A. Thực trạng
1.Dân số
Dân số Việt Nam vẫn đang tăng nhanh, bình quân trên 1 triệu người mỗi năm, nghĩa là bằng dân số một tỉnh thuộc loại trung bình.
Theo Tổng cục thống kê, năm 2005 Việt Nam có khoảng 83,1199 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số lên tới 252 người/km2 (trong khi đó các chuyên gia LHQ tính toán để có cuộc sống thuận lợi, bình quân chỉ nên có 30-40 người/km2). Sang năm 2006,dân số Việt Nam tăng lên 84,1158 triệu người, là nước đứng thứ 14 trên thế giới,mật độ dân cư là 254 người/km2, cao gấp 6 lần so với mức chuẩn quốc tế.Dự báo đến giữa thế kỉ,Việt Nam sẽ trở thành 1 trong 16 nước có trên 100 triệu dân.
Các đặc điểm của dân số Việt Nam, trong đó lưu ý vấn đề dân số trẻ nhưng đang bước vào thời kỳ quá độ chuyển đổi sang dân số già.
Những người sinh ra sau năm 1975 ước chiếm khoảng 63% tổng dân số, tuy nhiên số người từ 60 tuổi trở lên hiện đã chiếm khoảng 9%. Sự mất cân đối giới tính đã bộc lộ những dấu hiệu rất nghiêm trọng do tâm lý thích sinh con trai.
Theo kết quả điều tra năm 1999, tỷ số giới tính chung cả nước ở mức 96,7 nam/100 nữ nhưng đối với nhóm trẻ từ 0-4 tuổi, tỷ lệ các bé trai ngày càng nhiều so với các bé gái.
Dân số phân bố không đều và mô hình di dân thay đổi. Năm 1999 trung bình trên mỗi km2 đất ở Thái Bình có 1.194 người, trong khi đó ở Kom Tum chỉ có 32 người/km2 (gấp 40 lần).
Sức ép từ nhu cầu việc làm đã dẫn đến tình trạng các luồng di dân tự do và theo dự án không ngừng tăng lên. Riêng giai đoạn 1990-1997 đã có 1,2 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án.
Tại TP.HCM trong giai đoạn 1991-1996 cứ mỗi năm lại tăng thêm 213.000 người. Hướng di dân cũng thay đổi đáng kể, từ di dân Bắc-Nam sang nông thôn-đô thị và trong nước ra nước ngoài. Chỉ tính đến đầu 2004, đã có tới gần 80.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan.Dự báo xu hướng di dân sẽ ngày càng sôi động hơn.
Về đại thể, Việt Nam vẫn là một nước “tam nông” (nông thôn, nông nghiệp và nông dân) do tỷ lệ dân số đô thị quá thấp. Năm 2004, tỷ lệ dân đô thị cả nước mới đạt 26,3%. Nhiều tỉnh, tỷ lệ dân đô thị chưa đạt tới 10%.
Lao động Việt Nam có 4,5% mù chữ, 47% chỉ có trình độ tiểu học, 30% tốt nghiệp THCS và 18,5% tốt nghiệp THPT, 79% lao động từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực nông thôn lên tới 87% (số liệu 2003).
Việt Nam là một thị trường rộng lớn, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.Bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào,giá lao động rẻ, thong minh, tiếp thu nhanh là những điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước phất triển sản xuất.Nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề mà chúng ta vẫn chưa khắc phục được đó là:lao động không có trình độ chiếm tỉ trọng lớn, ý thức kỉ luật, ý thức lao đông kém, trình độ quản lí,tổ chúc chưa cao
MỤC LỤC
A. Thực trạng 1
1.Dân số 1
2.Kinh tế 2
3.Chính trị-pháp luật 4
4.Văn hoá-xã hội 5
5. Khoa học công nghệ 5
6. Địa lí 7
7.Khách hàng 12
8. Cạnh tranh 12
Đánh giá môi trường kinh doanh Việt Nam 14
Việt Nam gia nhập WTO: cơ hội và thách thức 18
B.Giải pháp 22
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường kinh doanh Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp.
Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận vớI giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường.
2. Trái phiếu.
2.1 Khái niệm : Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn 2.2 Đặc điểm
2.21. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính
+ Mệnh giá
+ Lãi suất định kì ( Coupon)
+ Thời hạn
2.22 Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ - con nợ giữa người phát hành và người đầu tư.
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành
2.23. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố
Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
2.3 Phân loại trái phiếu
Thông thường trên thị trường trái được phân loại như sau:
2.31 Căn cứ vào việc có ghi danh hay không :
* Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
* Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.2.32. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó
* Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kì hạn
* Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành
*Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều nhiều hình thức đảm bảo cho vay. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau: - Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không đảm bảo: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ
có ba bảo đảm, nhưng trước cổ đông.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn. + Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đâ:
2.4. Lợi ích của đầu tư trái phiếu
- Dù làm ăn thua lỗ, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc bỏ như cổ phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được trả tiền trước người có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường. Nhưng nếu công ty có lợi nhuận cao, công ty có thể chia thêm cổ tức cho người có cổ phần, thì trái chủ vẫn được hưởng ở mức đã định.
- Trái phiếu có loại được miễn thuế thu nhập (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương). Đối với những người có thu nhập cao, mua trái trên vẫn có lợi
Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi suất thị trường. Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn có lợi.
