Với việc ban hành và triển khai hai gói kích thích kinh tế tiếp theo của Chính
phủ đã phần nào giải quyết đƣợc những tồn tại của gói thứ nhất. Thay vì chỉ hỗ trợ
vốn ngắn hạn thì đến nay, Chính phủ đã tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận vốn
tín dụng ƣu đãi trung và dài hạn, không những vậy còn mang đến cơ hội cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khu vực nông thôn, vùng xa xôi có điều kiện kinh tế
khó khăn đƣợc hƣởng những hỗ trợ tài chính này.
109 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tình hình điều phối thực hiện hoạt động trợ giúp DNNVV thông
qua tăng cƣờng vai trò chỉ đạo của Hội đồng Khuyến khích phát triển DNNVV, vai
trò của các Tổ công tác liên bộ, liên sở, tăng năng lực cơ quan đăng kí kinh doanh
và hỗ trợ phát triển DNNVV ở cấp trung ƣơng và địa phƣơng, phân định rõ trách
nhiệm và sự phối hợp giữa các Bộ, các cơ quan trung ƣơng với địa phƣơng, giữa
các cơ quan địa phƣơng trong việc phát triển DNNVV [42].
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao
năng lực xuất khẩu cho DNNVV
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước
Đảng và Nhà nƣớc đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế
nhiều thành phần, coi DNNVV là nòng cốt của nền kinh tế cũng nhƣ trong chiến
lƣợc thúc đẩy xuất khẩu, là đối tƣợng ƣu tiên hàng đầu trong gói kích thích kinh
tế. ... Một số chính sách hỗ trợ các DNNVV đã đƣợc Chính phủ đƣa ra và áp dụng
kịp thời nhằm đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngăn
chặn đà suy giảm kinh tế... Tuy nhiên trong quá trình đƣa vào thực tế, không tránh
khỏi những bất cập, đôi khi chƣa đạt đƣợc hiệu quả mong muốn: vẫn có sự phân
biệt đối xử của một số cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với các thành phần kinh tế
khác nhau do còn có hạn chế về nhận thức, tƣ duy đối với lực lƣợng sản xuất thuộc
khối DNNVV, chủ yếu là thuộc thành phần kinh tế tƣ nhân; nhiều địa phƣơng còn
83
bị phân biệt đối xử trong các quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh doanh,
vay vốn, tiếp cận thông tin thị trƣờng.
Về mặt chính sách, để hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các giải pháp hỗ trợ
tài chính thúc đẩy xuất khẩu cho DNNVV cần tập trung vào một số kiến nghị nhƣ:
3.3.1.1.Thuế:
Tuy không ngừng đƣợc nghiên cứu, điều chỉnh theo hƣớng xóa bỏ phân biệt
đối xử giữa đầu tƣ trong nƣớc với đầu tƣ nƣớc ngoài, ngày càng minh bạch hơn,
hƣớng tới khuyến khích xuất khẩu... nhƣng chính sách thuế hiện nay vẫn chƣa thực
sự ổn định và thông thoáng, thƣờng xuyên phải sửa đổi, bổ sung theo kết quả triển
khai trên thực tiễn, mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, hệ thống các sắc thuế còn
phức tạp là trở ngại lớn và gây khó khăn trong công tác quản lý cũng nhƣ cho các
DNNVV trong việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.
*Thuế thu nhập doanh nghiệp:
- Thứ nhất, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm từ 28% xuống còn
25%. Tuy nhiên để hỗ trợ phát triển DNNVV cần nghiên cứu áp dụng thuế lũy tiến
từng phần đối với thu nhập doanh nghiệp thay cho một mức thuế suất nhƣ hiện nay.
Áp dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ góp phần kích thích đầu tƣ, thành lập doanh
nghiệp và chủ yếu là DNNVV.
- Thứ hai, giảm thuế mang tính toàn diện nhƣng cần trọng tâm hơn. Nằm trong
gói kích thích kinh tế, thông tƣ 03 của Bộ Tài chính quy định doanh nghiệp đƣợc
giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp trong quý IV/2008 và cả năm 2009 là hơn 10
ngàn tỷ đồng. Hiện nay có đến 95% doanh nghiệp thuộc đối tƣợng DNNVV. Do
vậy trong số những doanh nghiệp đủ điều kiện giảm thuế theo quy định tại Thông tƣ
03 của Bộ Tài chính, trƣớc mắt chúng ta nên tập trung ƣu tiên cho những doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động, làm hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng hoặc những
mặt hàng không xuất đƣợc phải chuyển vào tiêu dùng trong nội địa. Đó là nhóm
doanh nghiệp khó khăn, yếu thế cạnh tranh, cần đƣợc tiếp sức, đồng thời lại là
nhóm doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, làm đƣợc nhiều hàng tiêu dùng xuất
khẩu. Do vậy, chính sách giảm thuế đối với các doanh nghiệp đó sẽ tác động vào
chính sách an sinh xã hội, kịp thời giải cứu cho các DNNVV. Cụ thể chính sách này
84
sẽ làm giảm chi phí, tăng cạnh tranh, vay đƣợc vốn ngân hàng, sử dụng đƣợc nhiều
lao động. Điều này sẽ vừa giúp chống suy giảm kinh tế, vừa tăng khả năng ngăn
chặn đà lạm phát có thế tái diễn.
- Thứ ba, một biện pháp quan trọng là cho phép các DNNVV khấu hao nhanh
tài sản cố định. Chính sách thuế hiện nay cho phép khi tính thuế đƣợc áp dụng nhiều
phƣơng pháp khấu hao. Trong đó cho phép khấu hao nhanh để thu hồi vốn nhƣng
chỉ những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển
nhanh mới đƣợc áp dụng, do đó hầu hết các DNNVV không đƣợc áp dụng phƣơng
pháp khấu hao này.
Khấu hao nhanh tài sản cố định là một vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có liên quan trực tiếp đến nguồn vốn
tái đầu tƣ cho sản xuất. Nếu mức khấu hao nhanh có thể thu hồi vốn nhanh và
ngƣợc lại, mức khấu hao chậm thì thu hồi vốn chậm và có thể mất do hao mòn vô
hình của tài sản cố định gây ra. Mặt khác, mức khấu hao cao hay thấp còn làm thay
đổi số thuế thu nhập phải nộp trong từng năm.
Để hỗ trợ DNNVV, Nhà nƣớc nên cho phép các DNNVV thực hiện khấu hao
nhanh tài sản cố định để một mặt, các DNNVV có điều kiện tập trung, tích tụ vốn,
mặt khác thu hồi vốn nhanh vốn cố định sẽ giúp các DNNVV có điều kiện đầu tƣ
chiều sâu, đổi mới máy móc, trang thiết bị và công nghệ hiện đại để sản xuất xuất
khẩu.
* Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
- Bộ Tài chính cần nghiên cứu, xem xét giảm tối đa các mặt hàng phải chịu
thuế xuất khẩu, chỉ áp dụng thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng thô để khuyến
khích xuất khẩu hàng đã qua chế biến, đặc biệt là chế biến sâu, hàng chứa hàm
lƣợng kỹ thuật, công nghệ cao. Nhờ khai thông các quy định về kinh doanh, tháo bỏ
các rào cản, tăng cƣờng các biện pháp khuyến khích, đặc biệt là các biện pháp tài
chính nên số lƣợng các DNNVV đăng kí xuất khẩu tăng nhanh.
- Biểu thuế xuất nhập khẩu cần chi tiết hơn để cán bộ hải quan, doanh nghiệp
không lúng túng trong việc áp mã số hàng hóa, từ đó suy ra mức thuế xuất nhập
khẩu chính xác, hợp lý.
