Đề tài Một số đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức xúc tiến xuất khẩu chính phủ Việt Nam

CHƯƠNG 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN 1.1. Những khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm về xúc tiến XK (XTXK) Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về XTXK. Có thể tạm chia ra làm hai loại khái niệm về XTXK: khái niệm truyền thống (khái niệm hẹp) và khái niệm hiện đại (khái niệm rộng). 1.1.1.1. Khái niệm truyền thống về XTXK Cách tiếp cận này xem XTXK là một "P" của Marketing hỗn hợp, bao gồm sản phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place) và xúc tiến (Promotion). Đồng thời, chủ thể của hoạt động XTXK là DN trong mối tương quan với khách hàng. Một số khái niệm tiêu biểu thuộc loại này: 1) Philip Kotler [1] "Xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó là các hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần thiết về DN, sản phẩm của DN, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của DN cũng như những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó, DN tìm ra cách tốt nhất nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng" 2) Theo Viện Nghiên cứu Thương mại [2], các nhà lý luận của các nước tư bản quan niệm xúc tiến là hình thái quan hệ giữa người bán và người mua, là một lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách năng động và hiệu quả nhất. Các nhà kinh tế học ở các nước Đông Âu thì cho rằng xúc tiến là một công cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng giữa người bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hoá và dịch vụ. 3) UNESCAP [3] cho rằng "Giống như xúc tiến thương mại, đó là những hoạt động được thiết kế nhằm gia tăng kim ngạch XK của một DN hay một quốc gia. Bao gồm việc tham gia hội chợ, khảo sát thị trường, các chiến dịch quảng cáo " 1.1.1.2. Khái niệm hiện đại về XTXK Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, bản chất của thương mại quốc tế cũng có những biến đổi sâu sắc. Đi liền với những cơ hội mới là những thách thức lớn lao đòi hỏi phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa chính phủ và DN để thúc đẩy XK phát triển. Điển hình là một số khái niệm sau : 1) Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) [4] quan niệm XTXK bao trùm cả tầm vi mô (DN) và vĩ mô (chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại) và cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Trước mắt Dài hạn DN Quá trình XK Phát triển kinh doanh XK (Marketing XK) (Marketing quốc tế) Chính phủ và các tổ chức XTXK Phát triển XK hỗ trợ thương mại (TSIs) Quan niệm này của ITC là rất rộng và chứa đựng tất cả các biện pháp nhằm phát triển XK trên bình diện quốc gia. Có hai loại biện pháp là gián tiếp và trực tiếp. Các biện pháp gián tiếp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao tính cạnh tranh bền vững cho DN như cải thiện năng suất, chất lượng, cải cách hệ thống thuế, tài chính, hành chính, cơ sở hạ tầng, giảm chi phí đầu vào . Các biện pháp trực tiếp nhằm kích thích nhu cầu, bao gồm nội dung XTXK truyền thống cùng với nỗ lực của chính phủ trong đàm phán hội nhập kinh tế quốc tế. 2) G. Albaum, J. Strandskov và E. Duerr trong “Quản trị XK và Marketing quốc tế” [5] quan niệm XTXK bao gồm các chính sách và chương trình do các tổ chức của chính phủ thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động XK. Các chương trình này có thể được tài trợ và thực hiện một cách độc lập bởi chính phủ hoặc phối hợp giữa chính phủ với các DN. 3) Định nghĩa của Todaro Micheal [6] "XTXK là những nỗ lực có chủ đích của chính phủ nhằm gia tăng khối lượng XK của một quốc gia thông qua những chính sách khích lệ và các biện pháp khác, qua đó thu được nhiều ngoại tệ để cải thiện cán cân thanh toán quốc gia" Tác giả hoàn toàn tán đồng quan điểm XTXK theo nghĩa rộng. Đó không còn là công việc riêng lẻ của các DN nhưng phải có sự phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức xúc tiến chuyên nghiệp và cộng đồng DN. Do đó, tác giả quan niệm về XTXK như sau "XTXK là những nỗ lực chung của cả quốc gia nhằm gia tăng kim ngạch XK của đất nước thông qua các biện pháp kinh tế và phi kinh tế, nhờ đó thu được nhiều ngoại tệ hơn góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc gia" 1.1.2. Xúc tiến XK và xúc tiến thương mại (XTTM) Ngày nay, thuật ngữ XTTM (trade promotion) phổ biến hơn so với XTXK (export promotion) tuy trong hầu hết trường hợp, XTTM vẫn mang ý nghĩa của XTXK. Thực ra, XTTM là một thuật ngữ bao hàm ba nội dung: XTXK, xúc tiến nhập khẩu và XTTM trên thị trường nội địa. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển, XTTM thường được đồng nhất với XTXK do tầm quan trọng của XK đối với phát triển kinh tế quốc gia. e Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc trong thập niên 50 ~ 60 của thế kỷ 20 và thực tiễn của các nước đang phát triển cho thấy XTTM cũng chính là XTXK. Điều này được phản ánh một cách rõ rệt trong hoạt động XTTM của các quốc gia này. e Tài liệu huấn luyện về XTTM của UNESCAP cũng xem XTTM cũng là XTXK [7]. e Diễn đàn “Định nghĩa lại XTTM”[8] do ITC khởi xướng vào năm 1999 nhấn mạnh đến sự hợp tác giữa chính phủ, TSIs và cộng đồng DN đặt chiến lược XK quốc gia là trọng tâm của hoạt động XTTM, đồng thời nhấn mạnh đến các giải pháp về XTXK trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Tại Việt Nam, nội dung của nhiều văn bản pháp luật quan trọng cũng thể hiện quan điểm xem XTTM và XTXK là một. e Chiến lược Phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu “Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC XTXK CHÍNH PHỦ 2.1. Khái quát Việt Nam bắt đầu tiến hành cải cách kinh tế từ năm 1986, tuy nhiên hoạt động xúc tiến XK (XTXK) của Việt Nam đến đầu thập niên 90 vẫn còn mang tính tự phát và tản mạn, vai trò XTXK của chính phủ trong giai đoạn này còn chưa thể hiện rõ. Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, yêu cầu chính phủ "Nghiên cứu thành lập trung tâm khuếch trương thương mại để làm tốt công tác thúc đẩy XK và là đầu mối đặt quan hệ, trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức tương tự ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, có kế hoạch cụ thể cho các tổ chức kinh tế của ta đặt VPĐD ở nước ngoài để nghiên cứu thị trường, tìm đối tác XK". Sau khi có chủ trương của Đảng, hoạt động XTXK đã phát triển nhanh chóng trong những năm tiếp theo. Lần lượt các tổ chức XTXK của Việt Nam đã hình thành, bao gồm Cục XTTM (Vietrade); các trung tâm XTTM địa phương; các hiệp hội ngành nghề; hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các tổ chức XTXK nước ngoài, hiệp hội DN nước ngoài và hàng ngàn VPĐD doanh nghiệp nước ngoài đã vào hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, "phần cứng" hay bộ khung của mạng lưới XTXK quốc gia xem như đã cơ bản thành hình. Bên cạnh đó, "phần mềm" hay chiến lược, nội dung hoạt động và phối hợp giữa các tổ chức XTXK nói trên vẫn còn đang bị các DN trong nước chỉ trích mạnh mẽ. Điều đó cho thấy hoạt động của các tổ chức XTXK vẫn chưa đi sát với nhu cầu thực tiễn và còn phải cải thiện nhiều mặt. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhận thức về vai trò của XTXK đã được khẳng định ở cả ba cấp: chính phủ, các tổ chức XTXK và cộng đồng DN. 2.2. Chiến lược, luật và các chính sách chi phối hoạt động XTXK 2.2.1. Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001 - 2010 Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001-2010 được chính phủ xây dựng nhằm cụ thể hoá những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua. Chiến lược đã định hướng nội dung cơ bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy XK dịch vụ . mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu XK cụ thể như sau: Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2010 Tăng trưởng XK hàng hoá và dịch vụ Bình quân 15%/năm Kim ngạch XK hàng hoá 13,5 tỷ USD 54,6 tỷ USD Kim ngạch XK dịch vụ 2 tỷ USD 8,1 tỷ 2010 2.2.2. Luật và các chính sách Luật và các chính sách quan trọng liên quan đến XTXK giai đoạn 1999 ~ 2004 được tóm tắt và trình bày theo trình tự thời gian trong phụ lục 3 của luận văn. 2.3. Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ của Việt Nam bao gồm : e Cục XTTM (Vietrade) trực thuộc Bộ Thương mại. e Cơ quan hỗ trợ XTXK thuộc một số bộ, ngành. e Trung tâm/phòng XTTM địa phương. e Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. e Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài. 2.3.1. Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) 2.3.1.1. Lịch sử hình thành Tiền thân của Vietrade là Ban XTTM của Bộ Thương mại được thành lập vào tháng 12/1998. Sau đó, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 78/2000/QĐ-TTg ký ngày 10/08/2000 chính thức thành lập Cục XTTM trực thuộc Bộ Thương mại. Vietrade là tổ chức XTXK quốc gia, có vị trí tương tự các tổ chức IE Singapore, DEP (Thailand), Matrade (Malaysia), Jetro (Nhật Bản), Kotra (Hàn Quốc) . CHƯƠNG 3 - MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CÁC TỔ CHỨC XÚC TIẾN XUẤT KHẨU CHÍNH PHỦ VIỆT NAM 3.1. Các cơ sở đề xuất giải pháp Ngoài căn cứ chủ yếu là thực trạng của các tổ chức XTXK chính phủ và ý kiến của các doanh nghiệp thông qua kết quả khảo sát và nguồn dữ liệu thứ cấp đã trình bày trong chương 2 , còn có những cơ hội và thách thức mà các tổ chức XTXK chính phủ phải đối mặt và những bài học kinh nghiệm của các tổ chức XTXK khác trên thế giới được trình bày sau đây. 3.1.1. Cơ hội và thách thức của các tổ chức XTXK chính phủ Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang cùng lúc chịu sức ép từ quá trình chuyển đổi và hội nhập, có nhiều vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Tuy nhiên, các vấn đề được trình bày qua lăng kính những cơ hội và thách thức của các tổ chức XTXK chính phủ sau đây là đáng lưu ý hơn cả. 3.1.1.1. Cơ hội e Quyết tâm chính trị của Đảng và Chính phủ trong hội nhập kinh tế và phát triển XK. Đây là nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất cho mọi thành công về mặt kinh tế nói chung và XNK nói riêng của Việt Nam. Hàng loạt quyết sách của Đảng và Chính phủ về đẩy mạnh công tác XNK đã được đưa ra. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã nêu rõ "Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh XNK hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh XK sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ XK, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch XK, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước" Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu giai đoạn 2001-2010 được xây dựng nhằm cụ thể hoá những định hướng lớn đã đề ra. Chiến lược đã định hướng nội dung cơ bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy XK dịch vụ . mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. e Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã đạt được thoả thuận song phương với EU về việc gia nhập WTO vào ngày 9/10/2004 vừa qua. Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam đã đi được 70% chặng đường để trở thành thành viên chính thức của WTO. Bộ Thương mại cũng bày tỏ hy vọng đàm phán giữa VN với Trung Quốc và Mỹ sẽ nhanh chóng kết thúc để Việt Nam và Việt Nam hoàn toàn có thể gia nhập WTO trong năm 2005. Mở cửa và hội nhập đã mang lại những kết quả tốt đẹp cho nền kinh tế Việt Nam. Sau gần 20 năm đổi mới (1986) và gần 10 năm gia nhập Asean (1995), Việt Nam nay đã tiến đến gần mục tiêu cuối cùng của tiến trình hội nhập WTO. Nếu Trung Quốc mất 15 năm để được kết nạp vào WTO thì khả năng Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2005 một lần nữa đã chứng tỏ quyết tâm chính trị và nỗ lực rất lớn của chính phủ Việt Nam trong rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những kết quả trực tiếp của hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực XTXK là những dự án phảt triển XTXK khác nhau như đã trình bày ở trên. e Những cơ hội do cuộc cách mạng kỹ thuật số và công nghệ thông tin Đây là một trong những cơ hội hiếm có do kỹ thuật mang lại mà Việt Nam và các quốc gia đang phát triển khác có thể tận dụng để rút ngắn cách biệt với các quốc gia công nghiệp. Trong lĩnh vực viễn thông, Việt Nam hiện đã có hầu như tất cả các loại dịch vụ viễn thông tiên tiến của thế giới. Ngoài mạng điện thoại truyền thống, điện thoại di động theo tiêu chuẩn GSM, CDMA, IPASS, mạng Internet tốc độ cao ADSL, điện thoại