2.5. Bất lợi đầu tư trái phiếu
- Khi nhận được tiền lãi phải lo đầu tư số tiền đó vì rất ít công ty có - chương trình tái đầu tư tiền lãi trái phiếu. Trong khi đó, nhiều công ty có chương trình tái đầu tư cổ tức. Cổ đông có thể mua thêm cổ phần được miễn sở phí, và có khi còn được mua cổ phần với giá rẻ hơn giá thị trường.
- Giá trái phiếu công ty cũng biến động khá mạnh trên thị trường: khi lãi suất suất thị trường lên cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ hạ. Khi cơ quan đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá công ty phát hành từ loại AAA(3A) xuống AA(2A) hoặc xuống BBB(3B) thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.
Hoặc khi có sự mất mát thị trường, vỡ nợ… thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ giá và giá trái phiếu cũng sẽ giảm đi khi ít người mua.
2.6. Những điều cần chú ý khi đầu tư vào trái phiếu.
Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: Chiều hướng hay xu hướng lên của lãi xuất và uy tín của công ty phát hanh. Nên mua trái phiếu lúc lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang trên đà giảm dần. Và nên mua trái phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi suất cao trong một thời gian dài. Ngược lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán trái phiếu dài hạn đi để mua vào trái phiếu trung và dai hạn.
3. Chứng khoán có thể chuyển đổi
3.1 Chứng khoán có thể chuyển đổi
Khái niệm: Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi là:
- Cổ phiếu ưu đãi
- Trái phiếu chuyển đổi
3.2 Mục đích của phát hành trái phiếu chuyển đổi.
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhăm mục đích huy động thêm vốn váo những thời điểm chưa thích hợp cho việc phát hành cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang xuống giá.
3.3 Lợi ích của phát hành trái phiếu chuyển đổi
* Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi trái phiếu này ra cổ phiếu thường khi đến hạn:
+ Nếu là trái phiếu: Bên phát hanh sẽ phát hành trái phiếu ra với lãi suất thấp
+ Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được các khoản cố định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một chỉ báo có lợi cho danh tiếng công ty.
* Đối với nhà đầu tư:
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp được tính an toàn của trái phiếu (thu nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ phiếu thường.
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo hiểm trước tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tuỳ thuộc nhiều vào giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi, và tương quan giá giữa công cụ có thể chuyển đổi với những công cụ mà chúng có thể chuyển đổi thành. Đó là những yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu tư.Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng được đổi lấy một cổ phần của cổ phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000 đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000 đồng: 50.000 đồng = 20 cổ phần.
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng ; được chuyển thành 100 cổ phần của một cổ phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là 1045000 đồng : 100 = 10450 đồng.
Điều đó có nghĩa là giá trị trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045 đồng thì việc nắm giữ trái phiếu và chuyển đổi nó thành cổ phiếu mới được coi là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá tương đương chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần lợi nhuận.Trên thực tế rất có thể có giá cổ phiếu không lên đến mức mà người nắm giữu trái phiếu có thể chuyển đổi trái phiếu để thu lợi nhuận.
4. Chứng khoán phái sinh.
4.1 Khái niệm: Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như: phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận,…
4.2 Các loại chứng khoán phái sinh.
4.21 Quyền chọn (Option).
* Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
* Những yếu tố cấu thành một quyền chọn:
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
Loại quyền ( chọn mua hay chọn bán)
Thời hạn của quyền
Mức giá thực hiện quyền
* Những mức giá liên quan một quyền là:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở đó.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền
- Giá quyền lựa chọn
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền, tức là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn, và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền
Đối với quyền chọn bán: ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở.Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là giá trị nội tạ. Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó: Giá trị theo thời gian của quyền chọn = Giá quyền – ( Giá thị trường – giá thực hiện).Ví dụ : Giá của một quyền chọn mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000 đồng. Người giữ quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức là mua 100 cổ phần ( mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000 đồng, cũng theo mức giá thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó bán ngay với giá thị trường, thu về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là 200.000 đồng. Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá nội tại = 400.000 đồng – 200.000 đồng = 200.000 đồng. Người mua vẫn sẵn sàng trả phần phụ trội cho các quyền lựa chọn vì họ nhận được nhiều lợi ích từ một quyền lựa chọn.
* Ứng dụng của quyền chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất. Ví dụ : Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000 VND/cổ phần, và bạn dự đoán sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa chọn có liên quan đến giao dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn mua cổ phiếu XYZ được niêm yết với giá 40.000 VND/ cổ phần. Trong vòng 6 tháng giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng ra thị trường với giá 50.000 đồng.
Như vậy, bạn đã tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đã thu được lợi nhuận 60.000 đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong đó khoản thời gian là 6 tháng
Quyền lựa chọ được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận. Ví dụ: Với XYZ đang có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán một quyền chọn XYZ 44.000 với gía 400.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước các khoản thua lỗ nhờ có 40.000 đồng từ người bán quyền chọn.Nếu XYZ tiếp tục giảm giá thì đương nhiên người bán sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000 đồng từ việc bán quyền lựa chọn tạo ra một sự bảo vệ cụ bộ đối với tình trạng sụt gía.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được thực hiện. Khoản thu phụ trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng đầu tư.
4.22 Quyền mua trước.
Khái niệm: Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới. Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần mới cổ phần thì giá của quyền được xác định theo công thức:
Vr = (Po – Pn)/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền
Po là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành
Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua cổ phiếu đang lưu hành.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000đồng. Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu. 4.23 Chứng quyền
Khái niệm: Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
Đặc điểm: Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền được thực hiện, nó tạo thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường. Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên chứng chỉ: Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời hạn của quyền, đa số là 5-10 năm.
