LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, mỗi quốc gia hay mỗi vùng đều phải tự năng động trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mình nhằm theo kịp và chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới và so với cả nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều phải có những mục tiêu đặt ra và những định hướng, giải pháp riêng. Trong đó phải đặt lên trên hết là vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài, đây được coi là “cú huých” đối với những nền kinh tế đang phát triển nhằm giúp các nước này thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” về kinh tế. Nhưng vấn đề đặt ra là dòng vốn đầu tư nước ngoài thường chảy vào những nơi có môi trường đầu tư thuận lợi. Thuật ngữ này nghe có vẻ trừu tượng nhưng nó không hề tách biệt hay đứng ngoài sự phát triển kinh tế. Vậy môi trường đầu tư là gì? Nó có ảnh hưởng ra sao tới sự phát triển kinh tế của một quốc gia?
Em chọn đề tài: “Môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp ” cũng bởi sự cần thiết của nó về tính lí luận và thực tiễn. Bắc Ninh là tỉnh mới được tái lập năm 1997 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ. Xuất phát điểm là một tỉnh nông nghiệp, chiếm gần 50% GDP tỉnh. Nền kinh tế tăng trưởng ở mức thấp, đời sống nhân dân bước đầu có nhiều khó khăn. Vì thế mà việc thu thu hút đầu tư để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá và phấn đấu đạt mục tiêu năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp trở thành yếu tố tiên quyết như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 16 đã đề ra.
Thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế tỉnh cho thấy, từ khi môi trường đầu tư tại Bắc Ninh được cải thiện thì dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh tăng trưởng nhanh chóng và kéo theo đó là sự tăng trưởng kinh tế. chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Lợi thế so sánh của tỉnh được phát huy một cách hiệu quả. Đề tài của em đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và thực trạng những yếu tố này tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đề tài của em gồm ba chương chính:
Chương I: Môi trường đầu tư và các nhân tố thuộc môi trường đầu tư
Chương II: Thực trạng công tác hoàn thiện môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh
Chương III. Các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh và một số kiến nghị.
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn tới các thày cô khoa Đầu tư và các chú ở phòng kinh tế đối ngoại - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6278 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến các nhà đầu tư là cơ sở để cơ qua xúc tiến đầu tư điều chỉnh chất lượng hoạt đông của mình cho phù hợp. Website có thể là công cụ xúc tiến đầu tư hiệu quả nhất nhưng Bắc Ninh chưa tận dụng khai thác hết để xây dựng hình ảnh một Băc Ninh đầy tiềm năng với bạn bè quốc tế. Để giới thiệu Bắc Ninh một cách có hiêu quả thì bên cạnh việc tiến hành các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế, tổ chức các đoàn đi vận động xúc tiến đầu tư., thì các thông tin qua mạng đóng vai trò rất quan trọng.
Tóm lại công tác thu hút đầu tư của tỉnh trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện theo hướng thông thoáng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm cần được khắc phục. Công tác hoàn thiện môi trường đầu tư cũng như hoạt động xúc tiến đầu tư cần tiếp tục đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, đồng bộ để tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng, công tác quy hoạch, giải quyết khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp phải được hoạch định cụ thể.
3. Nguyên nhân
Quá tình hoàn thiện môi trường đầu tư cũng như công tác thu hút đầu tư tại Bắc Ninh vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, có nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Từ năm 2006 đến nay, nền kinh tế của Việt Nam nói chung và tình hình kinh tế-xã hội của Bắc Ninh không nằm ngoài tầm ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt là năm 2008. Gía cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nhà đầu tư có thái độ dè dặt trong việc sử dụng đồng vốn của mình, nhiều doanh nghiệp do không chủ động trong việc đối phó với những thay đổi bất thường của nền kinh tế thế giới nên dẫn đến hoạt động khó khăn, rồi dẫn đến phá sản. Điều này không chỉ xảy ra đối với các doanh nghiệp làm ăn nhỏ mà ngay cả đối với các ông chủ doanh nghiệp hàng đầu thê giới. Làn song đầu tư từ đó mà chậm lại, vốn đầu tư đỏ vào những nơi thực sự có khả năng sinh lợi cao
- Từ khi tái lập tỉnh, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động đầu tư, nhưng lĩnh vực này phát triển không kịp mức tăng trưởng cao của nền kinh tế thế giới, hơn nữa cơ sở hạ tầng của Bắc Ninh vẫn còn yếu kém so với các tỉnh lân cận và so với một số vùng trong cả nước như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai
- Bắc Ninh có nguồn lao động trẻ dồi dào, nhưng tiềm năng này chưa được phát huy đầy đủ do công tác đào tạo chưa được đáp ứng, đội ngũ trí thức thực sự có tay nghề và chuyên môn lại tập trung làm ở các thành phố lớn, đó là do công tác thu hút nhân tài chưa thực sự được quan tâm. Dẫn đến khi mà có sự tăng trưởng nhanh của dòng vốn FDI vào tỉnh thì tình trạng thiếu hụt lao động tay nghề thường xuyên xảy ra.
- Việc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư giữa các tỉnh diễn ra thực sự gay gắt và quyết liệt
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Môi trường đầu tư của Bắc Ninh chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, tuy đã được cải thiên đáng kể nhưng so với các tỉnh khác thì tiến độ bứt khá còn chậm
- Công tác giải phóng mặt bằng có nơi, có lúc còng chậm đã làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư mới, các địa phương còn chưa phát huy tính chủ động của mình
- Công tác xúc tiến đầu tư chưa đa dạng về hình thức nên không đạt được kết quả như mong đợi, môt phần là do chưa có nguồn kinh phí thường xuyên dành cho công tác này, vì thế mà việc quảng bá hình ảnh của tỉnh Bắc Ninh nói chung và các khu công nghiệp chưa mạnh mẽ.
- Cơ chế “một cửa, tại chỗ” đã được thực hiện trong quản lý đầu tư nhưng thực tế triẻn khai còn nhiều vướng mắc phức tạp, nhiều khâu còn chồng chéo, chưa thực sự hiệu quả.
- Năng lực trình độ, khả năng tham mưu, đề xuất cụ thể hoá chủ trương chính sách của một số cán bộ còn hạn chế. Tính bảo thủ, quan liêu ở một số cán bộ công chức còn chậm được khắc phục.
Nhận thức của một số ngành, cấp, một số cán bộ về công tác quy hoạch còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Việc triển khai một số chương trình, kế hoạch dự án còn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm chưa được coi trọng
Trong xu thế cạnh tranh để thu thu hút đầu tư giữa các vùng như hiện nay thì việc cải thiện môi trường đầu tư cần phải được đặt lên hàng đầu trong đó phải có những biện pháp thực sự cụ thể và hữu hiệu. Hoạt động này đòi hỏi sự tham gia vào cuộc của tất cả các cấp các ngành từ tỉnh tới các địa phương, hơn thế nữa là sự tham mưu của các bộ ngành để quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư nói chung và hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng không những đối với Việt Nam mà tại Bắc Ninh đạt kết quả cao nhất.
