Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên – TP Hải Phòng

Đề tài: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên – Tỉnh Hải Phòng. MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu 3.2 Phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Bố cục đề tài B. NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân 1.1 Chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân 1.2 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước 2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện 2.1 Tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện 2.2 Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 1. Khái quát về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội huyện Thủy Nguyên 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 2.1 Thực trạng về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 2.2 Thực trạng về hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 3. Những điểm hạn chế cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 4. Một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên C. KẾT LUẬN D. TÀI LIỆU THAM KHẢO A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Đánh giá về thực trạng cơ quan tư pháp, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 Bộ Chính trị nêu rõ “Tổ chức bộ máy, chức năng nhiêm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết nêu trên Nhà nước ta đã có những phương hướng và những biện pháp cụ thể, nhằm khắc phục những mặt còn hạn chế trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp. Tư pháp là cơ quan giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải quyền lực nhà nước, trực tiếp đưa luật vào đời sống nhân dân. Thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Trong các cơ quan tư pháp Tòa án nhân dân giữ vị trí trung tâm, tất cả các cơ quan khác như: Điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp . Đều phục vụ cho hoạt động xét xử của tòa án. Tòa án còn là nơi biểu hiện tập trung tính dân chủ và công khai trong hoạt động bảo vệ pháp luật. Bởi vậy, xuất phát từ tính thực tiễn của vấn đề và vai trò đặc biệt quan trọng của Tòa án nhân dân nên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu . Ở đây tôi chỉ đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, mà cụ thể là “cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên”. Để qua đó thấy được những mặt phù hợp trong chiến lược đổi mới về hệ thống cơ quan tư pháp mà Nhà nước đề ra trong: Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020, đồng thời nhận thấy những mặt chưa phù hợp của Tòa án nhân dân cấp địa phương nói chung và Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng. Qua đó, đưa ra những phương hướng giải quyết nhằm khắc phục những yêu cầu nêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động cuả các cơ quan tư pháp không chỉ có Nhà nước quan tâm; mà còn được nhiều người chú ý. Trong đó có những bài viết tiêu biểu là bài “Nghiên cứu lập pháp số 6(143) tháng 3/2009, Vũ Hà Thanh, Vụ Pháp luật và Cải Cách tư pháp, Văn phòng Trung ương Đảng” và bài “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Phạm Quý Tị ngày 15-10-2005”. Đặc biệt, Nhà nước ta với “Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” ,có vai trò quan trọng trong việc kiện toàn cơ chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nhân dân các cấp nói riêng. Đề tài mà tôi nghiên cứu “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên” là đề tài mới chưa có những bài viết đi sâu về đề tài này. Tuy vậy, tôi vẫn muốn tìm hiểu và đi sâu vào nghiên cứu đề tài này. Nhằm tạo thêm hiểu biết cho bản thân và đóng góp một phần công sức nghiên cứu nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới của đất nước. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên. 3.2 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong nhiệm kì của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên ( 2008-2012). Đặc biệt, khi có Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định một cách đầy đủ rõ nét cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trò của Tòa án nhân dân cấp địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài được đi đúng hướng và có trọng tâm. Đồng thời việc giới hạn đề tài như trên, sẽ giúp tôi có điều kiện đi sâu vào nghiên cứu đề tài nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá sát đáng về những đổi mới trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Đây chính là mục đích cuối cùng mà đề tài cần đạt đến. 4. Phương pháp nghiên cứu. Khi nghiên cứu về đề tài này phương pháp mà tôi lựa chọn gồm: Phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới. Phương pháp cụ thể: phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, phương pháp xác minh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá. Dựa vào các nguồn tư liệu đã thu thập được, đặc biệt là tài liệu có liên quan đến phạm vi của đề tài và việc áp dụng bài bản những phương pháp nghiên cứu nêu trên, nên công việc mà tôi thực hiện đề tài này, không phải là việc lắp ghép một cách máy móc, sao chép các nguồn tư liệu sẵn có mà là sự suy ngẫm, khái quát hoá, phát hiện và tìm hiểu thêm những nét riêng, đặc biệt, biến nó thành sản phẩm của riêng mình. Những nguồn tài liệu cùng những phương pháp nghiên cứu nêu trên đó chính là cơ sở để tôi nghiên cứu đề tài này 5. Bố cục đề tài. Đề tài được chia gồm 4 phần: Phần 1: Mở đầu Phần 2: Nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên Phần 3: Kết luận Phần 4: Tài liệu tham khảo B. NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân 1.1 Chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Chức năng của Tòa án nhân dân được quy định tại điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .’’. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được quy định tại (điều 1/ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002). Vậy Tòa án nhân dân có những nhiệm vụ và chức năng cơ bản sau: Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự bao gồm: những tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân gia đình; những tranh chấp về kinh doanh, thương mại, những tranh chấp về lao động, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không hợp pháp và những vụ án về hành chính. Ngoài ra, Tòa án còn giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật: quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại, ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên, ra quyết định xóa án tích . Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ nhất định. Đối với Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Đặc biệt bằng hoạt động của mình Tòa án còn góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân có hiệu quả, Nhà nước ta cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật, có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 1.2 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.(tất yếu khách quan) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là yêu cầu bức thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án. Có thể nói, trong nhiều giai đoạn lịch sử của Nhà nước ta Toà án nhân dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức cũng như phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề của nền tư pháp, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới thể hiện ngay từ các văn kiện ban hành sau Đại hội VII. Quan điểm này được thể hiện ở nhiều văn kiện, trong đó có các văn kiện tiêu biểu như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 8-11-1993 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật”, Chỉ thị số 34 - TC/TW ngày 18-3-1994 của Ban Bí thư về “Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp”, Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về “Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”. Kết quả phát triển và lớn mạnh của Toà án nhân dân ngày nay, thể hiện đậm nét sự vận dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân. Nghiên cứu những chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của Toà án nhân dân trong các văn kiện nêu trên, có thể nhận thấy, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới là hoàn toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ Toà án nhân dân. Đó là cho ý kiến về tổ chức của Toà án nhân dân, giới thiệu những cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính trị vững vàng cho ngành Toà án, phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những cán bộ, Đảng viên có sai phạm công tác trong ngành Toà án. Đồng thời, Đảng lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật. Thông qua việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của Toà án nhân dân, Đảng có cơ sở để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động xét xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách Toà án nhân dân là thể hiện tập trung của cải cách tư pháp. Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân không chỉ tác động đến ngành Toà án mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp khác, như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành và có thể phải sửa đổi cả Hiến pháp, vì vậy cần phải có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của cả hệ thống các cơ quan nhà nước. Điều rất đáng lưu ý, là để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc cải cách tư pháp, ngày 02-01-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 08 - NQ/TW đã đề cập một cách toàn diện vấn đề cải cách tư pháp, trong đó đưa ra cả những quan điểm chung và chủ trương, giải pháp cụ thể đối với từng cơ quan tư pháp. Đối với Toà án, Nghị quyết 08-NQ/TW nhấn mạnh: Cần phân định thẩm quyền của các Toà án các cấp theo hướng Toà án nhân dân tối cao làm nhiệm vụ tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giám đốc xem xét các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố chủ yếu thực hiện công tác xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động. Đối với nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, trong việc thực hiên ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước chính là đổi mới trong cơ cấu và hoạt động của ba cơ quan ấy. Vì vậy, ta thấy vai trò của cơ quan tư pháp là vô cùng quan trọng. Thực hiện quyền tư pháp mà cụ thể là quyền xét xử một trong những chức năng chủ yếu được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy trong quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước thì Tòa án luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu “lực” được thể hiện đầy đủ đúng đắn qua hoạt động lập pháp, nhưng hệ thống truyền “lực” qua hoạt động tư pháp không tốt thì bộ máy Nhà nước sẽ kém hiệu lực, kém hiệu quả. Sau khi Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được triển khai trên thực tế được gần 4 năm, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra phương hướng: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cầu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp”. Nghị quyết xác định nhiệm vụ của Tòa án các cấp như sau: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án, Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Việc thành lập Toà án chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”. Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm. Tất cả các cơ quan tư pháp khác như: điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp . đều phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Khẳng định ấy đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế đình bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, trong hệ thống Toà án nhân dân các cấp đã thành lập thêm một Toà chuyên trách để kịp thời giải quyết các loại tranh chấp mới phát sinh, đã bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm và chung thẩm, chú ý đến chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Đặc biệt Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không chỉ vậy Tòa án nhân dân còn là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loai tội phạm. Những quan điểm và phương hướng nêu trên về cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Với vị trí và vai trò quan trọng nêu trên thì Tòa án có ảnh hưởng rất lớn trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nó có đóng góp tích cực trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước 2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện 2.1 Tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện Trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bên cạnh Tòa án nhân dân tối cao còn có Tòa án nhân dân cấp địa phương. Trong đó Tòa án nhân dân huyện thuộc chế định của Tòa án nhân dân cấp địa phương; theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, tại điều 32 quy định về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau: “ 1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư kí Tòa án. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc. 2. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” . Vậy theo tinh thần trên ta thấy tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm: chánh án một hoặc hai phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư kí, và có bổ sung thành phần giúp việc. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (tại khoản 4, điều 40) thì chánh án, phó chánh án các Tòa án nhân dân địa phương do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với thường trực hội đồng nhân dân địa phương. Về chế độ Thẩm phán, là lực lượng chủ yếu của Tòa án nhân dân địa phương nói riêng và Tòa án các cấp nói chung. Vì vậy, thẩm phán phải hội tụ được nhiều tiêu chuẩn cần thiết quy định tại (khoản 1/ điều 5, điều 20, Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), thẩm phán phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì công tác xét xử của Tòa án cũng là một công tác chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đăc biệt, Nhà nước ta đang tiến hàng cải cách ngành tư pháp theo hướng thâm phán độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo luật. Nếu thẩm phán xét xử sai, thì chiu trách nhiệm trước pháp luật đó là hướng đi đúng đắn và tích cực. Đồng thời thẩm phán phải thông qua Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng này có trách nhiệm tuyển chọn cả Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán cấp huyện trong phạm vi tỉnh mình trước khi trình Chánh án toà án tối cao ký quyết định bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm. Theo quy định tại Điều 41, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, và phải đáp ứng các điều kiện quy định (tại khoản 2/điều 5, điều 37, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002). Hội thẩm nhân dân huyện làm nhiệm vụ, theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân huyện đó. Thư kí có số đông trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng, thư kí được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, bằng cấp là. Cử nhân Luật, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao . 2.2 Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện Trong vấn đề hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án lãnh đạo và chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) “ . Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân”, thể hiện nguyên tắc hoạt động của Toà án phải chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua cơ quan đại diện cho họ là Hội đồng nhân dân các cấp. Hiện nay, Toà án được tổ chức theo các đơn vị hành chính, tương ứng với các cấp chính quyền từ cấp huyện trở lên đều có một Toà án nhân dân. Các Toà án nhân dân ở mỗi cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp đó. Chánh án Tòa án nhân dân huyện, có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét xử và các công tác khác theo quy định của pháp luật, và có trách nhiệm báo cáo công tác với Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp lãnh đạo và báo cáo với hội đồng nhân cùng cấp. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự mà Bộ luật hình sự quy định khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống, trừ những tội sau:các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến an ninh chủ quyền quốc gia, các tội quy định trong Bộ luật hình sự tại các điều: 89, 90, 91, 92, 93, 101(khoản 3), 102, 179, 231, 232. Tòa án nhân dân huyện còn có thẩm quyền và hoạt động xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật. Trừ một số việc phức tạp hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp .những vấn đề nêu trên chính là hoạt động chủ yếu của Toà án nhân dân huyện. Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 1. Khái quát về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội huyện Thủy Nguyên Thuỷ Nguyên là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu. Địa hình Thuỷ Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông hồ dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thuỷ Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề, bao gồm: cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản và du lịch. Vị trí địa lý: Nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng Diện tích tự nhiên là: 242 km2, Dân số: 29 vạn người. Đơn vị hành chính gồm: 2 thị trấn: Thị trấn Núi Đèo, Thị trấn Minh Đức và 34 xã, trong đó có 6 xã miền núi. Nhờ có những điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước theo xu hướng mở, nên trong những năm gần đây huyện Thủy Nguyên đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế như: Nhiều công trình công nghiệp, dân dụng mọc lên san sát, ngành công nghiệp đóng tàu phát triển mạnh, đường sá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng trong tương lai không xa, theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020, Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế; nông nghiệp cũng có những bước tiến nhất định. Đặc biệt là trong giai đoạn 2008 việc chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp để sang nuôi trồng thuỷ sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cấy lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2.000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Năm 2009, huyện chú trọng quy hoạch, xây dựng vùng cấy trồng lúa cao sản, xây dựng trang trại chăn nuôi gắn với chế biến, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá dịch vụ phù hợp với quỹ đất sau khi các dự án triển khai trên địa bàn, tổ chức đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động các vùng có dự án lấy đất nông nghiệp Ngoài ra, chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn, gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong đó huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, lập các dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp, đã gặt hái được kết quả cao. Những năm gần đây, Thuỷ Nguyên nhộn nhịp như đại công trường xây dựng với 3 khu công nghiệp Minh Đức- Bến Rừng, Nam Cầu Kiền; Lưu Kiếm- Gia Minh và hàng trăm dự án ngoài các khu công nghiệp này. Hiện trên địa bàn Thuỷ Nguyên có 39 dự án đã và đang triển khai, trong đó có 30 dự án mới với tổng diện tích đất thu hồi 964,6 ha, khoản tiền bồi thường cho hơn 10 nghìn hộ dân lên tới 1323 tỷ đồng. 32 dự án có quyết định thu hồi đất của UBND thành phố với 599 ha, 7611 hộ dân liên quan phải di dời, trong đó có 317 hộ cần tái định cư và bố trí giãn dân. Góp phần cùng thành phố cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai dự án. Các dự án mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp lớn cho ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng GDP trên địa bàn, tạo việc làm cho số lượng lớn lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Thuỷ Nguyên theo hướng công nghiệp-xây dựng chiếm chủ yếu (42,1%), dịch vụ 28,9%, nông nghiệp- thuỷ sản 29%. Năm 2008, tổng giá trị sản xuất các ngành của Thuỷ Nguyên đạt hơn 2100 tỷ đồng tăng 16,9% so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp thuỷ sản, công nghiệp xây dựng, dịch vụ đạt khá. GDP đạt 980 tỷ đồng, tăng 16,6% so với năm 2007. Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh . và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. Xuất phát từ những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế, thì đời sống nhân dân ngày được nâng cao về: văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao . Đã được chính quyền địa phương huyện Thủy Nguyên chú ý quan tâm, từ đó tạo nên đời sống tinh thần ngày càng phong phú phục vụ tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt kinh tế phát triển đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý huyện Thủy Nguyên. 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động cuả Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên 2.1 Thực trạng về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên Tổ chức Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo luật định (tại khoản 1, điều 32, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002), thành phần cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên bao gồm: Chánh án, phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, Thư kí và bộ phận giúp việc. Tính đến thời điểm hiện tại thì đội ngũ cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên gồm có cán bộ công chức biên chế chính quy, một nhân viên văn phòng. Để tìm hiểu cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tôi xin giới thiệu về những cán bộ đương nhiệm trong ban lãnh đạo như sau: Giữ vai trò lãnh đạo, đứng đầu Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên là Chánh án bà Lê Thị Cúc (kiêm thẩm phán), bà nhận nhiêm kì mới từ năm (2008-2012). Trước khi được bổ nhiệm làm Chánh án, bà đã từng là phó chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và (2004-2008). Với trình độ nghề nghiệp cao, thời gian công tác lâu năm trong ngành đã đạt nhiều thành tích và có đóng góp tích cực cho quá trình hoạt động, phát triển của Tòa án nhân dân huyện Thủy nguyên Bà đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định tại (khoản 1/ điều 5, điều 20, Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), để đảm nhiệm chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân huyện và trong nhiệm kì (2008-2012) bà được chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiêm làm chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên (khoản 4, điều 40, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002) . Với vị trí đứng đầu của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên bà Lê Thị Cúc có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là người tổ chức công tác xét xử các vụ án trong địa bàn huyện, báo cáo công tác của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên cho hội đồng nhân dân cùng cấp và Chánh án Tòa án nhân dân trực tiếp lãnh đạonhân dân tỉnh, gồm những công việc khác theo quy định của pháp luật. Nhiệm kì (2004-2008) Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có hai phó chánh án, nhưng đến thời điểm hiện, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có một phó chánh án là ông Trịnh Khắc Thịnh, ông đã từng giữ chức vụ thẩm phán Toà án nhân dân huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và (2004-2008), với việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện của một phó chánh án Toà án nhân dân huyện nên đến nhiệm kì (2008-2012) ông đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm phó chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên (kiêm thẩm phán). Tiếp đến là cơ cấu thẩm phán, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên gồm có bảy thẩm phán: bà Lê Thị Cúc (kiêm chánh án), ông Trịnh Khắc Thịnh (kiêm phó chánh án); bà Nguyễn Thị Nhã, bà Nguyễn Thị Thủy, ông Lê Anh Sơn, ông Vũ Đình Thi, ông Nguyễn Phong Thu. Tất cả đều đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại điều 37,38, 39 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, và những quy định mới trong việc tuyển chọn thẩm phán đã góp phần lựa chọn đúng đắn hơn những người đủ năng lực để đảm nhiệm công việc được giao. Hội thẩm nhân dân, là bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng, và Tòa án nhân dân các cấp nói chung, cho đến thời điểm hiện tại thì Hội thẩm nhân dân của huyện Thủy Nguyên là hai mươi cán bộ, với tiêu chuẩn đáp ứng đầy đủ theo quy định (tại khoản 2, điều 5, Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002). Và hoạt động theo sự chỉ đạo của Chánh án là bà Lê Thị Cúc. Thư kí của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Thủy Nguyên gồm 11 thư kí, có trình độ cao đáp ứng tốt nhu cầu công việc: tốt nghiêp Cử nhân Luật, có phẩm chất đạo đức tốt trong đó có một nhân viên phụ trách công việc văn phòng: đánh máy, văn thư Năng lực đội ngũ cán bộ của TAND huyện Thủy Nguyên đúng tiêu chuẩn luật định, hầu hết đã tốt nghiệp và có bằng Cử nhân Luật hệ chính quy. Chỉ một vài cán bộ tốt nghiệp hệ tại chức về ngành Luật, nhưng đã được cơ quan tạo điều kiện học thêm nghiệp về nghiệp vụ. Với phẩm chất đạo đức tốt: 100% cán bộ là đối tượng Đảng, luôn ý thức cao trách nhiệm nghề nghiệp . Nhờ có chính sách đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án, trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, nên trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng của TAND huyện Thủy Nguyên được nâng cao, với hệ thống nhà cao tầng khang trang, trong đó mỗi cán bộ đã có một máy tính, một máy in riêng, có mạng internet và phần mềm thống kê nội bộ ngành, thuận lợi trong việc tổng kết hoạt động, báo cáo công tác, và tìm tài liệu phục vụ công tác . Cùng đó là những tiêu chuẩn mới trong việc tuyển cán bộ, đã thực sự nâng cao chất lượng trong bộ máy TAND huyện Thủy Nguyên, bởi vậy trong quá trình hoạt động đã thu được kết quả cao, có thể nói là bước đầu đánh dấu sự thành công trong chiến lược cải cách TAND huyên Thủy Nguyên mà Đảng và Nhà nước đề ra. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo những nguyên tắc luật định, đảm bảo cho việc hoạt động có hiệu quả cao, đi theo đúng hướng của Nhà nước trong việc đổi mới hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện và công cuộc cải cách nền tư pháp. 2.2: Thực trạng về hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên Tòa án nhân dân huyện có hoạt động chủ yếu là xét xử và Tòa án nhân dân huyện Thủy nguyên cũng không ngoại lệ. Trong đó bao gồm các vụ án: hình sự (với khung hình phạt dưới 15 năm tù), sơ thẩm các vụ án dân sự, án kinh tế, án lao động, án hành chính theo quy định của pháp luật. Trong năm 2008, lượng án mà TAND huyện Thủy Nguyên giải quyết là tương đối nhiều. Trong đó, những vụ án phải giải quyết nhiều nhất là án hình sự với 289 vụ và 525 bị cáo, có những vụ án nghiêm trọng như: vụ “mua bán trái phép chất ma túy” của bị cáo Vũ Ngọc Điện, xã Kênh Giang, trong vụ này TAND huyện Thủy Nguyên đã thống nhất xử lưu động, tại Ủy ban nhân dân xã Kênh Giang là 10 năm tù nhằm mục đích, tuyên chuyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Đặc biệt trong đầu năm 2009 (09-1-2009) TAND huyện Thủy Nguyên đã xét xử “vụ 3 vụ tàng chữ, buôn bán pháo nổ”. Vụ thứ nhất với bị cáo Nguyễn Thị Đông, sinh 1957, ở thôn Phù Lưu, xã Phù Ninh, huyện Thuỷ Nguyên về tội buôn bán hàng cấm và Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn Thị Đông 36 tháng tù giam về tội buôn bán hàng cấm và nộp phạt 3.000.000 đồng. Tiếp đó, ngày 12-1, TAND huyện Thuỷ Nguyên tiến hành xét xử lưu động tại xã An Lư, huyện Thuỷ Nguyên 2 vụ án về pháo khác. Vụ thứ nhất xét xử bị cáo Phạm Hồng Quân, sinh 1979, ở xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định tội buôn bán hàng cấm. 22h30' ngày 14-12-2008, tại quốc lộ 10 qua xã Thuỷ Sơn, huyện Thuỷ Nguyên. Tại phiên toà, xét thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình cũng như thái độ thành khẩn khai báo của Quân nên Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Phạm Hồng Quân 18 tháng tù giam về tội buôn bán hàng cấm. Vụ án tiếp theo xử Lê Thị Chính, sinh 1975, ở thôn Cây Đa, xã An Lư, huyện Thuỷ Nguyên về tội tàng trữ hàng cấm, Tại phiên toà, Lê Thị Chính đã nhận thức được hành vi tàng trữ pháo nổ của mình là sai trái và thành khẩn khai báo toàn bộ sự việc. Tòa đã tuyên bị cáo án phạt 18 tháng tù giam và nộp phạt 3.000.000 đồng. Qua số liệu tổng kết và một số vụ án nêu trên, cho thấy hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên là hiệu quả, trong việc áp dụng hình thức xử lưu động, đã trực tiếp đưa luật đến với đời sống nhân dân, mang tính chất giáo dục, tuyên truyền pháp luật để nhân dân hiểu luật và tuân thủ luật. Không chỉ trong án hình sự mà các vụ án dân sự cũng xảy ra tương đối nhiều (năm 2008 có 79 vụ). Chủ yếu là liên quan đến : thừa kế, đất đai có nhiều vụ rắc rối gây khó khăn trong công tác xét xử, tuy nhiên hầu hết đã được giải quyết song, chỉ còn một số vụ đang trong thời gin giải quyết. Trong các vụ án về hôn nhân gia đình chủ yếu là giải quyết vấn đề: ly hôn, chia tài sản khi ly hôn (trong năm 2008 có 215 vụ án) về lĩnh vực này, nhìn chung các vụ án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ, không phức tạp nên quá trình giải quyết nhanh và hiệu quả, đảm bảo tính khách quan, công bằng của pháp luật. Về các vụ án lao động, thì tương đối ít và nhỏ nên quá trình giải quyết nhanh (năm 2008 có 12 vụ về lĩnh vực này). Còn những vụ về kinh doanh, thương mại có số lượng rất ít, gồm 4 vụ nhưng đều là những vụ nhỏ, không ảnh hưởng đến Nhà nước bởi vậy được Tòa giải quyết nhanh và hiệu quả. Những vụ án về hành chính thì hầu như không có. Qua việc tìm hiểu hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên, ta thấy được diễn biến phức tạp của các tội về hình sự, với số lượng án nhiều, bao gồm cả những vụ án nguy hiểm, có ảnh hưởng lớn, đặc biệt gây ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân. Không chỉ trong các vụ án hình sự, mà các vụ án dân sự cũng xuất hiện với số lượng nhiều, phức tạp, nhưng nhờ có sự đổi mới về cơ cấu cũng như hoạt động, TAND huyện Thủy Nguyên đã từng bước giải quyết các vụ án đúng người, đúng tội. Đặc biêt, việc nhà nước tăng thẩm quyền cho TAND huyện, cùng đội ngũ cán bộ có chất lượng, nên trong năm 2008 huyện Thủy Nguyên đã không có vụ án nào phải xử lý vượt cấp. Điều đó đã thực sự tạo được lòng tin trong nhân dân. Góp phần quan trọng, trong việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân, và đánh dấu bước đầu sự thành công trong chiến lược đổi mới nền tư pháp nước nhà. Trong quá trình hoạt động, TAND huyện Thủy Nguyên đã đạt được những thành tựu nhất định. Trong thời gian qua TAND huyện Thủy Nguyên, đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cấp bằng khen “tập thể lao động xuất sắc”. Năm 2008 có hai đồng chí được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phong tặng “chiến sĩ thi đua” là đồng chí: Trịnh Khắc Thịnh (hiện là phó chánh án,kiêm Thẩm phán) và Nguyễn Đình Cử (hiện đã về hưu); và 100% các cán bộ đạt tiêu chuẩn “cá nhân lao động tiên tiến”. Tuy đã đạt được những thành tích nhất định, cùng việc hoạt động hiêu quả, nhưng TAND huyện Thủy Nguyên cũng không tránh khỏi những điểm chưa phù hợp. 3. Những điểm hạn chế cơ bản trong quá trình hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã có những chính sách cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND cấp huyện như: Bộ tư pháp đưa ra chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, và Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thực hiện triển khai Nghị quyết số 49-NQ/TW trong giai đoạn 2006-2010. TAND huyện Thủy Nguyên là một trong những huyện đi đầu trong công cuộc đổi mới, về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện. Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình hoạt động không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Trong chính sách đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, thì yêu cầu đối với các cán bộ Tòa án không chỉ cần kiến thức chuyên ngành vững vàng, mà yêu cầu về trình độ tin học, và ngoại ngữ đang là vấn đề được đặt ra . Về vấn đề này, thì đội ngũ cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND cấp huyện nói chung vẫn chưa đáp ứng được theo yêu cầu. Việc bồi dưỡng thêm về tin học và ngoại ngữ, giúp các cán bộ có thể áp dụng một cách tối đa những tiến bộ khoa học kĩ thuật, mà Nhà nước đầu tư cho ngành như: internet ,đồng thời hiện đại hóa trong phương phương thức làm việc. Khi làm được điều đó, sẽ đem lại hiệu quả tích cực, phục vụ tốt cho yêu cầu công việc, nhất là đối với nước ta đang trong thời kì hội nhập Trong đó, vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta phải quan tâm là chế độ “lương” của các cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng, và TAND các cấp nói chung, còn chưa thực sự phù hợp với công việc phải đảm nhiệm. Đời sống cán bộ còn chưa thực sự được đáp ứng. Đặc biệt, đây là nơi có nhiều những vụ án phức tạp, và số lượng án phải giải quyết là tương đối nhiều, với hàng trăm các vụ án, dẫn đến tình trạng cán bộ chịu nhiều áp lực công việc. Bởi vậy còn có những vụ án phức tạp vẫn chưa được thụ lý, đồng thời áp lực công việc, chính là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của TAND phần nào khó khăn. Không chỉ vậy, vấn đề nhân dân hiểu biết pháp luật còn hạn chế dẫn đến việc, gây nhiều khó khăn cho TAND huyện Thủy Nguyên trong quá trình xét xử, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng giải quyết các vụ việc khó khăn, mất nhiều thời gian, các cán bộ giải quyết công việc bị căng thẳng . hiệu quả công việc bị hạn chế. Đặc biệt, trong các vụ án dân sự có rất nhiều những vụ án phức tạp, xảy ra thường xuyên, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên. Qua việc nghiên cứu những hạn chế trên, ta thấy đó gần như là những hạn chế chung của ngành Tòa án, và những hạn chế đó Nhà nước ta hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới, và để khắc phục Nhà nước ta đã đưa ra những biện pháp cụ thể. 4. Một số giải pháp nhằm đổi tổ chức và hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW trong TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung, những năm qua đã tạo được những chuyển biến tích cực về nhận thức, đạt được yêu cầu, nội dung của Nghị quyết đề ra đối với hoạt động của ngành, như tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức của ngành được kiện toàn và củng cố, đã có chuyển biến về tinh thần trách nhiệm trong rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn hoá cán bộ. Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế căn bản nêu trên. Tôi xin nêu một số giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường hiệu quả hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên và TAND cấp huyện nói chung : Tòa án là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta: trực tiếp bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống nhân dân, bảo vệ quyền lợi của nhân dân Bởi vậy, xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, Nhà nước ta cần có những điều chỉnh về “lương” hợp lý hơn đối với đội ngũ cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung và đặc biệt cần chỉ đạo tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tổ chức học tập, quán triệt nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW đến các cơ quan, ban, ngành, các cán bộ, công chức làm công tác tư pháp cũng như đến đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn huyện Thủy Nguyên và nhân dân cả nước, đây là vấn đề ngày càng trở nên cần thiết và vô cùng cấp bách trong giai đoạn hiện nay, nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia của xã hội và nhân dân đối với công tác tư pháp, mà cụ thể là hoạt động xét xử. Giúp cho hoạt động của TAND được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả, đồng thời hạn chế việc nhân dân vi pham pháp luật. Cần tiếp tục quan tâm, tăng cường chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự; bởi trong lĩnh vực này không chỉ trên địa bàn huyện Thủy Nguyên mà hầu hết cả nước ta, đều xảy ra những vụ án nghiêm trọng phức tạp, bởi vậy cần chú trọng việc giải quyết những vụ việc thi hành án phức tạp, kéo dài, liên quan đến nhiều ngành, cơ quan, đơn vị; giải quyết cơ bản tình trạng tồn đọng tránh tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều lần. Và vấn đề mà Nhà nước ta cần phải hết sức quan tâm, là đẩy mạnh công tác đào tạo độ ngũ cán bộ, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ cập tin học, ngoại ngữ và các tiến bộ khoa học liên quan, cho không chỉ đội ngũ cán bộ của TAND huyện Thủy Nguyên, mà còn là yêu cầu đặt ra đối với ngành tư pháp nói chung, nhằm đáp ứng yêu cầu trong cải cách tư pháp hiện nay. Tiếp tục phát triển đội ngũ luật sư, giám định viên, công chứng viên, chấp hành viên có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Và việc tổ chức phiên toà xét xử cần đổi mới theo hướng xác định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của cả những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ và nghiêm minh trong xét xử. Đặc biệt, phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Toà án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy, cần tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kết hợp với hoạt động giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án; đồng thời, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước nhân dân và trước Đảng C. KẾT LUẬN Trên đây là một vài trình bày của tôi về vấn đề “cải cách tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên” qua đó tôi đưa ra những vấn đề hạn chế chung trong cơ quan Tòa án nước nhà. Từ đó có những phương hướng bước đầu, để cải cách tổ chức và hoat động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung. Tất nhiên, những gì tôi đã trình bày còn hạn chế, chưa bao quát được các mặt trong tổ chức và hoạt động TAND huyện Thủy Nguyên. Hơn nữa, với kiến thức còn hạn hẹp thì việc nghiên cứu của tôi cũng chưa thực sự sâu sắc. Tuy nhiên, những gì đã bàn đã giúp tôi hiểu thêm phần nào về tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện. Dù tôi đã rất cố gắng, nỗ lực nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, còn có nhiều vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và trao đổi nhiều hơn. Tôi sẽ cố gắng khắc phục những hạn chế ấy, và nếu có điều kiện tôi sẽ nghiên cứu sâu hơn, vấn đề này nhằm góp một phần công sức nhỏ vào công cuộc đổi mới đất nước. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi năm 2001 - NXB Thống Kê - 2007) 2. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam (NXB Công An nhân dân - 2007) 3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (số 33/2002/QH ngày 02-04-2002) 4. Pháp lệnh 02/2002/PL-UBTVQH về thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày (04/10/2002) 5. Giáo trình “Lý luận Nhà nước và pháp luật” của trường Đại học luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân -2008) 6. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” 7. Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về "Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000". 8. Nghị quyết số 1036/2006/NQ-UBTVQH11 (ngày 27-7-2006) 9. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (NXB Đại học Kinh tế quốc dân-2008) 10. Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 11. Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (ngày 02 - 01-2002)

doc11 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3286 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên – TP Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LLNN - 2011.02 - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ĐỌC NHIỀU (30 NGÀY): LLNN - 2011.02 - Quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - 17.02.2011 LLNN - 2011.02 - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN - 17.02.2011 NCLP - 2008.05 - Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát hiện nay - 19.05.2008 TTPL - 2010.12 - Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh - 05.12.2010 NCLP - 2010.03 - Sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam - 15.03.2010 Trụ sở Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ảnh: ST Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là định hướng cơ bản... Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Theo quy định của Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Toà án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật trong các giai đoạn cách mạng của đất nước, hệ thống ngành Toà án đã góp phần rất to lớn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hệ thống Toà án của nước ta đã trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002. Nhìn chung, những thay đổi, cải cách của hệ thống Toà án đã mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ..., thì đòi hỏi ngành Toà án phải được cải cách mạnh mẽ từ nhận thức, pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử. Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Toà án nói riêng là những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng như: Nghị quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”. Để triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án, Toà án nhân dân tối cao đã và đang khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Đề án tổng thể về thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao; đặt ra mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nội dung, từng bước đi và phân công trách nhiệm trong việc xây dựng, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lại hệ thống Toà án theo yêu cầu của cải cách tư pháp. 1. Khái quát thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân hiện nay Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật; cơ cấu tổ chức của ngành Toà án theo địa giới hành chính: ở trung ương có Toà án nhân dân tối cao, ở địa phương có các Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Toà án quân sự được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Toà án đặc biệt. Trên phạm vi toàn quốc, hiện nay có 742 Toà án nhân dân, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, 63 Toà án nhân dân cấp tỉnh và 678 Toà án nhân dân cấp huyện (không tính các Toà án quân sự). Nếu xét theo thẩm quyền xét xử, hệ thống Toà án nhân dân có thể phân thành 741 Toà án cấp sơ thẩm (bao gồm 678 Toà án cấp huyện và 63 Toà án cấp tỉnh), 66 Toà án cấp phúc thẩm (bao gồm 63 Toà án cấp tỉnh và 3 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao), 69 cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (bao gồm 63 Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, 5 Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao). Về cơ cấu tổ chức của từng Toà án: Toà án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán; Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính, 03 Toà phúc thẩm, Tòa án quân sự trung ương, bộ máy giúp việc. Về số lượng cán bộ, Thẩm phán, đến thời điểm tháng 3/2008, Toà án nhân dân tối cao có 524/603 người, trong đó có 116/120 Thẩm phán; Toà án nhân dân cấp tỉnh có 3264/3559 người, trong đó có 998/1118 Thẩm phán; 678 Toà án nhân dân cấp huyện có 7550/7822 người, trong đó có 3250/3690 Thẩm phán. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 95% Thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện có trình độ cử nhân luật; 90% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 66% Thẩm phán cấp tỉnh và 20% Thẩm phán cấp huyện có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là Đảng viên, đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên theo quy định. Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với Toà án cấp tỉnh, cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ gia tăng án hàng năm là 15%, trong vòng 5 năm tới ngành Toà án nhân dân cần bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người, trong đó có khoảng 500 Thẩm phán, thì mới đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ dừng ở việc thiếu số lượng mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi đó đã bắt đầu phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài. Về cơ sở vật chất của các Toà án, do trong thời gian dài không được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính, cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn 10 năm qua nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Toà án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Toà án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác xét xử, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Toà án. Về hoạt động xét xử của các Toà án, trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc của các Tòa án ngày càng quá tải. Riêng năm 2007 (số liệu tính từ 1/10/2006 đến 30/9/2007), tổng các loại vụ án mà Tòa án nhân dân các cấp thụ 1ý, xét xử là 256.647 vụ, tăng 23.806 vụ so với năm 2006, trong đó Tòa án cấp huyện thụ lý, xét xử sơ thẩm 204.563 vụ; Tòa án cấp tỉnh thụ lý xét xử 45.821 vụ (bao gồm sơ thẩm 18.683 vụ, phúc thẩm 26.739 vụ và giám đốc thẩm, tái thẩm 399 vụ); Tòa án nhân dân tối cao thụ lý, xét xử 6.263 vụ (bao gồm phúc thẩm 5.747 vụ, giám đốc thẩm, tái thẩm 516 vụ) và xem xét, xử lý 10.999 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. 2. Những bất cập và tồn tại chính về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án hiện nay Qua nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Toà án nhân dân cho thấy một số tồn tại và bất cập chủ yếu sau đây: Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Toà án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Toà án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Toà án nhân dân tối cao, hoặc có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án, đó là vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Toà án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Toà án mỗi cấp quy định trong hệ thống Toà án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng các Toà án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Toà án cấp huyện với tư cách là Toà án sơ thẩm trong hệ thống Toà án. Các bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị huỷ bởi Toà án nhân dân tối cao nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm; tái thẩm. Đối với Toà án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Toà án nhân dân tối cao vô hình trung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Toà án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Toà án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án và để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Toà án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (gồm 63 Toà án cấp tỉnh, 5 Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, hoặc thậm chí có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao bị Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, thậm chí không có điểm dừng, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Toà án các cấp, ở Toà án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Toà án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Toà án địa phương về tổ chức; Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, ngoài ra còn có nhiệm vụ quản 1ý các Tòa án cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất và đối với Toà án của các thành phố lớn. Đối với Toà án nhân dân cấp huyện, do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải, nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc. Trên thực tế, những bất cập nói trên về tổ chức và hoạt động của các Toà án đang gây ra những trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và tổ chức công việc để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác ở Toà án mỗi cấp và ở từng Toà án. Đối với các Toà án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc (như các Tòa án thành phố, thị xã thuộc tỉnh của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Toà án cấp huyện ở khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc có khối lượng công việc phải quyết không đáng kể nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực. Mặt khác, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện được coi là các Toà án nhân dân địa phương, nên địa vị pháp lý của những Toà án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và phù hợp với vai trò, vị trí của Toà án trong hệ thống bộ máy nhà nước. Cụ thể, Toà án nhân dân cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tổ chức của các Toà án còn chưa thực sự thoả đáng. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, Thẩm phán Toà án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương xứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động quan trọng của cơ quan Toà án trong bộ máy Nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Toà án gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân có phần xuất phát từ những yếu tố bất cập mang tính khách quan nói trên. Thứ ba, do các Toà án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Toà án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao. Ngược lại, nơi nào cấp uỷ, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức tới công tác Toà án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Toà án thì công tác Toà án gặp nhiều khó khăn, phức tạp. 3. Định hướng cơ bản về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án nhân dân Việc triển khai thực hiện thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao trong thực tế, cần phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Toà án; sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu Hội thẩm nhân dân; quản lý về tổ chức đối với các Toà án; đưa ra các giải pháp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra phương hướng giải quyết một số vấn đề cụ thể về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án nhân dân. 3.1. Về Toà án sơ thẩm khu vực - Nguyên tắc thành lập, nhiệm vụ, thẩm quyền và số lượng các Toà án sơ thẩm khu vực Trong quá trình xây dựng Đề án, có quan điểm cho rằng có thể thành lập Toà án sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh, vì trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 chỉ nêu Toà án sơ thẩm cấp khu vực được tổ chức không phụ thuộc vào đơn vị hành chính và được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, không xác định rõ là các huyện trong cùng một tỉnh hay ở các tỉnh khác nhau. Tuy nhiên, phương án mỗi Toà án sơ thẩm khu vực được thành lập trên cơ sở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh sẽ bảo đảm và xác định được sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân một tỉnh nhất định đối với tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp khu vực. Toà án sơ thẩm khu vực được coi là Toà án cấp thứ nhất trong hệ thống Toà án, có nhiệm vụ và thẩm quyền chung là xét xử, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh- thương mại, tuyên bố phá sản, lao động, hôn nhân - gia đình, hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng. Bên cạnh thẩm quyền chung như nêu trên, thẩm quyền cụ thể của từng Toà án sơ thẩm khu vực sẽ được xác định theo quản hạt tư pháp và theo tính chất của những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Theo Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính Trị, Toà án sơ thẩm khu vực là Toà án chuyên xét xử, giải quyết các vụ việc theo thủ tục sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm là chủ yếu, nhưng vẫn có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm một số vụ án. Do vậy, vẫn cần phải có các quy định của pháp luật tố tụng về các loại vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp phúc thẩm. Việc xác định thẩm quyền theo vụ việc đối với các Toà án sơ thẩm khu vực cần phải có lộ trình hợp lý để vừa bảo đảm hoạt động bình thường của Toà án sơ thẩm khu vực khi mới thành lập, vừa bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp. Việc xác định thành lập khoảng bao nhiêu Toà án sơ thẩm khu vực cần dựa trên những tiêu chí nhất định như: số lượng các loại vụ án xảy ra; quy mô về địa giới hành chính; số lượng dân cư, địa bàn khu vực địa lý và điều kiện phát triển kinh tế xã hội khu vực dự kiến sẽ thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, trong đó số lượng các vụ án dự định cho mỗi đơn vị Toà án sơ thẩm khu vực và giới hạn địa bàn khu vực địa lý là những tiêu chí cơ bản. Theo thống kê, số lượng bình quân các vụ án một năm của Toà án cấp tỉnh cỡ trung bình là khoảng 900 vụ. Nếu lấy tiêu chí về số vụ án là từ 900 vụ trở lên và có tính đến quy mô, mức độ tập trung dân cư lớn, tốc độ phát triển kinh tế xã hội, thì có khoảng 70 đơn vị Toà án cấp quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể chuyển đổi thành Toà án sơ thẩm khu vực. Ở khu vực các huyện đồng bằng, có thể sáp nhập hai đơn vị Toà án cấp huyện có số lượng giải quyết các vụ án hiện nay khoảng 300 vụ / năm /đơn vị để thành lập một Toà án sơ thẩm khu vực với số lượng các vụ án phải giải quyết khoảng 500 vụ /năm, tương đương với số vụ án bình quân của một Toà án cấp tỉnh cỡ nhỏ là hợp lý, phù