấp ra thị trường trong thời gian đó.
Cần phải dự trữ nguyên vật liệu phòng khi sự cố xảy ra không nhập được nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên cần tính toán cẩn thận và có biện pháp bảo quản hợp lý, tránh tình trạng uổng phí do hư hỏng.
1.2. Chính phủ sử dụng các biện pháp phát triển đầu tư tài sản hữu hình.
1.2.1.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1.1.Đổi mới cơ chế quản lý
Hạn chế tới mức thấp nhất những sai sót về chủ trương đầu tư. Hạn chế sai sót ngay từ khâu quy hoạch, thiết kế, đến mục tiêu, địa điểm, quy mô đầu tư và lựa chọn công nghệ.
Kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Chấm dứt tình trạng quyết định đầu tư cho các công trình, dự án chưa chắc chắn về nguồn vốn, chưa có tính khả thi cao về thị trường. Nói cách khác phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc:
-Không có thị trường không đầu tư ( kể cả có thị thị trường song căn cứ xác định chưa cao, tính khả thi thấp).
-Không có nguồn vốn chắc chắn không đầu tư.
Tích cực giải quyết nợ tồn đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nghiêm cấm các ngành, các cấp ra quyết định đầu tư bằng vốn nhà nước khi chưa xác định rõ nguồn vốn để thực hiện.
Xây dựng quy chế đảm bảo việc giám sát công trình đầu tư một cách có hiệu quả, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, rút ruột công trình. Chỉ đạo thực hiện các quy định đã ban hành một cách nghiêm ngặt với chế độ trách nhiệm rõ ràng.
1.2.1.2. Đổi mới công tác quy hoạch đầu tư
Nhanh chóng tạo khung pháp lý cho công tác quy hoạch. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường và nâng cao chất lượng phục vụ công tác dự báo và cung cấp thông tin cho các ngành, các địa phương phục vụ công tác quy hoạch. Bảo đảm quy hoạch sẽ là văn bản định hướng cho đầu tư và kinh doanh của mọi thành phần kinh tế.
Rà soát các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm để loại bỏ trường hợp lợi dụng quy hoạch để độc quyền đầu tư; đảm bảo sản xuất gắn liền với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; sản xuất hàng hóa chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Các quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đảm bảo căn cứ khoa học đầy đủ và vững chắc; quy hoạch có tầm nhìn xa, dài hạn, giảm thiểu những thay đổi, điều chỉnh lớn, gây lãng phí.
Nâng cao trình độ, năng lực cán bộ, duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các cấp. Tổ chức tốt việc thẩm định các dự án quy hoạch nhằm từng bước nâng cao chất lương các quy hoạch
Đây là những vấn đề cơ bản đảm bảo cho công tác quy hoạch thật sự là căn cứ đúng đắn cho hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ ngân sách nhà nước có hiệu quả, hạn chế được các hiện tượng dàn trải, chồng chéo, dở dang trong đầu tư.
1.2.1.3. Nghiên cứu bổ sung cơ chế chính sách pháp luật, nâng cao trách nhiệm các cấp các ngành
Hoàn thiên khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý đầu tư. Luật đầu tư 2005 đã thay cho các văn bản cũ còn có điểm chưa phù hợp hoặc chồng chéo với các văn bản khác để thích ứng với cơ chế mới. Chính phủ sớm thông qua nghị định về lập và quản lý quy hoạch để làm căn cứ cho việc nâng cao chất lượng của công tác xây dựng, quản lý quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Nâng cao phẩm chất đạo đức và ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ công chức, kết hợp với việc đẩy mạnh sinh hoạt công khai, dân chủ ở cơ sở và công tác thanh tra, giám sát của cả hệ thống chính trị, của cơ quan quản lý, của nhân dân cũng như thực thi các chế tài đủ mạnh đẻ đảy lùi các hiện tương tiêu cực, tham nhũng.
Thường xuyên công khai và báo cáo về kết quả quá trình thực hiện đầu tư trong tất cả các giai đoạn để kiểm tra, giám sát và kịp thời xử lý các sai phạm, đồng thời biểu dương đích đáng những guơng tốt.
