PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải cần có vốn, có vốn để đầu tư, xây dựng mới, phát triển hàng hoá - dịch vụ, để tạo ra của cải vật chất cho xã hội và tạo ra công ăn việc làm.
Nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế vẫn còn đang trong giai đoạn thực hiện các chính sách đổi mới nhằm tạo ra những bước chuyển mạnh mẽ, đưa nước ta thành một nước công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN thì nền kinh tế cần phát triển ổn định, vững chắc, phấn đấu đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế kế hoạch đã đề ra. Muốn vậy chúng ta phải có một nguồn vốn to lớn để đầu tư vào kinh tế. Vốn được xác định vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để phát triển kinh tế.
Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển và ổn định. Đạt được như thế chúng ta không thể không thừa nhận vai trò tích cực của ngành ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển, các thành phần kinh tế hoạt động sôi nổi thì vai trò của ngân hàng càng được phát huy, đặc biệt là quá trình tạo và phân phối vốn cho nền kinh tế.
Nguồn vốn để phát triển nền kinh tế được tạo lập từ hệ thống ngân hàng là chủ yếu, mà nguồn vốn tự có của ngân hàng thì quá ít, chiếm tỷ lệ <10% tổng số vốn hoạt động của ngân hàng, chủ yếu là từ nguồn vốn huy động tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh tế. Vì vậy công tác huy động vốn tiền gửi luôn đóng vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng.
Chính vì tầm quan trọng của nguồn vốn tiền gửi nên em chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thị xã Vĩnh Long” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
II. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:
Phân tích, đánh giá hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long.
Đề xuất các giải pháp mở rộng hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long.
Do thời gian thực tập có hạn so với thời gian đã học và do hạn chế khả năng của bản thân nên em không thể nghiên cứu hết được tất cả các nghiệp vụ của ngân hàng. Trong điều kiện cho phép cũng như hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long nên em chỉ tập trung vào những vấn đề thật sự cần thiết liên quan đến hoạt động huy động vốn. Số liệu sử dụng trong đề tài được lấy từ Phòng tín dụng của Ngân hàng trong 3 năm, từ năm 2001 đến năm 2003.
III. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phân tích và đánh giá số liệu thực tế tại Ngân hàng kết hợp với lý thuyết học, những thông tin thu thập qua báo chí, sách vở, các văn bản báo cáo của Ngân hàng và thông qua việc tiếp xúc thực tế tại Ngân hàng. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp so sánh tương đối, tuyệt đối và tỷ trọng để đánh giá hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
IV. Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khóa luận được trình bày thành ba chương:
Chương 1: Lý luận tổng quan về NHTM và vai trò nguồn vốn huy động tiền gửi của NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động nguồn vốn tiền gửi tại NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động tiền gửi tại NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long.
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thị xã Vĩnh Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình huy động vốn theo hình thức huy động:
Bảng 3: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long từ năm 2001 - 2003.
So với chỉ tiêu huy động vốn kế hoạch năm 2003 đặt ra (chỉ tiêu huy động vốn do Hội Sở đưa ra cho Chi nhánh là 160 tỷ đồng trong năm 2003), Chi nhánh đã hòan thành vượt chỉ tiêu 552 triệu đồng, tương ứng với 0,3%. Sở dĩ, nguồn vốn huy động năm 2003 tăng nhiều như thế là do sự gia tăng chủ yếu của tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm:
Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm huy động được là 1880 triệu đồng, chiếm hơn 2% tổng vốn huy động. Sang năm 2002, tiền gửi tiết kiệm có tăng lên nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ ( 3,8% ) trong tổng vốn huy động. Nguyên nhân huy động tiết kiệm thấp trong 2 năm này là do người dân vẫn còn thích giữ tiền tại gia hơn là gửi tiền cho Ngân hàng và lãi suất huy động tiết kiệm lại thấp. Bước qua năm 2003, Ngân hàng đưa ra hàng loạt các biện pháp huy động, tạo được sự tín nhiệm của người dân nên đã thu hút được một lượng lớn tiền gửi tiết kiệm trong dân chúng, làm cho tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn huy động ( 84,8% ), đạt con số kỉ lục từ trước tới nay của Ngân hàng là 136076 triệu đồng. Nếu so với năm 2002 thì năm 2003 tăng hơn 131550 triệu đồng (tăng hơn 30 lần).
- Tiền gửi thanh toán:
Năm 2001, Chi nhánh huy động được 29128 triệu đồng, chiếm 31,74% tổng vốn huy động.
Năm 2002, tiền gửi thanh toán đạt 8027 triệu đồng, giảm 72,4% so với năm 2001, tương ứng giảm với số tiền là 21101 triệu đồng. Nguyên nhân tiền gửi thanh toán giảm là do sự kiện 11-9-2001 ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế xã hội, làm cho giá cả sản phẩm bấp bênh, thị trường tiêu thụ bị biến động dẫn đến lượng tiền gửi thanh toán của các nhà đầu tư cũng giảm đáng kể.
Năm 2003, khi tình hình kinh tế xã hội có phần ổn định, các nhà đầu tư tiếp tục giao dịch thì số lượng tiền gửi thanh toán Ngân hàng huy động được là 19644 triệu đồng, tăng 11617 triệu đồng so với năm 2002, tương ứng tăng 144,7%.
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng:
Duy nhất chỉ có một tổ chức tín dụng là Ngân hàng phục vụ người nghèo gửi tiền vào Ngân hàng, số lượng tiền gửi cũng không lớn: năm 2001 là 7 triệu đồng, năm 2002 thì tăng lên 65 triệu đồng, nhưng trong năm 2003 thì đối tượng không còn số dư tài khoản. Đây là loại hình mà Ngân hàng huy động thấp nhất, gần như là không huy động được gì cả. Chính vì vậy mà Ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra biện pháp khắc phục vì đây là nguồn vốn không phải nhỏ, để huy động được nhiều hơn vào những năm sau.
- Phát hành kỳ phiếu, giá tờ có giá:
Việc Ngân hàng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu được thực hiện vào các thời điểm Ngân hàng cần vốn để bù đắp vốn tạm thời thiếu hụt trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong năm 2001 và năm 2002, Ngân hàng chủ động trong việc phát hành các loại giá tờ có giá để tập trung được vốn nhàn rỗi trong dân cư. Vì vốn huy động từ các loại hình khác chưa đủ đáp ứng nhu cầu vốn của người dân, mặt khác Ngân hàng không muốn vay tiền từ NHTW hay các tổ chức tín dụng khác ( thường có lãi suất cao hơn so với lãi suất huy động từ tiền nhàn rỗi trong dân) nên Ngân hàng phải phát hành giá tờ có giá.
Năm 2001, vốn huy động từ loại hình này là 60755 triệu đồng, chiếm 66,2% tổng vốn huy động năm 2001.
Năm 2002, huy động được nhiều hơn năm 2001 là 44450 triệu đồng, tăng 73,2%, đạt số tiền là 105205 triệu đồng.
Nhưng trong năm 2003, khi mà nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán tăng cao, Ngân hàng đã giảm việc huy động bằng phát hành giấy tờ có giá, chỉ huy động được 4832 triệu đồng, giảm 95,4% so với năm 2002, tương ứng giảm 100373 triệu đồng. Bên cạnh đó, do sự phát hành trái phiếu Kho bạc, tiền gửi tiết kiệm bưu điện đã gây sức ép cạnh tranh với Ngân hàng làm cho số tiền nhàn rỗi của dân cư, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế gửi vào Ngân hàng có phần giảm xuống.
* Phân tích tình hình huy động vốn theo thời hạn:
Bảng 4: Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long từ năm 2001 - 2003.