pdf74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số đề xuất nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức xúc tiến xuất khẩu chính phủ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t hợp lý so với các nước trên thế giới nhưng đang cũng được điều chỉnh dần. So với những năm trước đó, cước điện thoại quốc tế IDD giảm trung bình 33%, Gọi 171 quốc tế giảm 37%, thuê bao điện thoại di động giảm 20%, thuê kênh liên tỉnh và quốc tế giảm từ 10-40% ... Đây thực sự là cơ hội cho các DN Việt Nam (vốn khá nhanh nhạy trong việc nắm bắt công nghệ mới) phát triển kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực XK. 3.1.1.2. Thách thức e Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia và DN đang trên đà giảm sút Ngày 13/10/2004, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) phối hợp với Đại học Harvard - đã công bố bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh của các quốc gia toàn cầu cho năm 2004. Theo đó, chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (GCI) của VN - tức năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô - bị xếp 77/104 nền kinh tế (so với 60/102 nền kinh tế trong năm 2003); năng lực cạnh tranh kinh doanh (BCI), tức năng lực cạnh tranh ở tầm kinh doanh DN, xếp 79/103 nước (so với 50/95 nền kinh tế trong năm 2003). Đây là mức tụt hạng mạnh nhất trong tất cả các nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2003, mức giảm sút 15 bậc về GCI và 21 bậc về BCI, tụt hơn nhiều so với các nền kinh tế khác trong khu vực như Thái Lan hay Hàn Quốc. Trong báo cáo tóm tắt, WEF đã hai lần nhắc đến sự giảm sút đầy kịch tính này của Việt Nam và nhấn mạnh sự giảm sút này gắn liền với cả ba lĩnh vực là môi trường kinh tế vĩ mô, thể chế công và công nghệ. TS. Lê Đăng Doanh "Điều cần rút ra kết luận là chúng ta không thể chỉ tự so sánh với bản thân mình trong quá khứ để xác định tiến bộ vì điều đó không còn đủ trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta đang tham gia một cuộc chạy thi tốc độ, trong đó ta cải cách thì các nước khác cũng cải cách, hoàn thiện. Và trong năm 2003-2004 này chúng ta đã tụt lại sau trong khi các nước khác tiến lên" Nguồn : Tuổi Trẻ (21/10/2004), Năng lực cạnh tranh của VN bị tụt hạng, tại sao ? 50 Cần phải xem kết quả này là hồi chuông cảnh báo cho cả chính phủ lẫn các DN Việt Nam trong lúc thời điểm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phải mở cửa gần như hoàn toàn với thế giới bên ngoài đã rất gần kề. e Bộ máy hành chính và DN chưa theo kịp với tốc độ hội nhập Bộ Thương mại đã tuyên bố Việt Nam hoàn toàn có thể gia nhập WTO trong năm 2005. Đó là một điều vừa đáng mừng nhưng cũng rất đáng lo. Trước hết, hệ thống luật pháp, chính sách về kinh tế và cả bộ máy hành chính của Việt Nam vẫn chưa được điều chỉnh cho phù hợp với những cam kết của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Đặc biệt là về tính minh bạch, nhất quán, ổn định và khả năng thực hiện. Với bộ máy, con người, cách nghĩ và cách làm chính sách kinh tế như hiện nay, có thể nói hệ thống hành chính và luật pháp vẫn chưa sẵn sàng theo kịp với tốc độ hội nhập. Chỉ cần nhìn lại những vụ tham nhũng gần đây khiến dư luận xã hội cực kỳ bức xúc như vụ tham nhũng ở Vụ XNK Bộ Thương Thủ tướng Phan Văn Khải "Phải thẳng thắn thừa nhận rằng: cái hư hỏng, đồi bại chính từ sự thoái hoá (quan liêu, tham nhũng, ham chức, quyền, danh, lợi, dối trá ...) trong một số những người có chức, có quyền thuộc bộ máy công quyền. Bộ máy của chúng ta hư hỏng, đó là điều mà tôi luôn canh cánh trong lòng ..." Thời báo KTSG (17/06/2004 & 21/10/2004) mại liên quan đến đường dây chạy hạn ngạch XK hàng dệt mạy đi Mỹ, vụ tham nhũng ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ Lương Quốc Dũng ...cũng đủ thấy tham nhũng ngày càng tinh vi và có quy mô lớn hơn. Về phía DN, theo kết quả điều tra gần đây của VCCI, trong số 1.000 DN được hỏi, chỉ có 57% trả lời là có nắm bắt được thông tin về quá trình hội nhập. Đặc biệt, vẫn còn có một tỉ lệ không nhỏ DN (14%) cho biết chưa có hiểu biết chung về quá trình hội nhập. Phần lớn DN thiếu những thông tin về thị trường hiện có và cả thị trường tiềm năng đối với sản phẩm của mình. Đây là một thực tế đáng báo động nữa trước sức ép hội nhập. DN là đối tượng phục vụ chính của các tổ chức XTXK. Sự thành công của bất kỳ chương trình XTXK nào cũng phụ thuộc vào tính chủ động của các DN. Vì thế, tình trạng DN "đi trong sương mù" (cách nói của TS. Lê Đăng Doanh) do thiếu thông tin 51 hoặc thiếu ý thức về sức ép của hội nhập kinh tế là điều rất đáng lo. Chắc chắn điều này sẽ làm hạn chế hiệu quả các chương trình XTXK dành cho chính họ. e Hệ thống phân phối của Việt Nam vẫn còn yếu Việt Nam chưa có hệ thống phân phối hàng hoá đủ mạnh, ngay cả ở trong thị trường nội đia. Trong lĩnh vực XNK, Việt Nam cũng chưa có các công ty thương mại tổng hợp (General Trading Company) như mô hình của Sumitomo, Itochu (Nhật Bản) hoặc Samsung, Hyundai, Deawoo (Hàn Quốc). Trước đây Việt Nam cũng có một số công ty XNK quốc doanh lớn như Imexco, Generalexim, Seaprodex ... nhưng phần lớn doanh số XNK của họ là do cơ chế độc quyền XNK mà có. Chính vì thế khi các DN tư nhân được phép XNK trực tiếp, các công ty này nhanh chóng mất đi lợi thế và trở nên suy yếu. Mặt