1.2.2. Giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng
Chính phủ nên xúc tiến hoàn thiện các chính sách đền bù thỏa đang trong việc giải phóng mặt bằng cho những người dân sở hữu đất. Giải phóng mặt bằng là một trong những vấn đề tồn tại lớn nhất làm giảm hiệu quả đầu tư của dự án đầu tư nói chung và kết cấu hạ tầng kỹ thuật nói riêng. Để giải quyết vấn đề này cần có sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành. Cụ thể là:
Mỗi khi có dư án cần giải phóng mặt bằng được triển khai trên địa bàn, chính quyền địa phương cần tổ chức thông báo ngay thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng cho người dân trong khu vực bị giải tỏa về dự án, quy trình, định mức, phương thức giải phóng mặt bằng, phân tích để họ hiểu về quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Quan tâm đến công tác đên bù giải phóng mặt bằng ngay từ khâu lập dự án đầu tư. Kế hoạch đền bù phải chi tiết, cụ thể từ phương pháp đền bù đến bước của tiến trình đền bù phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Quản lý chặt chẽ việc đền bù giải phóng mặt bằng để tránh xảy ra những tiêu cực giữa cán bộ phụ trách giải phóng mặt bằng và đối tượng di dời. Đối với những dự án mà kinh phí giải phóng quá lớn cần cần lập hội đồng giải mặt bằng.
Để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, chủ đầu tư cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, từ cơ quan quản lý hoạt động đầu tư cho đến Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cũng như lực lượng công an các quận,huyện, các phường trên địa bàn.
Bên cạnh việc sửa đổi, điều chỉnh, nhà nước cần tiếp tục xây dựng những quy định pháp luật cụ thể về đền bù giải phóng mặt bằng như đối tương đền bù, giá đền bù…để tạo cơ sở pháp lý cho công tác này cũng như có các biện pháp hành chính mạnh mẽ được thực hiên cưỡng chế, xử lý các đối tượng vi phạm.
Kiên quyết xử lý việc lấn chiếm đất công. Đẩy mạnh việc giải tỏa diện tích bị lấn chiếm, quản lý chặt chẽ đất chưa sử dụng để không phải đền bù những diện tích đất bị lấn chiếm lâu năm do buông lỏng quản lý trước đây.
Tránh tình trạng dân không hài lòng với chính sách đền bù gây khó khăn cho các doanh nghiệp thực thi dự án, cũng gây tốn kém chi phí và thời gian. Các chính sách hoàn thiện và hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.
2. Phát triển đầu tư tài sản vô hình làm tăng giá trị tài sản hữu hình.
2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Thực sự việc định giá tài sản vô hình là khó khăn và còn rất mới mẻ ở VN. Cái khó chính không phải ở tri thức về kỹ thuật định giá mà là ở các số liệu kinh tế vĩ mô (nhà nước, xã hội) và vi mô (doanh nghiệp ) làm đầu vào cho mọi kỹ thuật định giá. Tuy nhiên, cả các chủ doanh nghiệp , cả các cơ quan quản lý nên xem đây là trận chiến mà chúng ta phải thắng trong cuộc chơi kinh tế thị trường, kinh tế tri thức và kinh tế toàn cầu.
Không có con đường nào khác là chúng ta phải học và hành. Cứ rụt rè mãi thì mất mát ngày càng nhiều. Các chuyên gia am hiểu vấn đề này ở nước ta còn ít, nhưng khẳng định là có. Dù sao việc các chủ doanh nghiệp học để hiểu, để chỉ huy doanh nghiệp của mình trong trận chiến giành lấy những đồng tiền thật lớn nhờ tài sản vô hình là quan trọng hàng đầu và song song với nó là đào tạo gấp các chuyên gia về định giá tài sản vô hình và sử dụng hiệu quả các chuyên gia tư vấn này.