Nhìn chung công tác huy động vốn của Ngân hàng ngày càng có hiệu quả. Nhờ vào sự phục vụ tận tình của nhân viên Ngân hàng và chính sách lãi suất luôn phù hợp với tình hình biến động của thị trường đã khuyến khích tạo được sự tin tưởng cho khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng ngày càng nhiều. Cụ thể:
- Tiền gửi không kỳ hạn:
Năm 2001 đạt 30533 triệu đồng, chiếm 33,3% tổng vốn huy động.
Năm 2002 chỉ đạt 11593 triệu đồng, giảm 62% so với năm 2001, tương ứng với số tiền giảm là 18940 triệu đồng. Nguyên nhân giảm là do tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động từ cuối năm 2001 kéo dài sang năm 2002, tác động đến tình hình xuất nhập khẩu, làm cho thị trường tiêu thụ bị biến động, giá cả hàng hoá bấp bênh ảnh hưởng đến lượng tiền gửi của các nhà đầu tư, nhà kinh doanh vào Ngân hàng.
Năm 2003, tiền gửi không kỳ hạn tăng so với năm 2002 là 11133 triệu đồng, tương ứng tăng 96%, huy động được 22726 triệu đồng, chiếm 14,2% tỷ trọng nguồn vốn huy động. Nếu so với năm 2001 thì tiền gửi không kỳ hạn huy động được trong năm 2003 chỉ bằng 74,4% số huy động trong năm 2001. Nguyên nhân số huy động trong năm 2003 thấp hơn trong năm 2001 là do người dân thấy được chi phí cơ hội về mức chênh lệch giữa lãi suất Ngân hàng với đầu tư bỏ vốn kinh doanh, cũng do các cá nhân hay tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh mua bán gửi tiền theo mùa vụ kinh doanh của mình, thường là vào dịp tết tiền gửi giảm xuống nhanh chóng vì các đối tượng rút tiền ra thanh toán hoặc để tiêu dùng.
Nếu nguồn vốn này tăng dần theo các năm thì tốt cho hoạt động của Ngân hàng, nhưng nó không có tính ổn định vì khách hàng muốn rút vốn bất cứ lúc nào cũng được. Do đó, Chi nhánh phải dự phòng quỹ an toàn để bảo đảm tính thanh khoản của mình và tính toán tỷ lệ cơ cấu đầu tư hợp lý.
- Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng:
Năm 2001, Ngân hàng huy động được là 20241 triệu đồng, chiếm 22% tổng vốn huy động.
Năm 2002, tổng số tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng huy động là 47158 triệu đồng, tăng 133% so với năm 2001, tương ứng tăng 26917 triệu đồng.
Năm 2003, số huy động được tăng nhưng không cao so với năm 2002, đạt 52532 triệu đồng, tức tăng 5374 triệu đồng (tăng 11,4%) so với năm 2002.
- Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng:
Năm 2001, số thu vào là 40996 triệu đồng, chiếm 44,7% tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2002, loại tiền gửi này đạt 59072 triệu đồng, tăng 44,1% tương ứng tăng 18076 triệu đồng so với năm 2001.
Năm 2003, loại tiền gửi này lại tiếp tục tăng mạnh, tăng 44,4% tương ứng tăng 26222 triệu đồng so với năm 2002, đạt 85294 triệu đồng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động được (chiếm 53,1% tổng số huy động). Nếu so với năm 2001 thì số tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng huy động được trong năm 2003 sẽ tăng hơn gấp 2 lần (tăng 44298 triệu đồng), một con số nói lên được sự nỗ lực, phương hướng, biện pháp trong công tác huy động vốn dài hạn của Ngân hàng.
Tóm lại, tiền gửi có kỳ hạn đều tăng dần qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Điều này phản ánh tình hình kinh tế trên địa bàn có những chuyển biến tốt, đời sống người dân ngày càng được cải thiện và bắt đầu có dư để tích luỹ khi cần dùng đến, các chính sách lãi suất huy động ngày càng có hiệu quả rõ rệt. Đồng thời, nó cũng tạo ra cho Ngân hàng sự chủ động trong việc đầu tư, cho vay trung và dài hạn, bởi vì loại tiền gửi có kỳ hạn thường có tính ổn định cao và xác định được thời gian đáo hạn.
* Đánh giá tình hình huy động vốn:
Bảng 5: Các chỉ tiêu đánh giá về hoạt động huy động vốn.
- Vì Ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động được, vốn huy động đáp ứng đủ nhu cầu vốn của người dân, nên Ngân hàng đã không phải đi vay. Do đó, tỷ lệ vốn vay trong tổng nguồn vốn là bằng 0.
- Tương tự thế, đối với nguồn vốn chủ sở hữu (vốn tự có) của Ngân hàng thì ở Chi nhánh không có nguồn vốn này, bởi vì nguồn vốn là do từ NHTW quản lý. Ngân hàng cấp trên chỉ điều vốn về hoặc vay các tổ chức tín dụng khác để cho vay, do đó các chi nhánh phải trả phí khoản vốn vay này. Về vốn chủ sở hữu đó là phần thu nhập ròng (sau thuế), nhưng nguồn vốn này khi quyết toán cuối năm thì Chi nhánh cũng phải kết chuyển hết toàn bộ về Ngân hàng Tỉnh, Trung Ương theo quản lý hệ thống của ngành.
- Tỷ lệ Vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong tổng nguồn vốn trong 3 năm qua (năm 2001 đến năm 2003). Ngân hàng đã làm rất tốt công tác huy động vốn, vốn huy động được đủ dùng cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng (thường là sử dụng không hết). Tỷ số Vốn huy động / Tổng nguồn vốn càng cao thì khả năng sinh lời của Ngân hàng càng lớn.
- Chỉ tiêu Nguồn vốn có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn: phản ánh tính ổn định vững chắc của nguồn vốn trong kinh doanh.
Tiền gửi có kỳ hạn rất khó thu hút khách hàng bởi vì nó có sự ràng buộc về thời gian. Mặt khác, giá cả luôn biến động làm cho người dân không thích loại tiền gửi này. Nhưng NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long với chính sách lãi suất phù hợp, thái độ phục vụ của nhân viên và nhiều loại hình dịch vụ cùng với các tiện ích của nó đã huy động được một lượng lớn vốn, mỗi năm một tăng (tăng trên số tiền gửi) và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn.
Năm 2001, tỷ lệ Nguồn vốn có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn là 66,7%.
Năm 2002, tỷ lệ Nguồn vốn có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn là 90,1%, tăng 23,4% so với năm 2001.
Năm 2003, tỷ lệ Nguồn vốn có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn là 85,8%, giảm so với năm 2002 là 4,3%.
Nhìn chung, tỷ lệ Nguồn vốn có kỳ hạn / Tổng nguồn vốn tăng dần đến năm 2002, năm 2003 có giảm ít nhưng trên thực tế, số tiền huy động của nguồn vốn có kỳ hạn tăng mạnh qua các năm. Tỷ lệ này đã chứng minh Ngân hàng luôn có một nguồn vốn ổn định vững chắc, đáp ứng các nhu cầu vốn trong tình hình cạnh tranh khốc liệt trên thị trường hiện nay.
Dân số Thị xã Vĩnh Long tính đến ngày 31/12/2002 là 122.964 người.
Tổng sản phẩm GDP trên địa bàn bình quân đầu người là 9.085.000 đồng.
Thu nhập toàn Thị xã là: 9 triệu x 122.964 = 1.106.676 triệu đồng.
Trong năm 2003, số tiền huy động tại Ngân hàng là 160.552 triệu đồng.
Vì vậy, vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn và Ngân hàng cần phải có các biện pháp, giải pháp, các chính sách thực sự hợp lý để mỗi năm huy động được nhiều hơn, mở rộng hoạt động tín dụng và tăng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng.
Từ đó, chỉ tiêu huy động vốn do Ngân hàng Tỉnh giao cho NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long là 180 tỷ đồng trong năm 2004 sẽ có cơ sở thực hiện tốt, đủ, thậm chí vượt kế hoạch đạt ra.
b. Phân tích tình hình sử dụng vốn:
Bảng 6: Tình hình tín dụng chung của Ngân hàng trong 3 năm từ năm 2001 đến năm 2003.
