Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện

Chương I : NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ: 1.1 Khái niệm về môi trường đầu tư quốc tế: 1.2. Các bộ phận cấu thành môi trường đầu tư quốc tế: 1.3. Tác động của môi trường đầu tư quốc tế đến khả năng thu hút vốn đầu tư 1.3.1. Chính sách và hành vi của chính phủ 1. 3.1.1. Môi trường chính trị xã hội: 1.3.1.2. Môi trường pháp lý và hành chính: 1.3.1.3 Môi trường thương mại - kinh tế: 1.3.1.4. Môi trường tài chính 1.3.1.5. Môi trường cơ sở hạ tầng: 1.3.1.6. Môi trường lao động: 1.3.1.7. Môi trường quốc tế: 1.3.2. Các nhân tố khác: 1.3.2.1. Quy mô thị trường 1.3.2.2. Lợi thế địa lý: 1.3.2.3. Môi trường văn hóa: 1.4. Các chỉ tiêu đo lường đối với môi trường đầu tư quốc tế: 1.4.1. Chỉ tiêu Chính sách phát triển kinh tế 1.4.1.1. Chính sách thương mại 1.4.1.2. Chính sách tư nhân hóa 1.4.1.3. Chính sách tiền tệ 1.4.1.4. Chính sách tài khóa 1.4.1.5. Chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ : 1.4.1.6. Chính sách lao động: 1.4.1.7. Chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách y tế : 1.4.1.8. Chính sách liên kết kinh tế quốc tế 1.4.1.9. Chính sách của nhà nước về sở hữu trí tuệ: 1.4.1.10. Các chính sách liên quan đến việc phát triển cơ sở hạ tầng: 1.4.1.10. Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư 1.4.1.12.Chính sách hỗ trợ đầu tư. 1.4.2. Chỉ tiêu tính minh bạch 1.4.3. Chỉ tiêu về nguồn nhân lực 1.4.4. Chỉ tiêu ưu đãi đầu tư 1.4.5. Chỉ tiêu công tác quy hoạch và cơ sở hạ tầng 1.4.6 Chỉ tiêu đất đai và công tác giải phóng mặt bằng: 1.4.7. Chỉ tiêu phân cấp trong quản lý FDI: 1.4.8. Chỉ tiêu thủ tục hành chính và công tác xúc tiến đầu tư: 1.4.9. Chỉ tiêu về lợi thế địa lý và điều kiện tự nhiên: 1.5. Kinh nghiệm về hoàn thiện đầu tư quốc tế của môt số nước: 1.5.1. Trung Quốc: 1.5.2. Nhật Bản Chương II: THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM: 2.1 Tình hình đầu tư vốn tại Việt Nam: 2.1.1. Tình hình đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2008 2.1.2. Tình hình đầu tư nước ngoài giai đoạn 2008-2010 2.1.2.1 Trong năm 2008: 2.1.2.2. Tình hình đầu tư năm 2009: 2.1.2.3 Tình hình đầu tư 8 tháng đầu 2010. 2.2 Thực trạng môi trường đầu tư tại Việt Nam: 2.2.1. Chính sách và hành vi chính phủ: 2.2.2. Các nhân tố khác: 2.3 Nhận định của thế giới về môi trường đầu tư của Việt Nam: 2.3.1 Diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF) 2.3.2 Doanh nghiệp HONG KONG: 2.3.3. Doang nghiệp Nhật Bản: 2.3.4 Doanh nghiệp Hoa Kỳ: DN Hoa Kỳ đánh giá cao nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam. 2.3.5 Doanh nghiệp Đức: Môi trường đầu tư Việt Nam hấp dẫn doanh nghiệp Đức 2.4. Nhận xét về môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam Chương III: GIẢI PHÁP CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM: 3.1. Về môi trường pháp lý: 3.2. Về công tác quản lý nhà nước : 3.3. Về thủ tục hành chính : 3.4. Về kết cấu hạ tầng: 3.5. Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực: 3.6. Về xúc tiến đầu tư: 3.7. Một số vấn đề khác:

doc84 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5085 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hút đầu tư nước ngoài của những nước ASEAN, trong đó có Việt Nam như sau: Những năm cuối của thập niên 1980 (của thế kỷ 20), các nhà đầu tư trên thế giới coi ASEAN chỉ như là một khu vực phù hợp với sản xuất hàng xuất khẩu. Từ những năm đầu của thập niên 1990 đến đầu thế kỷ 21, khi các nước ASEAN thể hiện mức độ liên kết, hội nhập ngày càng sâu – rộng, ASEAN không những trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa khổng lồ, đồng thời còn là khu vực chuyên xử lý hàng xuất khẩu có hiệu quả (mặc dù Trung Quốc cũng là một đối thủ của ASEAN đầy tiềm năng. ) Hiện tại, khả năng hội nhập sâu rộng của Việt Nam cũng là điểm thu hút các nhà đầu tư, môi trường đầu tư Việt Nam hiện tại được coi là tương đối hấp dẫn, an toàn và có lợi thế lâu dài trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nhưng một khi đã hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh hơn, nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ và phần lớn các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh với ta và lại có nhiều ưu thế hơn ta. Việt Nam đã tham gia Hiệp định CEPT/AFTA với quy mô thị trường 500 triệu người; cùng với việc tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được đánh giá là khá thông thoáng cũng tạo điều kiện mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với trên 150 nước và cùng lãnh thổ, tham gia tích cực vào cơ cấu hợp tác khu vực và thế giới như ASEAN, ASEM, APEC và WTO. Chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam có nhiều ưu đãi, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài kinh doanh có hiệu quả. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tổ chức này đã có những chuyển biến quan trọng về cả lượng và chất, trở thành nhân tố thiết yếu cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở Đông Nam Á, Đông Á, Thái Bình Dương và thế giới. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng là kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế giới mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra. Cho đến nay, cùng với Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN-Ấn Độ (AITIG), Ấn Độ là nước thứ 20 chính thức công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường đầy đủ, trong đó có các nước ASEAN, Nam Phi, Australia, New Zealand…, tạo môi trường thương mại ngày càng thuận lợi hơn cho Việt Nam · Cùng với là thành viên của ASEAN, việc Việt Nam chủ động lựa chọn con đường gia nhập WTO đã là một thông điệp mạnh mẽ về cải thiện môi trường đầu tư. Bởi vì, đã là thành viên của WTO, Việt Nam cam kết sẽ tuân thủ các Hiệp định quan trọng của WTO, tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO (trừ một số ngoại lệ), loại bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản và trợ cấp có liên quan đến nội địa hóa, bãi bỏ chế độ hai giá, bãi bỏ áp dụng tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. · Tuy nhiên, những nỗ lực được ghi nhận trong quá trình hoàn thiện dần môi trường đầu tư của Việt Nam cần phải cố gắng nhiều hơn nữa vì mức độ cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chậm hơn so với các nước khác trong khu vực. Điều này sẽ gậy những trở ngại cho việc cạnh tranh thu hút vốn giữa Việt Nam với các nước thành viên trong khu vực. Ø Chính sách phát triển kinh tế vùng Mối liên kết lỏng lẻo giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế nội địa cũng là một điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam. Bằng chứng rõ ràng là công nghệ phụ trợ của chúng ra rất yếu, và trong nhiều lĩnh vực, để có thể xuất khẩu được thì cần phải nhập khẩu tới 70-80% nguyên vật liệu từ nước ngoài. Điều này một mặt hạn chế tác dụng lan tỏa tích cực của FDI đối với các doanh nghiệp trong nước, mặt khác tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Lượng vốn FDI là một chỉ tiêu quan trọng, nhưng hiệu quả của FDI mới thực sự là yếu tố quan trọng hàng đầu. Dòng vốn FDI đổ vào càng nhiều thì chúng ta lại càng phải biết chọn lọc sao cho dòng vốn này đóng góp một cách hiệu quả nhất vào sự phát triển của đất nước. 2.2.1.4. Môi trường tài chính: Do sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, lạm phát và lãi suất tăng cao làm cho khả năng thanh khoản của thị trường giảm sút, từ đó đã ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển. Đồng thời thị trường chứng khoán liên tục suy giảm khiến cho dòng vốn nước ngoài giảm mạnh, sức cầu trên thị trường yếu đi. Khôi phục tâm lý và lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư trên toàn thế giới là điều kiện tiên quyết cho quá trình phục hồi kinh tế. Chính phủ và ngân hàng nhà nước cần phải thực hiện một cách quyết đoán để các nhà đầu tư tin tưởng và khả năng thanh toán và tồn tại của các định chế tài chính, đồng thới bảo đảm cuộc đại suy thoái sẽ không tái diễn. Ổn định tài chính là vấn đề then chốt. 2.2.1.5. Môi trường cơ sở hạ tầng · Toàn cảnh chung của Việt Nam so với những năm về trước đã có sự thay đổi đáng kề, nhiều nhà cao tầng, nhiều khu mua sắm cao cấp, nhiều những công trình xây dựng... xuất hiện. Tất cả đánh dấu cho sự phát triển của đất nước từng ngày, từng giờ. · Tuy nhiên, trong điều kiện tài chính hiện tại thì khả năng cân đối ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển cũng có những hạn chế nhất định. Cụ thể, tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển chung trong giai đoạn 2001 2010 khoảng 60 tỷ USD, chiếm khoảng 8,4% so với GDP; trong đó chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông thủy lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản khoảng 50%. Điều này cho thấy khả năng nguồn vốn của Chính phủ khó có thể đáp ứng hết được nhu cầu cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong khi đó chúng ta lại chưa khuyến khích được tư nhân cùng tham gia đầu tư vào lĩnh vực này do quá trình phê duyệt và cấp phép còn nhiều phức tạp, mức thu hồi vốn thấp, vai trò trách nhiệm của bên nhà nước cũng như tư nhân còn thiếu rõ ràng. Ông Trần Xuân Hà - Thứ trưởng Bộ tài chính cho biết, sự yếu kém về kết cấu hạ tầng không chỉ là rào cản đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, mà nó còn làm suy giảm sức hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư của Việt Nam. Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tổ chức vào ngày 1/12/2009 tại Hà Nội, đại diện của các doanh nghiệp đã có bàn đến vấn đề Chất lượng cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng để cải thiện môi trường kinh doanh, ưu tiên số một là cải thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đã nhiều lần đề cập đến vấn đề cơ sở hạ tầng trong nhiều cuộc họp của Diễn đàn doanh nghiệp, song lần này, cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước "bật đèn đỏ" nếu Chính phủ không mạnh mẽ hơn để giải quyết "nút thắt" quen thuộc này, các vấn đề về cơ sở hạ tầng sẽ là cản trở lớn cho quá trình thu hút đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Có tới 87,8% doanh nghiệp nước ngoài và 83% doanh nghiệp trong nước được hỏi cho rằng chất lượng cơ sở hạ tầng là kém và rất kém. Một trong những lời giải hiến kế cho Chính phủ là tạo động lực thúc đẩy hợp tác công tư trong phát triển cơ sở hạ tầng. "Sự tham gia của khu vực tư nhân vào xây dựng, cung cấp nguồn tài chính và quản lý hạ tầng là vô cùng cần thiết, nhất là trong sản xuất điện năng và cảng nước sâu", Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ kiến nghị. Theo ông, trong xây dựng hạ tầng cơ bản, vẫn còn tình trạng "thiếu" và "chậm trễ", nhất là đường liên tỉnh, cầu, kể cả đường tiếp cận, điện năng, cảng biển có vị trí chiến lược, các công trình hạ tầng trên đất liền có liên quan và giao thông nội đô như hệ thống xe điện nhẹ, hơn nữa nhiều tuyến giao thông huyết mạch thường xuyên tắc nghẽn, hàng hóa bị ách tắc ở cảng... Nổi cộm hiện nay là hệ thống đường giao thông ở khu vực vùng kinh tế trọng điểm miền Nam cần được nâng cấp mở rộng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển và xuất khẩu hàng hóa trong khu vực đang tăng nhanh. Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như Chân Mây, Nhơn Hội, Nam Phú Yên... phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư phát triển các dự án FDI đang gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và đang cản trở việc giải ngân triển khai các dự án FDI lớn trong các khu kinh tế. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu điện dẫn đến cắt điện luân phiên, tình trạng mất điện đột ngột không được báo trước, khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và tổ chức hoạt động kinh doanh, sản xuất Tham khảo từ . Các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh còn yếu kém, đẩy chi phí kinh doanh lên cao (như phí dịch vụ viễn thông, điện, thủ tục hành chính). Các yếu tố này ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc tế của sản phẩm do các dự án FDI tạo ra. Năm 2003, Báo cáo thường niên của tổ chức JETRO so sánh chi phí sản xuất của các doanh nghiệp Nhật bản tại một số thành phố của một số nước trong khu vực cho thấy so với những năm trước, chi phí đối với một số dịch vụ ở Việt Nam vẫn cao so với nhiều nước khác như chi phí vận chuyển đường thuỷ, giá thông tin liên lạc quốc tế, giá thuê văn phòng, chi phí điện cho sản xuất. Chẳng hạn, giá cước 3 phút điện thoại quốc tế gọi đi Nhật bản từ thành phố Hồ Chí Minh và Hà nội hiện cao gấp 2,5 lần so với mức cước gọi từ các thành phố của Trung Quốc, gấp 3,5 lần từ Seoul (Hàn quốc) và Bankok (Thái lan), gấp 4 lần từ Kuala Lumpur (Malai xia), gấp 5 lần từ Singapore, v.v Thêm vào đó, với giá nhiên liệu biến động khó lường, có thể nhiều nhà đầu tư sẽ phải định vị lại địa điểm đầu tư lại gần những thị trường tiêu thụ chính để giảm chi phí vận chuyển, và khi ấy Việt Nam có thể không tận dụng được một số lợi thế sẵn có của mình. Tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng để giảm chi phí cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ để thu hút thêm dự án FDI mới mà còn để giữ chân những dự án hiện hữu. Ví dụ: Đầu năm 2010, Hà Nội hiện có 16 Khu công nghiệp( KCN), khu chế xuất và khu công nghệ cao với tổng diện tích gần 3.500ha. Trong đó, 8 KCN (tổng diện tích 1.235ha) đã đi vào hoạt động, với 232 dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế khả năng đầu tư, phát triển các KCN còn chưa tương xứng với tiềm năng của Thủ đô mở rộng. Việc phát triển các KCN trên địa bàn thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế như đường giao thông, hệ thống cấp nước và xử lý nước thải, hàng rào, điện chiếu sáng… chưa hoàn thiện. Một số KCN gặp nhiều khó khăn trong việc đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB). Một số DN đang hoạt động trong KCN không thực hiện đúng cam kết ban đầu gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, trong quy hoạch xây dựng các KCN thời gian qua còn chưa đồng bộ, thiếu nhiều hạng mục phụ trợ như khu chung cư cho công nhân, không có chỗ vui chơi giải trí, khiến nhiều lao động phải ở trọ trong các khu dân cư chật hẹp, không yên tâm làm việc lâu dài. Ngoài ra nhiều dịch vụ khác còn thiếu như chăm sóc sức khỏe, mua sắm, thể thao… Ông Nguyễn Xuân Chính, Trưởng ban Quản lý (BQL) các KCN và chế xuất Hà Nội cho biết, để khắc phục những hạn chế trên, tạo sức hấp dẫn cho KCN, thu hút các dự án đầu tư có công nghệ sản xuất hiện đại, sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, Hà Nội phấn đấu hoàn thiện và phát triển các KCN trên địa bàn theo mô hình KCN Phú Nghĩa; "gọi" các DN, nhà đầu tư nước ngoài góp vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. BQL sẽ phối hợp với các ngành chức năng tập trung hỗ trợ các công ty phát triển hạ tầng KCN tháo gỡ vướng mắc về GPMB, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch. Bên cạnh đó, để phát huy được lợi thế của từng KCN, ngành chức năng cần phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng quy hoạch phát triển KCN; hợp tác trong việc quy hoạch các KCN chuyên ngành, KCN phụ trợ; quy hoạch, đầu tư xây dựng mạng lưới giao thông nối liền các địa phương với các KCN để tăng tính đồng bộ, giảm lãng phí thất thoát do đầu tư dàn trải; rút ngắn khoảng cách vận chuyển hàng hóa, giảm chi phí và thời gian cho DN... góp phần tăng tiện ích cho nhà đầu tư. BQL cũng đang xây dựng kế hoạch để tiếp tục đổi mới công tác quản lý, phát huy tốt cơ chế "một cửa"; cung ứng lao động chất lượng cao, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN phát triển ổn định, hiệu quả. 2.2.1.5. Nguồn nhân lực: Ø Theo nhìn nhận của một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, Việt Nam là nước có lực lượng lao động dồi dào và ngày càng được nâng cao chuyên môn tay nghề, và đó thật sự là một trong những nhân tố giúp thu hút đầu tư từ nước ngoài. Ví dụ Nick Jacobs, phát ngôn viên khu vực của Intel, cho biết hãng sản xuất chip đang có kế hoạch khai trương một cơ sở thử nghiệm trị giá 1 tỉ USD ở TP Hồ Chí Minh trong năm nay và sẽ tuyển dụng 4.000 lao động. Intel chọn Việt Nam bởi vị trí địa lý gần với người tiêu dùng, có nguồn điện nước ổn định và nhiều lao động lành nghề. “Việt Nam là đất nước trọng giáo dục và điều đó khiến chúng tôi tin tưởng sẽ tiếp tục thu hút được nhân tài cần thiết cho quá trình phát triển dài lâu” – ông Jacobs nói. Một ví dụ khác, Paul Nolasco của hãng Toyota cho biết công ty hiện có 1.300 lao động ở Việt Nam, gấp đôi con số của năm 2005. Tuy nhiên số lượng là chưa đủ, lao động cần phải ngày càng được nâng cao về nghiệp vụ, có trình độ cao thì mới ngày càng đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng cao của các doanh nghiệp đầu tư. Ø Đứng từ góc độ báo cáo do Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) thực hiện cho biết nguồn nhân lực nước ta thì Việt Nam là quốc gia có một lực lượng lao động năng động và mạnh mẽ, trong giai đoạn 2010 – 2015, lực lượng lao động của Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm (tương đương với khoảng 738.000 lao động/năm). Báo cáo “Xu hướng Lao động và Xã hội Việt Nam 2009/2010” cũng đã ghi nhận đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam kể từ năm 2000 song hành cùng với sự chuyển đổi nhanh chóng về cơ cấu. Tuy nhiên, cũng có sự chuyển đổi cơ cấu theo hướng từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, theo đó, việc làm trong nông nghiệp đã giảm từ 65,3% (trong năm 2000) xuống 52,2% (trong năm 2007) do người lao động chuyển dịch sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù sự dịch chuyển sang các khu vực có năng suất cao hơn có giúp cho tổng năng suất lao động tăng thêm 5,1%/năm, năng suất lao động nhìn chung vẫn khá thấp và chỉ bằng một phần năng suất trung bình trong ASEAN và khoảng một phần mười mức năng suất của Singapore.  