2.1.1. Doanh nghiệp quản lý tốt công tác tuyển dụng và quản lý lao động.
Trước tiên , tổ chức tốt công tác tuyển dụng để lựa chọn những người có năng lực thực sự, loại bỏ những người không có năng lực. Tránh tình trạng chọn nhầm gây ra hậu quả là làm việc kém hiệu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lập ra một chế độ khen thưởng hợp lý cho những công nhân nhân viên làm việc tốt hiệu quả. Từ đó sẽ khuyến khích họ hăng say công việc và làm việc hiệu quả hơn. Nếu họ làm việc tốt mà lại không có chế độ khen thưởng xứng đáng họ sẽ chán nản và không có động lực để tiếp tục phấn đấu, dẫn đến hiệu quả công việc ngày càng giảm sút. Bên cạnh khen thưởng cũng cần có những hình phạt thích đáng dành cho những người không chịu làm việc gây kìm hãm quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Chế độ thưởng phạt phải thực hiện công bằng minh bạch, có như vậy công nhân nhân viên ngày càng gắn bó với công việc và nỗ lực làm việc phát triển công ty
Ngoài ra, công ty cần phải quan tâm tới sức khỏe của công nhân nhân viên. Vì, có sức khỏe thì họ mới có thể làm việc tốt. Phải đảm bảo an toàn nghề nghiệp giúp họ an tâm làm việc hiệu quả
2.1.2. Doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư vào nguồn lực có hiệu quả hơn: đào tạo và nâng cao chất lượng.
Để có thể phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, ứng dụng tốt nhưng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ công nhân nhân viên có năng lực tốt. Chính vì vậy, công tác đào tạo và nâng và chất lượng nguồn nhân lực của công ty phải được quan tâm hàng đầu. Có rất nhiều phương pháp đào tạo nguồn nhân lực, mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng, sử dụng phương pháp nào phải phù hợp với điều kiện của từng tổ chức.
2.1.2.1: Đào tạo trong công việc
Đào tạo trong công việc là phương pháp đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc, trong đó người lao động sẽ được học những kỹ năng, kiến thức lao động cần thiết thông qua công việc, thường được thực hiện bởi những người lao động lành nghề hơn. Đào tạo trong công việc thường được phân chia thành:
Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc: là phương pháp phổ biến dùng để đào tạo các kỹ năng thực hiện công việc cho hầu hết các công nhân sản xuất và cả các nhà quản lý. Quá trình bắt đầu bằng việc hướng dẫn tỉ mỉ công việc cho người lao động đến khi họ thành thạo thì kết thúc.
Đào tạo theo kiểu học nghề: chương trình đào tạo được bắt đầu bằng việc giảng dạy lý thuyết, sau đó người lao động sẽ được hướng dẫn công việc trực tiếp cho đến khi thành thạo tất cả các kỹ năng của nghề.
Kèm cặp và chỉ bảo: những nhà quản lý có thể học được các kiến thức, kỹ năng của công việc trước mắt cũng như công việc trong tương lai dưới sự kèm cặp của những người giỏi hơn.
Luân chuyển công việc: mục đích của phương pháp này là cung cấpcho người lao động nhiều kinh nghiệm lao động ở những vị trí khác nhau.những công việc đó giúp họ có thêm khả năng để hoàn thành công việc phức tạp hơn trong tương lai.
2.1.2.2: Đào tạo ngoài công việc
Là phương pháp đào tạo trong đó người được đào tạo tách khỏi các công việc thực tế. có thể sử dụng các phương pháp sau:
Tổ chức lớp cạnh doanh nghiệp: đối với một số công việc phức tạp hay công việc đặc thù, doanh nghiệp có thể tổ chức các lớp học cạnh doanh nghiệp với các phương tiện và thiết bị dành riêng cho học tập. Phương pháp này đào tạo người lao động qua hai phần: lý thuyết và thực hành. Cả hai phần này được thực hiện chuyên sâu hơn khiến người đi học có thể học tập một cách có hệ thống.
Cử đi học ở các trường chính quy: tổ chức có thể cử người lao động đi học ở các cơ sở đạo tạo chuyên nghiệp của nhà nước hoặc tư nhân… Người lao động sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức lý thuyết cũng như thực hành. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi sự đầu tư cả về thời gian cũng như chi phí.