Thị xã Vĩnh Long có thế mạnh về dịch vụ du lịch, tiểu thủ công nghiệp và sản xuất nông nghiệp là chủ yếu trong những năm qua, Chi nhánh đã cho các đối tượng vay vốn sản xuất kinh doanh trên cơ sở đa dạng hoá các ngành nghề, tập trung cho vay để không ngừng tăng dư nợ nhằm thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần trên địa bàn. Đồng thời, đảm bảo thu nhập cho đội ngũ viên chức Chi nhánh, mức tăng dư nợ các năm chủ yếu là cho vay trung hạn dùng để mua sắm máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp và cải tiến các công nghệ cơ sở công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ cấu lại vốn đầu tư tín dụng giữa ngắn hạn và trung hạn. Cho vay đa dạng các ngành nghề, chất lượng tín dụng được nâng lên, khách hàng uy tín và truyền thống ngày càng tăng.
* Phân tích doanh số cho vay:
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, trong những năm qua, NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long đã đẩy mạnh công tác cho vay. Kết quả đạt được là doanh số cho vay tăng nhanh giữa các năm. Cụ thể: Năm 2001, doanh số cho vay đạt 31559 triệu đồng.
Năm 2002, doanh số cho vay đạt 112673 triệu đồng, tăng 257% so với năm 2001 với số tuyệt đối là 81114 triệu đồng.
Năm 2003, doanh số cho vay đạt 149445 triệu đồng, tăng 32,6% so với năm 2002, tương ứng với tăng 36772 triệu đồng. Điều này thể hiện Ngân hàng có xu hướng mở rộng cho vay mạnh mẽ trong các lĩnh vực, thành phần kinh tế.
Đạt kết quả như vậy là do Ngân hàng đã áp dụng chiến lược kinh doanh đa thành phần kinh tế, đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh như ngoài các mô hình đầu tư thông thường, Ngân hàng còn cho vay tiêu dùng (mua xe, máy vi tính…), cho vay xây nhà ở, chương trình nước sạch, chuyển đổi phương tiện, máy nông nghiệp… thủ tục vay vốn thật đơn giản giúp cho khách hàng thực hiện nhanh chóng hồ sơ vay vốn. Nhờ vào phương cách phục vụ văn minh, lịch sự của cán bộ công nhân viên Ngân hàng đã làm cho khách hàng cảm thấy dễ chịu, thoải mái khi đến Ngân hàng giao dịch.
Sở dĩ, doanh số cho vay tăng nhanh là do đặc điểm kinh tế xã hội của Thị xã chủ yếu là sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp nên có chu kỳ sản xuất ngắn, có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi…Việc tăng trưởng này là phù hợp với mục tiêu kinh doanh đã đề ra của Chi nhánh để từng bước chiếm lĩnh thị phần, tạo thế cạnh tranh với các NHTM khác trên địa bàn cũng như đảm bảo hoạt động có hiệu quả của đơn vị.
* Phân tích doanh số thu nợ:
Song song với việc cho vay thì công tác thu nợ là một yếu tố cần thiết cho quá trình hoạt động của Ngân hàng nhằm thu hồi vốn và đảm bảo cho đồng vốn được quay vòng liên tục.
Doanh số thu nợ trong năm tùy thuộc vào kỳ hạn của khoản nợ, đồng thời còn tùy thuộc vào diễn biến của thiên nhiên, tình hình kinh tế xã hội, tình hình biến động của giá cả thị trường nhưng nhìn chung tình hình thu nợ của Chi nhánh có tiến triển tốt.
Năm 2001, doanh số thu nợ là 22025 triệu đồng.
Năm 2002, cùng với sự tăng trưởng của doanh số cho vay thì doanh số thu nợ tăng 80341 triệu đồng so với năm 2001, tương ứng tăng 364,8%, đạt 102366 triệu đồng.
Năm 2003, doanh số thu nợ tăng không đáng kể so với năm 2002, đạt 105977 triệu đồng.
Mặc dù, trong những năm vừa qua có sự biến động lớn về giá cả, thời tiết thay đổi thất thường, nhưng công tác thu hồi nợ có tiến triển tốt là do Ngân hàng có những biện pháp thiết thực trong việc xử lý nợ tồn đọng, thường xuyên cử cán bộ tín dụng bám sát khách hàng vay vốn, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không, đôn đốc, nhắc nhở khách hàng trả nợ khi tới hạn.
* Phân tích tình hình dư nợ:
Để hoà nhập với chủ trương phát triển kinh tế địa phương, NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long đã chủ động tìm ra các mô hình đầu tư thích hợp, đồng thời mở rộng định mức đầu tư tập trung chủ yếu cho các hộ nông dân, các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn nhằm phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Về tình hình dư nợ tại Ngân hàng cũng có những bước tiến khả quan, nhưng nhìn chung chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho hộ vay vì các nguyên nhân khách quan như khách hàng không đủ tài sản thế chấp, khách hàng chưa có phương án kinh doanh khả thi …
Tổng dư nợ của Chi nhánh năm 2001 là 23943 triệu đồng, trong đó dư nợ ngắn hạn là 13818 triệu đồng, dư nợ trung và dài hạn là 10125 triệu đồng.
Năm 2002, tổng dư nợ là 105034 triệu đồng, tăng 338,7% so với năm 2001, tương ứng tăng 81091 triệu đồng.
Năm 2003, Ngân hàng đạt tổng dư nợ là 134993 triệu đồng, tăng 28,5% so với năm 2002, tương ứng tăng 29959 triệu đồng.
Mức dư nợ cho vay của Chi nhánh tăng lên nhanh chóng là nhờ Chi nhánh thực hiện tốt nhiều giải pháp hữu hiệu như thực hiện tốt chính sách ưu đãi khách hàng, tích cực đẩy mạnh công tác tiếp thị, nâng cao chất lượng phục vụ … làm cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng từng bước tăng lên vững chắc.
c. Tình hình Thu nhập - Chi phí - Lợi nhuận:
Trong bất cứ hoạt động kinh doanh nào, vấn đề quan tâm hàng đầu của người kinh doanh là lợi nhuận; lĩnh vực kinh doanh tiền tệ cũng không nằm ngoài quy luật ấy, cũng phải tính đến hiệu quả hoạt động của nó và lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá cuối cùng và quan trọng nhất.
Bảng 7: Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong 3 năm 2001, 2002, 2003.
- Thu nhập:
Qua bảng trên ta thấy, thu nhập của Chi nhánh tăng dần qua 3 năm, cụ thể:
Năm 2001, tổng thu của Chi nhánh là 5813 triệu đồng.
Năm 2002, tổng thu đạt 10522 triệu đồng, tăng 81% so với năm 2001, tương ứng tăng 4709 triệu đồng.
Năm 2003, tổng thu đạt 14263 triệu đồng, tăng 35,6% so với năm 2002, tương ứng tăng 3741 triệu đồng.
Trong đó nguồn thu nhiều nhất là thu về hoạt động kinh doanh mà chủ yếu là thu lãi cho vay, chứng tỏ nghiệp vụ tín dụng là sản phẩm chủ yếu của Ngân hàng.
- Chi phí:
Trong những năm qua, Chi nhánh đã gia tăng nguồn vốn huy động của mình để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của địa phương. Chính vì vậy mà chi phí hoạt động của Chi nhánh ngày càng tăng:
Năm 2001, tổng chi của Chi nhánh là 4581 triệu đồng.
Năm 2002, tổng chi tăng 5414 triệu đồng so với năm 2001, tương ứng tăng 118,2%, đạt doanh số 9995 triệu đồng.
Năm 2003, tổng chi của Ngân hàng đạt 12433 triệu đồng, tăng 24,4% so với năm 2002, tương ứng tăng 2438 triệu đồng.