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH.
I. Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế tỉnh giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
1.Mục tiêu tổng quát
Nhanh chóng xây dựng Bắc Ninh đạt mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối hiện đại và động bộ gắn kết chặt ché với hệ thống hạ tầng của vùng thủ đô hà nội.Trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực và y tế chất lượng cao của vùng…
Hình thành không gian kinh tế thống nhất giữa đô thị hạt nhân với các khu vực nông thôn bằng khung kết cấu hạ tầng đồng bộ . Trong đó:
1.1. Mục tiêu về kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng GDP tỉnh bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 đạt 15-16%; trong đó công nghiệp xây dựng tăng bình quân 18-21%/năm,khu vực dịch vụ tăng khoảng 17-18%/năm. Thời kỳ 2011-2015 mức tăng trưởng kinh tế 13%/năm:công nghiệp xây dựng tăng khoảng 15%/năm,dịch vụ tăng bình quân 14-15%/năm. Thời kỳ 2016-2020 tăng trưởng kinh tế 12%/năm: khu vực công nghiệp xây dựng tăng bình quân 12%/năm, khu vực dịch vụ tăng bình quân 14-15%/năm.
- GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 20.6 triệu đồng
-Năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 20,112 tỷ đồng (gía năm 1994); giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản đạt 2,939-3,108 tỷ đồng (giá năm 1994).
-Phấn đấu nền kinh tế có tỷ suất hàng hoá cao, giá trị kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân hàng năm trên 54.8-58.5%, đến năm 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 800-900 triệu USD.
Tăng nhanh đầu tư toàn xã hội, giải quyết tốt tích luỹ và tiêu dùng, thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài , thời kỳ 2006-2010 tổng vốn đầu tư xã hội dự kiến đạt 38-40%GDP; 2011-2020 khoản 42-45% GDP.
1.2 : Mục tiêu xã hội
Nâng cao chất lượng nguồn lao động ,giải quyết việc làm ; giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị từ 4.5% hiện nay xuống còn 4% và tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn khoang 88-90% vào năm 2020.
Giải quyết việc làm bình quân hàng năm khoảng 22-24 nghìn lao động , chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp, đến năm 2010 lao động trong khu vực nông nghiệp còn khoảng 42.8%
Đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hoá ít nhất đạt khoảng 45-50%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 70%.
Đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 39-40%, đến năm 2020 khoản 50-60%. Đến năm 2010,có 80% lao động có việc làm sau khi đào tạo.
2. Mục tiêu cụ thể về thu hút đầu tư nước ngoài
Những năm gần đây môi trường pháp lý và thể chế kinh tế chinh trị của nước ta ngày càng được hoàn thiện hơn, thị trường xuất khẩu ngày càng đươc mở rộng, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực, thì trong những năm tới đối với Việt Nam nói chung và Bắc ninh nói riêng sẽ tiếp tục củng cố được lòng tin và làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Việc các tập đoàn kinh tế từ Nhật Bản, Đài Loan, Singgapore và Hàn Quốc đang xây dựng chiến lược đầu tư hạ tầng các KCN, khu đô thị, khu công nghệ cao sẽ tạo tiền đề thúc đẩy đầu tư từ những nền kinh tế hàng đầu thế giới vào tỉnh. Bên cạnh đó, việc phân cấp triệt để quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài và cấp giấy chứng nhận đầu tư về địa phương cũng sẽ tạo điều kiên thuận lợi cho việc thu hút và quản lý họat động đầu tư nước ngoài tại Bắc Ninh.
Từ kết quả thu hút FDI, ODA thời gian qua cho thấy môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện sẽ tạo đà cho sự gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh trong những năm tiếp theo. Trên cơ sở đánh giá tiềm năng của tỉnh cũng như những nhân tố mới tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài, có thể dự báo rằng : nếu giả quyết tôt các vấn đề về kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, thủ tục hành chính thì dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Bắc Ninh sẽ có xu hướng gia tăng.
Với mục tiêu phấn đấu đến hết 2015, Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, cần tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến để mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Hoạt động đầu tư nước ngoài phải gắn liền với mục tiêu kinh tế xã hội của từng thời kỳ, lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu.
Căn cứ vào những yếu tố thuận lợi trong bối cảnh mới và khả năng thu hút FDI, Một số định hướng trong thời gian tới đó là:
2.1. Cơ cấu vốn thực hiện
Vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 70 %, nông – lâm – ngư nghiệp khoản 5 %, dịch vụ 25%. GIá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 đạt 20112 tỷ đồng (giá 1994), tăng bình quân25,0 %/năm. Trong đó, công nghiêp có vốn đàu tư nước ngoài đạt 6924,0 tỷ đồng, chiếm 34,4 %tổng giá trị sản xuất. Năm 2015 đạt 45742 tỷ đồng ( gía năm 1994). Trong đó công nghiệp có vốn FDI đạt 15030 tỷ đồng, chiếm 32,9 % tổng giá trị sản xuất. Năm 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 735,0 triệu USD. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 đạt 3200 tỷ đồng, tăng bình quân 25%/ năm đạt tỷ lệ thu ngân sách từ GDP 15 % năm 2010. Trong đó thu từ khu vực có vốn FDI 459,4 tỷ đồng. Giải quyết việc làm bình quân hàng năm từ 22-24 nghìn lao động. Trong đó lao động khu vực FDI chiếm gần 50 %. tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 39-40%. Chú trọng thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức cho các lĩnh vực phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật như: lĩnh vực cấp thoát nước đô thị và các khu cụm công nghiệp; lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn kết hợp với xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ
2.2. Phát triển các khu cụm công nghiệp
Định hướng đến năm 2015, Bắc Ninh có 15 khu công nghiệp tập trung, với tổn diện tích 8756 ha.Trong đó diện tích đề nghị bổ sung mở rộng 4186 ha; diện tích khu đô thị quy hoạch gắn liền với các khu công nghiệp bổ sung và mở rộng 4570 ha.