Hội nghị hoặc thảo luận: các buổi thảo luận có thể được thực hiện tại tổ chức hay cơ sở riêng biệt. Trong phương pháp này, học viên sẽ được học thông qua ý kiến của những người khác và được dẫn dắt bởi chủ tọa có nhiều kiến thức kinh nghiệm.
Đào tạo từ xa: là phương thức đào tạo mà người dạỵ và học không trực tiếp găp gỡ mà chỉ tiếp xúc thông qua các phương tiện truyền thông vào một thời điểm nhất định. Phương pháp này có ưu điểm nổi bật là cả người dạy và học có thể giải quyết được vấn đề mà không gian học tập, thời gian học tập không bị bó buộc. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi chuyên môn cao, khả năng thiết bị kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy lớn, đòi hỏi sự đầu tư lâu dài.
Tóm lại, có một đội ngũ công nhân viên đầy đủ năng lực trình độ sẽ là sức mạnh cạnh tranh lớn nhất của mỗi doanh nghiệp.
2.1.3. Doanh nghiệp nên tìm kiếm và bồi dưỡng cho nguồn nhân lực tiềm năng.
Quan tâm tìm kiếm và bồi dưỡng nguồn lực tiềm năng trẻ tuổi để dự phòng sẵn sàng thay thế những công nhân nhân viên về hưu hoặc nghỉ việc. Doanh nghiệp có thể liên kết với các trường dạy nghề, để đào tạo những người lao động chuyên nghiệp có năng lực giỏi, giúp giảm chi phí tuyển dụng và chọn được những lao động phù hợp với công việc không mất thời gian đào tạo lại. Doanh nghiệp có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như: cấp học bổng, tài trợ các chương trình đào tạo tiên tiến của trường; liên hệ với các trường dạy nghề nước ngoài liên kết với trường đào tạo các học viên, có trình độ tốt hơn kĩ năng làm việc tốt hơn để phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất. Đặc biệt là quan tâm tới các trường đại học cao đẳng, vì ở đó sẽ đào tạo ra những tri thức sẽ là nguồn lực tiềm năng lớn sẽ góp phần phát triển hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, họ là những người có nhiều ý tưởng sáng tạo sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế xã hội nói chung.
Tuyển được đội ngũ công nhân nhân viên tốt có năng lực, nhưng với điều kiện làm việc không tốt sẽ không phát huy được hết tài năng của họ, gây ra uổng phí nguồn lực. Khi mà họ không có cơ hội phát huy khả năng của mình, họ sẽ không có hứng thú làm việc nên hiệu quả công việc thấp khiến công ty kém phát triển. Do vậy doanh nghiệp nên tạo điều kiện để họ phát huy khả năng, phát triển sáng tạo của mình. Có chế độ khen thưởng hợp lý cho những ý tưởng sáng tạo, phát minh sáng chế góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, phải bảo vệ những quyền sáng chế đó của họ. Từ đó sẽ khuyến khích họ sáng tạo, sáng chế ra các phương thức làm việc hiệu quả, tạo ra sản phẩm tốt làm tăng năng suất lao động góp phần phát triển kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp phải tạo môi trường làm việc thoái mái tiện lợi cho công nhân nhân viên. Có như vậy hiệu quả làm việc tốt hơn và dễ nảy sinh các ý tưởng sáng tạo mới.
2.2 Đầu tư phát triển thương hiệu nhãn mác sản phẩm.
Thương hiệu ngày càng quan trọng, khẳng định thế mạnh của hàng hóa của doanh nghiệp, cho thấy chỗ đứng của sản phẩm hàng hóa đó trên thị trường ra sao. Do vậy, doanh nghiệp phải cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, để gây dựng một thương hiệu tốt chiếm một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Muốn vậy, các doanh nghiệp có thể lăng xê quảng bá thương hiệu của mình bằng cách: tài trợ cho các chương trình sự kiện thể thao giải trí...một cách hợp lý để củng cố và quảng bá thương hiệu. Nhưng trước tiên, các doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ vấn đề bảo hộ quyền sáng chế, đăng kí thương hiệu để tránh tình trạng tranh chấp về thương hiệu gây thất thoát tài chính của doanh nghiệp.