Trong đó chi về hoạt động huy động vốn là khoản chi nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi bởi vì toàn bộ hoạt động của Ngân hàng là từ nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư.
- Lợi nhuận:
Năm 2001, Chi nhánh đạt lợi nhuận là 1232 triệu đồng. Thực chất đạt lợi nhuận như thế là do Ngân hàng nhận được khoản phí sử dụng vốn từ Ngân hàng Tỉnh cấp xuống, phí sử dụng vốn trong năm là 3456 triệu đồng.
Năm 2002, khi khoản phí sử dụng vốn được cấp giảm xuống (còn 811 triệu đồng) thì lợi nhuận đạt được của Ngân hàng trong năm cũng giảm xuống, đạt 527 triệu đồng, giảm so với năm 2001 là 705 triệu đồng, tương ứng giảm 57,2%.
Năm 2003, Ngân hàng đạt lợi nhuận là 1830 triệu đồng, tăng 247,2% so với năm 2002, tương ứng tăng 1303 triệu đồng.
Nếu không tính khoản phí sử dụng vốn Ngân hàng Tỉnh cấp cho Chi nhánh thì trong năm 2001 và năm 2002, lợi nhuận Chi nhánh đạt được là một con số âm. Nguyên nhân là do trong 2 năm này, Chi nhánh khi thiếu vốn thì huy động bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiếu với số lượng lớn mà đây là nguồn vốn có chi phí cao so với huy động bằng cách khác. Từ đó dẫn đến lãi suất bình quân đầu vào của Chi nhánh cao, giảm lợi thế cạnh tranh trong cho vay, vì vậy Chi nhánh gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh.
Qua bảng phân tích ta thấy Ngân hàng đang có sự điều chỉnh thích hợp từng bước cố gắng nâng caohiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Qua các năm hoạt động có thu được lợi nhuận nhưng chưa cao. Bên cạnh đó, sự tiến triển theo chiều hướng ngày càng có lợi thì chúng ta có thể kỳ vọng trong vài năm tới, với những biện pháp cụ thể, tăng cường năng lực quản lý hoạt động, Ngân hàng nhất định sẽ thu được lợi nhuận cao.
2.2. Những mặt còn hạn chế:
- Để giữ và thu hút khách hàng gởi tiền nên thời gian qua lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn cao ở địa bàn Thị xã Vĩnh Long, do đó đã làm tăng lãi suất đầu vào tại Chi nhánh dẫn đến việc huy động vốn cao nhưng chênh lệch đầu vào đầu ra thấp.
- Chưa phát huy hết thế mạnh của Ngân hàng Thị xã là tăng huy động vốn với nguồn vốn có lãi suất thấp từ những hộ kinh doanh tại các chợ trên địa bàn Thị xã Vĩnh Long.
- Chi nhánh chưa chú trọng nhiều vào huy động vốn có lãi suất thông qua tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội, công tác thanh toán chuyển tiền, mở tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng.
- Tăng trưởng tín dụng ở các đối tượng như doanh nghiệp vừa và nhỏ, cơ sở, hộ kinh doanh dịch vụ còn thấp.
- Trong thời gian qua phát sinh nợ khó thu hồi nhiều, khách hàng vay đa số là sử dụng vốn vay không đúng mục đích, dẫn đến số lượng nợ quá hạn tăng dần qua các năm. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ kinh doanh năm 2001 là 0,3%, năm 2002 là 0,4%, năm 2003 là 1,1%, do đó Ngân hàng cần có thời gian, có biện pháp hữu hiệu để giảm tỷ lệ này trong tương lai.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIA TĂNG NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI NHNo&PTNT CHI NHÁNH THỊ XÃ VĨNH LONG
1. CÁC BIỆN PHÁP TẠI NHNo&PTNT CHI NHÁNH THỊ XÃ VĨNH LONG:
Trong thời gian qua, công tác huy động vốn tại các NHTM thấp vì một số lý do sau:
- Nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh làm cho mặt bằng lãi suất trong nước cũng giảm theo. Tiếp theo là sự nhộn nhịp trở lại của thị trường bất động sản đã thu hút một lượng vốn khá lớn vào đấy. Bên cạnh đó, tác động của Luật Doanh nghiệp mới đã hấp dẫn đáng kể một lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh, hy vọng sẽ thu lợi tức đầu tư cao hơn lãi suất Ngân hàng.
- Thứ hai là sự xuất hiện của một kênh huy động vốn ngoài Ngân hàng nhưng có nhiều ưu điểm như Quỹ tiết kiệm Bưu điện, các Công ty bảo hiểm … cũng thu hút một lượng vốn đáng kể từ dân cư.
- Về phía chủ quan của Ngân hàng, do nền kinh tế giảm phát, khách hàng không đầu tư mà đổ xô gửi tiền vào Ngân hàng trong khi Ngân hàng không tìm được đầu ra cho nguồn vốn đó, làm cho lượng vốn bị đóng băng. Vì thế, làm giảm hiệu quả hoạt động của Ngân hàng rất lớn.
Đó là bối cảnh chung về công tác huy động vốn của toàn ngành Ngân hàng trong thời gian qua. Hiện nay, NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long đã có một số biện pháp nhằm khơi tăng nguồn vốn huy động của mình như khuyến mãi cho khách hàng gửi tiền, tặng quà… và với chính sách khách hàng đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngoài những kết quả đạt được, Ngân hàng cần phải có những bước đi mạnh dạn hơn nữa nhằm tăng cường thêm nguồn vốn huy động. Những bước đi đó có thể nằm trong những giải pháp cụ thể sau:
1.1. Định hướng khắc phục các khó khăn nhằm mở rộng các dịch vụ từ tài khoản tiền gửi:
- Hoàn thiện hệ thống thanh toán của Ngân hàng bằng cách trang bị máy móc, áp dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại để xử lý tốt quan hệ giữa Ngân hàng với Ngân hàng, giữa Ngân hàng với nơi sử dụng lao động, trung tâm thương mại, dịch vụ khác. Bởi vì nơi sử dụng lao động là thị trường khách hàng của Ngân hàng, khi Ngân hàng và các nơi này có hệ thống liên kết với nhau thì người lao động sẽ không phải mất thời gian để đến giao dịch với Ngân hàng, tất cả đều tự động hóa, khách hàng thực sự nhận được sự tiện lợi, an toàn của dịch vụ. Chính sự hoàn thiện của hệ thống thanh toán hiện đại giúp Ngân hàng xử lý các nghiệp vụ, dịch vụ tốt hơn và đó chính là mấu chốt của việc thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ đối với tài khoản tiền gửi của Ngân hàng.
- Ngoài việc tìm cách cung cấp các dịch vụ, sản phẩm đến khách hàng một cách tối ưu thì Ngân hàng còn phải kết hợp các công cụ thu hút khách hàng khác hướng về lợi ích cá nhân đến từng loại khách hàng khác nhau như các giải pháp mang tính kinh tế như phí dịch vụ, lãi suất của tài khoản tiền gửi hoặc cung cấp đến khách hàng nhiều sản phẩm hơn…
- Ngân hàng hiện nay bị áp lực cạnh tranh rất lớn từ các định chế huy động vốn khác như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, tiết kiệm bưu điện. Thường các định chế này huy động vốn với lãi suất cao hơn Ngân hàng vì nguồn vốn huy động của chúng không sử dụng vào mục đích cho vay mà chủ yếu để đầu tư trực tiếp mang lại thu nhập cao. Nhưng Ngân hàng có lợi thế hơn là có thể cung cấp các dịch vụ tiền gửi cho khách hàng…
1.2. Nâng cao vị thế uy tín của Chi nhánh:
Điều quan trọng ở đây là tạo niềm tin nơi khách hàng, phải nói rằng niềm tin là một trong những vấn đề sống còn của Ngân hàng. Ngân hàng có huy động được nhiều hay không là nhờ vào lòng tin của dân chúng. Sau hàng loạt sự sụp đổ của các tổ chức tín dụng trước đây, hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay đã có một bước chuyển đổi khá lớn, tuy nhiên, vẫn chưa thể xoá hết mối nghi ngờ trong dân chúng. Vì vậy đây là một trong những biện pháp cấp thiết và hữu hiệu nhất nhằm đánh tan mối nghi ngờ còn đọng lại trong dân chúng. Hơn nữa sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trong nền kinh tế ngày càng gay gắt, do đó Ngân hàng phải tự tạo hình ảnh riêng cho mình.