khác, vai trò của thương nhân trong thực tế còn chưa được xã hội coi trọng. Ở đây đó thương nhân vẫn còn bị xem là "con buôn", là tác nhân thao túng giá cả thị trường. Về mặt luật pháp, không có điều khoản nào trong bộ Luật khuyến khích đầu tư trong nước ưu đãi cho đầu tư trong lĩnh vực thương mại. Nói tóm lại, môi trường hiện nay chưa hoàn toàn thích hợp để Việt Nam có được những tổng công ty thương mại đủ mạnh như các nước trong khu vực. Điều này cũng làm cho công tác XTXK ở tầm quốc gia kém hiệu quả. 3.1.2. Kinh nghiệm của các tổ chức XTXK nước ngoài Bản chất của công tác XTXK là dịch vụ. Khác với lĩnh vực kỹ thuật cao đòi hỏi phải có "know-how" hoặc chuyển giao công nghệ ... thông tin về tổ chức XTXK nước ngoài đang làm gì và làm như thế nào là khá phổ biến. Chỉ cần quan sát cách họ làm, chúng ta cũng có thể học được khá nhiều điều. Bên cạnh đó, còn có sự hỗ trợ và hợp tác chính thức của các tổ chức XTXK quốc tế. Trong điều kiện đó, tác giả tin rằng các tổ chức XTXK chính phủ của Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện hoạt động của họ một cách nhanh chóng qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, có lẽ cộng đồng DN Việt Nam cũng chỉ mong chất lượng hoạt động của các tổ chức XTXK Việt Nam ngang bằng với trình độ chung của các nước. Dĩ nhiên, chúng ta không thể rập khuôn theo họ nhưng phải điều chỉnh nội dung cho phù hợp với trình độ và điều kiện của các DN Việt Nam. Một số kinh 52 nghiệm, cách làm tiêu biểu của nước ngoài sẽ được tác giả lồng trong phần các giải pháp đề xuất sau đây nhằm minh hoạ thêm. 3.2. Một số đề xuất nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của các tổ chức XTXK chính phủ ở Việt Nam Như đã trình bày ở phần trên, cách làm XTXK phổ biến hiện nay ở Việt Nam cho thấy quan điểm truyền thống về XTXK còn khá phổ biến. Để khắc phục điều này, cần phải nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống nhất quan điểm về nội dung XTXK quốc gia. Đóphải là quan điểm XTXK hiện đại đang ngày càng phố biến trên thế giới. Đây chính là điều cần phải làm trước tiên. Trên cơ sở đó mới xây dựng hệ thống giải pháp về đẩy mạnh XTXK. Toàn bộ các giải pháp dưới đây được xây dựng dựa trên tinh thần này. 3.2.1. Những giải pháp vĩ mô 3.2.1.1. Cần phải luật hoá công tác XTXK Việt Nam cần phải xây dựng một bộ luật về XTXK hoặc luật về khuyến khích XK nhằm hỗ trợ về mặt pháp lý cho các tổ chức XTXK chính phủ trong nỗ lực huy động mọi tiềm lực quốc gia để phát triển XK. Việt Nam có thể tham khảo cách làm của một số quốc gia đi trước trong lĩnh vực này. Ví dụ, Thái Lan đã ban hành Đạo luật XTXK (Export Promotion Act, B.E. 2503 (1960) [27] từ năm 1960. Đạo luật XTXK của Thái Lan quy định về việc thành lập, tổ chức, nhiệm vụ, cơ cấu thành phần và quyền lực của Hội đồng XTXK (Board of Export Promotion) của Thái Lan. Đạo luật này có một số điểm đáng chú ý như sau: e Thành viên Hội đồng điều hành BEP không quá 9 người do Thủ tướng bổ nhiệm. e Ban cố vấn của BEP bao gồm Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Vụ trưởng vụ phát triển gia cầm (Bộ Nông nghiệp và Hợp tác), Vụ trưởng vụ Khoáng sản (Bộ Tài nguyên Môi trường); Vụ trưởng vụ Ngoại thương và Vụ trưởng Vụ Nội thương (Bộ Thương mại), Vụ trưởng vụ Khuyến khích phát triển công nghiệp (Bộ Công nghiệp) ... và không quá 7 thành viên khác do Thủ tướng bổ nhiệm. e BEP có các nhiệm vụ sau 53 o Tiến hành các hoạt động liên quan đến XTXK o Thực hiện và kiểm soát việc XK hàng hoá. o Cố vấn cho chính phủ về các biện pháp có ảnh hưởng đến XTXK hoặc liên quan đến tiêu chuẩn hàng hoá. e Để thực hiện các nhiệm vụ được giao, BEP có các quyền sau: o Yêu cầu các bộ, vụ, ban ngành và các DN quốc doanh báo cáo số liệu thống kê và các thủ tục khác cần thiết cho hoạt động XTXK hoặc các hoạt động liên quan phù hợp với luật XK. o Có thể ra quyết định triệu tập bất kỳ cá nhân nào nếu cần thiết để yêu cầu họ cung cấp thêm các thông tin, tài liệu hoặc dữ kiện cần thiết cho hoạt động XTXK của BEP. Nếu cá nhân được yêu cầu từ chối thì BEP được quyền yêu cầu trợ giúp của các cơ quan bảo vệ luật pháp. Hình phạt nặng nhất cho sự từ chối hợp tác với BEP là phạt tù tối đa 30 ngày hoặc phạt tiền tương đương 2000 bath hoặc cả hai. Philippine cũng đã thông qua Đạo Luật Phát triển XK (Export Development Act of 1994) [28] vào năm 1994. Những lời mở đầu của Đạo Luật Phát triển XK này đã gây ấn tượng mạnh như sau "Đây sẽ là chính sách nhằm làm cho công cuộc phát triển XK trở thành nỗ lực chung của quốc gia. Chính phủ sẽ xem XK là chiến lược trọng tâm của công cuộc phát triển công-nông nghiệp bền vững nhằm đưa Philippine trở thành một quốc gia NIC vào năm 2000. Khu vực kinh tế tư nhân sẽ giữ vai trò hàng đầu trong nỗ lực XTXK chung với tính kỷ luật và cần cù của họ. Chính phủ và các DN sẽ cùng nhau hợp tác để biến Philippines thành một quốc gia XK. Để đạt mục tiêu ấy, chính phủ phải làm cho người dân hiểu rằng XK không phải là mối quan tâm của một số người nhưng là yếu tố quyết định sự sống còn của quốc gia và là phương thức để nhanh chóng đạt được những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế như tăng việc làm và thu nhập"(Điều 2) Đạo Luật Phát triển XK của Philippines có những nội dung đáng chú ý như sau: e Chính phủ cam kết thực hiện một số nguyên tắc nhằm hỗ trợ phát triển XK, đặc biệt trong những lĩnh vực liên quan đến nhà XK. Đó là chính sách về tỷ giá hối đoái và tiền tệ, tài chính và tín dụng, nông nghiệp và thương mại, thuế và hải 54 quan, các hỗ trợ kỹ thuật nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm, cơ sở hạ tầng, gắn tăng trưởng XK với phát triển nông thôn, lao động...