Truớc kia mọi người chỉ coi trọng tài sản hữu hình mà xem nhẹ tài sản vô hình. Mọi người đều không nghĩ là tài sản vô hình đóng vài trò rất quan trọng trong sản xuất và nâng cao vị thế cạnh tranh của công ty. Chính vì vậy nên đối xử bình đẳng giữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Chiến lược sử dụng tài sản trí tuệ có thể nâng cao căn bẳn tính cạnh tranh cho công ty. Giống như tài sản hữu hình , tài sản trí tuệ phải được đăng kí bảo hộ, duy trì và phát triển, được tính toán định giá, giám sát chặt chẽ và quản lý cẩn thận nhằm có được nhiều giá trị nhất.
Tuy nhiên trước khi việc này được thực hiện , trước tiên các DN phải nhận thức được giá trị của quyền sở hữu trí tuệ và bắt đầu nhìn nhận chúng như một tài sản kinh doanh có giá trị.
Nếu DN tự sáng tạo công nghệ mới, vừa có quyền sử dụng vừa có quyền sở hữu thì cũng phải xem xét kĩ luật bảo hộ quyền sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ để tránh tình trạng bị ăn cắp mất bản quyền, gây tổn thất lớn về giá trị cho DN. Nếu sử dụng quyền sở hữu trí tuệ do người khác sở hữu thì phải xem xét việc mua quyền sở hữu trí tuệ hoặc có được quyền sử dụng các quyền này bằng cách đặt được licience để tránh những tranh chấp về kiện tụng tốn kém sau này.
Biện pháp quan trọng để sử dụng các loại tài sản vô hình là bảo hộ pháp lý các tài sản vô hình nếu chúng đủ điều kiện để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, quyền sở hữu trí tuệ có thể đặt được theo các dạng sau đây của tài sản vô hình: sản phẩm và quy trình đổi mới( thông qua sáng chế và giải pháp hữu hình); phần mềm máy tính và tập hợp dữ liệu ( thông qua bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ); kiểu dáng sáng tạo, bao gồm kiểu dáng hàng dệt may( thông qua kiểu dáng công nghiệp); dấu hiệu phân biệt ( chủ yếu thông qua bảo hộ nhãn hiệu , bao gồm nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận ); các vi mạch ( thông qua các mạch tích hợp bán dẫn) và bí mật thương mại ( bảo hộ thông qua thông tin bí mật có giá trị thương mại).
Đầu tư để đạt được các quyền sở hữu trí tuệ là đặc biệt quan trọng để nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp. Việc đầu tư vào thiết bị , tài sản, phát triển sản phẩm, tiếp thị và nghiên cứu có thể cải thiện mạnh mẽ tình hình tài chính của một công ty thông qua mở rộng giá trị tài sản và phát triển năng suất trong tương lai. Để thực thi quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả, cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau:
- Tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhất là các quy phạm thực thi. Đặc biệt, trình tự dân sự phải được áp dụng triệt để và phổ biến nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến loại tài sản vô hình này, mà việc đầu tiên là chấn chỉnh lại toàn bộ các quy phạm về chế tài bảo đảm thực thi theo hướng lấy trật tự dân sự làm biện pháp chủ yếu, còn chế tài hành chính chỉ được áp dụng như một biện pháp bổ sung cho chế tài dân sự khi mà sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vượt quá mức dân sự.
- Sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi, từ tòa án đến các cơ quan bảo đảm thực thi nội địa: Thanh tra (nhà nước và chuyên ngành), ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế phải được tạo điều kiện áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân công rõ ràng chức năng quyền hạn của từng cơ quan theo hướng một cơ quan đầu mối, đó là thanh tra chuyên ngành, còn tòa án giải quyết các vụ kiện dân sự, ủy ban nhân dân, thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt (tùy theo hình thức và mức phạt), cảnh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra, hải quan kiểm soát ở biên giới về sở hữu trí tuệ.