hợp với quy mô dân số và giới hạn địa bàn hành chính cấp huyện ở khu vực này. Theo thống kê, có khoảng 80 Toà án cấp huyện hiện nay có thể chuyển đổi thành 40 Toà án sơ thẩm khu vực. Các đơn vị còn lại có số vụ án trên dưới 200 vụ án / năm, thì có thể chuyển đổi 03 đơn vị thành 01 Toà án sơ thẩm cấp khu vực. Đối với các khu vực miền núi, do có những đặc điểm khác với khu vực thành thị và đồng bằng như: về mật độ dân số thấp, trình độ phát triển kinh tế xã hội không cao, số lượng các vụ án không nhiều, địa giới hành chính thường rộng, cơ sở hạ tầng chưa phát triển ... nên cần có cách giải quyết khác cho phù hợp. Toà án sơ thẩm khu vực miền núi sẽ được thành lập trên cơ sở hợp nhất một số các Toà án cấp huyện, với số lượng các vụ án phải giải quyết một năm khoảng trên dưới 300 vụ, tương đương với số vụ án của một Toà án cấp tỉnh miền núi cỡ nhỏ hiện nay; trụ sở Toà án cấp huyện cũ vẫn được giữ lại làm trụ sở chi nhánh của Toà án sơ thẩm khu vực. Theo đó, có thể hợp nhất 03 Toà án cấp huyện thành một Toà án sơ thẩm khu vực. Mỗi Toà án sơ thẩm khu vực có một hoặc hai chi nhánh là địa điểm để thụ lý và xét xử, giải quyết các vụ án theo sự phân công của Chánh án Toà án sơ thẩm khu vực. - Mối quan hệ giữa Toà án sơ thẩm khu vực và Toà án nhân dân cấp trên Toà án sơ thẩm cấp khu vực có vị trí là Toà án cấp thứ nhất, có mối quan hệ tố tụng và quan hệ hành chính với Toà án nhân dân cấp trên. Bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm khu vực có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án phúc thẩm (cấp tỉnh) sẽ xét xử theo thủ tục phúc thẩm; Toà án cấp có thẩm quyền sẽ xét xử, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây là điểm mới trong thủ tục giám đốc thẩm, thể hiện ở chỗ Toà án cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án cấp dưới (cấp huyện) như hiện nay. Trường hợp trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc, nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án sơ thẩm khu vực, khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án sơ thẩm khu vực thì Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có thẩm quyền giải quyết. Ngoài quan hệ tố tụng, giữa Toà án sơ thẩm khu vực và Toà án cấp trên có mối quan hệ về hành chính, tổ chức. Toà án sơ thẩm khu vực chịu sự chỉ đạo của Toà án cấp trên về các vấn đề tổ chức nhân sự; báo cáo thống kê, xét xử; dự toán, quyết toán kinh phí hoạt động. Về nguyên tắc, cơ quan cấp bộ nào được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về chuyên môn nghiệp vụ thì cơ quan đó thực hiện việc quản lý về tổ chức, nhân sự các đơn vị thuộc ngành mình phụ trách, bảo đảm đánhgiá được đúng đắn về phẩm chất, đạo đức và năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức trong ngành. - Về sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân Hiện nay, theo quy định về Đảng thì Toà án nhân dân cấp huyện nào chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng huyện đó và tổ chức cơ sở Đảng ở Toà án cấp huyện trực thuộc Đảng bộ cấp huyện; cấp uỷ Đảng của huyện quản lý, cho ý kiến khi đề bạt, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo và Thẩm phán Toà án cấp huyện. Về mặt chính quyền, theo quy định của pháp luật, Chánh án Toà án cấp huyện báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; Thường trực Hội đồng nhân dân có chức năng phối hợp với Toà án nhân dân cấp tỉnh trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo Toà án cấp huyện. Khi Toà án sơ thẩm khu vực được thành lập và hoạt động thì vẫn phải bảo đảm nguyên tắc có sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Do tổ chức của Toà án sơ thẩm khu vực theo hướng không phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp huyện, nhưng vẫn trong đơn vị hành chính cấp tỉnh, nên có thể giao cho cấp uỷ Đảng thực hiện việc lãnh đạo và chỉ đạo, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc giám đối với hoạt động của Toà án cấp này. Tổ chức cơ sở Đảng của Toà án cấp này trực thuộc Đảng bộ Toà án nhân dân cấp tỉnh; còn Đảng bộ Toà án nhân dân cấp tỉnh trực thuộc tỉnh uỷ hoặc thành uỷ. Thường trực tỉnh uỷ, thành uỷ; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Toà án nhân dân tối cao trong việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm lãnh đạo Toà án sơ thẩm khu vực và Toà án cấp phúc thẩm; Chánh án Toà án nhân nhân khu vực báo cáo công tác trước Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh báo cáo công tác của Toà án mình và Toà án sơ thẩm khu vực trước Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. 3.2. Về Toà án phúc thẩm - Nguyên tắc thành lập, sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử Toà án cấp phúc thẩm được tổ chức theo khu vực trên địa bàn của một số tỉnh hay theo địa giới hành chính của từng tỉnh là vấn đề được đặt ra trong quá trình xây dựng Đề án. Tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy có nhiều nước như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan ... thành lập Toà án phúc thẩm trên địa bàn của nhiều tỉnh. Theo tinh thần của Nghị Quyết số 49/NQ-TW của Bộ chính trị, Toà án cấp phúc thẩm sẽ được thành lập theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, do vậy có thể thành lập Toà án cấp này theo khu vực trên một số tỉnh hoặc theo đơn vị hành chính cấp tỉnh. Việc tổ chức Toà án cấp phúc thẩm theo mỗi cách trên có những ưu và nhược điểm của nó. Nếu tổ chức Toà phúc thẩm theo khu vực thì có ưu điểm là giảm được đầu mối, tạo điều kiện tập trung nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, công chức Toà án cấp phúc thẩm. Theo cách này thì có nhược điểm là khó xác định được cấp uỷ Đảng nào lãnh đạo, chỉ đạo và cũng khó xác định được Hội đồng nhân dân tỉnh nào giám sát hoạt động của Toà án phúc thẩm. Phương án thành lập Toà án phúc thẩm theo đơn vị hành chính cấp tỉnh tuy không giảm được đầu mối Toà án cấp phúc thẩm so với Toà án cấp tỉnh như hiện nay, nhưng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định cấp uỷ Đảng và cơ quan dân cử thực hiện việc lãnh đạo và giám sát đối với tổ chức và họat động của Toà án cấp phúc thẩm. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta có nguyên tắc tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử, nên theo chúng tôi có thể tổ chức Toà án phúc thẩm theo đơn vị hành chính cấp tỉnh, mỗi Toà án phúc thẩm có quản hạt tư pháp được giới hạn theo phạm vi địa giới hành chính như Toà án cấp tỉnh hiện nay. Như vậy, trên phạm vi cả nước sẽ thành lập 63 Toà án phúc thẩm, nội dung và cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân vẫn giữ nguyên như hiện nay. - Vị trí, nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án phúc thẩm Toà án phúc thẩm được xác định là Toà án cấp trên của Toà án sơ thẩm khu vực, cấp dưới của Toà án nhân dân tối cao, độc lập với các Toà án này trong giải quyết các vụ việc. Toà án phúc thẩm chịu sự quản lý, chỉ đạo của Toà án nhân dân tối cao, quản lý các Toà án sơ thẩm khu vực theo sự phân cấp của Toà án nhân dân tối cao. Theo Nghị quyết số 49/ NQ-TW của Bộ Chính trị, Toà án cấp phúc thẩm không còn chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm, Chánh án Toà án cấp này cũng không còn chức năng kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm và chủ trì các phiên họp của Uỷ ban Thẩm phán. Toà án cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm khu vực khi có kháng cáo, kháng nghị. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án của Toà án cấp phúc thẩm sẽ được xác định trên nguyên tắc những vụ án nào không thuộc thẩm quyền của Toà án cấp sơ thẩm khu vực thì thuộc thẩm quyền của Toà án phúc thẩm. Dự kiến các vụ án lớn trọng điểm về hình sự, các vụ án dân sự có đương sự hoặc tài sản tranh chấp ở nước ngoài, các vụ việc khiếu nại đối với các quyết định hành chính liên quan đến chống bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh... trong khuôn khổ của WTO sẽ giao thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp phúc thẩm. 3.3. Về Toà án thượng thẩm - Nguyên tắc thành lập, vị trí, thẩm quyền và số lượng Toà án thượng thẩm Theo Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị, Toà án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm, Toà án cấp tỉnh vẫn còn thẩm quyền xét xử sơ thẩm một số vụ án, do vậy cần phải thành lập Toà án thượng thẩm để xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị. Dự kiến trong giai đoạn đầu, 03 Toà phúc thẩm hiện nay được chuyển thành 03 Tòa thượng thẩm (1), sau đó tuỳ tình hình cụ thể để giữ nguyên, giảm hoặc tăng đầu mối các Toà án tượng thẩm. Toà án thượng thẩm là Toà án cấp dưới của Toà án nhân dân tối cao, nhưng độc lập với các Toà án này trong việc xét xử, giải quyết các vụ án. Theo nguyên tắc Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, Toà án thượng thẩm sẽ có thẩm quyền