Đặc biệt, đạo luật yêu cầu mọi cơ quan nhà nước có liên hệ với nhà XK phải đơn giản hoá thủ tục hành chính. e Lập chương trình phát triển XK (PEDP) trung hạn (3 năm) e Lập Hội đồng phát triển XK quốc gia (EDC) với thành viên là các quan chức cao cấp của chính phủ như Bộ trưởng Thương mại & Công nghiệp (Chủ tịch), Tổng giám đốc Hội đồng phát triển và kinh tế quốc gia, Bộ trưởng Tài chính, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Phillipines, Bộ trưởng Khoa học & Công nghệ, Bộ trưởng Nông nghiệp, Bộ trưởng ngoại giao, Bộ trưởng Lao động cùng với 9 thành viên khác đại diện cho cộng đồng DN do Tổng thống bổ nhiệm. e Phần lớn trong số 9 đại diện của cộng đồng DN sẽ được bầu vào cơ quan điều hành EDC. Nhiệm kỳ của cơ quan điều hành là 3 năm và có thể được EDC tái bổ nhiệm. e Đạo luật cũng quy định các chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng dành cho các DN XK. Hàn Quốc cũng ban hành Đạo luật về Cục XTXK và Đầu tư (Korea Trade - Investment Promotion Agency Act) vào tháng 4/1962. Trên cơ sở đó, Kotra đã được thành lập. Đạo luật này cũng có một số điểm chính như sau: e Tư cách pháp nhân: Ngoài trụ sở chính đặt tại Seoul, luật cho phép Kotra được phép thiết lập các văn phòng khu vực nội địa, trung tâm thương mại, văn phòng thương mại, trung tâm triển lãm, các chi nhánh trong và ngoài nước cũng như bổ nhiệm các đại diện làm việc tại các cơ sở này. e Nhân sự: Ban giám đốc của Kotra có tối đa 13 thành viên, bao gồm Tổng giám đốc (TGĐ), Kiểm soát viên và các giám đốc (GĐ). Chức danh GĐ được chia làm hai dạng: GĐ chuyên trách (toàn thời gian) và GĐ kiêm nhiệm (bán thời gian). Số lượng GĐ chuyên trách (kể cả TGĐ) không được quá 50% số thành viên ban giám đốc. Tổng thống Hàn Quốc trực tiếp bổ nhiệm và miễn nhiệm TGĐ và Kiểm soát viên. Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng bổ nhiệm và miễn nhiệm các GĐ chuyên trách. Bộ Kế hoạch và Ngân sách bổ nhiệm và 55 miễn nhiệm các GĐ kiêm nhiệm. TGĐ có quyền đề cử các ứng viên cho chức danh GĐ kiêm nhiệm sau khi tham vấn ý kiến của các chuyên gia hàng đầu ngoài chính phủ. e Tiêu chí lựa chọn: Ứng viên phải có kinh nghiệm điều hành công việc ở vị trí tương đương tổng giám đốc. Do đó, thường các vị tổng giám đốc của các công ty, tập đoàn lớn thường được đề cử vào chức vụ này. Nhiệm kỳ của chức danh này là 3 năm và có thể được tái đề cử. Tổng giám đốc có toàn quyền bổ nhiệm nhân sự làm việc trong nước lẫn ngoài nước. e Kiểm soát nội bộ: Kiểm soát viên có nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động và tình hình tài chính của Kotra và báo cáo trực tiếp cho ban giám đốc. Nếu thấy cần thiết, ban giám đốc có thể yêu cầu kiểm soát viên tiến hành kiểm toán Kotra. Tóm lại, qua khảo sát Thái Lan, Phillipines và Hàn Quốc, điều nổi bật là phải thiết lập một cơ quan XTXK quốc gia mạnh nhằm đảm bảo sự phối hợp nỗ lực XTXK của quốc gia. 3.2.1.2. Tổ chức lại hệ thống tổ chức XTXK chính phủ theo hướng tập trung Để khắc phục tính chất rời rạc, phối hợp kém giữa Vietrade với các Trung tâm XTTM địa phương và thương vụ ở nước ngoài như hiện nay, nhất thiết phải tái tổ chức lại mạng lưới này trên cơ sở quản lý tập trung và thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ trong nước ra nước ngoài. Để làm được điều này, chính phủ nên điều chỉnh mối quan hệ giữa ba tổ chức nói trên theo hướng sau: e Nâng cao vị thế & đổi mới phương thức lãnh đạo Vietrade Vietrade nên được đặt dưới sự chỉ đạo về chiến lược của một Hội đồng điều hành. Chủ tịch hội đồng có thể là Thủ tướng chính phủ. Thành viên của hội đồng bao gồm các đại diện của chính phủ (Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch & Đầu tư), đại diện của cộng đồng DN, đại diện các cơ quan liên quan đến hoạt động XNK như hải quan, ngân hàng, hiệp hội cảng biển Việt Nam ...Số lượng thành viên, tỷ lệ đại diện của mỗi bên và cơ chế quyết định của hội đồng cũng được quy định sao cho đảm bảo quyền lợi tối đa cho cộng đồng DN. Việt Nam nên tham khảo mô hình tổ chức của Hội đồng XTXK (BEP) Thái Lan, Hội đồng phát triển XK quốc gia (EDC) của Philippines và Kotra của Hàn Quốc như đã trình bày trong phần trên. 56 e Tập trung và thống nhất trong điều hành Điều hành trực tiếp hoạt động của Vietrade là Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ. Tổng giám đốc không được là công chức. Ngoài trụ sở chính, Vietrade có quyền lập các trung tâm XTXK tại các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố quan trọng (không nhất thiết mọi tỉnh đều phải có một trung tâm XTXK như hiện nay); lập thương vụ ở nước ngoài và trung tâm XTXK ở nước ngoài. Tổng giám đốc có toàn quyền bổ nhiệm giám đốc các trung tâm XTXK địa phương, tham tán thương mại làm việc ở nước ngoài và nhân sự của Vietrade. Ngân sách của các đơn vị này cũng do Vietrade quyết định. e Tài chính độc lập và vững mạnh Vấn đề tài chính của Vietrade (sau khi đã tái tổ chức theo đề xuất ở trên) nên được quyết định theo những nguyên tắc sau : o Ngân sách cung cấp nguồn vốn hoạt động ban đầu cho Vietrade. Nguồn vốn này phải đủ lớn để Vietrade chi trả cho các trung tâm XTXK địa phương, hệ thống thương vụ và trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài. Ví dụ, ngân sách ban đầu của chính phủ Thái Lan cấp cho DEP hoạt động là vào khoảng 30 triệu USD. Có thể trích một phần nguồn ngân sách dùng cho chương trình XTTM trọng điểm quốc gia để làm nguồn vốn hoạt động ban đầu cho Vietrade. Vì tỷ lệ 0.25% trên kim ngạch XK của năm trước (trừ dầu thô) là một con số không nhỏ. Cụ thể, kim ngạch XK (trừ dầu thô) năm 2003 là hơn 16 tỷ USD thì nguồn ngân sách dành cho quỹ XTTM quốc gia năm 2004 sẽ tương đương với 40 triệu USD hoặc 630 tỷ đồng. Đây là một nguồn vốn đáng kể trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. o Căn cứ vào kết quả hoạt động và kiểm toán hàng năm, chính phủ sẽ quyết định bổ sung ngân sách hoạt động nếu cần thiết. o Trong tương lai, vấn đề đa dạng hoá nguồn thu ngân sách cũng nên được đặt ra nhằm tăng tính độc lập cho Vietrade và toàn bộ hệ thống. Trong giai đoạn ngắn hạn trước mắt (có thể kéo dài cho đến năm 2010), tất cả các dịch vụ cơ 57 bản của Vietrade và các tổ chức trực thuộc đều được cung