Một tòa nhà đồ sộ, trang trí thẩm mỹ, sắp xếp công việc khoa học tạo ấn tượng tốt đẹp cho những người gửi tiền. Vì vậy, Chi nhánh phải xây dựng trụ sở và các điểm giao dịch khang trang, bề thế, cơ sở vật chất vững mạnh sao cho thu hút được khách hàng ngay từ lúc đầu giao dịch.
Ngân hàng trước hết phải là nơi đảm bảo an toàn tài sản của khách hàng, phải đảm bảo “gửi vào thuận lợi, rút ra dễ dàng”. Muốn vậy, Chi nhánh phải tăng cường nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng phục vụ làm cho khách hàng có cảm tình, thường xuyên giao dịch với Chi nhánh mong nhận được sự giúp đỡ, tư vấn của nhân viên Ngân hàng.
Một vấn đề không kém phần quan trọng trong việc tạo lòng tin cho khách hàng đó là Ngân hàng phải báo cáo công khai hiệu quả hoạt động của mình thông qua các báo cáo tài chính kế toán… trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người điều biết. Như vậy mới có cơ sở vững chắc để người dân tin tưởng vào sự hoạt động hiệu quả của Ngân hàng.
NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long đã và đang cố gắng hết mình trong việc tạo lòng tin nơi khách hàng, tăng cường, củng cố vững chắc hoạt động kinh doanh của mình.
1.3. Nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhân viên:
Các Ngân hàng ngày nay đều hiểu rằng chất lượng đội ngũ nhân viên quyết định chất lượng dịch vụ Ngân hàng. Đây là đội ngũ nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, là bộ mặt của Ngân hàng nên cần có kiến thức tổng quát về Ngân hàng để có thể giải thích, tư vấn cho khách hàng những thủ tục, hình thức thanh toán sao cho có lợi nhất.
Vì vậy, NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long đã chú ý tiến hành các biện pháp nhằm củng cố, nâng cao kiến thức nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ với phương thức khuyến khích tạo điều kiện cho nhân viên đi học ở các trung tâm. Ngân hàng tạo điều kiện hỗ trợ chi phí học tập, khen thưởng đối với các nhân viên có kết quả tốt…
Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng chú trọng trong công tác tuyển dụng nhân sự mới nhằm có được đội ngũ nhân viên tốt ngay từ đầu. Đội ngũ nhân viên phải được đào tạo trở thành người không chỉ có trình độ về chuyên môn mà phải là người có đạo đức chuẩn mực, có thái độ lịch sự, nhã nhặn, hiểu biết tâm lý khách hàng khi cần thiết, có kiến thức về văn hóa, chính trị và có tinh thần trách nhiệm.
Hiện nay, Chi nhánh được xem là Ngân hàng có môi trường làm việc khá tốt, tập hợp những nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao và am hiểu về nghiệp vụ. Đây chính là tài sản vô hình của Chi nhánh. Trong tương lai Chi nhánh càng phát huy hơn nữa công tác đào tạo và trau dồi nghiệp vụ cho nhân viên.
1.4. Mở rộng mạng lưới giao dịch:
Để thu hút tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long cần phải mở rộng mạng lưới giao dịch hơn nữa. Hiện nay, Ngân hàng định thành lập thêm một số bàn tiết kiệm tại các khu vực, địa điểm thuận lợi, đông dân cư như tại các trường học, các công ty, doanh nghiệp. Các quỹ tiết kiệm nên được phân bố đều trên địa bàn thị xã để tạo sự tiện lợi trong việc gửi tiền của khách hàng.
Thực tế cho thấy, Chi nhánh đã thu hút được một lượng tiền không nhỏ từ các hoạt động của các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn và có đầu ra tương đối ổn định.
1.5. Đa dạng hóa các sản phẩm huy động tiền gửi:
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, đời sống của người dân ngày một ổn định, thu nhập bình quân theo đầu người tăng lên đáng kể, quan hệ mua - bán giữa các tổ chức kinh tế cũng tăng theo, do đó nhu cầu gửi tiền của khách hàng cũng rất đa dạng và phong phú. Chính vì thế, muốn thu hút khách hàng đông đảo, không có cách nào khác là Chi nhánh phải làm sao để đáp ứng một cách thỏa đáng nhu cầu của khách hàng. Mà nhu cầu gửi tiền của khách hàng là đa dạng và phong phú, vì vậy Chi nhánh cũng phải quan tâm đến việc đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi.
Bên cạnh những hình thức huy động truyền thống từ trước, Chi nhánh cần có thêm nhiều hình thức huy động hơn nữa để phù hợp với từng loại đối tượng khách hàng. Chi nhánh có thể đa dạng sản phẩm hoặc thêm sản phẩm vào dãy sản phẩm của mình. Ngân hàng có thể bán thêm, bán chéo các sản phẩm. Ví dụ, hầu hết các khách hàng cá nhân đều có tài khoản tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng, đối với các khách hàng này Ngân hàng có thể giới thiệu thêm các loại tiền gửi thanh toán. Hoặc cũng có thể cấp tín dụng cho khách hàng khi có nhu cầu. Các sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp có thể được dựa vào sản phẩm tự có của Ngân hàng hoặc tương tự sản phẩm thu hút tiền gửi của các đối thủ cạnh tranh. Cụ thể như:
Ø Đối với tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân:
Mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt từ các Ngân hàng khác, từ các định chế tài chính như các công ty bảo hiểm, Quỹ tiết kiệm Bưu điện … nhưng Chi nhánh cũng đã đạt được những kết quả khả quan. Ngoài những sản phẩm hiện có, Chi nhánh còn có khả năng phát triển thêm một số loại hình tiền gửi tiết kiệm khác như:
l Tiền gửi tiết kiệm dài hạn có mục đích:
Với loại hình này, khách hàng đem tiền gửi vào Ngân hàng dưới hình thức ký thác nhằm sử dụng cho các mục đích trong tương lai, hay nói cách khác là tích luỹ, để dành cho việc thực hiện các dự định trong tương lai như mua nhà, hôn nhân, trang trải chi phí học tập cho con cái… Ngoài ra, những người gửi tiền được ưu đãi từ phía Ngân hàng là sẽ được Ngân hàng cho vay bổ sung thêm vốn sử dụng cho mục đích của họ với số tiền vay tối đa bằng số tiền gửi vào Ngân hàng. Còn về Ngân hàng thì Ngân hàng có được nguồn tiền gửi ổn định, khả dụng ở thời gian trung, dài hạn để cho vay, đầu tư.
l Tiền gửi tiết kiệm dưỡng lão:
Loại tiền gửi này gần giống với bảo hiểm, cung cấp cho mọi người dân có thu nhập một dịch vụ quản lý tiền tích luỹ của cá nhân để đảm bảo nguồn sinh sống khi về già hoặc lúc mất hết khả năng lao động, mà không đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, thủ tục hành chính quản lý như các loại hình bảo hiểm chính thống.
Phần vốn gốc tích luỹ không bị mất đi nếu người thụ hưởng chết trước hạn, mà sẽ được thừa kế trọn vẹn theo pháp luật, hoặc được hoàn trả toàn bộ cùng với lãi cho người thụ hưởng ngay khi còn sống, đồng thời tổng thu nhập từ lãi được miễn thuế hoàn toàn.