- Tăng cường các hoạt động dịch vụ thông tin về sở hữu trí tuệ, đồng thời củng cố và nâng cao vai trò của các hội về sở hữu trí tuệ trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ. Cần mở rộng đội ngũ những người tham gia hoạt động này, bằng cách nhanh chóng tổ chức các hình thức bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ cho đội ngũ luật sư và những người khác. Tiếp tục cải cách hệ thống thông tin sở hữu trí tuệ với mục tiêu nâng cao năng lực tài nguyên thông tin và năng lực vận hành của cả hệ thống. Mở rộng diện những người dùng tin, tạo sự gần gũi, hấp dẫn đối với toàn xã hội. Thành lập các trung tâm bảo vệ bản quyền cho các loại hình nghệ thuật. Các hội sở hữu trí tuệ cần phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật và thông tin, hướng dẫn nhận thức bằng những vụ việc cụ thể trong hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, động viên các đối tượng trong xã hội, nhất là thu hút các doanh nghiệp - chủ thể quyền sở hữu công nghiệp tham gia tích cực hơn vào bảo vệ sở hữu trí tuệ.
- Xây dựng mối quan hệ có tính chất cân bằng cùng có lợi giữa chủ sở hữu và người tiêu dùng. Tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế cho các loại sản phẩm/hàng hóa có nhu cầu sử dụng lớn hoặc liên quan đến nhiều người. Cần khuyến khích mở các cuộc thương lượng giữa những người có nhu cầu khai thác với các chủ sở hữu nhằm giảm giá hàng hóa, tăng lượng hàng cung cấp cho xã hội. Đối với những sản phẩm/hàng hoá có nhu cầu sử dụng lớn hoặc có liên quan đến lợi ích công cộng (như thuốc chữa bệnh) ngoài các biện pháp trên cần lưu ý đến công cụ giấy phép, cũng như Nhà nước cần tập trung đầu tư và nhập khẩu nguồn sản phẩm giá rẻ để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng thay thế các sản phẩm giá quá cao do bị khống chế bởi chủ sở hữu.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: biến tài sản vô hình thành tài sản hữu hình. Một vấn đề quan trọng trong bảo hộ pháp lý quyền sở hữu trí tuệ khác là chúng biến các tài sản vô hình thành các tài sản độc quyền ,cho dù chỉ trong một thời gian nhất định. Các quyền này cho phép DN nhỏ và vừa đặt quyền sở hữu đối với tài sản vô hình và khai thác tối đa các tài sản này. Tóm lại bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm cho tài sản vô hình “trở nên hữu hình” bằng cách biến chúng thành các tài sản độc quyền có giá trị có thể trao đổi thương mại được trên thị trường.
Nếu các ý tưởng đổi mới , các kiểu dáng sáng tạo và thương hiệu mạnh của doanh nghiệp không được bảo hộ pháp lý bằng các quyền sở hữu trí tuệ thì chúng có thể tự do hóa và rộng rãi bởi các doanh nghiệp khác mà không hề có sự hạn chế nào. Tuy nhiên , khi được bảo hộ sở hữu trí tuệ, chúng sẽ tạo ra giá trị nhất định đối với doanh nghiệp vì chúng trở thành các quyền tài sản mà không bị thương mại hóa hoặc sử dụng nếu không có sự cho phép của chủ nhân chúng.
Tương tự , một nhãn hiệu tốt uy tín tốt đối với người tiêu dùng cũng có thể nâng cao giá trị hiện tại của công ty và có thể đóng góp quyết định cho sản phẩm và dịch vụ của công ty trở nên hấp dẫn hơn đối với khách hàng. Do đó , việc đầu tư phát triển một tài sản trí tuệ sẽ quan trọng hơn là một hoạt động phòng thủ chống lại đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Đó là cách làm tăng giá trị thị trường và cải thiện lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai.