Tiếp tục quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật các KCN nhỏ và vừa, Cụm công nghiệp làng nghề trên đia bàn tỉnh. Dự kiến đến năm 2015 thành lập 54 khu với tổng diện tích 1711,4 ha. Trong đó phát triển thêm 28 khu, cụm công nghiệp với tổng diện tích quy hoạch 1133,8 ha
2.3. Định hướng ngành
Ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành có công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, toạ việc làm cho người lao động, phát triển công nghiệp phụ trợ, các dự sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Các nghành khuyến khích đầu tư gồm: công nghệ thông tin, điên tử, vi điên tử,công nghệ sinh học…, chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghệ phát triểnnhư Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Khuyến khích thu hút vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên - phụ liệu góp phần nâng cao năng lực cnạh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Khuyến khích đầu tư vào ngành du lịch, y tế, giáo dục đào tạo, dịch vụ giả trí, bán buôn, bán lẻ và hoạt động văn hoá, các dự án đầu tư công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng vật nuôi có năng suất chất lượng cao đưa cào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, các dự án đầu tư công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm, toạ thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt là xuất khẩu
2.4. Định hướng vùng
Trongnhững năm tới, dự báo FDI vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những huyện có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, nhất là huyên Tien Du, Từ Sơn, Quế Võ, Yên phong và thành phố Bắc Ninh. Để tăng cường thu hút FDI tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn như Gia Bình, Lương Tài Và Thuận Thành, bên cạnh những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tưđối với các huyện đó cần ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuât các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ cử huyện
2.5. Định hướng đối tác
Chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia ( TNCs),FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs, hoạt động của các tập đoàn này có tác động quan trọng đối với những nước tiếp nhận vốn FDI. Do đó việc thu hút các TNCs được khuyến khích theo cả hai hướng:
- Thực hiện những dự án lớn, công nghệ hướng vào xuất khẩu
- Tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
Đối với các đối tác cụ thể như sau:
Nhật Bản
Dự báo từ nay đến năm 2015 Nhật Bản sẽ tiếp tục giữ vai trò hàng đầu trong đầu tư tại Việt Nam noi chung và với tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Nhật Bản là quốc gia có vốn FDI đăng ký và thực hiện lớn nhất trong số các quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư vào Bắc Ninh. Chính phủ Nhật đang có những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, coi Việt Nam trong đó có Bắc Ninh là đia bàn đầu tư hấp dẫn. Trong những năm tới tỉnh Bắc Ninh sẽ tiếp tục thúc đẩy và hỗ trợ các dự án của Nhật Bản hiện đang trong quá trình đàm phán hoặc hình thành dự án, cũng như giải quyết tốt các vướng mắc cho các doanh nghiệp Nhât Bản đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại Bắc Ninh.
Hàn Quốc
Các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng rất quan tâm đến Bắc Ninh, đây là quốc gia thứ hai đứng sau Nhật Bản có dòng vốn đổ vào Bắc Ninh nhiều nhất. Hàn Quốc đã có nhiều cuộc hội thảo với đoàn xúc tiến đầu tư của Bắc Ninh, với hàng trăm doanh nghiệp tham gia. Qua các cuộc hội thảo thì hình ảnh, cơ hội và tiềm năng của Bắc Ninh nhanh chóng đươc chuyển đến các doanh nghiệp và người Hàn Quốc. Tuy nhiên cũng như đối với các nhà đầu tư Nhật Bản, các nhà đầu tư Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng của những nhà đầu tư đi trước vì vậy cần có những biện pháp tích cực hỗ trợ cho các nhà đầu tư đang kinh doanh tại địa bàn Bắc Ninh, tạo tác động tích cực đối với các nhà đầu tư mới.
Với lòng mến khách và các điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh, hy vọng quan hệ hợp tác giữa các nhà đầu tư Hàn Quốc và tỉnh Bắc Ninh ngày càng phát triển.
Đài Loan
Những năm gần đây, Đài Loan thực hiện chính sách kinh tế hướng Nam, trong đó có Việt Nam được coi là thị trường quan trọng về đầu tư và thương mại. Đây là thời cơ mới trong thu hút đầu đầu tư của Đài Loan để có thể đẩy quy mô và phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư sắp tới. Thời gian tới sẽ tập trung thu hút các nhà đầu tư Đài Loan vào các lĩnh vực như sản xuất thép, cơ khí chế tạo, xe máy, các thiết bị điện, điện tử, linh kiện máy tính, sợi tổng hợp, dệt may,da giày…,chế biến nông lâm ngư nghiệp và chế biến thực phẩm phục vụ xuất khẩu.Ngoài việc chú tọng thu hút các tập đoàn lớn cần coi trọng thu hút các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan vì quy mô vốn và trình độ kỹ thuật của các xí nghiệp này phù hợp với chính sách phát triển kinh tế ngành công nghiệp phụ trợ của ta.
Châu Âu, Hoa Kỳ
Trong những năm tới cần tăng cường quảng bá hình ảnh Bắc Ninh và môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng từ Châu Âu, Hoa Kỳ.. làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước này.
II. Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư
Từ những nhân tố ảnh hướng đến môi trường đầu tư cũng như những tác động của môi trường đầu tư đến việc phát triển kinh tế - xã hội mà trong thời gian tới cần ưu tiên công tác hoàn thiện môi trường đầu tư theo hướng ngày càng minh bạch thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên công việc này không thể nóng vội, không thể đòi hỏi có kết quả ngay mà cần thời gian và phải có một chiến lược cụ thể. Sau đây là một số giải pháp nhằm hàon thiện môi trường đầu tư cũng thúc đấy việc thu hút vốn đầu tư vào địa bàn Bắc Ninh.
1. Hoàn thiện chính sách và cải cách hành chính
Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài rất quan tâm đến chủ trương chính sách đầu tư khi quyết định đầu tư vào một tỉnh nào đó vì điều nay quyết định đến công việc kinh doanh, công cuộc đầu tư sau này của họ. Đặc biệt là tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài có thể thay đổi lớn khi có những thông báo về chính sách tích cực. Yêu cầu chung về đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp là ngày càng minh bạch, công khai, dễ dự đoán với nội dung đảm bảo thuận tiện và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Hơn nữa, thể chế, chính sách và luật pháp phải được xây dựng và hoàn thiện trên nguyên tắc: cùng có lợi tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế, không phân biệt đối xử. Các giải pháp cụ thể đưa ra là :
Thứ nhất, các giải pháp hoàn thiện chính sách
- Tỉnh cần đặt mục tiêu ổn định cơ sở pháp lý và chế độ sở hữu lên hàng đầu để tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn. Hệ thống luật pháp hoàn thiện là cơ sở đảm bảo quyền lợi vật chất, vốn, lợi nhuận…cho các nhà đầu tư từ đó mà khuyến khích họ đầu tư hơn nữa vào địa bàn tỉnh.
