Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ 2 I. Lãi suất: 2 1. Khái nệm chung về lãi suất. 2 2. Vai trò của lãi suất. 2 3. Phân loại lãi suất. 3 3.1 Phân loại theo nguồn sử dụng: 3 3.2. Phân loại theo giá trị thực: 4 3.3. Phân loại theo phương pháp tính lãi: 4 3.4. Phân loại theo loại tiền: 5 3.5 .Phân loại theo độ dài thời gian: 5 4.Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất. 5 4.1 Cung cầu các quỹ cho vay: 5 4.2 Lạm phát kì vọng: 5 4.3 Bội chi ngân sách: 6 4.4 Những thay đổi về thuế: 7 4.5 Những thay đổi trong đời sống xã hội: 7 II. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR- RATE OF RETURN) 7 1. Khái niệm và phân loại tỷ suất lợi nhuận. 7 1.1 Lợi nhuận thuần: 7 1.2 Tỷ suất lợi nhuận: 8 2. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR – Rate Of Return) 9 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và ý nghĩa của việc tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. 10 III. Qui mô vốn đầu tư 11 1. Vốn đầu tư 11 1.1 Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế 11 1.2 Đặc trưng của vốn đầu tư. 12 2. Quy mô vốn đầu tư. 12 2.1 Khái niệm : 12 2.2 Vai trò của quy mô vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế : 12 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng quy mô vốn đầu tư. 16 IV. Lí luận về mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư. 18 1. Mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay và qui mô vốn đầu tư. 18 1.1 Tác động của lãi suất tiền vay đến qui mô vốn đầu tư. 18 1.2. Tác động của quy mô vốn đầu tư tới lãi suất tiền vay 21 2. Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư. 22 2.1 Tác động của tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư đến qui mô vốn đầu tư: 22 2.2. Tác động của qui mô vốn đầu tư đến tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 24 3.Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay và tỷ̉ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 25 3.1 Tác động của lãi suất vốn vay đến tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. 25 3.2 Tác động của tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư đến lãi suất vốn vay. 28 4. Mối quan hệ giữa ba yếu tố: lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư. 28 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỐN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM 31 I. Thực trạng lãi suất tiền vay, tỉ suất lợi nhuận, quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 31 1. Lãi suất 31 1.1 Thực trạng: 31 1.2 Đánh giá thực trạng lãi suất: 34 2. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. 36 2.1 Thực trạng tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: 36 2.2 Đánh giá tỷ suất lợi nhuận thông qua hệ số ICOR 40 3. Qui mô vốn đầu tư. 42 3.1 Thực trạng qui mô vốn đầu tư ở Việt Nam hiện nay : 42 Vốn đầu tư nước ngoài 43 3.2 Đánh giá qui mô đầu tư hiện nay: 47 III. Thực trạng mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam: 49 1. Mối quan hệ giữa lãi suất và qui mô đầu tư 49 2. Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và qui mô vốn đầu tư 56 3. Thực trạng mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận: 56 4. Thực trạng mối quan hệ của lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam: 57 CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT TIỀN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM 59 I. Giải pháp về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất. 59 1. Điều chỉnh lãi suất hợp lý để thúc đẩy đầu tư: 59 2. Phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng: 61 3. Giải pháp về cơ chế điều hành lãi suất: 62 II. Giải pháp tăng hiệu quả đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn 64 1. Sử dụng vốn ngân sách nhà nước: 64 2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA: 66 3. Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI: 66 III. Giải pháp về tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. 67 1. Tối đa hóa lợi nhuận: 68 2. Tăng hệ số quay vòng vốn: 68 IV. Các giải pháp về quy mô vốn đầu tư. 68 1. Các giải pháp mang tính vĩ mô: 68 1.1 Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế: 68 1.2 Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: 69 1.3 Xây dựng các chính sách huy động nguồn vốn có hiệu quả: 69 2. Các giải pháp riêng đối với từng nguồn vốn: 70 2.1 Giải pháp mở rộng qui mô vốn đầu tư trong nước: 70 2.2 Giải pháp mở rộng qui mô vốn đầu tư nước ngoài: 70 LỜI KẾT 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 74

doc77 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3564 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ tỷ lệ nghịch, khi lãi suất tăng thì chi phí đầu tăng, quy mô vốn  đầu tư sẽ giảm. Và ngược lại khi lãi suất giảm thì quy mô vốn đầu tư sẽ tăng . Vì vậy các quốc gia sử dụng lãi suất là một công cụ mạnh để kích thích đầu tư phát triển . Lộ trình tự do hóa lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất huy động vốn của Viêt Nam chia thành nhiều giai đoạn ,mỗi sự thay đổi của chính sách lãi suất đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế.          Bắt đầu từ tháng 8/2000 trần lãi suất bắt đầu bị phá bỏ thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố .Từ lúc này các ngân hàng bắt đầu ấn định mức lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.Chính sách này có nhiều tích cực nhưng đối tượng nông dân và doanh nghiệp các vùng nông thôn khó tiếp cận được với những khoản vốn vay của ngân hàng bởi việc cho các vùng nông thôn đòi hỏi chi phí cao trong khi các tổ chức tín dụng lại bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay. Do vậy các doanh nghiệp các hộ nông dân phải đi vay với lãi suất gấp 4 lần lãi suất ngân hàng. Do vậy quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa thực sự được mở rộng. Đến tháng 6/2002 lãi suất được tự do hóa hoàn toàn trên cơ sở các ngân hàng tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố chỉ có tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng đồng thời lãi suất cho vay của các ngân hàng đã ngay lập tức nhích lên. Các ngân hàng thương mại tùy vào mức độ rủi ro của các dự án vay vốn mà ấn định các mức lãi suất khác nhau. Hoạt động lãi suất phản ánh cung cầu vốn vay trên thi trường. Các đối tượng vay như hộ gia đình, nông dân hay các doanh nghiệp  nhỏ không còn bị loại ra khỏi cuộc chơi như trước đây. Trong nền kinh tế nhiều đối tượng hơn được tiếp cận với quy mô vốn của các ngân hàng, do đó quy mô vốn vay của nền kinh tế được mở rộng Bảng 8: Tác động của lãi suất cơ bản tới đầu tư giai đoạn 2000 – 2009: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 LSCB 7.2 8.0 7.2 7.5 7.5 7.8 8.25 8.32 14 8 VĐT/GDP 34.2 35.4 37.2 37.8 38.6 40 41 44 43.1 43.9 Qua bảng trên ta nhận thấy một xu hướng rõ nét là khi lãi suât cơ bản giảm, tỷ trọng VĐT/GDP sẽ tăng .Năm 2002 lãi suất cơ bản giảm 0.8% so với 2001 đây là một nguyên nhân kích thích tăng tỷ lệ đầu tư từ 35.4% năm 2001 đến 37.2% năm 2002. Quy mô thu  nhập hay những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng có tác dụng kích thích cầu đầu tư. Và trong điều kiện nước ta hiện nay khi nhu cầu đầu tư phát triển đang gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ VĐT/GDP tăng nhanh hay chậm lại và thông thường quy mô đầu tư xét trong một giai đoạn cho ta kết quả tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế.           