Khi đã có thương hiệu uy tín trên thị trường phải ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nhiều sản phẩm mới tốt hơn để củng cố thương hiệu, giúp cho doanh nghiệp có chỗ đứng ngày càng vững chắc và có sức để cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường.
2.3. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển đầu tư tài sản vô hình.
2.3.1 Hoàn thiện bộ luật và tạo môi trường đầu tư thông thoáng.
Chính Phủ và Nhà nước củng cố và hoàn thiện bộ luật rõ ràng và minh bạch trong việc bảo hộ quyền sáng chế, nhãn mác, thương hiệu hàng hóa. Các doanh nghiệp có thể đăng kí nhãn mác thương hiệu một cách dễ dàng không phức tạp.Ngoài ra, Nhà nước tạo môi trường đầu tư thuận lợi , áp dụng hợp lý chính sách thuế để doanh nghiệp có thể phát huy hết khả năng và tiềm lực góp phần phát triển nền kinh tế xã hội.
2.3.2 Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế.
Mối quan hệ thể hiện ở chỗ các chiến lược phát trển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu nguồn nhân lực( số lượng ,kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược phát triển nền kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể giải quyết tận gốc tình trạng thiếu hụt nhân lực , đồng thời biến gánh nặng dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam trong thế kỉ 21.
Phải có sự liên kết giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các Bộ ngành khác trong công tác phát triển nguồn nhân lực hiệu quả. Để làm tốt công tác này sự phối hợp đa ngành đóng một vai trò quan trọng, do đó cần thiết lập một cơ quan lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia( Human Resource Development Planning Center – HRDPC) trực thuộc Chính phủ , để tạo sự liên kết ngang giữa các Bộ, ngành địa phương với Bộ giáo dục và Đào tạo. Cụ thể về hoạt động của mô hình này như sau:
Thông tin về nhu cầu nhân lực( số lượng, kỹ năng ) phải được trình lên HRDPC. Thông tin này cần làm rõ về số lượng, thời gian và đặc biệt là nhưng kỹ năng cần thiết đối với người lao động. HRDPC tổng hợp những thông tin thu thập được và biến nó thành một đơn đặt hàng đối với Bộ giáo dục và Đào tạo. Đề bài này là hệ thống các thông tin chi tiết về yêu cầu nguồn nhân lực của cả nước, trong ngắn hạn và dài hạn của các ngành kinh trên cả nước. Bộ giáo dục và Đào tạo tiếp nhận thông tin này , trên cơ sở đó đặt hàng chỉ tiêu đào tạo trên cả nước.
Để mô hình này hoạt động có hiệu quả, HRDPC phải là cơ quan có quyền lực đủ lớn , do đó người đứng đầu nhất thiết phải là Thủ tướng Chính phủ, các thành viên thường trực bao gồm đại diện các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo lớn trên toàn quốc.
2.3.3 Để phát triển nguồn nhân lực cần phải làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo.
Để phát triển nguồn nhân lực cho vùng , Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương nên thống nhất trước mắt nên làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo. Muốn làm được như vậy thì cần thay đổi hệ thống sản xuất để nông dân làm giàu trên mảnh đất của mình. Khi đó họ sẽ quan tâm đến Giáo dục, đóng góp tích cực vào công tác xã hội hóa giáo dục. Cần phải đầu tư nâng cao quy mô sản xuất, nâng cao dân trí người nông dân. Dân nghèo thì sự nghiệp giáo dục không thể phát triển được.
Cần phải xác định vùng nào , địa phương nào có tiềm năng gì , lợi thế để tập trung đào tạo nguồn nhân lực nhằm nghiên cứu chiều sâu chuyên ngành…
2.3.4 Thực hiện chính sách khuyến khích học nghề.
Chính sách hỗ trợ người học nghề đã được Nhà nước thực hiện với nhiều ưu đãi. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, tới nay việc học nghề vẫn chưa thu hút được phần đông học sinh tốt nghiệp phổ thông.
Nguyên nhân có thể kể tới tâm lý người học chưa mặn mà với việc học nghề, song, điều quan trọng là cơ quan quản lý và các cơ sở đào tạo chưa có chiến lược xây dựng ý thức mỗi người cần phải giỏi ít nhất một nghề để đảm bảo cuộc sống.