Hình thành và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ nhằm tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển: hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đi đôi với tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo sự thống nhất về chính sách, tự chủ và năng động trong triển khai thực hiện. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, chống đầu cơ, trục lợi nâng giá; tăng cường công tác quản thu, chống thất thu, quản lý chặt chẽ hoá đơn, chứng từ, kiểm tra chặt chẽ quyết toán thuế, thu kịp thời, đầy đủ các khoản tồn đọng. Kiên quyết xử lý các vi phạm về thuế. Bên cạnh đó nghiêm túc chỉ đạo thủ tướng chính phủ về các giả pháp kiểm soát lạm phát, kiểm soát tăng giá, đi đôi với thúc đẩy phát triển sản xuất, đảm bảo ổn định kinh tế. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kiểm soát chặt chẽ việc tăng tổng phương tiện thanh toán, tổng dư nợ tín dụng nhưng phải đảm bảo tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng. Kiểm soát chặt chẽ việc cho vay kinh doanh BĐS và chứng khoán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh. Tăng cường tính công khai minh bạch của các ngân hàng
- Chuẩn bị các điều kiện để triển khai tốt hơn nữa Luật kinh doanh và Luật đầu tư chung. Tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường, dễ dàng tiếp cận với các chính sách khuyến khích đầu tư và chương trình hỗ trợ của nhà nước cũng như của tỉnh về đầu tư và tín dụng, về mặt bằng sản xuất, thông tin thị trường, tư vấn kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực và các dịch vụ phát triển kinh doanh. Rà soát dánh giá chính sách quy định về khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của khu vực công nghiệp, phát triển khu vực dịch vụ, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xuất khẩu. Đẩy mạnh xã hội hoá trong việc thu hút vốn đầu tư của dân cư vào phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương.
Thứ hai, giải pháp về cải cách hành chính
Thời gian tới cần phát huy hơn nữa hiệu quả của cơ chế “một cửa tại chỗ”, đây là yếu tố đảm bảo sự thành công trong qúa trình thu hút đầu tư vào các KCN tỉnh. Hiện nay cơ chế này đã được thực hiện thông qua cơ chế uỷ quyền của Bộ, Ngành trung ương và UBND tỉnh cho Ban quản lý các KCN tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ về quản lý nhà nước về đầu tư, xây dựng, thương mại, lao động… Theo cơ chế này thì sẽ dần xoá bỏ cơ chế xét duyệt từng trường hợp cụ thể đối với một số thủ tục, bỏ thủ tục xin giấy phép xây dựng, giấy phép xuất nhập khẩu.
Để tiếp tục thúc đẩy cơ chế này, các Bộ, ngành trung ương uỷ quyền cho ban quản lý thực hiện chức năng quản lý nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng cụ thể hoá, minh bạch hoá các quy hoạch, kế hoạch hướng dẫn để một mặt tạo thuận lợi cho Ban quản lý KCN trong quá trình thực hiện, mặt khác đảm bảo tính thống nhất quản lý theo khuôn khổ pháp luật chính sách của nhà nước.
Đối với từng địa phương như ở Bắc Ninh thì việc thực hiện cơ chế một cửa đã tạo được niềm tin đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên thực tế thì vẫn còn nhiều hạn chế vì thế cần phải thực hiện một số điểm sau:
-Tiếp tục duy trì và thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật đã ban hành như: Quy chế thẩm định dự án, cấp giấy phép đầu tư; Quy chế phối hợp quản lý nhà nước sau cấp phép đầu tư; thực hiện nghiêm túc và giải quyết dứt điểm các chế độ quy định về ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn
-Từng cơ quan đơn vị thực hiện việc cải cách các thủ tục hành chính thông qua việc rà soát lại các quy định để chỉnh sửa bổ sung theo hướng đơn giản hoá. Mặt khác, từng cơ quan, đơn vị phải niêm yết công khai các thủ tục, quy định rõ thời hạn phải thực hiện, kèm theo đó gắn với trách nhiệm của người đứng đầu về việc thực hiện các thủ tục đó.
- Ban hành đồng bộ các chính sách về tài chính, ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư được hưởng các ưu đãi về tài chính. Hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho các nhà đầu tư được vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ hỗ trợ phát triển hoặc thực hiện việc hỗ trợ lãi suất tiền vay. Đây là giải pháp tích cực giúp đỡ nhà đầu tư triển khai nhanh quá trình thực hiện dự án của mình.
- Thống nhất trong cơ chế “Tiền đăng hậu kiểm” từ các thủ tục trình duyệt dự án, các thủ tục trong xây dựng, các thủ tục về đảm bảo môi trường, các thủ tục về thanh tra, kiểm tra... Nhằm tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp thực hiện dự án một cách thuận lợi nhất.
- Hỗ trợ vốn từ ngân sách cho các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu triển khai dự án như: Bồi thường, giải phóng mặt bằng, chậm nộp tiền thuê đất, tăng thời gian được giảm thuế.… Có tác dụng thiết thực để doanh nghiệp nhanh chóng thực hiện dự án.
Cải thiện các điều kiện hoạt động cho các doanh nghiệp, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng các KCN chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Điều kiện nền tảng nhất là chính sách thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút nguồn vốn FDI vào các KCN. Điều này liên quan mật thiết đến chính sách vĩ mô của Nhà nước như: giảm giá đầu vào nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng hoá, chính sách thuế,…
Đối với địa phương cần thực hiện tập trung vào một số điểm sau:
- Đổi mới quản lý theo hướng chuyển từ quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế “một cửa” trong quản lý các KCN và các ngành khác có liên quan tới đầu tư vào các KCN;
- Thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư nhất quán, thủ tục nhanh gọn và đồng bộ, tránh việc thực hiện ưu đãi trở thành cơ chế “xin, cho” làm nản lòng các nhà đầu tư.
- Mở rộng và phát triển các Quỹ khuyến công, Quỹ hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,.. Nhằm tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước phát triển và đầu tư trong các KCN.
- Thực hiện các hoạt động dịch vụ tư vấn đầu tư nhằm thúc đẩy quá trình đầu tư và thị trường tư vấn tài chính đang có nhu cầu cao trong các KCN.
- Cải thiện sự cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng cho khu vực kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp trong KCN. Trong đó, nhấn mạnh chính sách xã hội hoá trong khu vực cung ứng dịch vụ công cộng nhằm gia tăng các hoạt động và sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào đầu tư cơ sở hạ tầng bằng việc xây dựng những định chế ổn định và khuôn khổ pháp lý thích hợp. Các nhà đầu tư vào cơ sở hạ tầng có quyền quyết định giá thu phí dịch vụ để thu hồi vốn theo sự thoả thuận của cơ quan quản lý Nhà nước.
2. Nâng cao tính đồng bộ và hiện đại của cơ sở hạ tầng, kinh tế kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng là môi trưòng đầu tư cứng, nó có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, làm nền móng cho hoạt động đầu tư. Trong những năm gần đây cơ sở hạ tầng ở Bắc Ninh đã có nhiều đổi mới theo hiện đại hoá, đồng bộ hoá nhưng không phải vì thế mà quá trình phát triển hệ thống cơ sở nền móng này lại không tiếp tục được quan tâm. Phát triển cơ sở hạ tầng đồng nghĩa với việc xây dựng đường giao thông, bến bãi nhà ga, hệ thống cung cấp điện nước, thông tin, bưu điện…. đặc biệt là phát triển công nghệ thông tin từ cấp tỉnh đến cơ sở.