4.24. Hợp đồng kì hạn
Khái niệm: Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá vào ngày hôm nay. Hàng hóa ở đây có thể là bất kì thứ hàng háo nào từ nông sản, các đồng tiền, chứng khoán. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường.
Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.
4.25 Hợp đồng tương lai.
Khái niệm: Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
- Niêm yết tại sở giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai. - Xoá bỏ rủi ro tín dụng: Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh hưởng gì đến bên kia. - Tiêu chuẩn hoá: Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai bên bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước. - Điều chỉnh đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market) Trong các hợp đồng kỳ hạn, các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không bên nào biết về đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho công ty thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ
1. Chủng loại hàng hoá
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời ngày 20-7-2000 và thực hiện phiên giao dịch từ ngày 28-7-2000 chỉ với 2 cổ phiếu được niêm yết trên thị trường là REE và SAM, với giá trị thị trường ban đầu chỉ đạt 444.000.000, đến ngày 27/11/2005 có đến 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn là 1086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu công ty với số vốn là 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu chính phủ với số vốn 54000 tỷ đồng. Như vậy, tại thời điểm này có 73 loại chứng khoán được lưu hành trên thị trường với số vốn khoảng 6600 tỷ đồng. Sau 5 năm ta có thể nhận thấy trong thời kì này thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển rất chậm, số lượng chứng khoán lưu hành còn quá ít. Điều này không có gì là khó hiểu bởi đây là giai đoạn mà thị trường của chúng ta còn sơ khai, non trẻ, mới đi vào hoạt động. Trong khi đó trình độ hiểu biết của dân cư về chứng khoán còn rất hạn chế, tâm lý e ngại của doanh nghiệp không muốn tham gia vì phải chụi sự quản lý của UBCKNN, phải công bố thông tin, kiểm toán, điều này đã góp phần làm cho thị trường khá là nguội, số cổ phiếu tham gia niêm yết ít.
Đến thời điểm cuối tháng 12 năm 2006 thị trường đã có những bước tiến vượt bậc: tại TTGDCKTP.HCM đã có tới 61 cổ phiếu niêm yết ( tăng 2.9 lần 5 năm trước đó), 2 chứng chỉ quỹ và khoảng 350 trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ. Như vậy, chỉ trong một năm thị trường có bước chuyển mình rất lớn, điều này đã phản ánh thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn, hợp lý. Nhưng bên cạnh đó cũng phải thừa nhận thị trường trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, trình độ hiểu biết của dân cư về thị trường vẫn còn nhiều hạn chế, đầu tư theo tâm lý bầy đàn, hàng hoá có chất lượng tốt không nhiều.
Từ thời điểm cuối năm 2006 và đầu năm 2007 Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC và là thành viên chính thức của tổ chức WTO, đã tác động rất lớn đến thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ số Vn-Index liên tục tăng trong một thời gian dài trước và sau tết nguyên đán, đã có thời điểm chỉ số thị trường đã tăng độ biến lên đến 1.170 điểm, HASTC đạt 450 điểm vào ngày 12/3/2007. Điều này đã tạo lên cơn sốt hàng háo trên thị trường, mọi người đổ sô đi mua chứng khoán tìm cơ hội kiếm lời làm cho cung không đủ cầu, hàng hoá trở nên khan hiếm, các doanh nghiệp thấy được lợi ích của việc lên sàn nên liên tục đăng kí niêm yết, phát hành cổ phiếu huy động vốn. Điều này làm cho số lượng cổ phiếu trên thị trường liên tục tăng và tính cho đến thời điểm bây giờ cả thị trường đã có 219 mã chứng khoán niêm yết. Trong đó tại Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh là 125 mã chứng khoá, 2 chứng chỉ quỹ, tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội là 94 mã cổ phiếu. Bên cạnh đó là hàng loạt các cổ phiếu có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao liên tục lên sàn qua các đợt IPO như: Bảo Việt, Đạm Phú Mĩ,…. Và đặc biệt là trong thời gian tới là các đại gia ngành Ngân hàng như: Vietcombank, BIDVbank, Agribank, Habeco, Mobifone,…. điều này làm cho thị trường trở nên sôi nổi, tính thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó là trình độ hiểu biết của dân cư về chứng khoán, tâm lý đầu tư bầy đàn đã bị hạn chế, thị trường sau một thời gian tăng trưởng nóng đã có những bước điều chỉnh rất tích cực Vn-index dao động xung quanh mức điểm 1000 điểm và đến ngày 14/11/2007 sau 8 phiên điều chỉnh liên tục Vn-index mất 102.33 điểm và đạt tại mức 973,59 điểm. Sự điều chỉnh này làm cho thị trường mất khá nhiều điểm nhưng đây là sự điều chỉnh cần thiết, điều này sẽ giúp thị trường phát triển ổn định và bền vững trong tương lãi, tránh được những rủi ro khi mà thị trường phát triển quá nóng.