cấp miễn phí cho các DN. Mục tiêu là để khuyến khích các DN sử dụng để thúc đẩy xuất khẩu. o Nên giao cho Vietrade quyền quản lý chương trình XTTM trọng điểm quốc gia. o Hội đồng quản trị cũng bổ nhiệm bộ phận kiểm toán độc lập giám sát hoạt động toàn diện của tổ chức XTXK chính phủ, đặc biệt về mặt tài chính. Đề xuất trên đây không mâu thuẫn với xu hướng tinh giản bộ máy hành chính hiện nay vì tốc độ cải cách bộ máy hành chính vẫn còn quá chậm so với đòi hỏi của phát triển XK và sức ép hội nhập. Do đó một hệ thống XTXK tập trung thống nhất cao là một biện pháp kịp thời và rất quan trọng. Tính tập trung cao của hệ thống cũng sẽ không làm giảm tính hiệu quả vì với cơ chế phốo hợp điều hành như trên, chắc chắn hệ thống sẽ đáp ứng tốt nhu cầu của các DN. Với cách làm như vậy, chúng ta có thể hy vọng sẽ hiện thực hóa quan điểm rộng về XTXK. Nghĩa là không chỉ đẩy mạnh XK mà còn tạo điều kiện cho DN phát triển XK nữa. Về mặt thực hiện, chính phủ có thể giải thể Vietrade và các trung tâm XTTM địa phương để thành lập mới hệ thống XTXK quốc gia hoặc tái cơ cấu lại hệ thống dựa trên những tổ chức hiện có. Dù với cách làm nào, nhất thiết phải thông qua một bộ luật về cơ quan XTXK quốc gia trước hoặc lồng nội dung này trong bộ luật về khuyến khích xuất khẩu như kinh nghiệm quốc tế. Trên cơ sở đó sẽ tái cơ cấu lại mạng lưới XTXK chính phủ hiện nay theo tinh thần của bộ luật này. 3.2.1.3. Thực hiện XTXK theo hướng phát huy tổng lực các nguồn lực e Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các tổ chức XTXK Ngoài hệ thống các tổ chức XTXK chính phủ, các tổ chức XTXK phi chính phủ khác như VCCI, các hiệp hội DN, hiệp hội ngành nghề, các Trung tâm XTTM riêng của địa phương ... Mỗi đơn vị đều có những thế mạnh và có đối tượng phục vụ riêng. Đứng về phía lợi ích của các DN, phối hợp hoạt động giữa các đơn vị XTXK nói trên là một yêu cầu khách quan nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chung của mạng lưới XTXK quốc gia. Tuy nhiên, nếu để quá trình này diễn ra một cách tự phát thì sẽ mất nhiều thời gian. Do đó, chính phủ cần phải can thiệp bằng cách thiết 58 kế một cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, tài nguyên ... giữa các đơn vị này nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng DN. Trong cơ chế phối hợp đó, cơ quan XTXK quốc gia phải đóng vai trò chủ động và các tổ chức XTXK phi chính phủ phải sẵn sàng hợp tác thông qua báo cáo định kỳ về các mặt hoạt động. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là phải có một bộ luật về thông tin. Điểm mấu chốt trong bộ luật này là quy định rõ những thông tin nào mà các cơ quan, đoàn thể, ban ngành phải công bố rộng rãi và ai là người chịu trách nhiệm cung cấp những thông tin đó cho DN hoặc công dân nếu có yêu cầu. Chỉ nên hạn chế công bố đối với những thông tin liên quan an ninh quốc gia và những thông tin về đời tư cá nhân. Như thế mới tránh được tình trạng lạm phát báo chí nhưng các DN vẫn rất thiếu thông tin kinh doanh. e Phát huy lợi thế của cộng đồng người Việt ở hải ngoại Ngày 26/03/2004, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 36/NQ-TƯ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Trong đó đã nhận định "Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng tìm kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước ...Mặc dù sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương" Trên cơ sở nghị quyết 36/NQ-TƯ, cần thiết phải cụ thể hóa những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện cho những doanh nhân Việt kiều hợp tác và tham gia tích cực vào các chương trình XTXK cụ thể tại nước sở tại. e Mang hình ảnh Việt Nam đến với thế giới nhiều hơn Cần phải tiến hành quảng cáo thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng nước ngoài về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam để Việt Nam trở nên quen thuộc với thế giới hơn. Đây là yếu tố quan trọng trong phát triển thương mại, đầu tư, du lịch. Điều quan trọng là phải tiến hành các chiến dịch truyền thông hoặc quảng cáo ấy một cách chuyên nghiệp. Điều này có thể thực hiện thông qua việc phối hợp với hơn 80 công ty tư vấn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. 59 3.2.1.4. Hỗ trợ DN ứng dụng Internet một cách hiệu quả Như đã trình bày ở trên, mạng Internet là một công cụ chiến lược đối với hoạt động kinh doanh XK của các DN Việt Nam, đặc biệt đối với mô hình B2B. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tỷ lệ DN biết tận dụng những lợi thế của mạng Internet để phục vụ kinh doanh hiện vẫn còn ở mức thấp. Theo nghiên cứu của Tập đoàn Momentum Research Group, hiện có tới 61% công ty Mỹ và 47% công ty châu Âu đang ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Ở Việt Nam tính đến tháng 11/2002 chỉ có 2.000 trong số 60.000 DN bắt đầu ứng dụng Internet trong kinh doanh [29]. Còn theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam, số lượng trang web mà các DN Việt Nam đăng ký để phục vụ cho hoạt động kinh doanh là 10.362, chỉ chiếm khoảng 8,63% tổng số DN hiện có. Nhìn chung, việc ứng dụng internet trong việc kinh doanh của các DN Việt Nam còn thấp. Ngoài những lý do khách quan về cơ sở hạ tầng ... trở ngại quan trọng nhất vẫn là nhận thức của các DN. Hiện nay Vietrade đã có một phòng phụ trách thương mại điện tử (E-commerce). Tuy nhiên, theo tác giả thì Vietrade và các tổ chức XTXK chính phủ khoan hãy đề cập đến e-commerce vì cơ sở kỹ thuật, ngân hàng, luật pháp lẫn thói quen của người dân hiện nay hoàn toàn chưa phù hợp để triển khai e-commerce. Thay vào đó, điều mà các tổ chức XTXK chính phủ cần làm là thúc đẩy và hỗ trợ các cơ quan chính phủ, DN sử dụng một cách hiệu quả mạng máy tính và Internet đang có sẵn để phục vụ cho việc phát triển XNK. Cụ thể là: e Các bộ, ban ngành trực thuộc trung ương và UBND tỉnh, thành phố cần xây dựng mạng thông tin cho các đơn vị trực thuộc. Nhưng điều quan trọng