Chất lượng cơ sở hạ tầng quyết định đến hiệu quả đầu tư nên nó được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm trước hết. Việc phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng nằm trong chiển lược thu hút đầu tư không chỉ tại Bắc Ninh mà đây còn là vấn đề có tính quốc gia. Tuy nhiên vấn đề này không phải một lúc chúng ta có thể giải quyết xong được, nó đòi hỏi lượng vốn lớn để chuẩn bị. Các giải pháp đặt ra là:
· Giải quyết các vấn đề về chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng để chuyển đổi đất sang đầu tư KCN
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng là vấn đề phức tạp liên quan đến quyền lợi của nhân dân có đất trong quy hoạch làm KCN. Để thực hiện tốt vấn đề này cần có sự lãnh đạo đồng bộ cuả các cấp các ngành, cơ quan địa phương và các DN. Cần có sự phối hợp chặt chẽ cùng với việc tuyên truyền công khai chủ chương chính sách để cho nhân dân hiểu rõ chủ chương xây dựng và phát triển công nghiệp, đồng thời hiểu rõ các chính sách về đất đai của chính phủ đến sự vận dụng trong chính sách cuả tỉnh. Tạo được sự thống nhất cao trong tư tưởng đến hành động, từ trong Đảng đến quần chúng nhân dân. Các cấp cơ quan đoàn thể và từng cán bộ đảng viên phải gương mẫu đi đầu trong tổ chức thực hiện, coi đó là tiêu chuẩn xếp loại tổ chức Đảng và xếp loại cán bộ, Đảng viên hàng năm.
Trong những năm qua công tác bồi thường giải phóng mặt bằng nói chung gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Điều đó có nơi làm không tốt, không đồng bộ dẫn đến nhiều vấn đề bức xúc căng thẳng kéo dài gây hậu quả vừa tốn kém vừa mất thời gian thậm chí gây những khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư.
Một số trường hợp xuất phát từ nhu cầu cấp bách cần có mặt bằng để sản xuất, các chủ đầu tư tự ý tăng chi phí gây lên sự so bì, không nhất quán dẫn đến thắc mắc khiếu kiện,… tạo nên những rào cản không đáng có trong quá trình bồi thường chung.
Để làm tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, thực tế cho thấy cần phải thực hiện tốt một số điểm sau:
- Thống nhất về tư tưởng: Cần tuyên truyền cho nhân dân rõ chủ chương phát triển công nghiệp là yêu cầu khách quan, tất yếu để phát triển đất nước, xây dựng tỉnh Bắc Ninh giàu mạnh, văn minh. Đây là chủ trương đúng đắn để chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Công việc giải phóng mặt bằng phải là công việc của chính quyền địa phương chủ trì và chịu trách nhiệm chứ không thể phó mặc cho các chủ đầu tư các KCN. Trong quá trình thực hiện phải được phân công trách nhiệm cụ thể, sẵn sàng có các giải pháp phù hợp đối với tình hình thực tế. Duy trì nghiêm kỷ cương của pháp luật, đồng thời quan tâm thực sự tới đời sống của nhân dân khi chuyển đổi ruộng đất.
- Thực hiện công khai các chủ trương, định hướng: Từ quy hoạch KCN đến chính sách pháp luật đất đai, chính sách bồi thường được áp dụng của tỉnh đã ban hành. Công tác này đặt biệt coi trọng triển khai cụ thể tới nhân dân, cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương cơ sở, cùng với sự vận động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Coi trọng thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phân biệt rõ những việc nào dân biết, những việc nào dân bàn, những việc nào dân kiểm tra. Thực hiện tốt quy chế dân chủ có cơ sở chính là chìa khoá thành công trong công tác vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nưốc nói chung và công tác bồi thường giải phóng mặt bằng nói riêng.
- Có chính sách hỗ trợ nhân dân chuyển đất làm KCN một cách hợp lý, công khai, công bằng.
- Mạnh dạn hình thành các trung tâm dịch vụ khai thác quỹ đất, giải phóng mặt bằng nhằm thống nhất trong thực hiện chính sách, mặt khác giảm thiểu các thủ tục hành chính, giảm chi phí cho các nhà đầu tư.
- Thực hiện tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng: Ngoài chính sách nhà nước hiện hành UBND tỉnh Bắc Ninh đã có chủ chương động viên, hỗ trợ nhân dân giao đất đúng tiến độ. Các chủ trương này được vận dụng thống nhất và xuyên xuốt quá trình bồi thường cho nhân dân.
+ Hưởng theo m2 đất, chi trả trực tiếp cho người dân có ruộng.
+ Hỗ trợ công bồi bổ nâng hạng đất, chi trả cho người dân có ruộng.
+ Hỗ trợ từ ngân sách cho địa phương khi xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ nhân dân: Nhà trẻ, mẫu giáo, đường giao thông nông thôn, nhà văn hóa,…
+ Đồng ý về chủ trương cho phép địa phương chuyển ruộng làm KCN được dành quỹ đất hợp lý để chuyển đổi mục đích, quy hoạch làm khu giãn dân. Mục đích để cho nhân dân, những gia đình phải chuyển nhiều đất có được một khu đất khác để làm kinh doanh, dịch vụ ổn định đời sống.
+ Hỗ trợ trực tiếp cho người có đất chuyển làm KCN, chi phí chuyển đổi nghề nghiệp (theo m2 đất giao), tạo cơ hội cho các hộ dân bố trí học nghề, chuyển nghề.
Từ những chủ trương trên, trong quá trình làm bồi thường giải phóng mặt bằng các cơ quan trực tiếp thưch hiện có kế hoạch cụ thể, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc có đất để xây dựng phát triển công nghiệp mặt khác ổn định đời sống của nhân đân.
· Thúc đẩy viêc hình thành các KCN mới
Xét trên tổng thể thì việc hình thành các KCN phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội địa phương, gắn với quy hoạch vùng kinh tế và quy hoạch ngành.
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, trong tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh và các tỉnh lân cận. Mục tiêu phấn đấu nhịp độ tăng trưởng bình quân của vùng trọng điểm là 16,5% (1995-2010). Nhanh chóng xây dựng các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao, không gây ô nhiễm môi trường, tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt, một phần để thay thế hàng nhập khẩu và một phần lớn để xuất khẩu. Đồng thời phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực tạo ra nguyên vật liệu trên cơ sở tài nguyên và lợi thế vùng.
Song song với phát triển của ngành công nghiệp yêu cầu tập trung là phát triển ngành công nghiệp có khả năng bố trí phân tán nhằm giải quyết việc làm, phát triển những nhà máy có quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến hiện đại.
Xây dựng và phát triển các Khu công nghiệp tập trung tại khu vực ngoại vi trung tâm đô thị của tỉnh, dọc các tuyến đường chính qua tỉnh như: quốc lộ1A, quốc lộ 18, quốc lộ 38, các trục đường xương cá với các đường trung tâm,... đó chính là các lợi thế cho các KCN hình thành.