85
- Đẩy mạnh thủ tục hải quan là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải
cách hành chính trong ngành tài chính. Hồ sơ hải quan vẫn theo mẫu thiết kế chung
cho tất cả các loại hàng hóa, chƣa có quy định đặc thù cho từng loại hàng hóa, các
chỉ tiêu kê khai trong tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu vẫn còn nhiều. Bên cạnh
đó, phải cải thiện trình độ và thái độ làm việc của cán bộ hải quan, minh bạch hóa
quy trình, thủ tục, lành mạnh và trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, kiên quyết phòng
chống tiêu cực, có nhƣ vậy hệ thống hải quan mới thực hiện đúng nhiệm vụ của
mình và thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa thông suốt, góp phần hỗ trợ doanh
nghiệp, đặc biệt là các DNNVV.
Cơ quan hải quan kiến nghị rà soát biểu thuế nhập khẩu ƣu đãi hiện hành
nhằm hạn chế gian lận thƣơng mại trong phân loại và áp mức thuế suất. Ngoài ra,
cơ quan hải quan còn đề xuất sửa đổi thủ tục hải quan nhằm mục đích thuận lợi cho
xuất nhập khẩu, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, công chức hải quan
* Thuế giá trị gia tăng
- Áp dụng thuế suất 0% và hoàn thuế GTGT nhập khẩu nguyên liệu đầu vào
với cả đối tƣợng là hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó cần đẩy
nhanh việc hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu của các DNNVV vì các doanh
nghiệp luôn trong tình trạng thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất
khẩu. Tuy nhiên thực hiện giải pháp này sẽ khó khăn trong quản lý, Chính phủ cần
sớm có quy định, hƣớng dẫn cụ thể để có cơ sở áp dụng thống nhất, minh bạch,
công bằng.
- Phải thống nhất đơn giản hóa các thủ tục, phƣơng pháp tính thuế, hoàn thuế.
Theo quy định, việc hoàn thuế GTGT chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh nộp
thuế GTGT theo phƣơng pháp khấu trừ trong một số trƣờng hợp, với các nguyên tắc
khác nhau tùy theo tính chất hoạt động và theo đối tƣợng tính thuế. Việc áp dụng
các quy định này đã tạo ra sự phức tạp trong chính sách, đôi khi tạo điều kiện lạm
dụng trong việc hoàn thuế.
Thuế GTGT áp dụng đồng thời hai phƣơng pháp tính thuế là phƣơng pháp
khấu trừ và phƣơng pháp trực tiếp. Việc sử dụng cả hai phƣơng pháp tính thuế
GTGT nhƣ vậy hầu nhƣ luôn gây bất lợi cho các doanh nghiệp nhỏ vì các doanh
86
nghiệp này không lƣu số sách kế toán và không có hóa đơn GTGT (nghĩa là không
áp dụng đƣợc phƣơng pháp khấu trừ), giảm khả năng thực hiện công việc kinh
doanh của họ, tạo lợi thế bất lợi trong cạnh tranh, nhất là về giá cả so với các doanh
nghiệp lớn. Việc sử dụng hai phƣơng pháp tính thuế dẫn đến sử dụng đồng thời hai
loại hóa đơn (hóa đơn giá trị gia tăng và hóa đơn thƣờng), theo đó, chỉ hàng hóa và
dịch vụ mua vào có hóa đơn GTGT mới đƣợc dùng làm căn cứ khấu trừ thuế GTGT
đầu vào, nhƣ vậy, sẽ tạo sự không bình đẳng mà bất lợi thuộc về các đối tƣợng kinh
doanh nhỏ.
3.1.1.2. Các chính sách về đầu tƣ:
Cần xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích hoạt động xuất khẩu của
các Quỹ đầu tƣ mạo hiểm.
- Hoàn thiện thể chế pháp luật về đầu tƣ: Ở khu vực Đông Nam Á nói chung
và Việt Nam nói riêng, vốn mạo hiểm vẫn còn tƣơng đối mới mẻ, nhƣng nhìn chung
đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể trong việc khuyến khích khu vực tƣ nhân phát
triển. Tuy nhiên, để quỹ mạo hiểm thực sự trở thành công cụ hữu ích trong quá trình
huy động vốn đầu tƣ cho các DNNVV, trong thời gian tới Chính phủ cần phải thiết
lập một khung khổ pháp lý, thể chế ổn định cho hoạt động của tổ chức tài chính phi
ngân hàng trong nƣớc và quốc tế, xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt
động của thị trƣờng chứng khoán.
Một thị trƣờng chứng khoán phát triển đầy đủ và một hệ thống toàn diện sẽ tạo
cơ hội cho các DNNVV huy động vốn cổ phần dài hạn thông qua phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng và niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán. Điều này sẽ
giúp các công ty có đủ khả năng tiếp cận vốn dài hạn cho đầu tƣ hơn là nguồn vốn
sẵn có thông qua tín dụng ngân hàng thông thƣờng, qua đó giúp họ cân bằng nợ và
vốn cổ phần.
- Hình thành và phát triển sàn giao dịch riêng cho DNNVV sẽ là công cụ hiệu
quả giúp các cá nhân và tổ chức đầu tƣ cổ phiếu trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào các
DNNVV ở Việt Nam. Việc thúc đẩy loại hình vốn cổ phần trở thành phƣơng thức
huy động vốn dài hạn cho DNNVV lớn sẽ giúp giải phóng tín dụng cho các
DNNVV nhỏ hơn.
87
Nhƣ vậy, cùng với giải pháp hoàn thiện hoạt động của thị trƣờng chứng khoán
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm, một môi
trƣờng đầu tƣ đƣợc cải thiện và minh bạch hơn cũng sẽ giúp cho Việt Nam trở
thành một điểm đến hấp dẫn với dòng đầu tƣ cổ phần từ nƣớc ngoài vào trong nƣớc.
Những dòng đầu tƣ này sẽ là một yếu tố ngày càng quan trọng đối với phát triển
khu vực DNNVV tăng trƣởng và hoạt động hiệu quả để có thể cạnh tranh cả trên thị
trƣờng quốc tế lẫn thị trƣờng nội địa ít đƣợc bảo hộ hơn.
3.1.1.3. Các chính sách tài chính tín dụng
* Tín dụng ngân hàng
- Thứ nhất, cần linh hoạt hơn trong chính sách tín dụng ƣu đãi. Diễn biến
chính sách từ thắt chặt tiền tệ đến nới lỏng khiến những trở ngại trong tiếp cận vốn
của DNNVV cũng thay đổi không ngừng. Lãi suất quá cao cũng nhƣ những khó
khăn về điều kiện thế chấp và xét duyệt cho vay luôn là rào cản hàng đầu đối với
các doanh nghiệp. Các ngân hàng hiện nay quá chú trọng đến mức độ an toàn và
tuân thủ cứng nhắc các nguyên tắc nên thủ tục cho vay đã chƣa minh bạch nay càng
trở nên phức tạp đối với các doanh nghiệp. Thậm chí trong bối cảnh có nhiều rủi ro
tiềm ẩn, các ngân hàng càng thẩm định kỹ hơn, xem xét kỹ báo cáo tài chính, báo
cáo chu chuyển tiền tệ, lịch sử thanh toán, khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, thu
nhập tƣơng lai... Trong khi đó các ngân hàng cũng lo ngại do họ chỉ đƣợc hoàn trả
80% tiền hỗ trợ lãi suất đến hết năm 2009, 20% còn lại phải chờ thanh tra, nếu có
sai phạm trừ luôn 20% vào các khoản thuế phải nộp nên các ngân hàng cũng có
phần dè dặt trong các gói cho vay ƣu đãi.
- Thứ hai, cần phối hợp cho vay ƣu đãi với nhiều biện pháp hỗ trợ khác trong
một chỉnh thể đồng bộ và có định hƣớng rõ ràng. Theo nghiên cứu của Diễn đàn
phát triển Việt Nam, gói kích cầu mới chỉ chú trọng đến hỗ trợ sản xuất là chƣa đủ,
cần có giải pháp hỗ trợ thị trƣờng, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu, kích
thích tiêu dùng. Đồng thời với cho vay doanh nghiệp trực tiếp sản xuất cần đẩy
mạnh cho vay tiêu dùng, kinh doanh bất động sản hay chứng khoán.