Tính linh hoạt của sản phẩm là ở chỗ: người gửi tiền được toàn quyền quyết định về số tiền, thời gian gửi mỗi lần tùy theo khả năng tích lũy thực có của mình chứ không bị bó buộc định kỳ, định mức như khi đóng phí bảo hiểm.
Đây là nguồn tiền ổn định, lâu dài, do đó Ngân hàng có thể toàn quyền quyết định sử dụng để đầu tư trung và dài hạn nhằm đạt tỷ suất sinh lời cao hơn cho chính mình.
Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể cạnh tranh với các công ty bảo hiểm bằng các hình thức tương tự với loại hình tiền gửi tiết kiệm dưỡng lão như tiền gửi tiết kiệm phòng ngừa rủi ro, tiền gửi tiết kiệm an sinh học đường… Ngân hàng có thể thu hút tiền tiết kiệm của cá nhân bằng cách mở các tài khoản tiền gửi tiền có kỳ hạn tuần hoàn hoặc tiết kiệm tích lũy. Đối với các tài khoản này, Ngân hàng không quy định những điều kiện ràng buộc về thời gian sử dụng, rút tiền. Ngân hàng cũng có thể mở tài khoản ký thác đồng sở hữu.
Ø Đối với loại tiền gửi của các đơn vị kinh tế:
Trên thực tế thì thị trường khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng là tương đối ổn định do khi doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng thì hầu hết các quan hệ tài chính kinh tế của doanh nghiệp đều thông qua Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng cũng thực hiện việc bán chéo sản phẩm cho các doanh nghiệp như doanh nghiệp cũng là khách hàng đi vay của Ngân hàng, và quan hệ giữa Ngân hàng với doanh nghiệp trở nên bền vững hơn.
Tận tình tối ưu vai trò giao tế nhân sự, Ngân hàng tìm cách liên lạc với các hội, đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội thương binh… Tuy các đoàn thể này không có số dư tiền gửi lớn nhưng rất cố định. Số dư này sẽ rất có ích giúp cho Ngân hàng có thể cho vay ổn định và lâu dài.
Tiền gửi lưỡng tính: đây là loại tiền gửi kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm. Loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Vì là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Ngân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng theo sự thương lượng: mức lãi suất và điều kiện hưởng lãi (điều kiện hưởng lãi là phải duy trì mức số dư tối thiểu bắt buộc trên tài khoản).
Ø Đối với việc phát hành các dạng giấy nợ để vay từ công chúng:
Các loại giấy nợ này vừa là hình thức tiết kiệm của khách hàng nhưng đồng thời Ngân hàng cũng linh hoạt khả năng chuyển nhượng của chúng, tạo điều kiện cho khách hàng có thể chuyển nhượng hoặc mua bán khi cần vốn nhưng các giấy tờ đó chưa tới hạn.
Thông thường người gửi tiền có kỳ hạn dài lo âu là khi họ cần chuyển đổi khoản tiền gửi này thành thanh khoản, họ sẽ gặp khó khăn. Vì vậy đối với việc phát hành các giấy tờ có giá dài hạn, Ngân hàng nên kèm theo chức năng được chuyển nhượng một cách dễ dàng trên thị trường. Các giấy tờ có giá này có thể bán lại cho cá nhân khác, cho các doanh nghiệp, Ngân hàng, hay bất cứ tổ chức nào có khả năng tài chính.
Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể huy động bằng cách phát hành trái phiếu dài hạn có đảm bảo bằng USD, có nghĩa là Ngân hàng vẫn huy động và thanh toán bằng VNĐ nhưng đảm bảo giá trị bằng USD theo tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước công bố.
1.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận Marketing:
NHTM là một doanh nghiệp như mọi doanh nghiệp và Marketing có vai trò rất quan trọng trong kinh doanh, nó hướng dẫn chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ các hoạt động phân tích của Marketing, các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có cơ sở khoa học vững chắc hơn, có điều kiện và thông tin đầy đủ hơn.
Marketing tìm hiểu và đánh giá tiềm lực, khả năng vay mượn của dân cư trên địa bàn Ngân hàng hoạt động. Từ đó, giúp Ngân hàng có kế hoạch cụ thể trong từng thời kỳ. Marketing tìm hiểu nhu cầu, khả năng vay trả, thu nhập bình quân của từng khách hàng, từ đó có cơ sở phân loại khách hàng để cho ra những sản phẩm phù hợp với từng loại khách hàng, giúp Ngân hàng huy động được tiềm lực vốn, tín dụng chặt chẽ hơn, hạn chế được rủi ro, đảm bảo an toàn nguồn vốn nâng cao lòng tin của người gửi tiền.
Marketing nghiên cứu và dự báo sự thay đổi của môi trường kinh doanh, chính sách tiền tệ trong tương lai, từ đó Ngân hàng có thể tìm kiếm các cơ hội trong kinh doanh hay thấy được những cản trở để có thể tránh né hoặc đề ra các biện pháp khắc phục. Marketing không những dự báo được thay đổi của lãi suất, giảm chi phí đầu vào, mà còn làm cho mọi người hiểu biết về Ngân hàng nhiều hơn.
NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long có kế hoạch thành lập một bộ phận chuyên trách về Marketing, bộ phận này có trách nhiệm phối hợp với các đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ … nhằm tìm hiểu, thu thập các thông tin liên quan tới các cá nhân, tổ chức, nắm bắt nhu cầu, mong đợi của họ về dịch vụ, sản phẩm của Ngân hàng, về thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng. Từ đó Ngân hàng rút ra được các dữ kiện hữu ích cho việc xây dựng phương án hoạt động, có những ứng xử thích hợp.
* Những biện pháp tiếp thị cụ thể:
- Nhân các ngày lễ lớn, Chi nhánh gửi tặng phẩm có giá trị cho các khách hàng có số tiền gửi lớn và thời hạn dài, các tặng phẩm như lịch, bút bi… có in địa chỉ của Ngân hàng được gửi đến tất cả các khách hàng gửi tiền ở Ngân hàng. Việc làm này gây được nhiều thiện cảm với khách hàng và mặc nhiên mang lại hiệu quả.
- Hằng năm, Chi nhánh nên tổ chức các Hội nghị khách hàng theo từng nhóm khách hàng để giới thiệu hoạt động của Chi nhánh theo từng chủ đề. Qua đó giúp khách hàng nắm bắt được nội dung, kế hoạch hoạt động và phát triển của Chi nhánh trong tương lai, đồng thời Chi nhánh cũng nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của khách hàng, kịp thời điều chỉnh để phục vụ tốt hơn.
- Thường xuyên tham gia vào sinh hoạt cộng đồng tại địa bàn như tham dự các hội từ thiện, các tổ chức văn hóa xã hội, khuyến khích, cấp học bổng hoặc trao giải thưởng cho các học sinh, sinh viên xuất sắc của các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn…
1.7. Một số biện pháp khác:
1.7.1. Lãi suất tiền gửi:
Đây là yếu tố phản ánh lợi ích vật chất trực tiếp nhất của khách hàng gửi tiền tại Ngân hàng. Hiện nay, các Ngân hàng đang cần vốn cho hoạt động cấp tín dụng rất cao vì nhu cầu đầu tư của nền kinh tế tăng với xu hướng phát triển kinh tế chung. Do đó, mặt bằng lãi suất huy động vốn trên thị trường trong thời gian gần đây liên tục tăng. Tâm lý khách hàng sẽ chọn gửi tiền tại nơi có lãi suất huy động cao nhất vì khách hàng cho rằng lãi suất cao thì lãi nhận được nhiều. Trường hợp như thế xảy ra đối với khách hàng gửi tiền tiết kiệm với mục đích chủ yếu là sinh lợi.