Theo báo cáo đó, lực lượng lao động nước ta xấp xỉ 46 triệu người đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng về kinh tế của Việt Nam, cũng như đối với sự mở rộng khu vực công nghiệp, hiện chiếm khoảng một phần năm số người lao động. Tuy nhiên, gần ba phần tư tổng số lao động đang làm những việc làm bấp bênh với tiền công và điều kiện làm việc nghèo nàn cùng với công tác bảo trợ xã hội cũng như pháp lý còn hạn chế. Thực tế phần lớn lực lượng lao động chưa qua đào tạo nghề cũng góp phần kìm hãm triển vọng phát triển của đất nước. Thứ trưởng Thường trực Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Đàm Hữu Đắc cũng chia sẻ: “Việt Nam đang chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề quan trọng mà Chính phủ đang quan tâm là các chính sách đầu tư và phát triển, đặc biệt là nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Tham khảo từ Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án FDI, đặc biệt là các dự án lớn đi vào hoạt động. Tham khảo từ Mặc dù các doanh nghiệp FDI đã và đang kêu ca rất nhiều về thực trạng thiếu lao động, đặc biệt là lao động quản lý và có kỹ năng, nhưng cho đến nay vấn đề này vẫn chưa được khắc phục. Nếu như Việt Nam muốn thu hút FDI vào những ngành công nghệ cao, có khả năng tạo giá trị gia tăng lớn thì không được phép lặp lại tình huống của Intel khi công ty này chỉ tuyển được 40 nhân viên từ 2.000 cử nhân của 5 trường đại học kỹ thuật lớn nhất Việt Nam. Đáng tiếc là trong gói kích cầu thứ hai của Chính phủ, giáo dục và đào tạo lại không phải là một lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất trung hạn 4%. 2.2.2. Các nhân tố khác: 2.2.2.1. Quy mô thị trường: Chính phủ Việt Nam khuyến khích nhiều loại hình dự án đầu tư vào Việt Nam tạo điều kiện cho nhiều nhà đầu tư tiếp cận thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam . Quy định cho vấn đề này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành danh mục 11 loại hình dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, 34 loại hình dự án khuyến khích đầu tư và 4 loại hình dự án cấm đầu tư (Phụ lục 6). 2.2.2.2. Lợi thế địa lý: Tận dụng lợi thế địa lý cũng thúc đẩy đầu tư tăng trưởng. Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với những vùng đất thấp, đồi núi, nhiều cao nguyên với những cánh rừng rậm. Mỗi vùng điạ lý có những ưu thế riêng để các nhà đầu tư tận dụng để phát triển. Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm vùng núi Tây Bắc và vùng đồi núi Đông Bắc giàu có về tài nguyên khoáng sản và tiềm năng thủy điện dồi dào nhất nước ta. Ngoài ra, vùng còn giàu có tài nguyên du lịch, tài nguyên đất đai, khí hậu để phát triển nông nghiệp (trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc lớn…)với một số thành phố công nghiệp nổi tiếng như Việt Trì, Thái Nguyên… Trong khi đó, tài nguyên chính của Tây Nguyên là các cao nguyên phủ đất đỏ bazan thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, chăn nuôi… với quy mô lớn. Công nghiệp của vùng đang trong giai đoạn hình thành với các điểm, trung tâm công nghiệp nhỏ. Tây Nguyên có 3 thành phố tỉnh lị là Plây - cu, Buôn Ma Thuột và Đà Lạt. Đồng bằng sông Hồng nổi bật với ưu thế đất đai rất màu mỡ, tuy tài nguyên khoáng sản ở đồng bằng không nhiều, tiềm năng khoáng sản lớn nhất là than nâu, ngoài ra, vùng còn có tiềm năng về khí đốt. Công nghiệp ở đây khá phát triển, đã hình thành một số cụm công nghiệp tập trung (Hà Hội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc), các khu công nghiệp lớn. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta có địa hình tương đối bằng phẳng. Khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo và ít thiên tai tương đối thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên chính là đất phù sa màu mỡ có diện tích lớn, nhiều diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản và những vùng đất phèn, mặn được cải tạo cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Đồng bằng vẫn còn một diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước có ý nghĩa nhiều mặt về kinh tế và môi trường. Vùng biển với thềm lục địa mở rộng có trữ lượng hải sản lớn nhất nước ta. Đông Nam Bộ có phần lớn đất đai là đất badan và đất xám phù sa cổ thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp. Khí hậu của vùng mang tính chất cận xích đạo và ít bị thiên tai. Tài nguyên khoáng sản nổi bật là dầu khí ở vùng thềm lục địa và gần các ngư trường lớn phong phú hải sản. Duyên hải miền Trung do những đặc điểm của vị trí, địa hình đã làm cho vùng có khí hậu khắc nghiệt nhất so với các vùng khác. Đây cũng là vùng đất đai kém màu mỡ và nhiều thiên tai: bão, lũ lụt, hạn hán.. Tuy nhiên, duyên hải miền Trung có khá nhiều tài nguyên khoáng sản, lâm nghiệp. Đặc biệt là tài nguyên biển có giá trị kinh tế nhiều mặt, vùng có bờ biển dài, đẹp, nhiều vũng vịnh kín gió nhất và cũng là vùng biển rộng lớn có nhiều quần đảo lớn nhất so với các vùng khác. Những điều kiện này là cơ sở để phát triển du lịch, xây dựng cảng biển nước sâu, khai thác, nuôi trồng thủy sản… Biển Đông là một biển lớn và tương đối kín.Tuy vậy, bốn phía của Biển Đông đều có các đường thông ra hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, chế độ thời tiết và khí hậu của biển Đông khá phức tạp. Biển Đông là nơi có nhiều tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng. Trên không phận thuộc biển Đông cũng có nhiều tuyến đường hàng không quốc tế. Vùng biển Việt Nam thuộc biển Đông có diện tích rộng hơn 1 triệu km2. Đường bờ biển dài 3.260km. Vịnh Bắc Bộ là nơi có nhiểu đảo nhất của cả nước. Ngoài khơi biển Miền Trung có hai quần đảo lớn: Hoàng Sa và Trường Sa. Vùng biển nước ta có tài nguyên phong phú và giá trị kinh tế nhiều mặt. Nguồn lợi hải sản phong phú, có thể cho phép khai thác khoảng 1,5 - 2 triệu tấn cá tôm trong một năm. Vùng bờ biển và các đảo có nhiều thắng cảnh đẹp như: vịnh Hạ Long, bãi biển Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu... Các vịnh biển kín gió là nơi xây dựng các hải cảng lí tưởng (Cam Ranh, Đà Nẵng, Cái Lân...). Nhiều khu vực ven biển và đảo còn bảo tồn được nguồn tài nguyên sinh vật (khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Vườn quốc gia đảo Cát Bà, Côn Đảo, Hòn Mun...). Dầu khí có 5 bể trầm tích là: Sông Hồng, Nam Côn Sơn, Bể Mã Lai - Thổ Chu; Cửu Long…Tổng trữ lượng khai thác ước tính là 4 - 5 tỉ tấn. Tất cả những phân tích khái quát trên về ưu thế điạ lý của từng vùng sẽ mang đến cái nhìn tổng quan để các nhà đầu tư nghiên cứu và có những phương án đầu tư phù hợp, nhằm khai thác tối đa lợi ích của từng vùng, song song với quá trình gìn giữ, bảo vệ và phát triển những ưu thế điạ lý đó nói riêng, và hướng đến sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước nói chung. 2.3 Nhận định của thế giới về môi trường đầu tư của Việt Nam: Sau khi gia nhập WTO vào năm 2007, môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài chọn Việt Nam là nơi đầu tư lý tưởng tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai. 2.3.1 Diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF) Trên tổng số 125 nền kinh tế được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xem xét năm nay trong bản chỉ số có tên là Enabling Trade Index, Việt Nam đã cải thiện thứ hạng của mình một cách đáng kể, từ thứ hạng thứ 89, Việt Nam đã nỗ lực vươn lên 18 bậc, đứng hạng thứ 71 trong ETI. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế cao cấp thuộc Mạng lưới Cạnh tranh toàn cầu sở dĩ Việt Nam đạt được kết quả trên là do việc gia nhập WTO năm 2007. Theo WEF, sự kiện môi trường thương mại của Việt Nam được cải thiện như được thấy trong bảng chỉ số ETI 2010, phản ánh việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ mà Việt Nam đã đưa ra khi xin gia nhập WTO. Kết quả là hàng rào thuế quan của Việt Nam được hạ thấp, trong lúc các nhà xuất khẩu của Việt Nam lại có điều kiện thuận lợi hơn khi giao dịch với các thành viên khác của WTO. 2.3.2 Doanh nghiệp HONG KONG: Cục xúc tiến thương mại Hong Kong ( HKTDC) vừa công bố: “Việt Nam là một thị trường tăng trưởng nhanh chóng ở ASEAN”, Hong Kong đánh giá cao sự phát triển cũng như tiềm năng của kinh tế Việt Nam, coi đây là một môi trường đầu tư tốt. Theo HKTDC, Việt Nam có tầng lớp tiêu dùng trung lưu ngày càng đông, góp phần thúc đẩy nhu cầu về các hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao. Qua khảo sát của HKTDC cho thấy các sản phẩm của Hongkong, đặc biệt là hàng gia dụng, khá phổ biến với người tiêu dùng Việt Nam, nhất là giới trung lưu. HKTDC cho rằng các công ty Hongkong cần tăng cường nắm bắt cơ hội để thúc đẩy thương mại, đầu tư với Việt Nam, một thị trường đầy tiềm năng. Báo cáo của HKTDC nhận xét, bất chấp tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động và thịnh vượng với tốc độ tăng GDP năm ngoái đạt 5,3%, cao nhất trong 10 thành viên ASEAN. Quý I năm nay nền kinh tế này vẫn mạnh và cả Chính phủ Việt Nam lẫn Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đều lạc quan về triển vọng kinh tế của các quý còn lại trong năm. Ngoài khía cạnh là một thị trường tiêu dùng hứa hẹn với các sản phẩm, hàng hóa Hongkong, HKTDC còn đánh giá Việt Nam đang nổi lên là một trung tâm sản xuất thay thế. Vì vậy. Hong Kong đang khuyến khích các nhà sản xuất trong nước nên chú ý đến Việt Nam, nơi có nguồn cung lao động trẻ và chi phí lao động tương đối rẻ, một lợi thế cho sản xuất đòi hỏi nhiều lao động. Với các công ty Hongkong đang đối mặt với tình trạng chi phí sản xuất tăng ở Trung Quốc đại lục, Việt Nam là một lựa chọn để họ dịch chuyển các phần trong tiến trình sản xuất. 2.3.3. Doang nghiệp Nhật Bản: Nhà đầu tư Nhật Bản lạc quan với thị trường Việt Nam : Các doanh nghiệp Nhật Bản đang có xu hướng ngày càng đánh giá cao các điều kiện môi trường kinh doanh và hợp tác thương mại, đầu tư tại Việt Nam". Trước hết có thể thấy sự nhìn nhận tích cực của các doanh nghiệp Nhật Bản đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được khẳng định khá chắc chắn thông qua các cuộc điều tra về hoạt động của các doanh nghiệp Nhật Bản tại châu Á và điều tra về chi phí đầu tư, môi trường kinh doanh tại Việt Nam và châu Á từ đầu năm tới nay. Việt Nam đang ngày càng trở thành điểm lựa chọn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản (hiện hoạt động tại châu Á và Trung Quốc) đang có ý định chuyển các cơ sở đầu tư sản xuất sang nước thứ ba. Các yếu tố được doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá Việt Nam có ưu thế so với các quốc gia khác trong khu vực. Đó là giá nhân công rẻ, môi trường xã hội ổn định, nhiều ưu đãi đầu tư chi phí sản xuất ở mức thấp nhất trong khu vực, giúp tăng sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh, trình độ lao động khá, đặc biệt là lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin... "Đây có thể coi là một xu thế khá tích cực, bởi các doanh nghiệp Nhật Bản được đánh giá là một trong những nhà đầu tư "khó tính" nhất thế giới, với những yêu cầu khá cao về môi trường kinh doanh, đầu tư. Một khi họ lựa chọn nơi nào trở thành điểm đến thì cũng có nghĩa là họ đã tin tưởng môi trường kinh doanh