Mới đây, Dự thảo Quy định cơ chế và sử dụng học phí đối với các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010 - 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có một bước đột phá. Theo đó, các đối tượng ưu đãi, miễn giảm được phân định khá rõ ràng. Có những trường hợp được giảm tới 70% học phí, thậm chí nếu thuộc đối tượng chính sách theo quy định có thể được miễn hoàn toàn.
Tuy nhiên, điểm cần nhấn mạnh trong Dự thảo này, cũng được xem là một bước tiến trong quá trình thúc đẩy nâng cao chất lượng lao động, đó là việc miễn giảm 50% học phí cho học sinh tốt nghiệp phổ thông tham gia các lớp học nghề.
Đây có thể được xem là sự tiến bộ trong việc xây dựng chính sách. Và sự tiến bộ ấy là một chiến lược dài hơi, có tính tích cực và tác động mạnh mẽ tới sự phát triển chung của toàn xã hội.
Bởi lẽ, chất lượng lao động đánh giá trình độ phát triển kinh tế nói chung và trình độ sản xuất nói riêng của mỗi quốc gia. Đặc biệt khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), dù muốn hay không, chúng ta cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt về mọi lĩnh vực sản xuất, dịch vụ. Trong đó, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng, là thành tố quyết định sự thành bại nếu muốn cạnh tranh với các thị trường khác trên thế giới.
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Việt Nam hiện có tới 75% lực lượng lao động chưa qua đào tạo một cách chính quy, số còn lại dù được đào tạo song tỉ lệ vững tay nghề rất thấp. Điều đó khẳng định lao động Việt Nam dù được công nhận một cách cảm tính rằng cần cù, chịu khó, khéo léo nhưng không thể bù đắp cho trình độ, đồng nghĩa với việc sản phẩm của nước ta có chất lượng không cao.
Tiến hành khảo sát nhu cầu lao động hàng năm đối với các ngành nghề nói chung và ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-thủy sản nói riêng để có kế hoạch tổ chức đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tế.
Thành lập Website về nhân lực của thành phố; Tổ chức thường xuyên các Hội chợ việc làm; Thúc đẩy việc chuẩn hóa các cơ sở đào tạo nghề hiện có; Thành lập Trung tâm đánh giá chất lượng đào tạo nghề; Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp trong đào tạo và tuyển dụng nhân lực; Trích lập Quỹ đào tạo tại doanh nghiệp
Ngoài các biện pháp trên, khi đầu tư vào phát triển máy móc công nghệ đủ 4 yếu tố : thiết bị, thông tin, con người và thể chế trước khi kí quyết định cho các doanh nghiệp nhà nước nhập khẩu những công nghệ không phù hợp. Tránh tình trạng “tiền chùa” cứ dùng “bừa bãi” không hiệu quả Ngân sách Nhà nước
KẾT LUẬN
Tóm lại, tài sản hữu hình và tài sản vô hình luôn phải gắn chặt và bổ sung cho nhau không thể tách rời trong hoạt động sản xuất và phát triểnkinh tế. Chúng ta cần phải nâng cao củng cố mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Chúng giống như 2 cánh tay đắc lực của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế. Tài sản hữu hình tạo tiền đề để nâng cao và phát triển tài sản vô hình, tài sản vô hình là công cụ cạnh tranh chủ yếu để phát triển doanh nghiệp, góp phần tăng giá trị tài sản hữu hình. Chúng ta ngày càng phải chú trọng phát triển đầu tư cho cả hai loại tài sản này một cách hiệu quả để có thể đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển, và đuổi kịp được các nước phát triển trên Thế Giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt –PGS. TS. Từ Quang Phương - Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân
Tạp chí Kinh tế và phát triển
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Báo Đầu tư
Giáo trình Quản trị nhân lực – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
Luận văn khoa Đầu tư khóa 44, 45
Kinhtedautu.org
Dantri.com
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình.doc