Ngày 23/01/2009, Chính phủ công bố gói kích thích kinh tế lần một với lãi
suất hỗ trợ 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa
88
là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Vốn vay này nhằm giúp doanh nghiệp
giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh, và tạo công ăn việc làm trong
điều kiện nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới.
Gói kích thích kinh tế lần hai đƣợc Chính phủ công bố hôm 06/04/2009 nhằm
cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp, song hƣớng vào các nguồn vốn trung và
dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng. Việc hỗ trợ lãi suất này đƣợc thực
hiện từ ngày 01/04/ 2009 đến hết ngày 31/12/2011.
Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia chỉ nên coi đây là giải pháp tạm thời,
nếu lạm dụng sẽ phát sinh tiêu cực, tạo cơ chế xin cho và tâm lý ỷ lại trong doanh
nghiệp.
- Thứ ba, cần minh bạch hóa gói kích thích kinh tế cho mọi đối tƣợng, mọi
thành phần cũng nhƣ các chủ thể của nền kinh tế sao cho phù hợp với các quy định
và cam kết quốc tế. Hỗ trợ lãi suất sẽ đẩy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đứng trƣớc
nguy cơ có thể bị áp thuế chống trợ cấp khi hàng đƣợc xuất sang các nƣớc khác.
Doanh nghiệp đƣợc sử dụng khoản vốn này dù là đầu tƣ hạ tầng, máy móc thiết bị
hay sản xuất tiếp hàng xuất khẩu cũng đều đƣợc coi là bằng chứng để đối tác nƣớc
ngoài kiện lại. Do đó, Nhà nƣớc phải có cơ chế quản lý rõ ràng để chống hiện tƣợng
lạm dụng nhƣ ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau tạo ra khoản vay ảo với lãi
suất hỗ trợ, sau đó lại cho vay kiếm lời hay hiện tƣợng doanh nghiệp lạm dụng vay
nhƣng lại không đầu tƣ theo cam kết mà dùng để trả nợ, đáo hạn rồi gửi lại ngân
hàng hƣởng lãi. Nhà nƣớc cần minh bạch hóa gói kích cầu, đối với hoạt động tín
dụng, giám sát bao giờ cũng là công việc khó khăn vì luôn bất cân xứng về thông
tin, ngƣời vay thƣờng đƣa ra các dự án với những dự định rất khả thi, trong khi
ngƣời cho vay không có nhiều cơ sở để thẩm định ngƣời vay tiền của mình làm gì,
hiệu quả ra sao.
- Thứ tƣ, tìm ra một giải pháp hợp lý để quản lý vấn đề đảo nợ. Một vấn đề bất
cập có thể kể đến nhƣ một ví dụ tiêu biểu cho sự mâu thuẫn giữa chính sách và thực
tế áp dụng đó là vấn đề đảo nợ của DNNVV. Rất nhiều doanh nghiệp còn tồn đọng
nợ xấu trong điều kiện hiện tại, không có khả năng thế chấp cho dù là vay với lãi
89
suất ƣu đãi. Xuất khẩu khó khăn chồng chất, sau hai tháng đầu năm 2009, cả nƣớc
xuất siêu gần 300 triệu USD, nhƣng không tránh khỏi những mối lo ngại hiện hữu.
Việc đảo nợ có thể giúp doanh nghiệp trả nợ cũ với lãi suất cao, giảm gánh nặng tài
chính và giúp ngân hàng hạn chế nợ xấu, từ đó doanh nghiệp có thể vay mới, ít nhất
để có thể duy trì hoạt động. Còn phía ngân hàng có thể tránh đƣợc những hậu quả
có thể có của nợ xuất nếu doanh nghiệp không hết nợ và vẫn tiếp tục huy động vốn
để cho vay mới, dù chƣa phải là nhiều nếu xét tổng lƣợng tín dụng trong nền kinh tế.
Tuy nhiên Ngân hàng Nhà nƣớc thực hiện theo quy định cho vay tín dụng thông
thƣờng, nếu số lƣợng doanh nghiệp đảo nợ quá nhiều sẽ khó có thể cân bằng đƣợc
tài chính.
* Bảo lãnh tín dụng
Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009 đã khắc phục đƣợc những
vƣớng mắc đối với DNNVV trong quá trình tiếp cận chính sách bảo lãnh tín dụng.
Theo đó, doanh nghiệp có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dƣới 1000 lao
động đều đƣợc Ngân hàng phát triển Việt Nam bảo lãnh tín dụng. Quy định này tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động thuộc ngành dệt may, da
giày... có điều kiện đƣợc bảo lãnh tín dụng. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn
cho các doanh nghiệp nhỏ hoặc các hợp tác xã trong việc xây dựng những dự án khả
thi để đƣợc bảo lãnh tín dụng. Chính vì vậy, cần có một bộ phận tƣ vấn về dự án tốt
cần những yêu cầu gì, hoặc có thể đƣa ra những tiêu chí căn bản để doanh nghiệp
nắm đƣợc khi xây dựng dự án trƣớc khi tìm đến ngân hàng.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chuẩn vay vốn bảo lãnh
nhƣng lúng túng, không nắm chắc chính sách kiến thời gian kéo dài. Đặc biệt khi sổ
sách kế toán không đáp ứng đủ điều kiện thì việc giải ngân cũng gặp khó khăn, dẫn
đến tình trạng bảo lãnh tín dụng chậm đi vào thực tiễn và phát huy hiệu quả. Do đó,
Nhà nƣớc cần tăng cƣờng các biện pháp tuyên truyền, làm cầu nối giữa doanh
nghiệp và ngân hàng. Doanh nghiệp sẵn sàng cung cấp các chỉ số tài chính và ngân
hàng tin tƣởng hơn vào doanh nghiệp. Từ đó, mối quan hệ tín dụng giữa doanh
nghiệp và ngân hàng đƣợc cải thiện cũng nhƣ việc vay vốn thuận lợi và hiệu quả
hơn.
90
* Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
- Thứ nhất, tiến tới thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bộ Công
thƣơng phối hợp với Bộ Tài chính xúc tiến lên kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong bối cảnh VND
cũng nhƣ nhiều đồng tiền mạnh trên thế giới có những diễn biến bất thƣờng.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một hình thức hỗ trợ hiệu quả cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, vừa phù hợp với quy định của WTO, vừa đảm bảo giúp các
doanh nghiệp yên tâm, phòng ngừa rủi ro. Đây là hình thức phố biến trên thế giới
nhƣng lại còn khá mới mẻ với Việt Nam. Các DNNVV xuất khẩu của Việt Nam còn
chƣa nhận thức đƣợc hết rủi ro trong giao dịch quốc tế, trong khi các chính sách
điều hành tỷ giá hối đoái của hệ thống ngân hàng chƣa theo kịp diễn biến thị trƣờng.
Công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ra đời sẽ thay thế cho các hình thức hỗ trợ
xuất khẩu nhƣ thƣởng thành tích xuất khẩu, thƣởng vƣợt kim ngạch xuất khẩu và
các chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu [34].
- Thứ hai, ta cần thiết lập hệ thống chính sách pháp luật nhất quán, phù hợp
với quy định thƣơng mại quốc tế đồng thời nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về
sự cần thiết cũng nhƣ tác dụng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu còn hạn chế là do áp lực chi phí, những cản trở khách quan về giá nguyên
liệu đầu vào hay chênh lệch tỷ giá... Ngoài nhận biết về rủi ro pháp lý quốc tế còn
hạn chế, nhiều nhà xuất khẩu trong nƣớc thậm chí còn không có khái niệm bảo
hiểm xuất khẩu là một loại chi phí nên không đƣa vào giá thành. Thiếu thông tin,
pháp luật không đồng bộ, dịch vụ kiểm toán chƣa đủ tin cậy, sổ sách của nhà xuất
khẩu tính minh bạch chƣa cao, thiếu công ty thu hồi nợ cũng làm cho các nhà bảo
hiểm nản lòng. Chính vì thế, để bảo hiểm tín dụng phát triển ở Việt Nam, phổ biến
và phát huy tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì bản thân ta
phải có hệ thống chính sách nhất quán, phù hợp với quy định quốc tế, đồng thời các
doanh nghiệp phải chủ động và tích cực tiếp cận với dịch vụ mới mẻ nhƣng cũng rất
hiệu quả này.