2. Khối lượng giao dịch.
2.1 Cổ phiếu
- Khi thị trường mới đi vào hoạt động phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 chỉ có 2 cổ phiếu giao dịch với giá trị là 444 triệu đồng thì đến cuối thời điểm tháng 12 năm 2006 tổng khối lượng cổ phiếu niêm trên thị trường là 900 triệu cổ phiếu tổng giá trị giao dịch trên 10% GDP. Đến tháng 9/2007 tại TTGDCKTP.HCM tổng khối lượng cổ phiếu giao dịch bình quân hàng ngày là 6,1 triệu cổ phiếu tăng 15% so với tháng 6/2007. Tại TTGDCK Hà Nội tổng số lượng cổ phiếu giao dịch trong tháng 9/2007 đạt 39,45 triệu cổ phiếu gấp hơn 2 lần số lượng cổ phiếu giao dịch tháng trước đó ( 19, 42 triệu cổ phiếu). Giá trị giao dịch tăng mạnh lên tới 3.649,26 tỷ đồng tăng gấp đôi so với giá trị giao dịch 1.836,8 tỷ đồng một tháng trước đó. Bình quân mỗi ngày có khoảng 2,076 triệu cổ phần thực hiện giao dịch là 192 tỷ đồng. Đặc biệt là thời gian cuối tháng giá trị giao dịch tăng lên rõ rệt đạt 400 tỷ so với 80 – 90 tỷ đồng so với thời gian tháng 7.
- Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài: Trong tháng 9 tổng lượng giao dịch của Nhà đầu tư nước ngoài tháng này giảm 30,12% so với tháng trước. Tuy nhiên xét về tương quan mua bán thì trong tháng này nhà đầu tư mua vào nhiều hơn là bán ra. Chênh lệch mua bán lên tới 1,092 triệu cổ phần. Các cổ phiếu được nhà đầu tư nước ngoài mua vào nhiều nhất là SSI với 1,048 triệu cổ phần, với tương quan là 2,66% khối lượng giao dịch mua bán của toàn thị trường, tiếp đến là BMI với 337.700 cổ phần được mua vào, đứng thứ 3 là NTP với 334.300 cổ phần.
- Số tài khoản giao dịch tăng lên nhanh chóng: Nếu như tính đến tháng 6/2006 cả thị trường chỉ có 22.000 tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường thì tính đến thời điểm cuối năm 2006 cả thị trường con số này tăng lên 52000 tài khoản, riêng tháng 8 năm 2007 tới 28 tổ chức và 573 nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự tăng lên nhanh chóng cuả tài khoản giao dịch làm cho các giao dịch khống chế, làm giá trên thị trường giảm xuống, tính thanh khoản thị trường tăng lên
- Chỉ số P/E: Trước khi giai đoạn thị trường có những điều chỉnh các nhà quản lý, các chuyên gia trong và ngoài nước đều đưa ra lời nhận xét rằng giá cổ phiếu quá cao so với giá trị thực của nó. Chỉ số P/E trung bình của 20 cổ phiếu niêm yết có vốn hoá lớn nhất là : 54,98 trong khi đó chỉ số này ở thị trường các nước khác khu vực châu á là:
Bảng 1: Chỉ số P/E ngày 29/3/2007
Thị trường
Chỉ số P/E
Năm 2006
Năm 2007
Hồng Kông
16,5
14,5
Ấn Độ
19,8
16,7
In-đô-nê-xi-a
17,2
13
Malaysia
18
16,1
Philipin
16,4
15,9
Thailan
11,1
10
Đài Loan
16,4
13,3
Như vậy, so với các nước thì P/E của chúng ta là rất cao. Khả năng sinh lời bị giảm do mua ở cổ phiếu ở mức giá qúa cao so với thị trường các nước trong khu vực. Điều này sẽ gây tâm lý lo lắng e ngại cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam vì mức độ rủi ro là rất lớn.
2.2 Trái phiếu
Trong năm 2002 tình hình giao dịch trái phiếu còn có phần ảm đạm hơn. Chính phủ trong thời gian qua đã rất cố gắng tạo nguồn hàng cho thị trường chứng khoán với phương châm trong giai đoạn đầu chủ yếu là giao dịch trái phiếu chính phủ nhằm tạo đà bôi trơn cho sự vận hành của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất mới mẻ. Nhưng thực tế, trái phiếu Chính phủ được giao dịch với khối lượng rất ít. Sau hơn 3 tháng thị trường giao dịch chứng khoán hoạt động, đã có mặt 3 loại trái phiếu chính phủ được niêm yết nhưng có 2 loại CP1-0200 và CP1A-0100 chưa thực hiện được giao dịch nào. Còn loại trái phiếu CP1-0100 thì được giao dịch với khối lượng rất thấp với tổng số hơn 396 trái phiếu đạt giá trị giao dịch khoảng trên 39.206.000 đồng. Đặc biệt, trong nhiều phiên giao dịch không một trái phiếu nào được thực hiện giao dịch.
Đến thời điểm tháng 9/2006 TTGDCK Hà Nội đã tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ TPCP tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu tham gia đăng kí đấu thầu là 4.183 tỷ đồng ( gấp 2,78 lần khối lượng gọi thầu) kết quả khối lượng trái phiếu trúng thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến thời điểm tháng 9/2006 số trái phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam đăng kí giao dịch trên TTGDCK Hà Nội có 38 loại tổng gía trị giao dịch là 7.027 tỷ đồng trong đó Kho bạc Nhà nước đạt 3.042 tỷ đồng ( 8 loại) và 30 loại của NHPT Việt Nam đạt 3.985 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2006 cả thị trường đã có tới 350 loại trái phiếu tham gia thị trường. Nhưng cũng có điều nhận thấy mặc dù số trái phiếu niêm yết là khá nhiều nhưng tham gia giao dịch lại quá ít, nó chỉ diễn ra chủ yếu là giữa các ngân hàng với nhau trong khi đó nhà đầu tư cá nhân tham gia lại quá ít.