Hiện nay tại một số Ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay dài hạn dựa vào lãi suất huy động dài hạn tương ứng. Xét trên lý thuyết thì đây là hình thức vừa đảm bảo được mức chênh lệch lãi suất theo mong muốn của Ngân hàng, vừa giảm thiểu được rủi ro lãi suất. Nhưng thực tế, cách áp dụng này không mang tính hiệu quả vì việc Ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay như thế thì liệu khách hàng đi vay có chấp nhận hay không. Nếu khách hàng không chấp nhận thì coi như Ngân hàng phải sử dụng vốn dài hạn để cung cấp tín dụng ngắn hạn, tín dụng ngắn hạn mang lại thu nhập thấp trong khi nguồn vốn dài hạn phải trả chi phí cao. Chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng vốn không hiệu quả.
Do đó, Ngân hàng cần quan tâm hơn đến việc gia tăng lãi suất huy động vì không những Ngân hàng cần phải huy động nhiều vốn mà phải có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả.
1.7.2. Phí dịch vụ:
Muốn thu hút khách hàng, ngoài việc nâng cao chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của họ thì yếu tố quyết định khách hàng có sử dụng dịch vụ hay không cũng như đồng ý mở tài khoản gửi tiền tại Ngân hàng hay không chính là phí dịch vụ. Phí dịch vụ là một nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng sau thu nhập từ lãi cho vay. Các Ngân hàng luôn cố gắng tăng tỷ trọng của nguồn thu này trong tổng thu nhưng cũng phải ở mức cho phép giá cả dịch vụ ở mức cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng. Thu phí dịch vụ chủ yếu là đối với loại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
1.7.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ:
Nâng cao chất lượng dịch vụ đối với tiền gửi là một trong những yếu tố bổ sung quan trọng để thu hút khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng. Bản chất của sản phẩm Ngân hàng là sản phẩm mang tính vô hình, khách hàng chỉ đánh giá được chất lượng cung ứng của Ngân hàng chứ không đánh giá qua các chỉ số cho sẵn. Việc cung ứng sản phẩm cho khách hàng là cả một quá trình, một sơ suất nhỏ cũng có thể làm hỏng cả một quá trình. Vì thế, để nhận được sự tín nhiệm của khách hàng, Ngân hàng phải làm tốt cả một quá trình. Đó là nguyên tắc của việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Chất lượng dịch vụ bao gồm tất cả các dịch vụ chính và các dịch vụ bổ sung đối với tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Dịch vụ chính đối với tài khoản tiền gửi bao gồm: dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, bảo lãnh… Các dịch vụ bổ sung như dịch vụ tư vấn, hỗ trợ…
- Đối với các dịch vụ chính, Ngân hàng phải tự trang bị một hệ thống máy móc, thiết bị tốt, hiện đại phục vụ cho công tác thanh toán như thanh toán séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, chuyển ngân, thanh toán L/C… diễn ra được nhanh chóng và thuận lợi. Ngoài việc trang bị những điều kiện cần thiết, Ngân hàng còn cần phải phối hợp tốt với các đối tác Ngân hàng khác, cần phải thu hút khách hàng mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng, tạo lập uy tín của Ngân hàng trên thị trường mới có thể thực hiện tốt các nghiệp vụ trong nước và quốc tế.
- Đối với các dịch vụ bổ sung, Ngân hàng không những phải có hệ thống quản lý thông tin hiệu quả mà còn cần phải có những nhân viên giỏi để đáp ứng các yêu cầu thông tin về tài khoản của khách hàng một cách nhanh chóng, đảm bảo yêu cầu thời gian của khách hàng, tư vấn cho khách hàng sao cho khách hàng là người có lợi nhất.
Tất cả các dịch vụ đều quan trọng như nhau, chúng có tác dụng bổ sung cho nhau. Vì thế, Ngân hàng nên phối hợp hài hòa tất cả các dịch vụ trên.
NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long trong thời gian qua không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng. Bên cạnh những sản phẩm Ngân hàng cung cấp cho khách hàng còn có các dịch vụ bổ sung được cung cấp thêm để làm tăng giá trị, tăng sự thỏa mãn hơn đối với dịch vụ khách hàng nhận được. Những dịch vụ bổ sung nên làm như:
F Ngân hàng nên bố trí đội ngũ nhân viên nhiệt tình, có khả năng chuyên môn vững vàng làm việc tại các bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng.
F Chi nhánh nên có phòng chờ riêng thoáng mát, có lắp đặt ti vi, có nước uống, có sách báo, tạp chí… phục vụ khách hàng trong khi chờ đợi, tạo không khí vui vẻ, thoải mái trong lúc chưa giao dịch.
F Khi đưa ra sản phẩm mới, Chi nhánh nên thông tin rõ mọi yếu tố liên quan như thời hạn, lãi suất, các điều kiện, thủ tục… ở các nơi mà khách hàng có thể dễ dàng nhìn thấy, đọc được, đồng thời nên bố trí thêm một nhân viên thường xuyên túc trực để giải đáp những thắc mắc, hướng dẫn khách hàng.
2. CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ VỀ PHƯƠNG DIỆN VĨ MÔ:
2.1. Chính sách bảo hiểm tiền gửi:
Tiền gửi là tài sản của người gửi tiền, là nguồn vốn chủ yếu cho các hoạt động của Ngân hàng. Luật lệ các nước thường yêu cầu các nhà kinh doanh tiền tệ phải có trách nhiệm đảm bảo an toàn vốn tiền gửi cho người gửi tiền.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là rất lớn, đôi khi Ngân hàng không thể đáp ứng được các trách nhiệm đối với những người gửi tiền là vỡ nợ. Việc vỡ nợ của Ngân hàng có nghĩa là Ngân hàng không đảm bảo an toàn tiền gửi của người gửi tiền, người gửi tiền mong đợi lấy lại tiền vốn của họ khi Ngân hàng được thanh lý xong (khi những tài sản của Ngân hàng chuyển thành tiền mặt). Lúc ấy, người gửi tiền sẽ chỉ được thanh toán một phần giá trị của món tiền gửi. Điều đó thật tệ hại đối với người gửi tiền, vì thế để giảm bớt thiệt hại cho người gửi tiền, các nhà chức trách quản lý Ngân hàng đòi hỏi phải có một cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp bảo hiểm cho các món tiền gửi ở Ngân hàng. Nếu Ngân hàng bị vỡ nợ, cơ quan bảo hiểm sẽ có trách nhiệm hoàn trả các món tiền gửi cho người gửi tiền, và các Ngân hàng phải chịu trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho cơ quan bảo hiểm.
“Nghị định số 39/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi” yêu cầu các tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.
- Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Mức phí mà các tổ chức tín dụng phải đóng tuỳ thuộc vào số dư tiền gửi của khách hàng tại tổ chức tín dụng đó. Do đó, tổ chức tín dụng có nguồn vốn huy động thấp thì mức phí phải đóng thấp hơn các tổ chức tín dụng có nguồn vốn huy động cao. Nhưng thực tế, khoản tiền bảo hiểm mà Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải trả nhiều hơn là cho các tổ chức tín dụng hoạt động thấp vì họ có nguy cơ phá sản cao hơn. Điều này gây bất công cho các tổ chức tín dụng lớn vì họ không được hưởng quyền lợi khác. Việc khoán phí như thế cũng có lợi cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại cách bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền gửi này nhằm mang lại lợi ích tối ưu nhất cho các tổ chức tín dụng.
- Khi tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả sẽ được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả thay. Mức tiền tối đa mà một người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được chi trả là 30 triệu đồng ( cả gốc và lãi ).
Như vậy, mặc dù đã có chính sách bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền nhưng vẫn chưa đảm bảo được quyền lợi và lợi ích của những người có món tiền gửi lớn, những người gửi tiền trung và dài hạn.
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn thiếu vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, vốn trong dân cư lại rất nhiều. Để huy động được vốn, khuyến khích người gửi tiền vào Ngân hàng với số lượng lớn, thời gian dài, chính sách bảo hiểm tiền gửi cần nâng mức tối đa chi trả tiền tiền gửi và mức tối đa nâng lên chỉ tính theo vốn gốc, còn lãi sẽ được thanh toán đầy đủ. Có như vậy mới khuyến khích được mọi người gửi tiền.