Tiểu kết:
91
Tóm lại, về hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển DNNVV là một vấn đề mới đối
với các cơ quan quản lý nhà nƣớc và chính quyền các cấp. Do vậy khó tránh khỏi
những bỡ ngỡ, khó khăn khi triển khai các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc. Có thể đƣa ra một số kiến nghị đối với Nhà nƣớc, cụ thể là với Chính phủ và
chính quyền các địa phƣơng nhƣ sau:
- Đổi mới sự hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với DNNVV theo hƣớng giảm tính hành
chính, mở rộng cơ hội tiếp cận sự hỗ trợ cho các đối tƣợng này. Đổi mới cơ chế
chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng sao cho nhanh
gọn, thuận tiện, kịp thời. Cải cách các thủ tục hành chính liên quan, giảm bớt các
phiền hà, tiêu cực, nhũng nhiễu từ một bộ phận cán bộ, công chức có thẩm quyền.
- Nâng cao chất lƣợng công tác xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cho
DNNVV thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật với các tiêu chí bảo đảm
tính kịp thời, đồng bộ, tập trung, nhất quán trong một tổng thể thống nhất.
- Tăng cƣờng hiệu quả việc việc thực thi chính sách, đảm bảo sự thống nhất và
gắn kết từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Tiến hành phân cấp sâu rộng và mạnh mẽ
cho các địa phƣơng với cơ chế kiểm tra chặt chẽ nhằm tạo sự bình đẳng trong cơ hội
tiếp cận vốn tín dụng, các chính sách ƣu đãi của Chính phủ giữa các doanh nghiệp ở
nông thôn, miền núi và thành thị, giữa quy mô của doanh nghiệp: vừa – nhỏ – siêu
nhỏ; giữa các hình thức sở hữu doanh nghiệp nhƣ doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, doanh nghiệp tƣ nhân... Có sự hƣớng dẫn cụ thể
và kịp thời cho các địa phƣơng trong việc triển khai các chính sách tài chính hỗ trợ
DNNVV thúc đẩy xuất khẩu vì những chính sách này mới, phức tạp, tránh sự lúng
túng của các địa phƣơng, bảo đảm quyền lợi cho các DNNVV.
- Nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ công chức thực thi nhiệm vụ quản lý
nhà nƣớc trong lĩnh vực này, chủ yếu trên hai phƣơng diện là năng lực chuyên môn
và đạo đức công vụ, xóa bỏ thái độ cửa quyền, vụ lợi, sách nhiễu, phiền hà, làm khó
cho doanh nghiệp, nhất là công chức các cấp chính quyền địa phƣơng chƣa làm hết
chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao.
- Nâng cao tính chính xác trong chính sách, dự báo, thống kê. Đây là cơ sở
quan trọng cho việc ban hành các chính sách quản lý vĩ mô cũng nhƣ có sự định
92
hƣớng quan trọng cho nền kinh tế nói chung, từng DNNVV nói riêng. Rất nhiều cơ
quan đƣa ra những con số, dự báo nhƣng không đầy đủ, thậm chí thiếu tính chính
xác, gây hoang mang cho doanh nghiệp, định hƣớng sai từ chính sách, phản ứng
tiêu cực từ thị trƣờng... Ví nhƣ cuộc khảo sát 163.673 DNNVV tháng 10/2008,
Ngân hàng Nhà nƣớc công bố có 3,8% doanh nghiệp gặp khó khăn, trong đó có
1,42% có khả năng mất vốn. Theo ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV
Việt Nam đã cho rằng con số đó không chính xác và có phần thiếu trách nhiệm. Một
thực tế là lãi suất ngân hàng tăng ở mức 21%/năm, lƣợng vốn thiếu đi gần một nửa
do khống chế tăng trƣởng tín dụng toàn hệ thống tháng 12/2008 ở mức 30% so với
hơn 50% thời điểm cuối năm 2007, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng, tình hình thế
giới và trong nƣớc biến động đã “rung chuyển”, điều đó cho thấy con số 3.8%
DNNVV gặp khó khăn là không hợp lý. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nƣớc cho rằng có
73,2% DNNVV hoạt động trung bình cũng là không đúng. Trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế, suy thoái nhƣ hiện nay, có nhiều yếu tố khách quan khó dự đoán
chính xác nên càng phải hết sức thận trọng trong dự báo, nhất là những dự báo lạc
quan thái quá để tránh những quyết sách vội vàng, thiếu cân nhắc đầy đủ mọi yếu tố
kinh tế, chính trị – xã hội. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng nhƣ của quốc gia.
- Nâng cao chất lƣợng tham mƣu, tƣ vấn, phản biện xã hội đối với điều hành,
quản lý vĩ mô, các dự án phát triển kinh tế – xã hội nhằm tránh những quyết định
thiếu cân nhắc, không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội.
- Mở rộng các kênh thông tin cho các DNNVV: Một chính sách đúng đắn
đƣợc đƣa ra phải đƣợc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi tới các cơ quan có liên quan,
tới từng doanh nghiệp một cách bình đẳng và thống nhất từ trung ƣơng đến địa
phƣơng. Muốn làm đƣợc việc đó không chỉ dừng lại ở minh bạch hóa thông tin,
minh bạch hóa chính sách, cải cách hành chính mà còn phải nâng cao chất lƣợng
cán bộ cơ sở, nhận thức của doanh nghiệp cũng nhƣ sự phối hợp đồng bộ của Nhà
nƣớc, địa phƣơng, các ngân hàng và doanh nghiệp.
- Linh hoạt và hợp lý hơn trong các quy định cụ thể. Kiến nghị đối với Ngân
hàng Nhà nƣớc là phải chỉ đạo điều hành theo hƣớng phân loại tín dụng cụ thể, cho
93
vay kịp thời, tập trung vào những đối tƣợng đang trụ vững trƣớc khó khăn và có khả
năng vƣơn lên. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp không có khả năng hoạt
động cũng nên giải quyết theo hƣớng giải thể, phá sản để ngân hàng bằng cách rút
vốn về. Riêng đối với tái cơ cấu thì có thể sáp nhập hoặc bỏ hay chuyển hƣớng mặt
hàng sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, một ngân hàng trƣớc đây cho vay dài hạn thì
nay tập trung cho vay ngắn hạn, hoặc một khoản vay trƣớc đây làm ăn tốt nhƣng
nay gặp rủi ro thì chuyển sang cơ cấu nợ khác. Thậm chí, nếu có nhu cầu mua bán,
chuyển nhƣợng nợ thì cũng nên giải quyết.
- Đẩy mạnh công tác định hƣớng, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn đúng
mục đích, đúng phƣơng pháp và đạt hiệu quả. Cần có cơ chế đối thoại giữa lãnh đạo
địa phƣơng, lãnh đạo trung uơng với doanh nghiệp thƣờng xuyên, phải có các cuộc
tiếp xúc hàng tháng, hàng quý. Có nhƣ vậy, những vƣớng mắc về thủ tục hành
chính, cơ chế đầu tƣ mới đƣợc tháo gỡ kịp thời, không để lỡ những cơ hội quý báu
cho doanh nghiệp hoạt động. Càng trong khó khăn thì việc gặp gỡ càng cần thiết để
giải quyết những điểm nóng về khó khăn cho doanh nghiệp. Ngƣợc lại, qua tiếp xúc,
đối thoại, cơ quan quản lý có những nhận thức cụ thể và chính xác về doanh nghiệp
hơn, từ đó có sự kiểm tra, theo dõi sát tình hình hoạt động cũng nhƣ những vƣớng
mắc của doanh nghiệp để đề ra biện pháp quản lý cũng nhƣ những chính sách, biện
pháp giúp đỡ kịp thời.