- Theo quy hoạch ngành thì một số ngành công nghiệp trọng điểm cần được ưu tiên phát triển là: kỹ thuật điện, điện tử; sản xuất thiết bị máy móc, đóng và chữa tàu thuỷ, lắp ráp chế tạo ô tô, xe gắn máy; sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng, luyện cán thép; chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ dệt, da, may.
- Từ những định hướng quy hoạch trên, trong việc thiết kế quy hoạch các Khu công nghiệp mới cần quan tâm, bố trí cơ cấu sử dụng đất công nghiệp một cách hợp lý để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Đối với Khu công nghiệp đã được thiết kế quy hoạch cần đặt vấn đề trong xúc tiến gọi vốn đầu tư theo định hướng chiến lược đã được xây dựng.
Từ những căn cứ quan trọng đã nêu, việc lựa chọn địa điểm xây dựng Khu công nghiệp mới là một việc quan trọng đầu tiên trong quá trình triển khai xây dựng các Khu công nghiệp, nó quyết định sự thành bại của Khu công nghiệp cũng như sự phát triển bền vững của Khu công nghiệp với kinh tế-xã hội nói chung và sự nghiệp CNH-HĐH nói riêng. Việc lựa chọn địa điểm xây dựng Khu công nghiệp là xác lập một mối quan hệ tổng thể về không gian kinh tế, kỹ thuật, kiến trúc, môi trường sinh thái, xã hội, nhân văn,... với lãnh thổ địa phương, vùng, toàn quốc.
Những yêu cầu đó được cụ thể hoá:
- Phát triển kinh tế-xã hội: Xây dựng Khu công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược CNH-HĐH địa phương. Bảo đảm sự cân đối hợp lý trong cơ cấu quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp trong vùng. Khai thác tốt nguồn lực, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển công-nông-lâm nghiệp, thúc đẩy phát triển văn hoá, khoa học. Quan hệ chặt chẽ với nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chi phí đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chi phí xây dựng công trình và chi phí vận tải hàng hoá rẻ, thuận lợi cho thu hút gọi vốn đầu tư vào KCN.
- Đô thị và hạ tầng kỹ thuật: Quy hoạch khu đô thị phải gắn với quy hoạch phát triển hệ thống đô thị, hệ thống hạ tầng kỹ thuật của vùng, quốc gia.
Địa điểm xây dựng KCN phải gần các đầu mối giao thông quan trọng, đường sắt, đường bộ, sân bay,…
Có khả năng tổ chức tốt giao thông, vận chuyển hàng hoá, điều kiện giao thông, phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân với khu vực xung quanh.
Có điều kiện thuận lợi về cung cấp nguồn điện, năng lượng, nguồn nước,… đảm bảo cho quá trình tổ chức sản xuất, khai thác nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Điều kiện tự nhiên: KCN cần có diện tích xây dựng đủ theo nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài về khả năng phát triển mở rộng mà không gây ra sự đảo lộn hoặc thay đổi quá nhiều sau một thời kỳ thay đổi sản xuất hay mở rộng các xí nghiệp công nghiệp.
Xây dựng KCN cần thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật, địa hình khu đất, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, độ cao ngập lụt,… Đây là những vấn đề phức tạp có liên quan tới công tác kỹ thuật thiết kế, xây dựng và phát triển sau này, nó quyết định ảnh hưởng đến tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN.
- Bảo vệ môi trường: Vị trí KCN phải xem xét đến chiều gió, nguồn nước chảy so với khu dân cư, khu nghỉ ngơi của thành phố, đô thị.
KCN cần xác lập bảo vệ và hạn chế gây ô nhiễm với không khí, nguồn nước, đất do quá trình sản xuất gây ra.
Xác định khoảng cách KCN so với khu dân cư phù hợp nhằm hạn chế các tác động xấu nếu có trong quá trình vận hành.
- Hạ tầng xã hội và an ninh quốc phòng: Xác lập vị trí KCN ở xa các khu đô thị cần có đủ các điều kiện để hình thành các khu nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng phục vụ cho công nhân KCN.
Trong trường hợp xây dựng KCN mà nguồn vốn đầu tư ít thì xác định xây dựng KCN gần các đô thị hay trung tâm kinh tế (hạn chế trong công tác quy hoạch).
Không được xây dựng KCN trên vùng đất bảo tồn, tài nguyên khoáng sản, di tích lịch sử,…
Xây dựng KCN phải kết hợp với đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội thời bình đồng thời xem xét đến khả năng đáp ứng các yêu cầu về an ninh, quốc phòng trong thời chiến. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược xây dựng đất nước đồng thời với bảo vệ đất nước của Đảng và Nhà nước ta.
Thực tế hiện nay, nhiều nơi trong vùng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN đã yếu kém lại không đồng bộ, nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như đường giao thông, hệ thống cấp điện đòi hỏi vốn đầu tư lớn lên chưa được triển khai, hoặc triển khai chậm. Không ít những công trình hạ tầng kỹ thuật được quy hoạch xây dựng nhưng sau một thời gian đã không đáp ứng được yêu cầu. Do vậy, để tạo điều kiện phát triển KCN, công tác quy hoạch cần đi trước một bước, cần phải làm đồng bộ và phải được công bố công khai. Mặt khác việc triển khai xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật toàn khu vực phải đáp ứng những yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của phát triển vùng cũng như phát triển công nghiệp của vùng và tốc độ đô thị hoá. Quan trọng hơn là phải có kế hoạch thực thi quy hoạch này về vốn, thời hạn thực hiện và cơ chế huy động các nguồn lực cho thực hiện.
· Tập trung nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp
Trách nhiệm chính trong triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là các chủ đầu tư KCN, được Thủ tướng Chính phủ cho phép và phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN. Các chủ đầu tư KCN thuộc các thành phần kinh tế: Công ty quốc doanh, công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty nước ngoài,… Việc triển khai đầu tư hạ tầng KCN và gọi vốn đầu tư vào KCN, KCN lấp đầy nhanh hay chậm phụ thuộc lớn vào các chủ đầu tư hạ tầng. Điều đó phụ thuộc vào năng lực của chủ đầu tư hạ tầng KCN về vốn, về hệ thống quản lý, về khả năng tiếp thị,…
Do vậy, yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển các KCN là vấn đề chọn chủ đầu tư hạ tầng, điều đó quyết định tới tiến độ triển khai đầu tư và hiệu quả của việc huy động vốn.
Với từng KCN khi đã được thành lập, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu tư hạ tầng và thúc đẩy quá trình nhanh chóng lấp đầy KCN cần tập trung vào một số điểm sau:
- Các biện pháp huy động vốn
- Hỗ trợ từ ngân sách các công trình có liên quan giữa trong và ngoài tường rào KCN;
- Tạo điều kiện trong xúc tiến gọi vốn đầu tư, đây là yếu tố quan trọng để nhanh chóng lấp đầy KCN.