Theo thông số lạm phát năm 2003 là 3%, theo các nhà kinh tế thì với mức lãi suất như vậy nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng  thiểu phát. Từ năm 1999 -2003 bình quân tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6.54% ,CPI là 1.44% .CPI/GDP=0.22 lần ,lạm phát thấp đến mức thiểu phát tăng trưởng kinh tế ở mức độ thấp.Nhưng tăng trưởng GDP vẫn đạt 7.24% cao  nhất từ năm 1996 là do nhà nứơc đã kích cầu tiêu dùng đúng hướng, chính sách hạ lãi suất từ năm 2002 đã phát huy tác dụng ở giai đoạn này.        Từ giữa năm 2004 đến nay cùng xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của các ngân hàng trong nước không ngừng tăng. Từ năm 2005 đến nay ngân hàng nhà nước đã 3 lần tăng một số lãi suất chủ đạo là lãi súât tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, 2 lần tăng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam.Theo số liêụ của ngân hàng nhà nước, trong năm 2005, lãi suất huy động VNĐ tăng 0.6-1.2%/năm, lãi suất cho vay VNĐ tăng 0.6 % /năm, lãi suất huy động bằng USD tămg 1.2-2.5%/năm và lãi suất cho vay bằng USD tăng 0.7-1.5%/năm so với cuối năm 2004. Trong những tháng cuối năm 2006 lãi suất lãi suất tiền gửi bằng VNĐ của dân cư kỳ hạn 12 tháng lên tới 8.25% đối với NHTM và 8.7% đối với NHCP, lãi suất tiền gửi bằmg USD tăng mạnh và đạt mức xấp xỉ 5% /năm.        Lãi suất năm 2007 chính thức khởi tranh giữa các ngân hàng. Mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Lãi suất thi nhau “phá rào”, Nhiều ngân hàng thương mại đã “phá rào” lãi suất thỏa thuận, bỏ qua nỗ lực “dàn xếp” của các bên thời gian qua. Sau đó với lỗ lực ổn định lãi suất của các ngân hàng, vào tháng 8 lãi suất cơ bản VND tiếp tục ở mức 8,25%/năm. Ngày  31/7, Ngân hàng Nhà nước thông báo lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam đựơc áp dụng từ ngày 1/8 tiếp tục duy trì ở mức 8,25%/năm. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6,5%/năm và lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Tình trạng lãi suất ngân hàng liên tiếp tăng cao trong các tháng cuối năm đã khiến các doanh nghiêp và các nhà đầu tư co cụm sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn này nền kinh tế đang phát triển theo chiều rộng, nên lợi nhuận /vốn của doanh nghiêp không cao do đó khi lãi suất tăng thì chi phí đầu vào doanh nghiệp cũng tăng cao ,giá thành sản phẩm ngày càng cao trong khi việc tăng giá bán trong bối cảnh lạm phát cao là rất khó khăn. Do vậy điều tất yếu là các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đầu năm 2008 ,do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng thương mại càng trở nên nóng bỏng hơn .Việc chạy đua tăng lãi suất huy động vốn nội tệ (VND) diễn ra từ tháng 1 đến đầu tháng 2-2008, lan rộng ở hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM). Nguyên nhân là do cầu về vốn tiền đồng tăng cao, nhưng nguồn cung về tiền hạn chế, điều đó làm cho tiền đồng VND khan hiếm.Ở thời điểm này,lãi suất kỳ hạn 12 tháng của hầu hết các ngân hàng đều đã lên mức 9,6%/năm; một số trường hợp đã vọt tới 10,5%. Trước tình trạng này hầu hết các doanh nghiệp đều lâm vào khó khăn trong việc huy động vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày 19/5/2008 mức lãi suất cơ bản đạt mức 12%/năm và tiếp tục tăng mạnh trong các tháng tới ngày 1/7/2008 đạt mức kỷ lục 14%/năm, ngày 21/10/2008 đạt mức 13%/năm sau đó lãi suất cơ bản mới bắt đầu hạ nhiệt dần dần. Với lãi vay vốn quá cao, nhiều tổ chức, cá nhân và DN không dám vay vốn sản xuất, kinh doanh hoặc đầu tư vào các dự án. Nhiều dự án đã không được phê duyệt do chi phí vay vốn lớn doanh nghiệp không có khả năng hoàn vốn. Từ đó sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, do đó mục tiêu về tốc độ tăng trưởng kinh tế là 9% trong năm 2008 đã không đạt được. Ngoài ra, lãi suất cho vay cao cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng.Khi lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu NHNN, trong khi đó lãi suất cho vay lại tăng chậm hơn lãi suất huy động vốn. Cộng thêm tốc độ tăng trưởng dư nợ tăng chậm hơn tốc độ huy động vốn, làm cho lợi nhuận của các NHTM giảm đi, điều đó đã ảnh hưởng tới năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước với các ngân hàng nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế. Ngoài ra, Qui mô vốn lớn cũng dễ dàng đưa tới hiệu suất sử dụng trên từng đồng vốn thấp. Khi này, mục tiêu tăng vốn để củng cố năng lực cạnh tranh không đạt..Bên cạnh đó,việc các doanh nghiệp sẽ không vay vốn nhiều từ ngân hàng như trước và có thể gây ra hiện tượng thừa vốn ở các ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các ngân hàng. Đến năm 2009 nhìn chung nền kinh tế đang dần đi vào phục hồi lãi suất cũng duy trì tương đối ổn định các tháng đầu năm trung bình ở mức 7%/năm điều này đã lấy lại lòng tin từ các nhà đầu tư khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn trở lại hoạt động kinh doanh, từ đó dần khôi phục nền kinh tế nước nhà. Nguyên nhân của vấn đề : - Sự biến động của giá dầu mỏ và giá vàng trên thị trường quốc tế cũng ảnh hưởng lớn đến sự biến động của lãi suất ở Việt Nam. - Do sự chênh lệch lãi suất VND giữa các NHTMNN và NHTMCP nên các NHTMNN vẫn phải điều chỉnh tăng lãi suất huy động cao hơn lãi suất tiết kiệm để giữ thị phần trên thị trường tiền gửi, ổn định nguồn vốn huy động, tránh chuyển dịch nguồn vốn sang các NHTMCP. - Trong hoàn cảnh hội nhập các NHTM buộc phải tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính đủ sức cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế. Vì vậy để tăng nguồn huy động các NHTM phải tăng lãi suất huy động và đã trực tiếp tác động làm tăng mặt bằng lãi suất. - Thời điểm cuối năm 2007 và nhất là đầu năm 2008, lạm phát trên thị trường Việt Nam tăng cao,chỉ số CPI cũng tăng cao, lên tới 19,57% kéo theo lãi suất danh nghĩa tăng và luôn lớn hơn lãi suất thực tế. Chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát. - NHNN tăng lãi suất nhằm đảm bảo tăng lợi ích tiền gửi,nói cách khác là đưa lãi suất dần tiến tới lãi suất thực dương. Thứ hai. nếu xem xét kỹ các đối tượng được hưởng lãi suất vay ưu đãi của các ngân hàng thì thấy rằng mới chỉ có các tập đoàn, tổng công ty, công