Việc ban hành các chính sách hỗ trợ đúng lúc, kịp thời, đúng nơi, đúng chỗ đã
khó, nhƣng việc đƣa các chính sách vào thực hiện một cách có hiệu quả, đúng với
chủ trƣơng từ trung ƣơng đến địa phƣơng một các thống nhất và thông suốt là một
bài toán nan giải, cần có sự phối hợp của các cơ quan chức năng, các bộ ban ngành,
đoàn thể, các chính quyền địa phƣơng tới từng doanh nghiệp. Mỗi một chính sách,
một văn bản đƣợc ban hành phải đƣợc đƣa đến cơ sở, các cơ quan ban ngành có liên
quan, hƣớng dẫn và giám sát thực hiện một cách cụ thể và nghiêm túc, có nhƣ vậy,
chủ trƣơng mới đến đƣợc với nhân dân và phát huy hiệu quả đích thực nhƣ mong
muốn.
Trong một tƣơng lai gần, DNNVV sẽ là nòng cốt của nền kinh tế với những
bƣớc vƣơn lên và phát triển mạnh mẽ. Chính vì thế, Nhà nƣớc cần chia sẻ nguồn
94
đầu tƣ cho kinh tế Nhà nƣớc với DNNVV, đƣa các chƣơng trình trợ giúp đến đƣợc
với DNNVV, triển khai một cách đồng bộ các biện pháp hỗ trợ, tập trung vào khâu
bồi dƣỡng đào tạo. Tăng cƣờng hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ, tƣ vấn
và chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin thị trƣờng, xúc tiến thƣơng mại và
xây dựng thƣơng hiệu. Việc giải cứu thị trƣờng, kích cầu nền kinh tế là biện pháp
mang tầm vĩ mô, nhƣng nếu nó không xuất phát từ bản thân từng doanh nghiệp,
từng ngành, từng địa phƣơng thì nó không thể vực dậy tổng thể cả một nền kinh tế.
Một thành viên, một bộ phận nào còn yếu kém, còn tách rời tổng thể thì không thể
có một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh đƣợc.
3.3.2. Kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại
Thời gian gần đây, cụm từ DNNVV đƣợc nhắc đến rất nhiều, trở nên quen
thuộc hơn, điều đó thể hiện sự quan tâm, chú trọng và nhận thức đúng vai trò, chức
năng và nhiệm vụ của thành phần kinh tế này của Đảng và Chính phủ. Doanh
nghiệp là nơi cung cấp đầu vào và đầu ra cho ngân hàng. Khi doanh nghiệp mở tài
khoản, ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng, do đó đây chính là đầu ra cho
ngân hàng. Ngƣợc lại, ngân hàng không chỉ là nói cung cấp tín dụng mà còn giúp
đƣa ra các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa hai đối tƣợng
này là tƣơng hỗ và đồng thuận. Vì vậy, ngân hàng muốn phát triển lâu dài và bền
vững thì không thể thiếu doanh nghiệp. Ngân hàng và doanh nghiệp là đối tác luôn
song hành cùng nhau.
Trong gói giải pháp hỗ trợ tài chính cho DNNVV thì ngân hàng thƣơng mại
đóng vai trò trung gian, là địa chỉ tin cậy mà thông qua đó, Chính phủ sẽ ban hành
và triển khai các giải pháp tài chính nhằm cứu trợ, kích cầu nền kinh tế, thúc đẩy
xuất khẩu, đảm bảo an sinh xã hội và cải thiện. Ngân hàng thƣơng mại vừa tiến
hành kinh doanh, thu lợi nhƣng đồng thời cũng gánh trọng trách thực hiện chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Chính phủ thông qua những biện pháp tài chính kích
thích kinh tế nhƣ hỗ trợ lãi suất, vay ƣu đãi, bảo lãnh tín dụng, chính sách tỷ giá hối
đoái... Ngân hàng thƣơng mại trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống tài
chính, trong dây chuyền Chính phủ – ngân hàng – doanh nghiệp.
95
- Thứ nhất, đẩy mạnh việc thành lập và vận hành quỹ bảo lãnh tín dụng vay
vốn, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về
tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay
trung và dài hạn với lãi suất ƣu đãi đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Tuy
nhiên, để quỹ này hoạt động tốt cần có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của quỹ
với cơ quan tín dụng và doanh nghiệp cũng nhƣ làm rõ cơ chế quản lý, điều hành
quỹ để tránh tình trạng nảy sinh một loạt khâu trung gian giữa DNNVV và Ngân
hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch kinh doanh.
- Thứ hai, ngân hàng điều chỉnh chính sách thế chấp đối với các khoản vay, tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các DNNVV. Hiện nay có tất nhiều DNNVV nói chung
và DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng, không thể vay vốn
ngân hàng vì không có tài sản thế chấp. Do đó, các ngân hàng đã áp dụng cho doanh
nghiệp dùng tài sản đƣợc hình thành từ các khoản vay, hoặc dùng hàng hóa xuất
khẩu làm tài sản thế chấp, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn không đáp ứng đƣợc
yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp. Trong những trƣờng hợp nhất định, ngân
hàng và giá trị của các dự án kinh doanh tốt để cho vay cùng với những doanh
nghiệp giám sát việc thực hiện sản xuất, kinh doanh và hợp đồng xuất khẩu đã kí
kết để giảm thiểu rủi ro cho các khoản tín dụng, đồng thời doanh nghiệp vẫn có vốn
để đầu tƣ, sản xuất, thực hiện hợp đồng với đối tác nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp
này, ngân hàng coi bản kế hoạch kinh doanh khả thi đó là tài sản thế chấp, thay thế
cho các loại tài sản khác.
Các ngân hàng thƣơng mại mở rộng cung cấp tín dụng hoặc góp vốn vào các
DNNVV cùng hợp tác kinh doanh bởi luôn một thực tế là các DNNVV mà đặc biệt
là các doanh nghiệp siêu nhỏ còn hạn chế trong việc tiếp cận tín dụng. Khi đó, các
ngân hàng sẽ phát huy một cách tốt nhất vai trò tƣ vấn cho doanh nghiệp, đồng thời
theo dõi giám sát sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các DNNVV khi đƣợc ngân hàng
thƣơng mại góp vốn cũng sẽ gặp thuận lợi và dễ dàng đƣợc ngân hàng cho vay khi
thiếu vốn hoặc ngân hàng bảo lãnh cho vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
Các ngân hàng đảm bảo các biện pháp hỗ trợ tài chính đƣợc áp dụng một cách
bình đẳng, các DNNVV khu vực tƣ nhân đƣợc áp dụng không phân biệt đối xử với
96
các loại hình doanh nghiệp trong vay vốn ngân hàng. Trong quá trình đƣa ra và thực
hiện các quy định để đảm bảo sự an toàn của đồng vốn, không nên đồng nhất ràng
buộc chặt chẽ việc chấp hành đúng quy định, nguyên tắc bởi thái độ cửa quyền
phiền toái đối với khách hàng. Để giúp các DNNVV khắc phục khó khăn về vốn để
sản xuất, xuất khẩu đồng thời đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng, các ngân hàng
cần nắm bắt thông tin của khách hàng từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó các
ngân hàng cũng cần minh bạch hóa thông tin, công khai các chƣơng trình ƣu đãi,
các sản phẩm tín dụng mới tới tất cả các khách hàng. Qua đó có thể tƣ vấn cho các
DNNVV các thức xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, xuất khẩu khả
thi, quản lý tốt đồng vốn, tạo uy tín lớn đối với khách hàng nƣớc ngoài, đảm bảo
tránh đƣợc những rủi ro có thể nảy sinh trong hoạt động xuất khẩu. Lúc đó, ngân
hàng thực sự trở thành ngƣời bạn đồng hành cùng chia sẻ khó khăn, rủi ro trong
kinh doanh xuất khẩu của DNNVV, tránh tình trạng ngân hàng không giải ngân
đƣợc vốn, trong khi các DNNVV lại thiếu vốn để đầu tƣ sản xuất, đẩy mạnh xuất
khẩu nhƣ thời gian qua.