nơi đó, có những ưu điểm cạnh tranh hơn. Việt Nam được đánh giá cao về điều kiện xã hội và chính trị ổn định, thị trường có quy mô tiềm năng tăng trưởng cao, nguồn nhân lực có chi phí thấp. Những khó khăn chính với các nhà đầu tư bao gồm thủ tục hành chính rườm rà khi xin được giấy phép đầu tư, cơ sở hạ tầng kém phát triển, nhiều nơi chính quyền địa phương quản lý chính sách không rõ ràng, thủ tục thuế phức tạp, đặc biệt là giá thuê văn phòng đắt đỏ. Ông Hiroyuki Moribe, Trưởng đại diện Văn phòng Jetro Hà Nội cho biết, nhiều công ty Nhật Bản ở Việt Nam đã vượt doanh số bán hàng trước cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhiều NĐT Nhật Bản hiện rất quan tâm đến thị trường tiêu dùng tại Việt Nam. 2.3.4 Doanh nghiệp Hoa Kỳ: DN Hoa Kỳ đánh giá cao nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam. Điều này biểu hiện rõ nét là năm 2009 mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoàng tài chính-kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch thương mại Việt Nam – Hoà Kỳ vẫn đạt 15 tỷ USD, tăng hơn 10 lần so với 2001. Hoa Kỳ hiện có trên 500 dự án đang hoạt động tại Việt Nam với số vốn đăng ký trên 15 tỷ USD. Các doanh nghiệp (DN) Hoa Kỳ đánh giá đây chỉ là kết quả bước đầu trong mối quan hệ hợp tác giữa hai nước đầy tiềm năng đồng thời đánh giá cao Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực đổi mới, thực hiện cải cách hành chính và tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.. 2.3.5 Doanh nghiệp Đức: Môi trường đầu tư Việt Nam hấp dẫn doanh nghiệp Đức Chỉ xếp sau Trung Quốc và Ấn Độ - 2 nền kinh tế nổi bật tại Châu Á, Việt Nam với 86 triệu dân hiện là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất tại châu lục này và được các nhà đầu tư Đức đặc biệt quan tâm. Yếu tố chính khiến quốc gia này trở thành điểm đến lý tưởng của doanh nghiệp nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia là lực lượng dân số trẻ, ham học hỏi.   Theo các doanh nghiệp Đức đánh giá Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới   Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam trong những năm vừa qua đã đạt mức 8% và được đưa vào danh sách các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên toàn thế giới.   Trong một thập kỷ vừa qua, kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam với các nước tăng cao nhờ những mặt hàng nông sản xuất khẩu nổi tiếng như: Cà phê, hồ tiêu, gạo, trà, cao su, cá tra, cá basa ... Ngoài ra, các ngành sản xuất và công nghệ cao cũng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia này. Chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ tháng 1/2207, Việt Nam đã có thêm nhiều đối tác quan trọng, đặc biệt là Nhật Bản, Hoa Kỳ và các nước Tây Âu. Bên cạnh đó tham gia WTO, thị trường xuất khẩu dành cho Việt Nam cũng được mở rộng hơn. Không còn bị hạn chế bởi rào cản thuế quan, Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư.   Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng tại châu Á   Ông Jan Noether thuộc Hiệp hội Thương mại và Công nghiệp của Đức tại Việt Nam cho biết: "Hiện nay có hơn 250 doanh nghiệp Đức hoạt động tại Việt Nam, đa số hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại". "Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO, mối quan tâm của các nhà đầu tư Đức tới quốc gia này ngày càng tăng", ông nhận xét. Chỉ tính riêng trong năm 2008, Noether đã đón hơn 20 phái đoàn của các doanh nghiệp Đức sang tìm hiểu môi trường đầu tư tại Việt Nam.   Hiện nay, mức thu nhập của các lao động không có chuyên môn cao tại Việt Nam chỉ ở mức 120 - 150USD/tháng và trong năm tới có thể sẽ được điều chỉnh ở mức 150 - 180USD/tháng do tình hình lạm phát. Chính lực lượng lao động trẻ, ham học hỏi - tài sản quý giá của quốc gia, cùng với giá nhân công thấp là 2 yếu tố quan trọng tác động tới quyết định đầu tư tại đây của các doanh nghiệp Đức.   "Mặc dù không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay sẽ giảm đôi chút, ở mức hơn 6% do nhu cầu của khách hàng giảm sút. Tuy nhiên các nhà đầu tư Đức vẫn chọn Việt Nam cho vị trí thứ 9 trong top các quốc gia hấp dẫn đầu tư", Noether cho biết. "Ngoài ra, Việt Nam cũng cần chú trọng tới phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực hơn nữa nếu không muốn những yếu tố này trở thành trở lực trên con đường phát triển của kinh tế quốc gia". 2.4. Nhận xét về môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam : Thông qua việc phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam cũng như việc đánh giá, xem xét thực trạng môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam đã tạo một bức tranh tổng thể để nhìn nhận lại một cách nghiêm túc và rõ ràng về bối cảnh đầu tư quốc tế hiện nay: Ø Mặt được: So với những thời kỳ trước đây, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện đã trở nên thông thoáng hơn, thuận lợi hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Về nguyên tắc, các chính sách ưu đãi của Việt Nam đối với nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là tương đối cạnh tranh so với một số nước về một số mặt như hình thức đầu tư, thủ tục cấp phép. Mặc dù vậy, so với một số nước chuyển đổi và trong khu vực như Balan, Hungary, CH Séc, Thái lan, Philippin, Inđônexia thì mức độ ưu đãi của Việt Nam và Trung Quốc về những mặt này vẫn còn thấp. Môi trường chính trị: Chính trị xã hội Việt Nam ổn định, thể chế chính trị thống nhất, là địa điểm được các nhà đầu tư an tâm. Môi trường luật pháp: hệ thống luật pháp chính sách về đầu tư nước ngoài đã tiếp tục được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong năm qua Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu thầu, đồng thời tiếp tục chỉnh sửa nhiều chính sách liên quan đến đầu tư. Nhiều luật mới cũng đã được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn, như Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ Luật Lao động liên quan đến đình công. Môi trường quốc tế: Việt Nam đã thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm qua, hàng loạt sự kiện quan trọng đã diễn ra, đó là: thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với việc khẳng định chủ trương tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường thu hút ĐTNN. Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức thành công Tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, tiếp theo là việc Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam. Ø Mặt tồn tại: Môi trường hành chính: So với các nước khác trong khu vực và các nước đang chuyển đổi thì nhà đầu tư nước ngoài khi vào Việt Nam vẫn gặp phải những khó khăn nhất định trong thời kỳ “hậu giấy phép đầu tư”, nhất là vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án (trừ trường hợp nếu đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất). Trong nhiều trường hợp làm kéo dài thời gian chuẩn bị và xây dựng, làm chậm trễ thời điểm dự án bắt đầu đi vào sản xuất, và làm mất thời cơ của nhà đầu tư. Đó chính là biểu hiện của nạn tham nhũng còn phổ biến và chưa có biện pháp ngăn chặn, loại bỏ hữu hiệu; các chi phí dịch vụ về cơ sở hạ tầng hỗ trợ kinh doanh, chi phí trung gian, chi  phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp còn lớn so với các nước trong khu vực. Sự phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Sự phối hợp trong các hoạt động cải cách cơ cấu kinh tế, cải cách thế chế với chiến lược hội nhập kinh tế quổc tế còn chưa nhịp nhàng, động bộ. Đánh giá tình hình đầu tư nước ngoài vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư-kinh doanh. Môi trường tài chính: Khu vực ngân hàng còn kém phát triển, đồng tiền chưa chuyển đổi, chính sách tiền tệ và những qui định về quản lý ngoại hối hiện nay của Việt Nam là những yếu tố chưa thuận tiện cho các nhà đầu tư, kém cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực và đang chuyển đổi. Quá trình cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng tiến hành chậm; hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương do tỷ lệ nợ xấu còn cao, rủi ro lãi suất và tỷ giá lớn và khả năng giám sát, quản trị rủi ro yếu; hệ số tín nhiệm đối với với hoạt động của hệ thống tài chính - ngân hàng còn thấp theo đánh giá của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO). Môi trường pháp lý: So với hơn một thập kỷ trước, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã được hoàn thiện hơn theo hướng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn kinh doanh trên đất nước Việt Nam. Tuy hệ thống luật pháp, chính sách liên quan tới hoạt động đầu tư FDI tại Việt Nam đã được bổ sung, hoàn thiện trong những năm qua song vẫn còn thiếu tính đồng bộ và hay thay đổi, còn thiếu minh bạch ,khó dự đoán trước, một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. Một điều tra gần đây đối với các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam cho thấy chính sách đối với FDI hiện tại của Việt Nam vẫn đang tạo ra những rào cản bất hợp lý, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Cụ thể là, những qui định về hạn chế ngành nghề cho phép FDI đầu tư, việc bổ sung danh mục FDI có điều kiện, áp đặt tỷ lệ xuất khẩu đối với doanh nghiệp FDI, nâng giá đất và giá đền bù giải toả đang là những yếu tố làm tăng tính bất ổn định trong chính sách FDI của Việt Nam. Đó cũng là yếu điểm về chính sách của Việt Nam so với một số nước khác. Bên cạnh đó hiệu lực thực thi pháp luật của Việt Nam còn thấp, tạo ra khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn thực hiện. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về đầu tư nước ngoài đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài , chưa thực sự coi đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép đầu tư nước ngoài tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài . Môi trường kinh tế: Định hướng chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. Môi trường lao động: Trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. Môi trường cơ sở hạ tầng: rất bất cập như đã phân tích thực trạng tại ở nội dung trên. ------------------------------------- Tóm lại, nhận xét về môi trường đầu tư Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc đã thay cho lời kết luận về những tồn tại nổi bật đối với môi trường môi trường đầu tư tại Việt Nam: Ø Thứ nhất, đó là vấn đề nguồn nhân lực. Thực tế chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta chưa cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 30%, cán bộ, kỹ sư lành nghề phục vụ cho công nghệ cao còn yếu. Ø Thứ hai là về cơ sở hạ tầng đang đòi hỏi cần nhiều tiền vốn và thời gian chuẩn bị. Trong chương trình hành động của Chính phủ cũng đã nhấn mạnh vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng cần được ưu tiên trong thời gian tới, đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao hơn. Ø Thứ ba là về đất đai. Thị trường bất động sản lên giá, chi phí để có mặt bằng trong đầu tư phát triển rất cao. Bên cạnh những cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, Chính phủ đang tìm nhiều biện pháp, đảm bảo có đủ đất và giá đất ổn định cho các nhà đầu tư xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp. Chương III: GIẢI PHÁP CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM: 3.1. Về môi trường pháp lý: Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa về ĐTNN làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại Nghị định số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng các KKT và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN. Tổ chức triển khai Nghị định quy định về KCN, KCX, KKT sau khi được ban hành. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ 3.2. Về công tác quản lý nhà nước : Ø Tập trung vào việc đẩy mạnh vốn giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng đến công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong vài năm gần đây bằng cách tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng .v.v. giúp cho các dự án này triển khai nhanh chóng. Thường xuyên phối hợp với địa phương hỗ trợ giải quyết về luật pháp, chính sách, vướng mắc của các doanh nghiệp trong việc hình thành và hoạt động. Đồng thời, có kế hoạch nắm bắt cụ thể tình hình triển khai của các dự án ĐTNN có quy mô vốn đầu tư lớn (từ khi hình thành dự án đến khi hoạt động) Nghiên cứu xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin ĐTNN, tiến đến dần kết nối các đầu mối quản lý đầu tư trong cả nước địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu kiểm. Theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các biện pháp nêu tại Chỉ thị số 15/2007/CT-TTG ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương với địa phương và các Bộ, ngành liên quan. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành quỹ đất cho các dự án mới. Chủ trì tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch đầu tư, quy hoạch KCN, KKT và tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KKT. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tổ chức hướng dẫn các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch phát triển KCN và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh Quy hoạch phát triển các KCN cả nước với biện pháp bảo vệ môi trường. Phối hợp với các đơn vị, cơ quan theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề đình công, bãi công của công nhân trong KCN, đặc biệt là trong các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. 3.3. Về thủ tục hành chính : Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý đầu tư nước ngoài của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Nâng cao trình độ toàn diện của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. 3.4. Về kết cấu hạ tầng: Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, 3.5. Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực: Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các Khu công nghiệp, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. Phối hợp với các cơ quan tăng cường giám sát, hướng dẫn triển khai Nghị định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 về quy định mức lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và địa phương trong quá trình triển khai. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 3.6. Về xúc tiến đầu tư: Tăng cường phối hợp hoạt động xúc tiến đầu tư giữa trung ương và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư , chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các hội thảo xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng trang thông tin điện tử về đầu tư nước ngoài bằng một số ngôn ngữ (các thứ tiếng : Anh, Nhật, Hàn, Trung và Nga) đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu thi hành từ ngày 01/01/2998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường các đoàn vận động XTĐT tại một số địa bàn trọgn điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. 3.7. Một số vấn đề khác: Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài các cấp đáp ứng nhu cầu tình hình mới. Đồng thời, đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam... Kiến nghị việc bổ sung vốn đối ứng của bên Việt Nam trong dự án JICA về ‘Tăng cường năng lực điều hành hoạt động đầu tư nước ngoài của Cục đầu tư nước ngoài để đẩy nhanh việc triển khai phục vụ công tác thu thập thông tin FDI và quản lý hoạt động XTĐT trong bối cảnh mới. Thông tin tham khảo từ KẾT LUẬN Từ cuộc vận động gia nhập WTO và kể từ khi gia nhập WTO, môi trường đầu tư tại Việt Nam đã được cải thiện rõ nét. Tuy vẫn còn nhiều tồn tại song chính những tồn tại này lại chính là những cơ hội, bởi vì từ những điều này thì Việt Nam phải tìm cách vượt qua, và đó chính là một bàn đạp cho Việt Nam tiến xa hơn trên con đường phát triển kinh tế của mình. Bất cứ một nền kinh tế nào, một hướng phát triển nào cũng phải gặp nhiều chông gai, vất vả, điều quan trọng nhất là chúng ta vượt qua được những khó khăn xuất phát từ bên trong quốc gia của mình, đứng lên bằng chính đôi chân của chúng ta, đó mới là sự phát triển lâu bền. Thế giới đã bước sang thế kỷ thứ hai mươi mốt, thế kỷ của toàn cầu hóa, mọi thứ có xu hướng sẽ quy về một thị trường chung, một thị trường rông lớn của tất cả các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn, cái ranh giới đó sẽ dần dần biến mất, mọi người sẽ cất tiếng nói chung, cùng đồng tiền chung, giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Và đó cũng là một lý do cấp thiết để Việt Nam xây dựng cho mình một tiềm lực lớn để thu hút hơn nữa các đối tác từ nước ngoài cũng như dòng chảy FDI vào quốc gia mình. Cảm ơn các quốc gia trên toàn thế giới, bởi vì nhờ có họ chúng ta mới biết rằng chúng ta cần phải làm gì hơn nữa, cần phải phấn đấu gì hơn nữa. Và cũng cảm ơn các quốc gia đã giúp đỡ chúng ta, cảm ơn họ vì luôn ủng hộ Việt Nam cũng như từ họ ta rút ra được những bài học kinh nghiệm lớn lao. Việt Nam ơi , hãy phấn đấu nhiều hơn nữa, một tương lại rộng mở đang chào đón chúng ta, những người con Rồng cháu Tiên, hãy cố gắng hơn nữa, từ những bước đi hôm nay, một tương lai sáng ngời thế hệ ngày mai. Hãy chứng tỏ với thế giới rằng, nước Việt Nam chúng ta, không phải là một nước tàn lụi của chiến tranh, của tro tàn đổ nát mà là một quốc gia có truyền thống lịch sử lớn lao, một dân tộc anh hùng, những anh hùng kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMôi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện.doc
Luận văn liên quan