Nguyên nhân:
- Tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ là rất thấp, đơn điệu chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư; phương thức giao dịch chủ yếu là phương thức giao dịch thoả thuận, thị trường chưa có một hệ thống nào cung cấp thông tin đầy đủ về các giao dịch mã trái phiếu như: khối lượng, gía trị giao dịch. Trong khi đó việc tiến hành giao dịch chỉ được thực hiện qua 2 TTGDCK rất dễ gây sự nhầm lẫn và khó khăn cho nhà đầu tư khi theo dõi.
- Khi nhà đầu tư vào trái phiếu sẽ phải đối mặt với 3 loại rủi ro: thứ nhất: Là rủi ro về tín dụng; thứ 2: Tính thanh khoản bởi vì hiện nay trái phiếu có tính thanh khoản rất thấp đặc biệt là về thời gian của nó thường rất dài đa số là 10 năm và 5 năm, thứ 3: Rủi ro về lãi suất vì TPCP hiện có lãi suất cố định do đó có sự hoán đổi lãi suất cố định sang lãi suất thả nổi.
Như vậy ta có thể thấy trong thời gian qua khối lượng và gía trị giao dịch trên 2 trung tâm chứng khoán Hà Nội và TP.HCM đã tăng rõ rệt cả về số lượng và gía trị giao dịch. Lược cung hàng hoá đã phần nào đáp ứng được cầu, hàng hoá đa dạng cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là việc IPO của một số đại gia: Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt,… làm cho thị trường tăng tính linh hoạt, tính thanh khoản được nâng cao. Giai đoạn đầu năm 2007 thị trường được dẫn dắt bởi các nhà đâu tư nước ngoài, nhưng đến thời điểm hiện nay các nhà đầu tư trong nước đã tham gia tích cực vào thị trường, có nhiều phiên nhà đầu tư nước ngoài tham gia giao dịch chỉ chiếm 10,5% đây là điêu hết sức bất ngờ, tâm lý đầu tư bầy đàn đã giảm sau nhiều phiên điều chỉnh của thị trường.
Hiện nay cả nước hàng ngàn doanh nghiệp, nhưng con số hiện nay cho thấy trên thị trường chỉ có 219 Cổ phiếu được niêm yết trên thị trường thì đó quả là con số quá ít so với tiềm năng và quy mô của toàn thị trường. Vậy đâu là nguyên nhân của tình trạng này, ta phải làm gì để tăng cường hàng hoá nhiều hơn nữa cho thị trường chứng khoán Việt Nam? Để giải quyết tình trạng này ta cần phải giải quyết các vấn đề:
II. Nguyên nhân
1. Nền kinh sôi động.
Nền kinh tế và thị trường chứng khoán có quan hệ mật thiết với nhau, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế ngược lại. Thị trường chứng khoán muốn phát triển thì không thể thiếu một nền kinh tế tăng trưởng vững chắc. Bởi nền kinh tế có tác động to lớn tới thị trường chứng khoán như: người tham gia đầu tư, chủ thể niêm yết, cung cấp nguồn hàng hoá cho thị trường chứng khoán …
Một nền kinh tế khó khăn sẽ tạo ra sự khó khăn cho hoạt động thị trường chứng khoán nói chung và sự khan hiếm hàng hoá nói riêng và thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đang vấp phải khó khăn đó.
Trong những năm 1998, 1999, 2000 nền kinh tế vẫn còn chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Điều này đã tác động rất lớn đến thị trường chứng khoán ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại trong giai đoạn 1998-2000. Sang giai đoạn 2001-2006 cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam nền kinh tế đã có những khởi sắc rất tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức ổn định trung bình là 7,7%. Lượng vốn hoá đầu tư vào thị trường chứng khoán đến tháng 8/2007 là 4,8 tỷ USD điều này đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Năm
1998
1999
2000
2001- 2006
Tốc độ tăng trưởng
5,8%
4,8%
6,7%
7,7%
Qua đó ta cũng nhận thấy, sự khó khăn của nền kinh tế trong giai đoạn 1998-2000 đã tác động rất lớn đến thị trường hàng hoá. Mức cung hàng hoá luôn lớn hơn cầu dẫn tới đọng hàng hoá, điều này dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty rất khó khăn, thị trường chứng khoán ra đời nhưng không thể phát triển được trong thời gian dài. Sự tăng trưởng những tháng đầu năm 2001- 2006 là rất tốt nhưng tâm lý e ngại niêm yết của các công ty, nàh nước chưa có chính sách rõ ràng để phát triển dẫn đên lượng cung tính từ thời điểm28/7/200 đến tháng 12 năm 2006 có 61 cổ phiếu niêm yết và đặc biệt là sau khi Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC và là thành viên của WTO thì lượng hàng hóa không ngừng tăng lên đến thời điểm hiện tại toàn thị trường có tới 219 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết
2. Nguyên nhân từ các doanh nghiệp cổ phần
2.1. Các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết chưa sẵn sàng tham gia thị trường:
Hiện nay theo quy định của nhà nước thì công ty được niêm yết phải thoả mãn ít nhất hai điều kiện sau :
- Vốn pháp định trên 10 tỷ VNĐ.