3.3.3. Kiến nghị đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp là đối tƣợng trợ giúp, ƣu tiên hàng đầu, là trung tâm của gói
kích cầu nền kinh tế mà Nhà nƣớc đang hƣớng tới trong thời điểm hiện nay. Tuy
nhiên, bản thân doanh nghiệp cũng cần nhận thức rõ ràng khó khăn của mình, đồng
thời phát huy tối đa thế mạnh, năng lực của mình, khắc phục khó khăn, tự chủ, sáng
tạo, chủ động tiếp cận các biện pháp trợ giúp của Chính phủ sao cho đúng mục đích,
kịp thời....
- Thứ nhất, các DNNVV cần chủ động, tích cực tiếp cận và khai thác tốt cơ
chế chính sách hỗ trợ tài chính của Chính phủ. DNNVV không đủ điều kiện để tính
toán và cân nhắc mức độ rủi ro, tổn thất nhƣ các doanh nghiệp lớn, đôi khi cũng
chƣa đủ khả năng để sử dụng các công cụ phái sinh nhƣ Forwards, future, options,
swaps để hạn chế và phòng ngừa rủi ro do chi phí thực hiện rất cao, thậm chí có khi
còn cao hơn cả tổn thất nếu rủi ro xảy ra.
Đối với rủi ro lãi suất, giải pháp trƣớc hết là doanh nghiệp cần tìm và tận
dụng những khoản vay dài hạn với lãi suất ƣu đãi qua Ngân hàng Phát triển Việt
Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, các quỹ đầu tƣ do Nhà nƣớc, địa phƣơng thành
97
lập hay các chƣơng trình mục tiêu của Nhà nƣớc... Những nguồn vay đó có lãi suất
ổn định, thấp do đó có thể phòng ngừa và hạn chế đƣợc rủi ro lãi suất. Ngoài ra,
doanh nghiệp không nên quá phụ thuộc vào vốn vay ƣu đãi hỗ trợ lãi suất mà cần
chủ động tìm kiếm những công cụ hỗ trợ khác nhƣ bảo lãnh tín dụng, quỹ đầu tƣ
mạo hiểm, cho vay thuê tài chính hay các công cụ tuyên truyền sao cho có hiệu quả
hơn. Bảo lãnh tín dụng là một kênh hỗ trợ quan trọng cho doanh nghiệp vay vốn,
nhất là doanh nghiệp khởi sự, thiếu tài sản, hay thuê mua tài chính với ƣu điểm
không cần ký quỹ đảm bảo thế chấp, có thể tài trợ đến 100% vốn đầu tƣ, lãi suất
thỏa thuận giữa hai bên và bên đi thuê không chịu rủi ro lãi suất của thị trƣờng...
- Thứ hai, DNNVV cần phải xem công tác quản trị là xƣơng sống để phát
triển doanh nghiệp. DNNVV hiện nay phải đối mặt với rất nhiều thách thức về môi
trƣờng kinh doanh, đồng thời gặp nhiều khó khăn về tiếp cận nguồn lực cần thiết
nhƣ sử dụng đất, vay vốn trung và dài hạn, công nghệ và đào tạo... do đó, bản thân
doanh nghiệp quản trị tốt, chiến lƣợc phát triển đúng đắn, nguồn lực tận dụng và
phát huy tối đa hiệu quả thì mới có khả năng phát triển và tăng trƣởng đƣợc. Quản
trị là đặt ra các mục tiêu, định hƣớng, chiến lƣợc hành động cho toàn doanh nghiệp.
Các nhà lãnh đạo DNNVV hiện nay còn ít quan tâm đến công tác quản trị doanh
nghiệp, quản trị công ty mà tập trung vào các vấn đề quản lý nên không đƣa ra đƣợc
cái nhìn tổng thể về chiến lƣợc phát triển doanh nghiệp, thậm chí còn có cái nhìn sai
lầm. ở các doanh nghiệp nhỏ thƣờng kết hợp công việc quản trị – quản lý nhằm tiết
kiệm chi phí. Khi đó, ngƣời quản trị cũng phải lo các công việc quản lý hàng ngày,
tình trạng này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn hoặc thiếu tập trung trong công việc nếu nhƣ
nhà quản trị không có ý thức rõ ràng về trách nhiệm và sự tách bạch trong tính chất
công việc. Có tới 85% doanh nghiệp Việt Nam không có chiến lƣợc hoạt động quá
hai năm, hầu hết họ chỉ xác định sản phẩm hoặc dịch vụ của mình là gì, còn doanh
nghiệp đang đứng ở đâu, sản phẩm ở vị trí nào trên thị trƣờng, doanh nghiệp của
mình sẽ nhƣ thế nào trong tƣơng lai thì doanh nghiệp quan tâm chƣa nhiều.
Nhƣ vậy, muốn doanh nghiệp quản trị thật sự hiệu quả, tốt nhất nên tách
bạch hai vị trí quản lý và quản trị riêng biệt. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ phải trả chi
phí lớn hơn cho cả hai vị trí này, chƣa kể việc điều chỉnh sao cho hai vị trí phối hợp
tốt đƣợc với nhau cũng không hề đơn giản. Do đó việc tách biệt này chỉ có thể áp
98
dụng ở những công ty lớn, quy mô tầm cỡ, nhiều bộ phận, nhiều hoạt động mà
ngƣời lãnh đạo không thể nắm bắt hết mọi hoạt động quản lý hàng ngày. Còn ở các
DNNVV của Việt Nam, thì việc kết hợp quản lý và quản trị là phổ biến và phù hợp
nhƣng phải hiểu và thực hiện tốt cả hai việc, nhất là công tác quản trị doanh nghiệp
thì mới đƣa doanh nghiệp phát triển thành công. Trong nền kinh tế thị trƣờng xu
hƣớng hội nhập hiện nay, mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp là duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, duy trì và mở rộng
thị phần, hƣớng tới xuất khẩu. Để thực hiện việc này thành công, thì ngƣời điều
hành doanh nghiệp phải giỏi về quản trị, xây dựng chiến lƣợc phát triển doanh
nghiệp, nhạy bén với tín hiệu thị trƣờng, kiểm soát đƣợc rủi ro, xác định đƣợc mô
hình tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có mục tiêu chiến lƣợc rõ ràng, nhƣ vậy kết hợp với các biện pháp hỗ trợ tài
chính của Chính phủ, đó là những điều kiện tiên quyết và vững chắc để DNNVV có
nhiều cơ hội phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu, theo
đúng định hƣớng và mục đích của Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra.
Doanh nghiệp phải thƣờng xuyên kiểm tra các khoản nợ, duy trì khả năng
thanh toán đúng hạn, đồng thời xây dựng cơ cấu tài chính hợp lý, cân đối về tỷ lệ
vốn vay/ vốn chủ sở hữu để đảm bảo khả năng trả nợ. Trƣớc khi vay, doanh nghiệp
cần nghiên cứu kỹ khả năng trả nợ, hoạch định nguồn trả, thanh toán trả và lãi suất
hợp lý, tránh tình trạng vay mƣợn bằng mọi giá. Đồng thời, khi có điều kiện Doanh
nghiệp phải thanh toán sớm các khoản nợ để giảm chi phí, đồng thời có điều kiện
tốt để quản lý các khoản nợ còn lại, từ đó giảm rủi ro.