2.2. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng:
Hiện nay trình độ dân trí của người dân còn thấp, còn xa lạ với các sản phẩm của Ngân hàng, phần lớn người dân chưa hiểu gì nhiều về hoạt động của Ngân hàng. Người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong các hoạt động thanh toán của mình, mặt khác thu nhập bình quân dân cư còn thấp nên ít nghĩ đến việc gửi tiền để thanh toán qua Ngân hàng.
Để xóa bỏ thói quen sử dụng tiền mặt trong dân cư cần thiết phải tuyên truyền, giải thích rõ các sản phẩm Ngân hàng cho công chúng hiểu. Đây là một vấn đề rất cần sự đồng tình, quan tâm của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện. Nhà nước cần có những giải pháp đồng bộ, chủ động và tích cực hơn nữa mới có thể phát triển, mở rộng thị trường tiền gửi cá nhân và thanh toán qua tài khoản; kết hợp giữa vận động, khuyến khích, với tính hướng dẫn, chỉ định để đưa ra những chủ trương, biện pháp thích ứng với thực tế.
2.3. Chính sách tiền lương:
Như ta biết khách hàng của Ngân hàng chính là những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, và khách hàng chỉ có nhu cầu gửi tiền tại Ngân hàng khi họ có nguồn thu nhập lớn hơn nhu cầu chi tiêu hoặc thu nhập đủ lớn để sử dụng tài khoản giao dịch. Tuy nhiên, nếu với cơ cấu phân phối lương như hiện nay thì hầu hết nhân viên bình thường không có nhu cầu gửi tiền thanh toán vì chỉ cần sau khi nhận được tiền lương thì mỗi cá nhân đã có kế hoạch chi tiêu ngay lập tức khoản tiền đó. Hơn nữa, đó là một khoản tiền không lớn mà nhu cầu an toàn không có nên khách hàng cũng không có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng.
Vì thế, Nhà nước cần quan tâm đến chính sách tiền lương của công nhân viên. Và hiện nay, chúng ta có xu hướng sẽ tiến hành thanh toán lương qua Ngân hàng.
2.4. Vấn đề quỹ tài chính của doanh nghiệp:
Ở các nước phát triển, tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều có tài khoản tại Ngân hàng và tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng là tấm gương phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhưng ở nước ta thì việc doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng còn tùy thuộc vào doanh nghiệp, không bắt buộc đối với doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước cần có quyết định về việc công khai hoạt động tài chính của doanh nghiệp thông qua Ngân hàng, vừa tạo được nguồn vốn cho Ngân hàng để điều hòa vốn cho nền kinh tế, vừa đảm bảo vấn đề thu thuế đối với Ngân sách Nhà nước.
3. KIẾN NGHỊ:
3.1.Kiến nghị đối với NHNo&PTNT chi nhánh Thị xã Vĩnh Long:
- Ngân hàng phải hoạch định một chiến lược huy động vốn khả thi và phù hợp với nhu cầu đầu tư của kinh tế địa phương, trong đó, đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn trung, dài hạn bằng các giải pháp tích cực và khẩn trương. Việc huy động kể cả đối với các tổ chức tín dụng, khách hàng khác ngoài địa bàn.
- Ngân hàng nên tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm huy động, nâng cao hơn nữa tính tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài, Ngân hàng phải đạt được mục tiêu: bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có nguồn tiền chưa sử dụng, đều có thể tìm kiếm ở Ngân hàng một loại hình nào đó phù hợp với mong muốn của họ. Riêng đối với hình thức huy động tiết kiệm kỳ hạn truyền thống, cần có những sửa chữa theo hướng linh hoạt: cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn từng phần, trả lãi định kỳ với những món gửi lớn, khách hàng được quyền lựa chọn kỳ hạn bất kỳ trong giới hạn kỳ hạn tối đa của Ngân hàng.
- Ngân hàng Nông nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các cơ sở địa phương vừa tiếp cận tìm kiếm khách hàng để đầu tư vừa khai thác huy động vốn, mở rọng khách hàng nhiều hơn nửa nhất là những khách hàng là chủ cơ sở sản xuất kinh doanh mua bán lớn.
- Thường xuyên quan tâm công tác đào tạo và đào tạo lại nhằm động viên và khơi dậy các tiềm năng và sử dụng nhân tài, phục vụ tối đa trong công tác, nên bố trí cán bộ phù hợp với trình độ năng lực và có chính sách khen thưởng kịp thời.
- Tăng cường công tác tiếp thị, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, Chi nhánh cần đưa sản phẩm tiếp thị vào quy chế, bằng cách phát triển tổ Marketing, không ngừng giới thiệu sản phẩm và những vấn đề mới có liên quan.
- Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, chú trọng và chuyển dần từ món cho vay nhỏ sang món cho vay lớn nhằm giảm tải và quản lý khách hàng ngày càng tốt hơn, và có hiệu quả hơn.
- Thành lập tổ lưu động để đi huy động vốn và cho vay ở những vùng xa vùng nông thôn, nhằm khai thác hết tiềm lực sẵn có, và tạo điều kiện cho khách hàng trong quan hệ giao dịch và tiết kiệm chi phí, thời gian đi lại.
- Mỗi phòng ban trong Ngân hàng cần tổ chức đều đặn, thường xuyên các buổi họp nghiệp vụ định kỳ, tạo điều kiện cho những cán bộ có kinh nghiệm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng cho những người đi sau chưa có nhiều kinh nghiệm, hoặc củng cố lại kiến thức, qua đó có thể trao đổi những kinh nghiệm trong thực tế sinh động, phục vụ cho công tác hiệu quả hơn.
3.2.Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam:
- Cần có chính sách về huy động vốn đa dạng, mới lạ, hấp dẫn nhằm thu hút khách hàng để đạt hiệu quả cao, nên có chiến lược khuyến khích, khuyến mãi cho khách hàng nhất là đối với những vùng nông thôn, khó khăn.
- Trang bị và cung cấp kinh phí cho cơ sở để đổi mới và nâng cao công nghệ phục vụ kịp thời trong tình hình mới, nhất trong giai đoạn hiện nay khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin phát triển thần tốc, cần nhanh chóng đáp ứng để công tác phục vụ ngày càng tốt hơn.
- Tăng cường các chiến lược cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đặc biệt thiết lập chương trình khuyến mãi, quảng cáo cho cả hệ thống với những nội dung hấp dẫn, gây ấn tượng, thu hút khách hàng.
- Trang bị hệ thống rút tiền tự động đến các khu dân cư đông đúc nhằm thu hút tiền gửi cũng như hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay.
3.3.Kiến nghị đối với Nhà Nước:
- Bổ sung, hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển các nghiệp vụ Ngân hàng. Nhất là chính sách mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, hạn chế sử dụng tiền mặt trong mua bán, giao dịch như hiện nay. Từ đó giúp các Ngân hàng thu hút được tiền gửi trong nhân dân.
- Bổ sung và hoàn chỉnh luật Ngân hàng, luật các Tổ chức tín dụng, các quy chế nghiệp vụ mới nhất, tạo điều kiện mở rộng kinh doanh dịch vụ trong Ngân hàng, đáp ứng các nhu cầu dân cư và các tổ chức kinh tế …
- Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ cao để Ngân hàng hoà nhập vào cộng đồng thế giới, tạo uy tín trên thương trường quốc tế, mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại.
- Xem xét tăng vốn điều lệ cho NHTM để chủ động đổi mới kỹ thuật công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh, hoà nhập nhanh với Ngân hàng các nước trong khu vực và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số biện pháp nhằm gia tăng nguồn vốn huy động tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh thị xã Vĩnh Long.doc