ty, doanh nghiệp (chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước) trực tiếp sản xuất-kinh doanh các sản phẩm như: Xăng dầu, năng lượng, sắt, than, ximăng, thuốc chữa bệnh, phân bón...; các DN được Chính phủ trực tiếp chỉ đạo tham gia tạo lập và bình ổn các cân đối lớn của nền kinh tế là được hưởng lãi suất ưu đãi. Việc các NHTM nhà nước cung ứng vốn cho điện lực và dệt - may là ví dụ. Bên cạnh đó, có dư luận cho rằng một số ngân hàng tuyên bố hạ lãi suất cho vay thực chất là công bố mức lãi suất vẫn áp dụng lâu nay (luôn thấp hơn mức trần) cho các khách hàng truyền thống của mình. Hiện tại, ngoài các DN được hưởng ưu đãi, các DN đặc biệt là các DN nhỏ và vừa và khách hàng cá nhân đa phần vẫn phải chịu mức lãi suất vay trần (21%/năm) và rất khó khăn để tiếp cận vốn ngân hàng. Nguyên nhân hạ nhiệt về mức lãi suất: - Ngân hàng Nhà nước tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, như nghiêm cấm việc thu thêm phía ngoài lãi suất cho vay dưới bất kỳ hình thức nào, yêu cầu các ngân hàng thương mại có mức lãi suất huy động vốn VND trên 17,5%/năm thì phải báo cáo,… đồng thời tăng cường kiểm tra việc chấp hành các quy định có liên quan. - Bản thân nhiều ngân hàng thương mại cũng nhận thức được rằng việc tăng cường cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn thời gian qua đem lại rất ít hiệu quả về việc tăng trưởng quy mô thu hút tiền gửi, nhưng lại làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bản thân ngân hàng thương mại. Bởi vì với lãi suất cơ bản là 14%/năm và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại tối đa không vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản, tức không được vượt quá 21%/năm. Do đó với lãi suất huy động vốn VND trên 17,5%/năm cho các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, trừ đi tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 11%, trừ đi tiền gửi bảo đảm thanh toán và tiền mặt tồn quỹ… thì chênh lệch giữa lai suất cho vay và chi phí huy động vốn đầu vào mà ngân hàng thương mại thu được không còn bao nhiêu. - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, một ngân hàng thương mại Nhà nước có quy mô lớn, mạng lưới rộng, uy tín và thương hiệu được đông đảo khách hàng tin tưởng, mới đây đã tuyên bố giảm nhẹ lãi suất cho vay từ 0,20%/năm đến 2,0%/năm. Quyết định đó cả ngân hàng này phát đi một tín hiệu về mặt tâm lý đối với các ngân hàng thương mại khác cân nhắc khi điều chỉnh tăng lãi suất huy động vốn của mình. - Chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội – CPI có xu hướng giảm, nhập siêu giảm mạnh, diễn biến kinh tế vĩ mô có chiều hướng tích cực, các biện pháp kiềm chế lạm phát đang bắt đầu phát huy hiệu quả. Tình hình này tác động tới tâm lý của cả các ngân hàng thương mại trong cạnh tranh huy động vốn và cả tâm lý người gửi tiền theo chiều hướng tích cực. - Thị trường ngoại tệ hạ nhiệt. Giá USD trên thị trường tự do đã giảm mạnh, nên góp phần ngăn chặn tình trạng sử dụng vốn nội tệ hay rút tiết kiệm sang mua USD để cất trữ hay gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng thương mại làm cho nhu cầu vốn nội tệ bớt căng thẳng. - Tin đồn và diễn biến tâm lý về tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là tin đồn thiếu cơ sở và thiếu thực tế về thanh khoản của một số ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ, ngân hàng thương mại cổ phần mới chuyển từ nông thôn lên thành thị,… đã bị loại bỏ. - Tính thanh khoản của nền kinh tế chuyển biến tích cực, đặc biệt là tính thanh khoản của thị trương chứng khoán đã được cải thiện rõ rệt. Tình hình đó tác động đến cả tâm lý của thị trường tiền tệ và tác động đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Thứ ba, những diễn biến nói trên là đáng mừng, tuy nhiên hiện nay lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại vẫn còn cao. Trong khi lãi suất USD của FED vẫn không thay đổi, ở mức 2,0%/năm tư cuối tháng 4/2008, lãi suất USD trên thị trường quốc tế cũng ở mức thấp, nhưng lãi suất huy động vốn USD và cho vay USD của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức rất cao ( cao nhất lên tới 7,0% - 7,5%/năm), lãi suất cho vay lên tới 10%/năm và cao hơn. Thứ tư, lãi suất đã giảm nhưng vẫn chỉ mang tính chất thăm dò thị trường, có thể là do hai nguyên nhân sau: - Ngân hàng vẫn e ngại tỉ lệ lạm phát cao 5 tháng cuối năm khó huy động tiền gửi. - Nhu cầu vốn cho vay và thanh khoản quý IV và đầu năm 2009 theo quy luật luôn rất cao. Sự cạnh tranh thu hút nguồn vốn VND vẫn diễn ra gay gắt. Các NHTMCP quy mô nhỏ vẫn tiếp tục giữ mức lãi suất tiền gửi cao nhất gần sát hoặc bằng 19%/năm. Chưa nhiều ngân hàng thực sự yên tâm với triển vọng của thị trường. Một chuyên gia tài chính-ngân hàng nhận định: "Cuộc chiến huy động lãi suất vẫn manh nha bùng nổ nếu có sự dịch chuyển mạnh đồng vốn tiền gửi từ các NHTM trung bình và nhỏ sang các NHTM lớn hơn, uy tín hơn và nếu các công ty tài chính của các tập đoàn tăng huy động vốn trên thị trường để đáp ứng sự thiếu hụt vốn của các thành viên khác trong tập đoàn; khi họ không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng". Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và qui mô vốn đầu tư Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 ICOR 4.8 4.89 5.01 5.08 4.91 4.68 4.88 4.9 6.66 8.0 VĐT\GDP 34.2 35.4 37.2 37.8 38.6 40.0 41.0 44 43.1 43.9 TĐTTKT(%) 6.75 6.89 7.08 7.26 7.7 8.4 8.17 8.48 6.23 5.32 Hệ số ICOR phản ánh giá trị sử dụng vốn hay tỷ suất lợi nhuận. Ta thấy rằng từ năm 2000 đến năm 2007 thì hệ số ICOR có xu hướng giảm, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tăng dần kích thích các nhà đầu tư mở rộng quy mô. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP tăng qua các năm. Tuy nhiên từ năm 2008 đến năm 2009 thì hệ số ICOR tăng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế thấp. Ngoài ra việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều lãng phí. Trong năm 2009 để thực hiện gói kích cầu nhà nước đã hỗ trợ về lãi suất cho các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp đã vay vốn tràn lan và sử dụng nó không hiệu quả. Theo các nhà đầu tư nước ngoài việc đầu tư vào Việt Nam thất thoát rất nhiều vốn do công tác của ta còn nhiều yếu kém. 3. Thực trạng mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 ICOR 4.8 4.89 5.01 5.08 4.91 4.68 4.88 4.9 6.66 8 LSCB 7.2 8.0 7.2 7.5 7.5 7.8 8.25 8.32 14 8 Lãi suất vốn vay ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp khi lãi suất vốn vay cao sẽ làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm. Việc lãi suất tăng cao trong năm 2008 đã khiến không ít các doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc lợi nhuận giảm sút so với năm trước. 