Cuối cùng doanh nghiệp cần phải xác định cho mình quy mô hoạt động phù
hợp với mô hình và khả năng quản trị của doanh nghiệp, từ đó có chiến lƣợc và kế
hoạch quản trị doanh nghiệp hợp lý.
- Thứ ba, doanh nghiệp cần tiến tới sử dụng nhiều hơn các dịch vụ ngân hàng,
nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần hợp tác với ngân hàng
ngay từ giai đoạn đầu chứ không chỉ khi cần vốn mới tìm đến ngân hàng. Một
doanh nghiệp không biết tận dụng các dịch vụ ngân hàng thì đó là một doanh
nghiệp chƣa thực sự mạnh. Sự phát triển của ngành ngân hàng trong thời gian gần
99
đây mang lại nhiều tiện ích cho các khách hàng doanh nghiệp. Do vậy, doanh
nghiệp cần hiểu và sử dụng chúng để phục vụ tối đa cho hoạt động của mình.
- Thứ tƣ, doanh nghiệp cần đánh giá đúng đắn các vấn đề tài chính. DNNVV
Việt Nam thƣờng đầu tƣ lớn về sản xuất, marketing, bán hàng... mà lại lơ là vấn đề
tài chính hoặc quy đổi trách nhiệm cho bộ phận kế toán. Họ cần phải nhận thức đầy
đủ và chính xác thế nào là cơ cấu nguồn vốn, sự lƣu chuyển của dòng tiền, hiệu quả
sử dụng dòng vốn... Đây là những vấn đề cơ bản và quan trọng trong tài chính
doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn hay mắc các vấn đế về nhân sự, thiếu
giám đốc tài chính hoặc đánh đồng nhiệm vụ của kế toán trƣởng với giám đốc tài
chính. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán thiếu minh bạch ảnh hƣởng lớn đến đánh giá
tài chính. Một nhƣợc điểm cơ bản của khối DNNVV là sự phiêu lƣu mạo hiểm
trong đầu tƣ, vay nợ nhiều nhƣng lại thiếu các giải pháp tài chính đúng đắn. Do vậy,
một kiến nghị nữa đối với bản thân mỗi doanh nghiệp đó là phải đánh giá đúng các
vấn đề tài chính, từ đó đƣa ra những giải pháp tài chính hợp lý, kịp thời. Nhƣ vậy,
bản thân doanh nghiệp mới hoạt động đúng hƣớng, có hiệu quả và các biện pháp hỗ
trợ tài chính của Chính phủ mới phát huy tác dụng, đến đƣợc đúng nơi, đúng lúc và
đúng cách, mọi nguồn lực mới đƣợc tận dụng một cách tối đa.
- Thứ năm, đó là bản thân mỗi DNNVV phải phát huy tinh thần độc lập, tự
chủ, tránh tƣ tƣỏng trông chờ, thụ động, phụ thuộc vào sự ƣu đãi, hỗ trợ hay sự trợ
cấp từ bên ngoài. Tự thân doanh nghiệp phải có năng lực, phải có chiến lƣợc phát
triển hợp lý, đúng đắn, có những điều kiện nguồn lực cần thiết, có chế độ quản trị
chặt chẽ, đúng hƣớng... kết hợp với những trợ giúp, ƣu đãi từ Nhà nƣớc, các tổ chức,
đoàn thể thì sự phát triển mới bền vững và hiệu quả đƣợc. Trong quá trình hoạt
động, mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình phƣơng châm hoạt động đó là tôn
trọng trung thực, minh bạch hoá thông tin, đặc biệt là ở chế độ kế toán, sổ sách, kê
khai thuế cũng nhƣ tình trạng hoạt động thực sự của doanh nghiệp... Có nhƣ vậy sự
vận hành của doanh nghiệp mới lành mạnh, tăng trƣởng mới bền vững, đi đúng
đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, qua đó Chính phủ và các tổ chức có
liên quan mới đƣa ra những chính sách phù hợp, đúng đắn và kịp thời, tác động
ngƣợc trở lại đối với doanh nghiệp. Nhất là trong giai đoạn kinh tế khó khăn nhƣ
100
hiện nay, bất cứ một động thái, một chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc cũng có
ảnh hƣởng nhanh chóng đến thị trƣờng, đến hoạt động của các doanh nghiệp.
- Thứ sáu, các DNNVV cần liên kết, hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh
chống rủi ro, quan hệ hỗ trợ nhau vay vốn nhàn rỗi, đối phó với rủi ro tỷ giá hay
biến động giá cả... Các hiệp hội, các câu lạc bộ doanh nghiệp có vai trò hết sức quan
trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các chính sách, tƣ vấn và trợ giúp về
mặt pháp lý, liên kết nhau lại để sử dụng các công cụ phái sinh nhằm phòng ngừa
rủi ro.
101
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, nhận thức một cách sâu sắc đƣợc vai trò của khu vực
DNNVV trong nền kinh tế cũng nhƣ xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho đối tƣợng này, trong
đó có hệ thống các chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV để thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu. Đây là một chủ trƣơng đúng đắn, tích cực và kịp thời, thể hiện sự nhạy
bén, chủ động của Nhà nƣớc ta.
Sự phát triển mạnh mẽ và linh hoạt của khu vực DNNVV trong thời gian qua
cho thấy các chính sách này đã đi vào cuộc sống và phát huy đƣợc tác dụng của
mình, nhằm tạo đà cho các doanh nghiệp tiếp cận đƣợc nguồn vốn tín dụng ƣu đãi,
giảm chi phí của hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu, từ đó mang đến cơ hội
cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động, đối phó với khủng hoảng kinh tế đồng thời
nâng cao lợi thế cạnh tranh và khẳng định vị thế của mình trên trƣờng quốc tế.
Hệ thống chính sách ƣu đãi mà Nhà nƣớc đã ban hành cho DNNVV nhìn
chung khá toàn diện, hợp lý và kịp thời, đáp ứng đƣợc yêu cầu của công tác quản lý
kinh tế vĩ mô của Nhà nƣớc, hoạt động của bản thân các doanh nghiệp cũng nhƣ
thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên trong quá trình
triển khai các chính sách, đã nảy sinh khá nhiều những vƣớng mắc, những vấn đề
bất cập cần có một hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện các chính sách này, giúp
nó đi vào thực tiễn một cách đồng bộ, thuận lợi và linh hoạt, phát huy đƣợc tối đa
tác dụng đối với doanh nghiệp theo đúng mục tiêu đề ra.
Trên cơ sở đó, khóa luận đã đƣa ra một số kiến nghị cho các đối tƣợng liên
quan từ cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền – là chủ thể quản lý nhà nƣớc, các ngân
hàng thƣơng mại – là đơn vị có liên quan để triển khai các chính sách này đến các
doanh nghiệp - đối tƣợng trực tiếp hƣởng lợi từ các ƣu đãi trên. Các kiến nghị này
đƣợc đề cập trên những nội dung cụ thể để các chủ thể chủ động thực hiện nhiệm vụ
của mình có hiệu quả và các chính sách đƣợc triển khai thật hiệu quả.
Quá trình triển khai một hệ thống chính sách vào thực tiễn cũng nhƣ sự đánh
giá hiệu quả của nó đến sự phát triển kinh tế xã hội là một vấn đề phức tạp và lâu
dài, đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các chủ thể có liên quan. DNNVV Việt Nam trên
con đƣờng phát triển của mình đã và đang gặp phải nhiều khó khăn, nhƣng với sự
định hƣớng, quan tâm, hỗ trợ kịp thời, toàn diện của Nhà nƣớc, các doanh nghiệp có
102
thêm động lực để tin tƣởng vào một tƣơng lai với năng lực xuất khẩu ngày càng lớn
mạnh của Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
1. Báo cáo tóm tắt: Mekong Capital và các quỹ do Mekong Capital quản lý,
01/06/2008.