- Hai năm liên tục làm ăn có lãi, không có lỗ luỹ kế tính đên năm chào bán
- có phương án phát hành và sử dụng vốn.
Với điều kiện đó hiện nay chúng ta có rất nhiều Công ty đủ điều kiện niêm yết và tạo ra một thị trường hàng hoá phong phú và sôi động tuy nhiên những doanh nghiệp đó vẫn đứng ngoài sân chơi
Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó chính là sự ngần ngại chưa muốn tham gia vào thị trường. Sự ngần ngại đó bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan của doanh nghiệp.
* Nguyên nhân khách quan:
- Doanh nghiệp chưa muốn tham gia vào thị trường chứng khoán bởi trong điều khiện môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiêù khó khăn, môi trường đầu tư kém hấp dẫn, khả năng hoạt động có hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp đều bị hạn chế . Đối với phần lớn các doanh nghiệp hiện nay là làm sao tạo ra đầu ra hiệu quả của đồng vốn của mình hơn là huy động tăng nguồn vốn và mở rộng sản xuất.Còn với những các doanh nghiệp làm ăn tốt thì nếu cần vốn để mở rộng sản xuất thì việc huy động nguồn vốn không hề khó khăn (như vay vốn của hệ thống Ngân hàng) bởi nguồn vốn đó có lãi xuất thấp (ổn định) trong khi thu hút vốn qua thị trường chứng khoán lại có lãi xuất cao hơn .
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một vấn đề khác không ít các công ty nhà doanh nghiệp lo ngại là nếu doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán thì doanh nghiệp dễ bị thao túng. Khi doanh nghiệp thực hiện niêm yết thì cổ phiếu của công ty sẽ được mua bán rộng rãi trên thị trường, các cổ đông của công ty liên tục thay đổi và khi đó rất khó quản lý.Một nhà đàu tư có ý đồ có thể mua gom số cổ phiếu của công ty đến khi đủ số lượng cần thiết thì có nhẩy vào điều hành doanh nghiệp.
- Khó khăn khác là các doanh nghiệp Việt Nam ,các nhà kinh tế Việt Nam thường làm việc với cách làm ăn mà sổ sách thông tin mập mờ,cách thức làm ăn còn theo lề nếp cũ . Do vậy khi tham gia thị trường chứng khoán thì họ phải chấp nhận thay đổi và chấp nhận nguyên tắc (công khai thông tin) có nghĩa các công ty niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ, tức thời hay theo yêu cầu một cách chính xác, trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư .Các tổ chức phát hành phải có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính xác nhận của cơ quan Kiểm toán độc lập được chấp thuận, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và các loại báo cáo khác khi tham gia thị trường thì doanh nghiệp phải chấp nhận (công khai thông tin) .Doanh nghiệp có sẵn sàng chấp nhận vấn đề đó không khi mà họ quen với các quy định hiện hành
Tóm lại : Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết tuy rằng lợi ích tham gia là chưa rõ ràng ,nhu cầu chưa cấp bách bản thân thị trường mới đi vào hoạt động trong khi đó tham gia thị trường thì gặp không ít khó khăn. Do vậy họ có tâm lý dè dặt và tạm làm “ khán giả trên khán đài”
3. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra quá chậm :
Sau khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì một vấn đề đặt ra và được thực hiện ngay khi đó lá cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đa số các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, đặc biệt từ năm 1996 chuẩn bị cho thị trường chứng khoán ra đời thì tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh và thực tế cũng đã cung cấp cho thị trường chứng khoán 4 loại hàng hoá : REE, SAM, LAF, TMS . Tiến trình cổ phần hoá mặc dù đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng con rất nhiều hạn chế. Cho đến nay, cả nước mới có trên 4000 doanh nghiệp được cổ phần hoá, trong khi đó còn hàng nghìn doanh nghiệp khác chưa tiến hành cổ phần, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91 . Quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm là do bới các nguyên nhân cơ bản sau:
- Tâm lý của Giám đốc… không muốn cổ phần hoá vì sau khi cổ phần hoá họ còn được giữu “chiếc ghế” đó hay không!
- Các doanh nghiệp chậm chễ cổ phần hoá nhằm hưởng ưu đãi của Nhà nước cho việc cổ phần hoá.
- Trong khi cổ phần hoá thì gặp nhiều khó khăn như thanh toán các khoản nợ của công ty, định giá tài sản …
- Các văn bản pháp luật có khi chưa sát thực tế dẫn đến khó cho việc vận dụng.
- Trong mỗi ngành các doanh nghiệp có sự khác nhau do vậy cổ phần hoá doanh nghiệp nó mang tính khó khăn đặc thù của từng nghành…
4. Môi trường pháp lý:
Trong thời gian vừa qua với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, Luật chứng khoán đã tạo ra môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Một số doanh nghiệp ra đời đủ làm sôi động phần nào nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó còn mắc phải một số vấn đề:
+ Phần cổ phần của Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần thì chiếm quá lớn
+ Nhà nước hạn chế sự đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay là chưa phù hợp, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa 49%, còn đối với ngành tài chính ngân hàng là 30% tổng giá trị cổ phiếu.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì chưa có một cơ sở pháp lý cụ thể nào cho họ tham gia thị trường Mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có vốn lớn … nếu họ tham gia thì thị trường hàng hoá chắc chắn sẽ sôi động và nền kinh tế chắc chắn sẽ có một dòng vốn lớn để phục vụ cho việc phát triển đất nước.
+ Chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều bất cập …đặc biệt là công tác thẩm định giá, xác định giá trị doanh nghiệp còn chưa chính xác, gây lãng phí nguồn lực cho nhà nước.
Vậy trong thời gian tới nhà nước cần có những chính sách cụ thể, đứng đắn hơn để khơi thông khó khăn cho việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TẠO HÀNG HOÁ CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Định hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam :
Mục đích cơ bản của thị trường chứng khoán là tạo nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư và phát triển đất nước. Trong đó việc thu hút nguồn vốn nhàn rối trong các tầng lớp dân cư, các nhà đầu tư trong và ngoài nước là rất quan trọng phụng vụ cho hoạt động tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó thị trường chứng khoán cũng là nơi tập dượt thói quen “công khai tài chính” tiến tới lành mạnh hoá nền tài chính nước nhà, là cánh của mở ra để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài đưa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Để thực hiện những mục tiêu này chúng ta phải từng bước xây dựng một thị trường chứng khoán quy mô và hiện đại với hàng hoá đa dạng và phong phú.
Mục đích cơ bản trong giai đoạn này là giúp công chúng và giới doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư làm quen với thị trường chứng khoán với các hoạt động giao dịch của thị trường, tạo dựng niềm tin đối với công chúng. Hàng hoá tham gia giao dịch trên thị trường phải đảm bảo số lượng và chất lượng cần thiết cũng như các điều kiện khác hướng thị trường chứng khoán thực nơi huy động nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nên kinh tế phục vụ cho Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.
Tạo hàng hoá do đó không chỉ là một nhiệm vụ cấp bách mà còn mang tính chiến lược lâu dài quyết định xu hướng phát triển của thị trường cần phải có các giải pháp tức thời, đồng bộ đảm bảo duy trì hoạt động và mở rộng tầm hoạt động cũng như sự sôi động của thị trường giao dịch.Đồng thời phải có giải pháp về lâu dài taọ nguồn cung tiềm năng và ổn định cho thị trường.
Đó không chỉ là mong muốn của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, của giới đầu tư và ngay cả các doanh nghiệp . Vậy để thực hiện được mục tiêu đó thì bản thân mỗi chủ thể của thị trường chứng khoán cần phải làm gì? Làm như thế nào để đạt được những thành công như mong muốn
II – Giải pháp:
1. Ổn định kinh tế vĩ mô và phát huy nhịp độ tăng trưởng của nền kimh tế:
Đây là giải pháp cơ bản bao trùm vì hoạt động của thị trường chứng khoán không chỉ phụ thuộc vào bản thân nó mà sâu xa hơn là nó phụ thuộc vào chính môi trường nền kinh tế mà nó tồn taị; thật vậy một nền kinh tế tăng trưởng vững chắc sẽ cung cấp cho thị trường những hàng hoá có chất lượng cao, số lượng nhiều và chủ thể tham gia vào thị trường. Ngược lại một nền kinh tế suy thoái hay kém năng động … thì sẽ tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán. Số lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường sẽ ít và kém chất lượng. Khi đó thì thị trường hoạt động kém hiệu quả và bất ổn. Hiện nay nên kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển ổn định. Từ năm 2002 đến nay hàng năm tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 7,7%/năm, mục tiêu trong năm 2008 là 8,3% và năm 2009 là 9,1% năm. Để đạt được tốc độ này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn vào nên kinh tế Việt Nam, chính điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu, phát hành trái phiếu huy động vốn phục vụ cho kế hoạch kinh doanh của mình. Vì vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước cũng như các Bộ nghành cần phải làm sao duy trì tốc độ tăng trưởng vững chắc như hiện nay, có chính sách khuyến khích đầu tư, tiêu dùng để kích cầu,...
2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp cổ phần:
2.1.Đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết chưa tham gia :
Để khơi thông sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường chứng khoán thì chúng ta không thể không lôi khéo các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết vào thị trường . Để thực hiện được điều này không hề đơn giản mà cần phải có sự lỗ lực của cả hai phía đó là Nhà nưóc và các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy kinh tế: Đó là sự minh bạch tài chính,có chiến lược trước hết là để tồn tại và sau đó phát triển trên thị trường ,các cán bộ của doanh nghiệp phải thấy được vai trò to lớn trên thị trường chứng khoán ,phải thấy được lợi ích mà thị trường mang lại còn những tiêu cực của thị trường thì chúng ta phải nhận rõ để hạn chế nó chứ không thể để nó che mất đi lợi ích khi tham gia thị trường . Phải từ bỏ chính sách bảo hộ, trợ cấp của Nhà nước bởi:
- Trong kinh tế thị trường các doanh nghiệp tự quyết định chiến lược kinh doanh, hạch toán độc lập của mình.
- Nhà nước không phải lúc nào cũng có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp hoạt động.
dựng được lòng tin với giới đầu tư .