xét xử các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Về thẩm quyền theo lãnh thổ, dự kiến Toà án thượng thẩm được thành lập trên cơ sở các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao hiện nay, quản hạt tư pháp của mỗi Toà án thượng thẩm về cơ bản vẫn được xác định như địa hạt tư pháp của mỗi Toà phúc thẩm tương ứng hiện nay. Tuy nhiên, trên cơ sở thực tiễn hoạt động, có thể điều chỉnh địa bàn xét xử giữa các Toà thượng thẩm với nhau cho phù hợp. - Cơ cấu tổ chức, biên chế Theo lộ trình và dự kiến trong tương lai, Toà án sơ thẩm khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ việc; số lượng các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh sẽ giảm; số lượng vụ việc xét xử phúc thẩm của Toà án thượng thẩm cũng sẽ giảm so với số lượng các vụ án xét xử phúc thẩm tại các Toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao hiện nay. Theo dự tính, số lượng mỗi Toà án thượng thẩm sẽ phải giải quyết khoảng 1000 vụ /năm (hiện nay, 03 Toà phúc thẩm xét xử xử khoảng 5500 vụ /năm, trung bình mỗi Toà xét xử khoảng 1800 vụ /năm). Với số lượng các vụ việc như vậy và để chuyên môn hoá hoạt động xét xử, thì có thể xác định cơ cấu của Toà thượng thẩm bao gồm các Toà chuyên trách và bộ máy giúp việc. Về biên chế, theo tính toán về số vụ việc và cơ cấu tổ chức, mỗi Toà án thượng thẩm cần có khoảng 100 người, trong đó có từ 30- 35 Thẩm phán. - Sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử và quản lý về tổ chức Toà án thượng thẩm có đặc thù về quản hạt tư pháp trên phạm vi nhiều tỉnh khác nhau, nên việc xác định sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử tỉnh nào còn có ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, Toà án thượng thẩm đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở. Tuy nhiên, theo phương án này thì sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử không phù hợp với tính chất, vị trí và địa bàn xét xét xử đặc thù của Toà án thượng thẩm. Do vậy, theo chúng tôi, Toà án thượng thẩm đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán sự Đảng Toà án nhân dân tối cao; tổ chức Đảng của các Toà án thượng thẩm trực thuộc Đảng bộ Toà án nhân dân tối cao; Chánh án Toà án thượng thẩm báo cáo công tác trước Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo công tác của toàn ngành Toà án trước Quốc hội. Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án thượng thẩm về mặt tổ chức như đối với các Toà phúc thẩm hiện nay, nhưng có phân cấp, uỷ quyền cho Chánh án Toà án thượng thẩm thực hiện một số công việc (như: biên chế, quản lý cán bộ, kinh phí và hoạt động) của Toà án cấp này. 3.4. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao - Vị trí, nhiệm vụ và thẩm quyền Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân hiện hành, Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Viết Nam. Toà án nhân dân tối cao có quan hệ tố tụng với các Toà án cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác theo quy định của pháp luật; quản lý Toà án các cấp và Toà án quân sự về tổ chức, hành chính. Ngoài nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án nhân dân tối cao còn có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao là: “Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Theo định hướng của Nghị quyết này, Toà án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm như hiện nay; việc xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị sẽ do Toà án thượng thẩm thực hiện; Toà án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; Toà án nhân dân tối cao là cơ quan duy nhất thực hiện việc giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân các cấp. Đối với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Hội đồng Thẩm phán, Chánh án Toà án Toà án nhân dân tối cao về cơ bản vẫn giữ nguyên như quy định hiện hành; đồng thời, có thể bổ sung cho Toà án nhân dân tối cao nhiệm vụ đào tạo cán bộ ngành Toà án nhằm đề cao tính độc lập của Toà án, gắn việc đào tạo với việc sử dụng nguồn nhân lực, bảo đảm cho Toà án chủ động trong công tác tổ chức cán bộ. - Cơ cấu tổ chức, sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử Theo Nghị quyết 49/ NQ-TW của Bộ Chính trị, Toà án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm, nên không còn các Toà phúc thẩm trong cơ cấu tổ chức. Để tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong thời gian trước mắt từ nay đến năm 2020, cần thiết giữ lại Hội đồng Thẩm phán, các Toà chuyên trách và bộ máy giúp việc như hiện nay. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn xét xử và yêu cầu của công cuộc cải cách tổ chức hệ thống Tòa án, cần điều chỉnh lại tổ chức, nhiệm vụ của một số đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao. Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đang quá tải về công việc, mỗi năm phải xử lý khoảng 9000 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nên có thể tách Toà dân sự hiện hành thành 02 hoặc 03 Toà dân sự như kinh nghiệm của một số nước (2). Về lâu dài, cần xây dựng lại theo hướng đổi mới bộ máy tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao theo tinh thần Nghị quyết số 49/ NQ-TW của Bộ chính trị là: “Toà án nhân đân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ, và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Vì vậy, cần phải xây dựng Luật về Thẩm phán và cán bộ công chức ngành Toà án với các tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm hết sức chặt chẽ để nâng cao kỷ luật công vụ và chất lượng công tác xét xử; xây dựng, sửa đổi có hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến các hoạt động tố tụng, án phí, lệ phí Toà án; xác định rõ căn cứ và thẩm quyền kiến nghị, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để làm giảm đến mức tối đa các đơn thư khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị giám đốc thẩm; phấn đấu đến năm 2020, mỗi năm Toà án nhân dân tối cao chỉ xét xử khoảng 150- 200 vụ án giám đốc thẩm, tái thẩm (thay vì hàng nghìn vụ như hiện nay). Theo hướng lâu dài, tại Toà án nhân dân tối cao sẽ không còn các Toà chuyên trách, tổ chức bộ máy mới sẽ thiết kế theo hướng căn cứ vào nhiệm vụ thẩm quyền nêu trên, gồm: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và bộ máy giúp việc (Văn phòng Chánh án, Ban Thư ký, Viện Khoa học xét xử, Vụ Thống kê - Tổng hợp và Vụ Giám đốc kiểm tra). Đặc biệt, để nâng cao vị trí độc lập của ngành Toà án, phân định rõ công tác quản lý hành chính với hoạt động xét xử, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng ngành, xây dựng đội ngũ Thẩm phán và cơ sở vật chất cho ngành Toà án tương xứng với vị trí, vai trò của Toà án trong Nhà nước pháp quyền, và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, thì cần thiết phải thành lập Tổng Cục quản lý Toà án trực thuộc Chánh án Toà án nhân dân tối cao với chức năng giúp Chánh án về công tác quản lý Toà án. Dự kiến, Tổng cục quản lý Toà án gồm các đơn vị như: Cổng thông tin điện tử; Cục Quản trị; Vụ Tổ chức -Cán bộ; Vụ Kế hoạch - Tài chính; Vụ thi đua khen thưởng; Vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Ban Thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Vụ công tác chính trị và bảo vệ nội bộ …; và nâng cấp trường cán bộ Toà án thành Học Viện Toà án để đào tạo Thẩm phán và các chức danh tư pháp của ngành Toà án; bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm nhân dân). Về sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử, đề nghị giữ nguyên như hiện nay, Toà án nhân dân tối cao chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và chịu sự giám sát của Quốc hội, Uỷ Ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Bước đầu nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án nhân dân, chúng tôi để xuất một số vấn đề nêu trên theo đúng định hướng của Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm hoạt động của Toà án thể hiện bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân, phù hợp với yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN, đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước trong tình hình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay và những năm tiếp theo. (1)**Toà án nhân dân thượng thẩm miền Bắc, Toà án nhân dân thượng thẩm miền Trung, Toà án nhân dân thượng thẩm miền Nam. Về cơ bản, địa hạt tư pháp của mỗi Toà án thượng thẩm được xác định trên cơ sở địa bàn xét xử hiện nay của các Toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao. (2)**Ở Cộng hoà Pháp có 03 Toà dân sự bên cạnh các Toà chuyên trách khác. Trương Hòa Bình - Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguon: Tạp chÃ* Nghiên cứu Láº*p pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- Một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên – Tỉnh Hải Phòng.doc
Luận văn liên quan