2. Bộ Công thƣơng, Quyết định số 1252/QĐ-BTM ngày 31/12/2007 về việc ban
hành quy chế quy định trình tự và thủ tục đánh giá Giải thƣởng xuất khẩu của Thủ
tƣớng Chính phủ.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Cục Phát triển DNNVV, Báo cáo thƣờng niên DNNVV
Việt Nam 2008.
4. Bộ Tài chính, Thông tƣ số 13/2009/TT-BTC ngày 22 tháng 01 năm 2009 hƣớng
dẫn thực hiện giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ cho doanh
nghiệp kinh doanh gặp khó khăn.
5. Bộ Tài chính, Thông tƣ số 12/2009/TT-BTC ngày 22/01/2009 hƣớng dẫn thực
hiện gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 đối với doanh nghiệp kinh
doanh một số ngành nghề.
6. Bộ Tài chính, Thông tƣ số 27/2009/TT-BTC ngày 06/02/2009 hƣớng dẫn thực
hiện việc giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân.
7. LantaBrand, Total Brand Solution, 12 xu hƣớng đáng chú ý của các doanh
nghiệp nhỏ trong năm 2008.
8. Trần Thị Minh Châu, 2006, Chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam và
những vấn đề đặt ra, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng.
9. Đinh Sỹ Dũng, Vụ Pháp chế – Văn phòng Chính phủ, Chính sách, pháp luật thuế,
tác dụng hỗ trợ phát triển DNNVV.
10. Đinh Văn Đức, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Rủi ro và
phòng ngừa rủi ro tài chính đối với DNNVV ở Việt Nam, Tạp chí kinh tế và phát
triển, số tháng 12/2008.
11. Trƣơng Thị Thu Hà, 2007, Chính sách phát triển DNNVV – Thực tiễn và giải
pháp, Học viện Hành chính.
12. Phạm Thu Hƣơng, Trợ cấp xuất khẩu và thách thức khi gia nhập WTO, Tạp chí
thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 12, 2006, tr. 28-31.
103
13. Đỗ Trọng Khanh, Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và
vừa của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và tài chính, Khóa họp lần thứ bẩy, 26-
27/02/2008.
14. Nguyễn Văn Lâm, Chính sách kích cầu đầu tƣ qua hỗ trợ lãi suất cho vay vốn
lƣu động của ngân hàng thƣơng mại, Tạp chí Ngân hàng, số 7/2009.
15. Bùi Xuân Lƣu, 2000, Giáo trình kinh tế ngoại thƣơng, Trƣờng Đại học Ngoại
thƣơng Hà Nội, NXB Giáo dục.
16. Bùi Xuân Lƣu, 1998, Giáo trình thuế và hệ thống thuế của Việt Nam, Trƣờng
Đại học Ngoại thƣơng.
17. Mekong Capital, Báo cáo Các công ty thuộc Danh mục Đầu tƣ do Mekong
capital quản lý tăng trƣởng trong năm 2008 nhanh hơn 2007 – bất chấp cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
18. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Báo cáo kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa giai đoạn 2006 -2010 thuộc lĩnh vực tài chính
19. Ngân hàng Nhà nƣớc, Báo cáo thƣờng niên năm 2007.
20. Ngân hàng Nhà nƣớc, ngày 24 tháng 03 năm 2009, Báo cáo về tình hình triển
khai cơ chế hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản
xuất kinh doanh tháng 2 và tháng 3 năm 2009.
21. Ngân hàng Nhà nƣớc, Báo cáo hoạt động tín dụng 7 tháng đầu năm 2008, Vụ
Tín dụng - Ngân hàng Nhà nƣớc
22. Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Các quy định pháp lý về hoạt động tín dụng
ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
23. Ngân hàng Nhà nƣớc, Công văn số 1436/NHNN-CSTT, ngày 3/3/2009 hƣớng
dẫn bổ sung, tháo gỡ vƣớng mắc về thủ tục chứng minh mục đích sử dụng vốn, bổ
sung đối tƣợng đƣợc vay vốn hỗ trợ lãi suất, nói rõ một số trƣờng hợp không đƣợc
vay theo Quyết định 131/QĐ-TTg.
24. Ngân hàng Nhà nƣớc, Quyết định số 131/QĐ-02/2009/TT-NHNN ngày 03 tháng
02 năm 2009 về cho vay hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn để sản
xuất, kinh doanh.
25. Ngân hàng Nhà nƣớc, Thông báo số dƣ nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày
23/04/2009.
26. Ngân hàng Nhà nƣớc, Thông tƣ số 02/2009/TT-NHNN quy định chi tiết thi hành
việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh
doanh.
104
27. Chu Minh Phƣơng, Đỗ Minh Tuấn, Hồ Xuân Phƣơng, Tài chính hỗ trợ DNNVV.
28. John Rand và Finn Tarp, Kết quả điều tra DNNVV (ở Việt Nam) năm 2002 và
2005, Khoa Kinh tế, Đại học Tổng hợp Copenhagen.
29. Tạp chí công nghiệp số 14/10/2008, Nâng cao sức cạnh tranh cho DNNVV
trong quá trình hội nhập,
30. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về hỗ trợ pháp lý cho DNNVV,
tháng 1/2009.
31. Tạp chí kinh tế và dự báo số 4(444) tháng 2/2009, Đánh giá về những tiến bộ
của khu vực DNNVV trong công cuộc phát triển.
32. Lê Minh Tâm, Một số kinh nghiệm thế giới về hỗ trợ tín dụng cho các nƣớc
thành viên mới của ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, 2003, số 2, tr. 99-100.
33. Tôn Thanh Tâm, Nỗ lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong việc ngăn
chặn ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, Tạp chí Ngân hàng, số 7/2009.
34. Thông tấn xã Việt Nam 31/03/2009.
35. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định số 16/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban
hành về một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trƣơng kích cầu đầu tƣ và tiêu
dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp.
36. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 về
việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh
doanh.
37. Thủ tƣớng Chính phủ, Quyết định số 16/2009/QĐ-TTg về một số giải pháp về
thuế nhằm thực hiện chủ trƣơng kích cầu đầu tƣ và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm
kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp.
38. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2008, NXB Thống kê
39. Đinh Xuân Trình, 2001, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Trƣờng Đại học
Ngoại thƣơng, NXB Giáo dục.
40. Đinh Xuân Trình, 2002, Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thƣơng,
NXB Giáo dục.
41. Lê Văn Tƣ, 2000, Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, NXB Thống kê.
105
42. UBND thành phố Hà Nội, tháng 12 năm 2005, Báo cáo kế hoạch phát triển
DNNVV giai đoạn 2006-2010.
43. VCCI, 2008, Trợ cấp và thuế chống trợ cấp, Nhà xuất bản Thông tấn.
44. VCCI, Tỷ giá VND/USD: Điều chỉnh theo thị trƣờng.
45. Vũ Quốc Tuấn, Phạm Tất Định, Cao Bá Khoát, 2000, Chính sách, pháp luật và
một số giải pháp hỗ trợ DNNVV ngoài quốc doanh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trang web:
46. Bộ kế hoạch đầu tƣ, Cục phát triển DNNVV:
emp=HTDN_vn&Language=vn&txtKeyword=x%C3%BAc&cmdSearch=&page=2
0
47. Bộ kế hoạch đầtƣ:
48. Cổng thông tin xuất nhập khẩu:
49. Hiệp hội DNNVV VINASME:
dong-dnvn/doanh-nghiep-nho-va-vua-yeu-vi-thieu-lien-ket/34400.031.html
50. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam:
id=60
51. Ngân hàng nhà nƣớc:
52. Ngân hàng thế giới:
/VIETNAMINVIETNAMESEEXTN/0,,menuPK:487366~pagePK:141159~piPK:5107644
5~theSitePK:486752,00.html
53. Quỹ Mekong capital:
54.Tổng công ty truyền thông đa phƣơng tiện Việt Nam:
chung-khoan/212692/index.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4445_0761.pdf