Sự đồng bộ trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chính là yếu tố quan trọng tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Theo các chuyên gia Nhật Bản, chìa khoá cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi sự nỗ lực đồng thời của các công ty đầu tư hạ tầng và chính quyền địa phương có KCN.
3. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan xúc tiến đâu tư
Thực tế cho thấy kết quả thu hút tại Bắc Ninh vẫn còn hạn chế so với các tỉnh có cùng điều kiên lân cận. Nguyên nhân chính là hoạt động xúc tiến đầu tư tại tỉnh chưa được quan tâm đúng mức. Tỉnh đã nỗ lực rất nhiều trong việc quảng bá hình ảnh của mình nhưng thực tế lại cho thấy còn rất nhiều bất cập trong những chính sách và dịch vụ cung cấp cho những nhà đầu tư hiện đại và tiềm năng. Để thực hiện được vai trò là một công cụ hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế, hoạt động xúc tiến đầu tư tại Bắc Ninh cần phải được nâng tầm hơn nữa. Cụ thể:
- Cải thiện nguồn nhân lực cho hoạt động xúc tiến đầu tư
Tại các cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh Bắc Ninh quản lý nhà nước về đầu tư bao gồm Sở kế hoạch và đầu tư Bắc Ninh và ban quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh đã bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý lĩnh vực đầu tư, tuy nhiên số lượng cán bộ chuyên trách làm công tác vận động xúc tiến thu hút đầu tư của tỉnh. Một chính sách và khuôn khổ pháp lý rõ ràng cùng với các chiến lược xúc tiến bài bản tự chúng không thể đảm bảo kết quả hoạt động thực tế. Quá trình xúc tiến đầu tư muốn thành công cần có được nhưng cán bộ nắm tốt những nhiệm vụ liên quan, có trách nhiệm và chuyên môn giỏi.
Theo ý kiến đánh giá của một số nhà đầu tư thì đội ngũ cán bộ còn chưa đáp ứng được các yêu cầu về các kỹ năng quản lý, ngoại ngữ, khả năng maketing. Đây là trở ngại, rào cản cho việc tiến hành một số hoạt động thu hút đầu tư có hiệu quả. Chúng ta cần tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ. Các chương trình đào tạo cần nhằm vào những nhu cầu cụ thể của từng nhóm dân sự và cung cấp cho đội ngũ cán bộ những kỹ năng và kiến thức thiết thực giúp họ hoàn thành nhiệm vụ.
- Tăng cường hoạt động maketing tại địa phương
Cần thiết kế ra hình ảnh địa phương để thoả mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu. Trước tiên cần đánh giá đúng thực trạng của địa phương từ đó có kế hoạch xây dựng hình ảnh, tầm nhìn và mục tiêu phát triển của địa phương; có chiến lược maketing cho địa phương một cách cụ thể.
Bên cạnh đó cần củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng trong tương lai bằng cách tăng cường gặp gỡ tiếp xúc với các cán bộ quản lý hoạt động đầu tư nhằm lấy ý kiến của các nhà đầu tư cũng như giải đáp thắc mắc, tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho họ. Ngoài ra cần thiết lập đường giây nóng và hòm thư góp ý để có kênh thông tin kịp thời đến những vấn đề khúc mắc trong đầu tư của các đơn vị
Hiện nay Bắc Ninh đã áp dụng cơ chế một cửa tại chỗ, đã tiết kiệm về thời gian, tiền bạc và giảm thiểu rất nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư trong quản lý hành chính. Nhưng tỉnh vẫn cần có nhưngbiện pháp để tạo ra ưu thế vượt trội nhằm thúc đẩy việc thu hút đầu tư. Trong đó vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng được đặt lên hàng đầu ở mỗi địa phương.
- Tỉnh cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp về tuyển dụng lao động cho tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bắc Ninh cần phát huy tối đa ưu thế lực lượng lao động của tỉnh khi đề cập đến Bắc Ninh thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ ngay đến một Bắc Ninh có nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng,
- Giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư: giảm tiền thuê bất động sản, cắt giảm các chi phí đầu vào như điện nước, viễn thông, hỗ trợ vay vốn….
Có thể nói rằng công tác xúc tiến đầu tư là quan trọng nhất trong việc cải thiện môi trường đầu tư tại Bắc Ninh. Vì thế trong quá trình hoạt động cần xây dựng một chương trình xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để khai thác hiệu quả tiềm năng của địa phương.
4. Đào tạo nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng được nhà đầu tư quan tâm trong quá trình cân nhắc, xem xét đi đến quyết định đầu tư.
Chúng ta nói Việt Nam là đất nước có nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động rẻ, lực lượng lao động thông minh, hiếu học,… nói vậy cũng chỉ mang tính định tính. Hiện nay, cộng đồng quốc tế nói chung, nhà đầu tư nước ngoài nói riêng quan niệm về chất lượng lao động đã khác. Quan tâm đến chất lượng lao động chính là quan tâm tới chất lượng sản phẩm, tới sự sống còn của dự án đầu tư. Bởi vì, đầu tư để sản xuất, hàng hoá không chỉ tiêu dùng trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu thì một loạt các thị trường trên thế giới đưa ra các tiêu chuẩn của nguồn lực, mà nguồn lực chính là nguồn sản phẩm.
Trước đây, khi người ta đặt vấn đề về môi trường như một yếu tố kỹ thuật, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi những nước có đòi hỏi môi trường cao để đầu tư vào nhũng nước ít đòi hỏi về môi trường hơn. Nhưng giai đoạn hiện nay, môi trường đang trở thành yếu tố tiêu chuẩn chính trị của hàng hoá trong tiêu chuẩn chọn thầu. Vì thế yếu tố chính trị quốc tế đang ngày càng tác động vào môi trường đầu tư càng đậm nét hơn. Bởi vậy, chất lượng của nguồn lực xét các khía cạnh không chỉ là có kỹ thuật, không chỉ có yếu tố xã hội mà còn xét đến cả môi trường thực thi của nguồn lực ấy.
Quan tâm đến quá tình xúc tiến đầu tư vào các KCN có nhiều việc phải làm, để chuẩn bị một cách kỹ lưỡng tới mối quan tâm của nhà đầu tư chính là chú trọng tới chất lượng nguồn nhân lực. Đào tạo nguồn nhân lực phải nhìn từ hai giác độ đó là không chỉ đáp ứng yêu cầu của KCN mà còn đảm bảo cho người dân có đất chuyển làm KCN có được chuyển đổi nghề nghiệp, để có cuộc sống ổn định và phát triển hơn trước. Điều đó không chỉ mang ý nghĩa thực tế trước mắt mà còn mang mang đậm giá trị nhân văn cao cả. Nhằm thực hiện tốt vấn đề đó cần chú ý tới một số vấn đề sau:
- Chú trọng tới quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các cấp trình độ, từ quản lý tới kỹ thuật. Đặc biệt quan tâm tới quá trình đào tạo nghề. Vì lao động kỹ thuật chiếm 50-60% lực lượng lao động trong các KCN.