2.2 Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần chưa đủ điều kiện niêm yết
Hiện nay con số này trong nền kinh tế là rất lớn và chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nó chiếm tới 90% số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá, tồn tại, kinh doanh dưới ở nhiều ngành nghề khác nhau . Các doanh nghiệp này làm ăn năng động và khá có hiệu quả. Tuy nhiên để tham gia thị trường thì họ lại không đủ điều kiện vì các doanh nghiệp này có vốn điều lệ khá nhỏ. Để giải quyết vấn đề này thì Uỷ bán chứng khoán Nhà nước cần xem xét lại tiêu chuẩn đựoc niêm yết. Giả sư vẫn để tiêu chuẩn niêm yết như hiện nay, nhưng đối với các doanh nghiệp có từ 7-8 tỷ đồng vẫn cho niêm yết nhưng bắt họ phải cam kết sau một thời gian nhất định phải đạt tối thiểu vốn điều lệ là 10 tỷ ( ví dụ sau 18 tháng). Điều này bắt buộc các doanh nghiệp phải làm do đó họ phải tiến hành triển khai kê hoạch kinh doanh sao cho có hiệu quả để đạt mức vốn tối thiểu đề ra, nếu không sẽ bị phạt.
3. Đẩy mạnh,nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tạo ra nguồn hàng hoá cho thị trường chứng khoán sau này, vậy để thực hiện được điều đó chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ:
- Lựa chọn đúng doanh nghiệp Nhà nước để tiến hành cổ phần hoá. Đây là công việc có ý nghĩa quyết định lựa chọn đúng giúp cho cổ phần hoá diễn ra nhanh chóng đúng tiến độ mà còn làm cho xã hội quan tâm và việc bán cổ phần thuận lợi. Vì thế cần động viên doanh nghiệp Nhà nước nào thấy mình có đủ điều kiện cổ phần hoá thì chủ động đăng ký thực hiện. Điều kiện lựa chọn các doanh nghiệp để cổ phần hoá cần phải theo những tiêu chuẩn khách quan như mức lãi trên vốn Nhà nước qua một số năm nên là 3 năm ổn định sản phẩm đầu ra được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận, có mức doanh thu bán hành tương đối ổn định trong một số năm, tình hình công nợ không lưu cữu lâu năm mà là nợ những năm gần nhất, nguồn gốc công nợ, khả năng thanh toán rõ ràng, khả năng rõ rệt về sự quan tâm của xã hội và khả năng tiêu thụ cổ phiếu dễ dàng.
- Làm tốt công tác tư tưởng trong công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn các cấp các ngành phải tuyên truyền giải thích trong nhân dân chủ trương chính sách của Nhà nước về cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Khuyến khích công nhân thấy được lợi ích khi tham gia cổ phần. Có biện pháp thực sự cứng rắn đối với các doanh nghiệp làm chậm tiến trình để hưởng lợi từ sự ưu đãi của nhà nước trong thời gian cổ phần.
- Công tác huy động mua cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá song song với việc tuyên truyền, Ban lãnh đạo các doanh nghiệp được cổ phần hoá cũng phải phát huy sáng kiến trong việc huy đống vốn và sử dụng vốn cũng như giải thích rõ quyển lợi và nghĩa vụ của cổ đông khi mua cổ.
- Ban hành các nghị quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn thi hành chỉ đạo đồng thời phải phối hợp với các cơ quan chính quyền địa phương để triển khai. Chú trọng công tác bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, loại bỏ hình thức cho vay ưu đãi, ưu tiên vay vốn, sử dụng tài nguyên đối với các doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp không cần thiết, nhằm tạo ra môi trường thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và thị trường chứng khoán.
Xây dựng hàng lang pháp lý đối với các công ty ĐMTN, đặc biệt là các quy định liên quan đến công khai minh bạch thông tin, chế độ kiểm toán, kế toán, quy định về quản trị công ty, các quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư nói chung,… Trên nền tảng đó nên kinh tế sẽ minh bạch hơn và các công ty niêm yết sẽ là các công ty hàng đầu thực sự đại diện cho nền kinh tế, còn các công ty đại chúng không đủ điều kiện niêm yết sẽ được giao dịch tại thị trường phi tập trung. Vấn đề liên quan phát sinh là phải thực hiện tốt công tác giám sát, thực thi pháp luật với các tổ chức có chứng khoán được phát hành và giao dịch rộng trong công chúng.
5. Phát triển các tổ chức tài chính trung gian
Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn phát hành, niêm yết và định gía chứng khoán. Đây là tổ chức làm chức năng phổ biến kiến thức về TTCK, tuyên truyền, và tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán một các hiệu quả, dài hơn cần phải xây dựng hàng lang pháp lý cho các công ty ĐMTN từng bước xây dựng và hoàn thiện hành lang cho việc phát hành và giao dịch chứng khoán phái sinh.
6. Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán Việt Nam
- Con người là chủ thể quan trọng nhất quyết định sự thành công của tổ chức cũng như hoạt động của tổ chức đó. Do vậy đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán là giải pháp tối ưu nhất. Chúng ta nâng cao đạo đức cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ cho thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó chúng ta phải tăng cường đào tạo đội ngũ trẻ cho thị trường chứng khoán về chất cũng như về lượng bằng cách đưa môn thị trường chứng khoán vào nghiên cứu giảng dạy tại các trường Đại học ,Cao đẳng và cần thiết chúng ta có thể thành lập các khoa Thị trường chứng khoán tại các trường đặc biệt là các trường thuộc khối kinh tế bởi vì đây là những nhân tố tiềm năng xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai .
- Phổ biến tuyên truyền kiến thức về thị trường chứng khoán cho các tổ chức kinh tế, các nhà kinh tế, nhân dân hiểu rõ về chức năng cũng như vai trò của thị trường. Từ đó sẽ tạo ra nguồn các nhà đầu tư chứng khoán cho thị trường trong tương lai cũng như nguồn hàng hoá cung cấp cho thị trường chứng khoán Việt Nam .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Môi trường kinh doanh Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.docx