4. Thực trạng mối quan hệ của lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam: Bảng 9. Bảng tập hợp số liệu giai đoạn 2000-2009 Năm Lãi suất cơ bản(%/năm) Tốc độ tăng vốn đầu tư Hệ số ICOR 2000 7.2 _ 4.9 2001 8.0 12.8 5.0 2002 7.2 16.8 5.25 2003 7.5 16.3 5.22 2004 7.5 18.7 4.95 2005 7.8 17.9 4.54 2006 8.25 17.9 4.88 2007 8.25 28.9 4.9 2008 14 22.16 6.66 2009 8 15.3 8 Theo số liệu hai năm 2003 - 2004, ta có thể thấy, hệ số ICOR giảm từ 5.22 xuống 4.95, phản ánh hiệu quả sử dụng biên của vốn tăng lên. Khi hiệu quả sử dụng biên của vốn tăng, tốc độ tăng vốn đầu tư tăng từ mức 16.3% năm 2003 lên 18.7% vào năm 2004, phản ánh tăng trưởng của quy mô vốn đầu tư, tức là I tăng. Ta xét tác động của việc tăng tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư tới lãi suất cho vay, đây là tác động có độ trễ về thời gian, điều đó được thể hiện bằng sự tăng lãi suất cơ bản từ mức 7.5% vào năm 2003 và 2004 lên mức 7.8% vào năm 2005. Tuy vậy, vẫn còn những số liệu thực tế đi ngược lại với lý thuyết, ví dụ trong ba năm 2005, 2006 và 2007, khi mà chỉ số ICOR có xu hướng tăng, phản ánh hiệu quả sử dụng biên của vốn giảm đi, trong khi đó, quy mô vốn đầu tư lại tăng, thậm chí tăng rất mạnh từ mức tăng vốn đầu tư năm 2006 chỉ là 17.9% lên 28.9% vào năm 2007. Sự tăng trưởng mạnh của quy mô vốn đầu tư, nói cách khác là cầu đầu tư tăng mạnh, đã tác động tới lãi suất, lãi suất cơ bản đã tăng từ mức 7.8% năm 2005 lên 8.3% năm 2007 và vào đầu năm 2008, lãi suất cơ bản đã đạt mức 14%. Có thể thấy năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Chính phủ Việt Nam đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên lãi suất không ngừng tăng lên mà đỉnh cao là từ tháng 7 đến tháng 10 lãi suất luôn ở mức 14%/ năm. Sau đó nhằm tập chung nỗ lực để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó, các biện pháp quan trọng là thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng và thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt nên lãi suất lại được hạ xuống cuối năm 2008 và trong năm 2009 chỉ còn vào khoảng 7 hoặc 8% hơn nữa vào năm 2009 chính phủ thực hiện gói kích cầu và đã hỗ trợ lãi suất vốn vay 4% để thúc đẩy đầu tư. Như ta thấy khi lãi suất tăng cao thì các doanh nghiệp cảm thấy chi phí bỏ ra cho đầu tư lớn họ không muốn đầu tư hoặc cắt giảm đầu tư. Nhưng khi chính phủ hạ lãi suất xuống các doanh nghiệp lại tập chung vay vốn và đầu tư. Tuy nhiên có thể nói việc sử dụng vốn chưa hiệu quả hay lợi nhuận vốn đầu tư chưa cao do chỉ số ICOR của Việt Nam không ngừng tăng lên 6.66 năm 2008 và 8 năm 2009. CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT TIỀN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM I. Giải pháp về lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất. 1. Điều chỉnh lãi suất hợp lý để thúc đẩy đầu tư: Hiện nay nền kinh tế nước ta đang có những bất ổn. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền gia tăng trong giai đoạn 2001 - 2006 và tăng đột biến năm 2007. Lạm phát ổn định ở mức một chữ số giai đoạn 2001 - 2006 nhưng tăng lên 12,6 % năm 2007. Riêng 5 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã tăng 15,96 %. Trong 6 tháng đầu năm nay tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại đã chậm lại khoảng 20% và thấp xa so với năm 2007. Trong khi đó huy động tiền gửi tính đến cuối tháng 5 năm 2008 đã tăng 19,5% so với cuối năm 2007. Đây là những chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu hạn chế tăng trưởng tín dụng kìm chế lạm phát của chính phủ. Tuy nhiên lãi suất tăng cao là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp. Thực tế các NHTM và các nhà làm chính sách biết rất rõ điều này nhưng đó là biện pháp cần thiết trong ngân hàng để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên khi lạm phát được kiểm soát ở một mức độ nhất định tất yếu phải điều chỉnh lãi suất và các công cụ khác cho phù hợp. Vì thế yêu cầu lớn nhất lúc này là tín dụng và lãi suất của NHNN cần được điều hành hợp lý để vừa kiểm soát được lạm phát vừa tạo điều kiện cho kinh tế phát triển vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Cần điều hành theo hướng ổn định và giảm dần khi lạm phát được kiềm chế. Những tác động lớn nhất từ tăng lãi suất là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp tăng, đẩy giá bán sản phẩm tăng, làm ảnh hưởng đến số đông người có thu nhập thấp, nhưng không hạn chế tiêu dùng của người có thu nhập cao. Trong khi đó, doanh nghiệp vốn có quy mô nhỏ và yếu về tài chính, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy khi lãi suất tăng cao doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng để sản xuất. Bên cạnh đó lãi suất tăng cao làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi phí vay mượn, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế xấu đi, vĩ mô tiếp tục bất ổn, đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Để giảm lạm phát nhà nước đã điều chỉnh mức lãi suất cao. Khi lạm phát bước đầu được kìm chế thì cần giảm lãi suất để thúc đẩy đầu tư: Thứ nhất, giảm lãi suất huy động vốn Song như vậy thì khó thu hút được tiền gửi khách hàng. Bởi vì trong nhận thức của dư luận, của người gửi tiền là phải đảm bảo lãi suất thực dương, tức là lãi suất tiền gửi tại NHTM phải cao hơn chỉ số CPI. Nếu theo đúng nguyên lý như vậy thì đến tháng 7 năm 2008 đã là 19.78%/năm, lãi suất huy động vốn phải tối thiểu là 20%/năm. Nhưng thực tế hiện nay lãi suất huy động vốn bình quân chỉ có 17%-18.5%/năm, cao nhất cũng chỉ 19%/năm. Một bộ phận người có tiền vẫn chấp nhận gửi tiền vào NHTM. Như vậy theo quan niệm trên thì hiện nay lãi suất tiền gửi đang âm! Do đó hoàn toàn có thể giảm lãi suất huy động vốn trên cơ sở chia sẻ lợi ích giữa người gửi tiền, NHTM và người vay vốn trong điều kiện lạm phát hiện nay. NHTM rõ ràng hiện nay hầu như không có lãi là bao, tức là chấp nhận khoảng cách chênh lệch lãi suất tối thiểu, hoặc tạm thời không có lãi. Người vay vốn rõ ràng khó chấp nhận được mức lãi suất tới 20%/năm và cao hơn, vì hiếm có lĩnh vực kinh doanh nào có lợi nhuận lớn để trả lãi suất vay NHTM cao như vậy! Còn đối với người gửi tiền, cần đổi mới nhận thức về lãi suất thực dương. Đó là quan niệm này tồn tại từ trong thời kỳ bao cấp, giai đoạn bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế. Khi đó người ta thường so sánh sự mất giá của đồng tiền Việt Nam với giá vàng và đồng USD. Song đối với vàng hiện nay ít được sử dụng làm phương tiện thanh toán như cách đây 15 - 20 năm, còn đối với USD, trong một năm qua USD chỉ tăng có 1,36%. Đồng thời quan niệm về lãi suất thực dương còn phải gắn với tăng trưởng chung của nền kinh tế, của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Song hiện nay tăng trưởng kinh tế chỉ đạt khoảng 6,5 - 7,5%/năm, lợi nhuận sản xuất kinh doanh cũng khó có thể vượt mức bình quân trên 12%/năm. Do đó lãi suất tiền gửi không thể vượt quá lợi