- Tăng cường đầu tư vốn cho nâng cấp các trường dạy nghề cả về trang thiết bị máy móc, chương trình giảng dạy, điều kiện học tập và thực hành của lực lượng đào tạo.Trước mắt là tăng cường đầu tư nâng cấp Trường công nhân kỹ thuật của tỉnh để làm sao khi công nhân đào tạo ra là đáp ứng ngay với điều kiện làm việc tại các KCN. Mở rộng phạm vi, ngành nghề đào tạo của các trường đào tạo đóng trên địa bàn như Trường công nhân xây dựng , Trường trung học hoá chất mỏ, Trường trung học thuỷ sản,…
- Chuyển Trường Cao đẳng sư phạm Bắc Ninh thành trường đào tạo đa ngành, ngoài việc đào tạo bồi dưỡng cho ngành sư phạm, cần mở rộng ngành nghề đào tạo về kỹ thuật, kinh tế với các cấp trình độ khác nhau nhằm phục vụ tốt nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh nói chung và thiết thực phục vụ cho phát triển các KCN nói riêng.
- Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nhằm huy động được hết các nguồn lực cả trí tuệ cũng như vật chất. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để mở các trường đào tạo nghề mới với đa dạng hoá các loại hình sở hữu về quảnlý và loại hình đào tạo vừa giảm nhẹ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vừa khuyến khích nâng cao chất lượng đào tạo.
- Quan tâm và tạo điều kiện cho lực lượng lao động có điều kiện làm việc tốt, có nơi cư trú ổn định xung quanh Khu công nghiệp để có điều kiện tái sản xuất sức lao động. Đây cũng là mối quan tâm của các nhà đầu tư trong quá trình tìm hiểu xúc tiến đầu tư.
- Chi từ ngân sách kinh phí đào tạo nghề ban đầu cho người lao động tại khu vực có đất chuyển sang làm công nghiệp. Hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo cho các doanh nghiệp tuyển lao động từ địa phương.
KẾT LUẬN
Sau 12 năm xây dựng và phát triển, Bắc ninh đã và đang khẳng định là một địa phương hội tụ nhiều tiềm năng, cơ hội đầu tư, Hàng nghìn doanh nghiệp đang hoạt động với đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh đang tạo đà cho công nghiệp Bắc Ninh phát triển bền vững trong xu thế hội nhập. Hiện nay môi trường đầu tư tại Bắc Ninh dã hội tụ các yếu tố nền tảng : cơ sở hạ tầng đồng bộ, thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, thuận lợi, hình ảnh của Bắc ninh được gắn liền với những thương hiệu lớn, công nghiệp hỗ trợ bước đầu hình thành và gia tắng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp… Sự hội tụ đó đảm bảo cho các KCN Bắc Ninh và “ thương hiệu Bắc Ninh” cần và có để trở thành địa chỉ tham gia cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, chứ không đơn giản chỉ là cạnh trnah trong nước. Đến với Bắc ninh nhà đầu tư có thể cảm nhận sự khác biệt đem đến hiệu quả đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp trong ngắn hạn và chiến lược phát triển dài hạn.
Bắc Ninh đã bước đươc những bước dài và vững chắc, hoạt động thu hút đầu tư vừa tạo ra tính ổn định vừa tạo ra tính đột phá trong phát triển kinh tế xã hội. Thu hút đầu tư nước ngoài một cách ổn định và tạo niềm tin lâu dài đối với các nhà đầu tư nước ngoài luôn là một bài toán khó đối với tất cả các địa phương. Trong đó việc cải thiện môi trường đầu tư là chía khoá để giải được bài toán đó. Việc cải thiện môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh cần sự cố gắng, nỗ lực của tất cả các tâng lớp nhân dân và cũng không thể thiếu sự ủng hộ từ các cấp ngành trung ương.
Đề tài của em mới chỉ đề cập đến các vấn đề tổng quát liên quan đến môi trường đầu tư và quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh. Nội dung đề cập không thể tránh khỏi những thiếu sót vì thế em rất mong nhận đựơc sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Kỷ yếu 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” – Nhà xuất bản Thống nhất, Hà Nội;
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Các Báo cáo tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua các năm 1997 - 2007”;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “20 năm Đầu tư nước ngoài” - Đặc san Báo Đầu tư;
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), “Kỹ năng xúc tiến đầu tư” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
5. PGS.TS Trần Thị Minh Châu (2007), “Về Chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
6. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010”- Cục xuất bản, Bộ Văn hoá Thông tin.
7. Cục Đầu tư nước ngoài, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (2008), 20 năm Đầu tư nước ngoài Nhìn lại và Hướng tới 1987-2007 - Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội;
8. Cục Thống kê Bắc Ninh, “ Niên giám thống kê Bắc Ninh các năm 1997- 2008” - Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
9. Mai Ngọc Cường (2000), “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia;
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001): “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ XI Ban chấp hành Trung ương khoá IX - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
12. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, “Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII năm 2006”;
13. Nguyễn Thị Hiền (2004), “Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN”- Nhà xuất bản chính trị quốc gia”, Hà Nội;
14. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
15. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
16. Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội ;
17. Luật Đầu tư năm 2005 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
18. Nguyễn Thị Nhã (2000), “Các động lực và nhân tố chủ yếu tác động tới thu hút FDI trên thế giới”- Tạp trí thị trường TC-TT (số 8/2000).
19. Phùng Xuân Nhạ (2000), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hoá ở Malayxia”, NXB Thế giới;
20. Trần Văn Nam (2005), “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội;
21. Trần Văn Thọ (2000), “Kinh tế Việt Nam 1995-2000 tính toán mới, phân tích mới” - Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội;
22. Nguyễn Văn Tuấn (2005), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam” - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội;
23. Trần Xuân Tùng (2005), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
24. Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh, “Báo cáo tổng hợp của qua các năm 1997-2007 và quý I năm 2008”;
25. Vũ Trường Sơn (1997), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” - Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội;
26.TS. Vũ Anh Tuấn: Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất những vấn đề đặt ra. T/c Phát triển kinh tế, tháng 2/2004
27.UBND tỉnh Bắc Ninh: Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh các năm 2005, 2006, 2007, 2008.
28. Ngô Tuấn Nghĩa: Ảnh hưởng của thể chế kinh tế tới môi trường đầu tư. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế 2006 số 4 (335).
29. Sở Kế hoạch & Đầu tư Bắc Ninh: Báo cáo tình hình thực hiện đầu tư nước ngoài 9 tháng đầu năm 2008
30. Ban quản lý các KCN Bắc Ninh: Báo cáo Tổng kết thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Môi trường đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh- Thực trạng và giải pháp.doc