nhuận chung của nền kinh tế. Tại Trung Quốc, trong hơn một năm qua lãi suất tiền gửi nhân dân tệ luôn thấp hơn chỉ số lạm phát. Đến cuối tháng2 năm 2008 chỉ số CPI của Trung Quốc tăng 8,7 % so với cùng kỳ …tháng 4 năm 2008 là 8,5%, tháng 5 - 2008 là 7,7%và tháng 6/2008 là7,1 %, nhưng lãi suất tiền gửi nhân dân tệ chỉ khoảng 5 - 6%/năm. Tín phiếu có kỳ hạn 3 năm và 5 năm do bộ tài chính nước này phát hành với lãi suất tương ứng lần lượt là 5,74 % và 6,34 %/năm, cao hơn lãi suất tiền gửi và thấp hơn lãi suất cho vay của NHTM. Bởi vậy giải pháp này cũng có tính khả thi cao trong điều kiện tốc độ tăng của CPI trong 2 tháng gần đây đã giảm dần; giá vàng và USD đã hạ nhiệt; đồng thời tùy thuộc và đồng thuận chung của các NHTM để không xẩy ra tình trạng NHTM này giảm NHTM kia vẫn giữ nguyên lãi suất huy động vốn. Thứ hai, tiết kiệm tối đa chi phí của ngân hàng thương mại Giải pháp này các NHTM đang thực hiện quyết liệt, nhưng chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Bởi vì không thể cắt giảm lương của cán bộ, nhân viên trong điều kiện giá tiêu dùng tăng cao. Thứ 3, ngân hàng nhà nước tăng thêm 1% mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc trả cho các ngân hàng thương mại Thứ tư, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Giải pháp này vướng phải một lo ngại là lại làm tăng trưởng tín dụng ở mức cao. Bởi vì tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộclà để hạn chế hệ số nhân tiền, thu hút tiền từ lưu thông về, gián tiếp can thiệp làm giảm sự mở rộng tín dụng của NHTM. Song với định hướng tăng trưởng dư nợ không quá 30% trong năm 2008; các NHTM ngừng cho vay chứng khoán và hạn chế cho vay bất động sản, hạn chế cho vay tiêu dùng; NHNN tăng cường kiểm tra và chính các NHTM cũng kiềm chế tín dụng để bảo đảm an toàn. Nên lo ngại giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoàn toàn có thể được mà không lo ngại sẽ dẫn tới tăng trưởng tín dụng. Nên đây là giải pháp có tính khả thi nhất, cho phép giảm đáng kể chi phí cho NHTM, trên cơ sở đó giảm lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng.   2. Phát triển hệ thống ngân hàng và  các tổ chức tín dụng: Hiệu quả của các tổ chức tín dụng cũng là hiệu quả từ sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả của nền kinh tế vì vậy cần: Củng cố hoàn thiện và đổi mới hệ thống ngân hàng: Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo xu hướng tăng quy mô các ngân hàng quốc doanh ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực. Xây dựng một cơ chế liên kết, phối kết hợp các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính – tiền tệ. Tạo cho ngân hàng trung ương một vị thế độc lập tương đối để đủ sức kiểm soát sự biến động liên tục của thị trường. Chú trọng bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng đủ sức thực hiện nhiệm vụ. Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay lĩnh vực nghành có các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao. Quan tâm phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có điều kiện, có khả năng, phát triển. Trong quản trị và điều hành lãi suất cần đảm bảo tính khoa học và thống nhất trong toàn hệ thống. Cần một ngân hàng trung ương đủ mạnh, với một quyết định thay đổi lãi suất của mình, Ngân hàng Trung ương Mỹ hay Châu Âu đã tác động đến cả nền kinh tế thế giới. Ngân hàng Trung ương Singapore , Thái Lan hay Malaysia tác động ngay lên nền kinh tế của họ, thậm chí có thể ảnh hưởng sang nước láng giềng. Mục tiêu quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Việc chạy đua lãi suất của họ là điều đương nhiên. Những cuộc đua như vậy không thể tránh được bằng thỏa thuận lãi suất. Hơn nữa, làm như vậy sẽ vi phạm luật cạnh tranh. Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho mỗi khi họ đưa ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế. Một ngân hàng trung ương mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ là một trong những nền tảng cơ bản nhưng cũng là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. 3. Giải pháp về cơ chế điều hành lãi suất: Đối với Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào một số nhiệm vụ: Kịp thời cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng để tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 và tạo điều kiện cho việc phát triển ổn định của nền kinh tế những năm tiếp theo. Tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ cụ thể, phù hợp, trước hết đối với các tổ chức tín dụng nhỏ, chưa đáp ứng đủ các quy định vay tái cấp vốn, tái chiết khấu bình thường, nhằm bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động hệ thống ngân hàng một cách an toàn và bền vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tăng lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng này Chủ động điều hành tỷ giá hối đoái với biên độ và bước đi hợp lý, bảo đảm tạo được điều kiện cho thị trường ngoại tệ vận hành ổn định, ngăn ngừa hoạt động đầu cơ ngoại tệ; thường xuyên theo dõi và có những biện pháp quản lý phù hợp các giao dịch ngoại hối, các luồng vốn vào, ra; kịp thời hỗ trợ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu những vật tư, hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Thực hiện cơ chế cạnh tranh hoàn hảo đối với các ngân hàng thương mại, trên nền tảng lãi suất định hướng của ngân hàng trung ương. Các ngân hàng thương mại căn cứ vào diễn biến thực tế của thị trường mà định mức lãi suất phù hợp cho mình. Việc tự do hóa cạnh tranh sẽ dẫn đến sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại song đó là quy luật tất yếu của cơ chế thị trường. Ngoài ra chúng ta cũng phải có biện pháp để hạn chế độc quyền và khuyến khích tạo dựng được vấn đề đạo đức kinh doanh Với những tín hiệu khá tốt của nền kinh tế trong nước, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ ổn định, giá cả trên thị trường hàng hóa thế giới bớt căng thẳng, việc xem xét điều chỉnh chính sách lãi suất là hợp lý. Theo đó, chính sách lãi suất nên được điều hành theo hướng linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển, qua đó, tăng cường “sức khỏe” của nền kinh tế. Nếu Ngân hàng Nhà nước cũng điều hành lãi suất theo hướng giảm sẽ là tín hiệu tốt để các ngân hàng thương mại tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất, giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Nếu tăng thêm lãi suất để chống lạm phát là không phù hợp đối với Việt Nam, vì sẽ khiến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút. II. Giải pháp tăng hiệu quả đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn 1. Sử dụng vốn ngân sách nhà nước: Nguồn vốn đầu tư từ NSNN luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là “hạt nhân” để thu hút các nguồn vốn khác cần tham gia đầu tư; yêu cầu đối với nguồn vốn này là phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Hiện nay vấn đề quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp đang trong tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh thấp. Cơ chế quản lý nhà nước đối với các DN chưa đồng bộ, chưa phù hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt, chưa có sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh doanh của các DN; Việc quyết định đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại DN được thực hiện bởi nhiều cấp; Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại DN đã chuyển đổi sở hữu vẫn chậm thay đổi và chưa theo kịp với quy định của Luật Doanh nghiệp; Chưa có tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp để thống nhất quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các loại hình DN. Tại Hà Nội, một số  dự án được hưởng lượng vốn NSNN lớn, nhưng quá trình thực hiện không đạt hiệu quả. Trong đó phải kể đến dự án Nhà máy xử lý nước thải thuộc Khu đô thị Bắc Thăng Long-Vân Trì (Đông Anh), mặc dù đã hoàn thành, bàn giao từ tháng 10-2005, với giá trị 65,55 tỷ đồng và 1.255 triệu yên Nhật, nhưng hiện chưa thể vận hành?!. Dự án Hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây theo kế hoạch phải hoàn thành năm 2005, song đến nay một số hạng mục chưa thể triển khai; dự án xây dựng trường Đại học Kinh tế quốc dân, khi thiết kế không tuân thủ tiêu chuẩn xây dựng, gây lãng phí NSNN hàng tỷ đồng… Về thu ngân sách Nhà nước, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các chính sách thuế hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, giảm mức huy động để khuyến khích phát triển sản xuất và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trước hết trong năm 2007 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân. Hoàn thiện quy trình, thủ tục thuế, hải quan phù hợp với quy định của WTO và yêu cầu đơn giản, minh bạch nhằm cải thiện môi trường đầu tư ,kinh doanh. Về chi ngân sách Nhà nước, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước và tăng cường hiệu quả chi, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống đường sá, cầu cống; bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước, thực thi các giải pháp tài chính hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hệ thống điện, nước, xử lý môi trường...; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo phổ cập tiểu học và trung học, đào tạo nghề; đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ; đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn. Để quản lý nguồn NSNN và tăng hiệu quả các dự án đầu tư từ vốn ngân sách cần thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Với những dự án đầu tư công cộng không thực sự cấp bách và hiệu quả đầu tư còn nghi ngờ, nên cắt bỏ, hoặc tạm hoãn thời hạn thực hiện. loại bỏ các dự án đầu tư không hiệu quả, giãn tiến độ các dự án chưa khởi công hoặc mới khởi công. Giải pháp quan trọng là kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công, bớt tối đa những khoản chi không hợp lý Cần siết chặt kỷ cương, pháp luật và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư xây dựng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Tăng cường giám sát thông qua các cơ quan dân cử trong quá trình đầu tư xây dựng... Kiến nghị phương án quản lý nguồn vốn ODA, nên quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan quản lý chủ đầu tư. Khi xảy ra sai phạm, cần có biện pháp “mạnh” để răn đe Thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì vậy, nguồn vốn này cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Việc giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư từ vốn ngân sách là trách nhiệm của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia. Một số lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước có thể làm được nên để cho các doanh nghiệp cạnh tranh đầu tư tạo hiệu quả kinh tế cao hơn mặt khác tiết kiệm được NSNN để phục vụ các mục đích khác.  Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, đòi hỏi phải tạo sân chơi bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, xóa bỏ mọi hình thức bao cấp của Nhà nước, đảm bảo việc ra quyết định kinh doanh dựa trên hiệu quả kinh tế; Đảm bảo việc tuân thủ với các đạo luật mới ban hành, trong đó thể hiện tư tưởng cải cách triệt để, tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… 2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA: Để thu hút nguồn vốn vay ODA đòi hỏi phải tăng cường tương ứng khả năng sử dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Không bố trí hoặc hạn chế bố trí nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực, địa phương giải ngân chậm, sử dụng vốn vay nước ngoài không hiệu quả, đồng thời, tăng mức phân bổ nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và bảo đảm tiến độ thực hiện dự án. Đồng bộ hoá khung pháp lý, nghiên cứu và chỉnh sửa các quy định và nghị định liên quan đến sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA. Tạo sự hài hoà và hoàn chỉnh các thủ tục hành chính giữa các nhà tài trợ và về phía chính phủ Việt Nam . Phát triển nguồn nhân lực cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA, xây dựng các quy chuẩn và hướng tới chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá các ban quản lý dự án. Các nghành, các địa phương rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình quản lý để trình chính phủ, thủ tướng chính phủ ban hành các cơ chế chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Cần thực hiện triệt để việc chống tham nhũng. Bên cạnh Luật chống tham nhũng, Nhà nước vẫn cần phải xây dựng một cơ chế, một thể chế chặt chẽ. Chẳng hạn, để thực hiện cơ chế công khai minh bạch, Chính phủ cần phải quy định rõ thế nào là thông tin mật và không mật, để công khai cho người dân giám sát. Nếu không có quy định này thì con số nào cũng được cho là mật, sẽ là một ngáng trở lớn cho việc công khai minh bạch. 3. Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI: Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể xem đây là một kênh tạo lập vốn mới nhiều tiềm năng, được chi phối bởi Luật đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này có  tác động tích cực đến đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do vậy, trước hết cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn này: Xác định rõ lộ trình, bước đi, lĩnh vực đầu tư, cơ chế ưu đãi, quy định các lệ phí và phí dịch vụ, điều kiện cung ứng điện nước, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin… đồng thời hoàn thiện các thể chế có liên quan trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thương mại. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp nói chung và luật đầu tư nói riêng một cách đồng bộ nhằm tạo cơ chế thông thoáng và môi trường đầu tư hấp dẫn. Rà soát thực trạng của các dự án trên từng địa bàn để phân loại và có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các dự án trọng điểm, có tác động đến địa phương và khu vực sẽ được ưu tiên hỗ trợ trước. Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản của đầu tư. Từng bước hoàn thiện, chấn chỉnh lại bộ máy quản lý và các tổ chức xét duyệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đúng luật của Việt Nam, vừa tạo ra điều kiện cho việc quản lý dự án một cách chặt chẽ, có hiệu quả kinh tế cao. Chủ động chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lý kinh tế - tài chính trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động phát triển nhưng phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động này nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia. III. Giải pháp về tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận là cơ sở để nhà đầu tư ra quyết định, ở bất kỳ ngành nhà đầu tư luôn chon lựa những dự án có mức tỷ suất lợi nhuận hứa hẹn cao. Chính vì vậy để tăng đầu tư cần phải có những biện pháp tăng tỷ suất lợi nhuận. Đối với mỗi doanh nghiệp khác nhau lại có những điều kiện cụ thể khác nhau nhưng về cơ bản ta có thể có một số cách sau: 1. Tối đa hóa lợi nhuận: - Thứ nhất ta có thể tối đa hóa lợi nhuận thuần bằng cách tăng giá bán (tuy nhiên sản lượng tiêu thụ sẽ giảm) hoặc giảm giá bán (sản lượng tiêu thụ sẽ tăng). Điều cần lưu ý là phải xem xét việc tăng giá bán có làm cho sản lượng bán ra giảm quá nhiều dẫn đến doanh thu bị giảm hay không, lợi nhuận thuần bị giảm hay không. - Thứ hai cần cắt giảm tất cả các chi phí có thể, hợp lý hóa sản xuất. Việc cắt giảm chi phí bao gồm cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ người lao động, cắt giảm lao động thừa chỉ giữ lại những lao động hiệu quả…. 2. Tăng hệ số quay vòng vốn: Ta có: RRi = Lợi nhuận/Vốn đầu tư RRi = Lợi nhuận/Doanh thu x Doanh thu/Vốn đầu tư = Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu x số lần quay vòng của vốn… Như vậy ta có thể tăng tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở tăng vòng quay của vốn. Từ đó ta có một số biện pháp như: - Cắt giảm mức dự trữ hàng tồn kho. - Đẩy nhanh việc thu hồi các khoản nợ phải thu, do đó cắt giảm bớt các khoản đầu tư cần thiết cho các khoản này và vốn nhàn rỗi được sử dụng trả bớt nợ ngắn hạn - Hợp lý hóa các khâu từ sản xuất tới phân phối sản phẩm… IV. Các giải pháp về quy mô vốn đầu tư. 1. Các giải pháp mang tính vĩ mô: 1.1 Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế: Điều này liên quan đến một nguyên tắc chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư: Vốn càng được sử dụng hiệu quả thì khả năng thu hút của nó càng lớn. Năng lực tăng trưởng sẽ đảm bảo cho khả năng tích lũy và triển vọng tăng trưởng là dấu hiệu tốt thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. - Đối với các nguồn vốn đầu tư, phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài. - Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. - Để tăng cường tính hiệu quả của nền kinh tế, cần phải tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư. 1.2 Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Đây có thể coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Để thu hút được các nguồn vốn nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau này nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao. Cần nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác các các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Coi trọng các hoạt động kế toán, kiểm toán, tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế. 1.3 Xây dựng các chính sách huy động nguồn vốn có hiệu quả: Để huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển, Nhà nước và doanh nghiệp cần có các chính sách và giải pháp đồng bộ và hợp lý trên cơ sở có sự tính toán tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút và cung ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền kinh tế cho công nghiệp hóa đất nước. - Các chính sách và giải pháp huy động vốn đầu tư phải đồng bộ cho đầu tư phát triển gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. - Phải đảm bảo tương quan giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài. - Cần đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn. - Các chính sách huy động vốn phải thực hiện đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện. 2. Các giải pháp riêng đối với từng nguồn vốn: 2.1 Giải pháp mở rộng qui mô vốn đầu tư trong nước: Đối với các nguồn vốn ngoài ngân sách, giải pháp để thu hút mở rộng qui mô vốn không chỉ là sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp, cơ sở pháp lý để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân, mà quan trọng hơn là việc tạo lập thị trường, xác định và công khai rõ ràng những khu vực trong đầu tư được huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách và cơ chế hoạt động. Xã hội hóa trong đầu tư được hiểu là cách huy động vốn với những khu vực trước đây nhà nước đã làm. Tuy nhiên khu vực nào, phần nào nhà nước chuyển hẳn, hoặc một phần cho khu vực ngoài nhà nước cần có các chính sách rõ ràng. Nếu như việc huy động vốn vào các ngành sản xuất đang bị chậm trễ trong quá trình cổ phần hóa, thì trong lĩnh vực đầu tư hạ tầng xã hội, cơ chế và chinh sách đang là rào cản quá lớn. Nhượng quyền thu phí các đoạn đường quốc lộ, huy động vốn cho khu vực hai bên các con đường mới, phân định rạch ròi khu vực đào tạo cho đầu tư tư nhân… đang được coi là những biện pháp linh hoạt và sáng tạo trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Việc xã hội hóa không chỉ là một giải pháp mở rộng nguồn lực đầu tư, mà còn là cơ hội để cải tổ hệ thống hiện có trong các lĩnh vực. 2.2 Giải pháp mở rộng qui mô vốn đầu tư nước ngoài: * Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI - Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách liên quan đến FDI theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế - Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Việt Nam chưa có dự án FDI nào trong lĩnh vực sản xuất phần mềm, phát hành sách hay băng đĩa, nguyên nhân là quyền Sở hữu trí tuệ chưa được đảm bảo ở Việt Nam. - Cải tiến hệ thống tài chính ngân hàng, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả chính sách tiền tệ. Theo các nhà đầu tư, các quy định liên quan đến hệ thống tài chính là ít hiệu quả. Như việc ngân hàng quốc doanh nắm giữ nguồn tiền đồng lớn và ít cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay, các khoản vốn vay thường ngắn hạn và ít các nguồn huy động dài hạn. - Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính: thủ tục hành chính rắc rối phiền hà được xem như một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Do đó, cần xây dựng cơ chế quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. - Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ hiệu quả: Các dịch vụ hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp và kém hiệu quả. Mặc dù các dịch vụ này đã được cải thiện rất nhiều trong những năm 90, song vẫn còn rất chậm so với các nước trong khu vực, nhất là trong lĩnh vực năng lượng, giao thông, viễn thông và cơ sở hạ tầng thông tin. Giá hàng hoá và dịch vụ, đặc biệt là giá các dịch vụ là chi phí đầu vào của sản xuất như điện, nước, viễn thông, giá thuê mặt bằng... của ta còn rất cao so với khu vực. Cần có những cải thiện tích cực hơn để giảm cước bưu chính viễn thông, tiền thuê đất, tăng thêm các ưu đãi về thuế và tài chính. - Mở rộng lĩnh vực đầu tư phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; thiết lập cơ chế để doanh nghiệp FDI được xây dựng kinh doanh nhà ở và phát triển khu đô thị mới; khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ, khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực mở rộng hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và du lịch. - Xây dựng và triển khai hiệu quả các dự án gọi vốn đầu tư: Để tăng cường tính minh bạch, ổn định và dự đoán trước, đồng thời tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, cần nâng cao chất lượng xây dựng quy định và danh mục dự án gọi vốn FDI. * Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 4 bài học về thu hút và sử dụng ODA đó là: Cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh. ODA không phải “thứ cho không” mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín, trách nhiệm quốc gia trong quan hệ cộng đồng tài trợ quốc tế. Các biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả và mở rộng qui mô vốn ODA: - Các ngành, các địa phương tập trung rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình quản lý để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững.  - Các địa phương phải tổ chức tốt việc thực hiện Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010 và Kế hoạch hành động thực hiện Đề án này. - Tổ chức thực hiện theo “Khung theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2006 - 2010” để có những đánh giá, điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế tình trạng chậm giải ngân và để xây dựng kế hoạch cho những dự án tiếp theo. - Xây dựng kế hoạch, chủ động giảm dần vay ODA, trước hết là bộ phận vay vốn gắn với các điều kiện ràng buộc, như các quốc gia đi trước trong việc thu hút ODA thuộc khối ASEAN đã làm. Kế hoạch này cần có lộ trình rõ ràng nhằm từng bước giảm dần vay ODA, cũng như tăng cường mở rộng qui mô vốn FDI. LỜI KẾT Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là mục tiêu mà tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam đều hướng tới. Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã có những động thái tích cực về phát triển kinh tế như tăng trưởng cao, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước… Đây thực sự là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, song hành với xu thế các dòng vốn từ bên ngoài đổ vào mạnh mẽ, ngoại thương mở rộng và GDP đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng lạm phát, thâm hụt ngân sách cao, nhập siêu lớn, nhiều cân đối vĩ mô bị phá vỡ và xu thế bất ổn gia tăng. Tình hình đầu tư vì thế mà cũng chịu ảnh hưởng - suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Bởi vậy, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đã phân tích mối quan hệ giữa lãi suất, tỉ suất vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư, phân tích thực trạng về mối quan hệ đó tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, qua đó để thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Kèm theo đó là một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. Hi vọng, các giải pháp đó có thể phần nào giúp cho đầu tư của Việt Nam có một diện mạo mới, năng lực mới trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tr 23, Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2007. Tr 141 – 160, Giáo trình Tài chính tiền tệ, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2008. Tr 275 – 286, Giáo trình Lập dự án đầu tư , Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2007. Tr 31 & 292, Giáo trình Kinh tế vĩ mô 2, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân. Tạp chí kinh tế phát triển. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Tạp chí kinh tế và dự báo. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.org.vn Website trường Đại học Kinh tế quốc dân: www.neu.edu.vn Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org.vn Bộ công thương: www.moi.gov.vn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn Báo Đầu tư 15. Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn 16. Blog khoa kinh tế đầu tư trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội. 17. Văn bản pháp luật đầu tư, Nxb Công an nhân dân. MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Bảng1: Thực trạng lãi suất ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2009 32 Bảng 2: Điều tra tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành, các khu vực ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2003 37 Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận ngành xây dựng tài chính ngân hàng ở Việt Nam giai đoạn 2000 -2002 38 Bảng 4: Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán năm 2006 39 Bảng5: Đánh giá tỷ suất lợi nhụân thông qua hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2009. 40 Bảng 6: Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á 40 Bảng 7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép giai đoạn 2003 - 2009 44 Bảng 8: Tác động của lãi suất cơ bản tới đầu tư giai đoạn 2000 – 2009: 50 Bảng 9. Bảng tập hợp số liệu giai đoạn 2000-2009 57 Hình 1: Ảnh hưởng của lạm phát đến lãi suất 6 Hình 2: Tác động của vốn đầu tư đến tổng cầu của nền kinh tế. 13 Hình 3:Tác động của vốn đầu tư đến tổng cung của nền kinh tế. 14 Hình 4 : Hàm đầu tư 19 Hình 5: Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa lãi suất và cầu vốn đầu tư 20 Hình 6:Đồ thị biểu thị tác động của quy mô vốn đầu tư đến lãi suất vốn vay 22 Hình 7:Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận VĐT và quy mô vốn đầu tư 23 Hình 8:Tác động của lãi suất vốn vay đến tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư ( i cố định) 26 Hình 9: Tác động của lãi suất vốn vay đến tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư 27 Hình 10: Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận VĐT và quy mô vốn đầu tư 29 Hình 11: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000 - 2009 42 Hình 12: Tình hình cam kết và giải ngân ODA từ 2001 – 2009. 46

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa lãi suất vốn vay,tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư.doc