là phải liên tục cập nhật thông tin, tránh tình trạng sau khi tổ chức khai trương website rầm rộ nhưng sau đó không hề cập nhật thông tin như đã từng xảy ra với một số sở, ban ngành ở Tp. HCM. e Thành lập các portal quốc gia để người bán và người mua có chỗ tự giới thiệu và giao dịch. Hiện nay Việt Nam đã thiết lập được một số portal theo kiểu này chẳng hạn như www.vnemart.com (hoặc www.vnemart.com.vn) chuyên về giao dịch hàng TCMN do VCCI phối hợp với VDC thực hiện; cổng thông tin và sàn 60 giao dịch thương mại điện tử Việt-Trung do VCCI và Uỷ ban Xúc tiến Mậu dịch Quốc tế Trung Quốc hợp tác xây dựng vừa chính thức khai trương (23/09/2004) tại hoặc cổng thương mại điện tử Việt Nam-châu Phi cũng đang được gấp rút xây dựng để có thể sớm ra mắt cộng đồng DN vào tháng 10/2005. Để hỗ trợ cho việc phát triển thêm các portal này, đề nghị hỗ trợ kinh phí thiết lập và duy trì portal trong 3 năm đầu từ nguồn hỗ trợ xúc tiến thương mại hàng năm. Sau đó sẽ chuyển giao cho Hiệp hội DN hoặc Phòng Thương mại quản lý, lấy thu bù chi. Do lĩnh vực này còn khá mới nên ta cần học hỏi cách làm của một số nước trong khu vực trong việc phát triển các portal chuyên về xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và công ty như www.chinaproducts.com, www.chinaexporter.net của Trung Quốc. e Phổ biến rộng rãi kiến thức và quy định về đăng ký tên miền tại Việt Nam và quốc tế. Mục tiêu chủ yếu là nâng cao nhận thức về đăng ký tên miền và tránh tranh chấp tên miền trong tương lai. 3.2.1.5. Xúc tiến xây dựng các tập đoàn thương mại mạnh Cần phải thúc đẩy việc hình thành một số công ty thương mại phi chính phủ hướng về XK mạnh theo mô hình GTCs của Nhật Bản và Hàn Quốc. e Về mặt tư tưởng, phải xoá bỏ tận gốc những quan điểm lạc hậu về tầng lớp thương nhân vẫn còn tồn tại như hiện nay. e Về cơ chế, cần bổ sung những biện pháp khuyến khích việc đầu tư vào lĩnh vực thương mại, đặc biệt đối với thương mại hướng về XK hàng Việt Nam ra nước ngoài. Chính phủ cũng có thể đầu tư thành lập mới những công ty cổ phần chuyên XK hàng hoá Việt Nam. e Về con người, cần phải có chiến lược thu hút được nguồn nhân lực trẻ đang phục vụ cho các công ty thương mại và VPĐD nước ngoài về làm việc cho các công ty thương mại Việt Nam. Có thể thực hiện được điều này nếu có chế độ đãi ngộ hợp lý cùng với môi trường làm việc tốt. Đây là cách làm nhanh và hiệu quả nhất để có được nguồn nhân lực chuyên nghiệp phục vụ cho việc phát triển XNK. 61 3.2.1.6. Xúc tiến thành lập các kho ngoại quan của hàng Việt Nam ở các thị trường trọng điểm, kết hợp hỗ trợ các DN mở VPĐD Mô hình Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài mà Bộ Thương mại đã khai trương tại New York và Dubai là những nỗ lực rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tăng cường khả năng xâm nhập của hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. Thay vì trực tiếp đầu tư, chính phủ nên có chính sách khuyến khích các DN thành lập thêm các kho ngoại quan (bonded warehouses) tại các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu Phi, Trung Đông. Nội dung này đã được đề cập trong chương trình XTTM trọng điểm quốc gia nhưng rất tiếc cho đến nay vẫn chưa có nhiều những dự án thuộc loại này. Cho đến nay có lẽ chỉ có công ty Viet Euro là đang xúc tiến thành lập công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh kho ngoại quan tại Đức. Các ưu điểm của mô hình kho ngoại quan này là: e Phản ứng nhanh với những đơn đặt hàng của khách hàng e Tăng tính cơ động trong việc chào, bán hàng e Mở ra khả năng cung ứng hàng trực tiếp cho các đối tượng mới như các hệ thống siêu thị lớn, các hiệp hội DN, DN người Việt, DNVVN bản xứ (lâu nay hàng Việt Nam chủ yếu được xuất qua trung gian, đại lý của các hệ thống siêu thị và những nhà buôn nhỏ) e Khắc phục được trở ngại về thời gian giao hàng. e Nắm bắt phản hồi của khách hàng về sản phẩm trực tiếp và nhanh chóng. Bên cạnh đó, có thể khai thác mặt bằng của kho ngoại quan để cho các DN nào có nhu cầu mở VPĐD. Mặc dù DN nào cũng biết những lợi ích to lớn mà VPĐD ở nước ngoài có thể mang lại nhưng cho đến nay cũng chỉ có một vài DN có khả năng mở VPĐD tại nước ngoài như Vinatex, Saigon Tourist, Tổng công ty Cao su, Công ty kinh doanh thủy hải sản, Acecook Việt Nam, Vissan, Biti's ... Theo báo cáo của Phòng Thị trường thương nhân nước ngoài (Sở Thương mại Tp. HCM), tính đến hết ngày 31-5-2004, đã có 19 DN đăng ký mở VPĐD tại nước ngoài nhưng chưa thấy hoặc địa chỉ đăng ký còn bỏ trống, 7 công ty khác đã trả lại 8 giấy chứng nhận đăng ký thành lập VPĐD tại 8 nước. Nguyên nhân chính là do chi phí của cho một VPĐD ở nước ngoài quá cao. 62 Ví dụ, nếu muốn đặt VPĐD tại Úc, DN phải ký quỹ 200.000 USD, phải nhận 2 người bản xứ làm việc tại VPĐD với mức lương 30.000 USD/năm. Ngay cả ở Mô hình kho ngoại quan kết hợp với VPĐD (tầng trên) tại Duesseldorf, Đức [30] Campuchia, chưa tính chi phí duy trì VPĐD, chỉ riêng giá sinh hoạt, tiêu dùng, dịch vụ đều đắt hơn ở Việt Nam khoảng 15%. Như vậy, kho ngoại quan kết hợp với VPĐD có thể là một giải pháp phù hợp đối với các DN Việt Nam. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể cho các DN thuê lại một phần diện tích trong các cơ quan đại diện ngoại giạo ở nước ngoài để mở VPĐD. Đây cũng là cách làm của Tổng Lãnh sự quán Singapore tại Tp. Hồ Chí Minh. 3.2.1.7. Tranh thủ sự hợp tác quốc tế trong XTXK Tổ chức XTXK và chính phủ các quốc gia phát triển thường có những chương trình xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Jetro của Nhật Bản là một điển hình. Một trong ba nội dung hoạt động của Jetro tại Việt Nam là XTXK hàng Việt Nam sang thị trường Nhật Bản thông qua các hoạt động sau: e Cử chuyên gia kỹ thuật về dệt may và chế biến nông sản từ Nhật Bản sang tổ qqchức hội thảo hoặc trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật nhằm hỗ trợ cho DN có nhiều triển vọng XK, đồng thời giới thiệu về thị trường Nhật Bản. e Mời đại diện các DN Việt Nam sang Nhật Bản theo chương trình hợp tác Châu Á (Asian Cooperation - AC) và chương trình Nghiên cứu XK sang Nhật Bản (Export to Japan Study Program - EJSP) để trực tiếp nghiên cứu thị trường, tìm hiểu kỹ thuật sản xuất và trao đổi với các DN Nhật Bản. e Cử chuyên gia có kinh nghiệm về thị trường hàng may mặc và thủ công mỹ nghệ theo chương trình STAR (Senior Trade Advisor) sang Việt Nam cung cấp 63 thông tin về thị trường và kỹ thuật cho các DN Việt Nam. Những sản phẩm do chuyên gia chọn mua đã được giới thiệu cho khách hàng Nhật Bản tại khu vực triển lãm của Jetro tại Tokyo và các thành phố lớn khác của Nhật Bản. e Tổ chức triển lãm XTXK hàng dệt may và thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam, mời đoàn mua hàng Nhật Bản sang trực tiếp xem hàng và đàm phán hợp đồng với các công ty có triển vọng XK của Việt Nam. e Hỗ trợ các nhà XK Việt Nam tham gia các triển lãm tổ chức tại Nhật Bản (như International House Ware Show, International Gift Show và International Furniture Fair) e Cung cấp thông tin về các DN Nhật Bản và giới thiệu sản phẩm của các công ty Việt Nam với khách hàng Nhật Bản thông qua "Trade Inquiry". Ngoài ra, các công ty Việt Nam muốn tự giới thiệu về mình cũng như muốn trực tiếp tìm kiếm khách hàng hoặc nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng có thể truy cập vào Chương trình Xúc tiến Quan hệ Thương mại (Trade Tie-up Promotion Program - TTTP) trên website của Jetro. Như vậy, Jetro hoạt động cùng hướng với các tổ chức XTXK của Việt Nam. Tại Thái Lan, Jetro cũng đã hợp tác rất thành công với chính phủ Thái Lan trong chương trình "mỗi làng một sản phẩm" XK (One Tambon One Product - OTOP). Ngoài Jetro, cũng còn rất nhiều các tổ chức XTXK và tổ chức nước ngoài khác như Kotra, Sippo, Cetra, ITC, CBI, Thương vụ Ý, Pháp, Cộng hoà Sec tại Việt Nam ...đều là những đối tác XTXK quan trọng của Việt Nam. 3.2.2. Một số giải pháp vi mô Những ý tưởng đưa đến các giải pháp được trình bày trong phần này chủ yếu căn cứ vào tài liệu "TPO Best Practices" được ITC giới thiệu. Rất tiếc chưa có mô hình hoạt động nào của tổ chức XTXK Việt Nam được giới thiệu trong tài liệu này. Tác giả đã lựa chọn một vài những ý tưởng có thể áp dụng ngay để xây dựng giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả và phương thức hoạt động của các XTXK chính phủ Việt Nam. 3.2.2.1. Nâng chất lượng thông tin cung cấp cho DN 64 Chú trọng và đầu tư đúng mức vào việc thu thập thông tin sơ cấp, đặc biệt là thông tin về thị trường mục tiêu, về các đối tác tiềm năng do các thương vụ, các trung tâm XTXK ở nước ngoài gửi về. Để làm được điều này, cần làm một số việc sau: e Các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần phải thuê nhân viên bản xứ làm công tác thu thập thông tin và thăm dò thị trường tương tự như Jetro, Kotra, Cetra và tất cả các VPĐD nước ngoài ... đang làm tại Việt Nam từ lâu nay. Chắc chắn chi phí thuê chuyên gia nước ngoài là khá cao (có thể phải trả cao hơn lương của tham tán thương mại) tuy nhiên đây là một khoản đầu tư đáng làm vì chất lượng thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có độ tin cậy cao hơn so nếu chính người Việt Nam tự làm lấy vì một trong những rào cản quan trọng là ngôn ngữ. e Công tác thu thập thông tin của thương vụ cần phải làm một cách có hệ thống, có sự phối hợp giữa các văn phòng thương vụ và căn cứ vào nhu cầu thực sự của DN. Nhu cầu này cần phải được xác định dựa vào chiến lược XNK quốc gia, của các hiệp hội doanh nghiệp. Bên cạnh những yêu cầu về thông tin đột xuất, cần phải xây dựng những báo cáo thường niên và chuẩn mực về thị trường nước sở tại để giúp các doanh nghiệp định hướng hoạt động tốt hơn. Một trong những ví dụ hay đó là báo cáo so sánh chi phí kinh doanh và đầu tư tại các quốc gia Châu Á do Jetro thực hiện hàng năm. e Chú trọng cung cấp thông tin đã qua xử lý, đặc biệt là những thông tin mang tính chất tình báo. Đã đến lúc chúng ta không thể tránh né đề cập đến thông tin tình báo trong kinh doanh bởi vì những thông tin càng có giá trị thì lại càng có tính chất tình báo. Tình báo thương mại, tại sao không ? Ông L.K.Key - Giám đốc điều hành Công ty China Promotion kiêm Tổng Thư ký Ban Tổ chức Triển lãm hội chợ Hồng Kông - tỏ ra ngạc nhiên khi ở Việt Nam rất ngại nói đến tình báo thương mại. “Vấn đề tình báo thương mại là vấn đề không thể thiếu đối với hầu hết các nước trên thế giới”. Tình báo thương mại ở Hồng Kông hoạt động độc lập, họ tự tìm hiểu về khách hàng mà không chờ đợi vào sự giúp đỡ của Chính phủ ... Theo ông Key, Chính phủ VN nên hỗ trợ để thành lập tình báo thương mại. Chỉ cần khoảng 10 người, mỗi người tập trung nghiên cứu chuyên sâu theo từng lĩnh vực riêng khác nhau, họ phải nắm kỹ “như lòng bàn tay” về lĩnh vực họ được phân công và họ sẽ rất hữu ích cho công tác xúc tiến thương mại và đầu tư. Nguồn : Vietnam Economy (19/07/2004) 65 Một trong những dịch vụ cung cấp thông tin hữu hiệu của Jetro cho các DN Nhật bản là Jetro-file. Đây là tập hợp các báo cáo về thị trường hải ngoại được thu thập và xử lý bởi trụ sở chính và 76 văn phòng Jetro hải ngoại theo những tiêu chí thống nhất. Mỗi báo cáo chứa đựng thông tin chi tiết về quốc gia, tình hình kinh tế, các số liệu thống kê và thông tin cần thiết khác cho thương mại và đầu tư. Các DN Nhật có thể xem các báo cáo này (bằng tiếng Nhật và được trình bày theo một quy cách thống nhất cho dễ so sánh) trực tiếp qua mạng Internet hoặc tải xuống tại địa chỉ Tính đến tháng 3/2003, đã có khoảng 38.000 DN đăng ký sử dụng hệ thống Jetrofile, trung bình có 16.000 lượt truy cập vào địa chỉ này mỗi tháng. Jetro cũng báo cho các DN biết qua e-mail mỗi khi có thông tin mới được cập nhật vào Jetro-File. Không chỉ thông tin về thị trường nước ngoài, Jetro còn cung cấp thông tin hết sức chi tiết về các khía cạnh của nền kinh tế Nhật Bản tại địa chỉ với khoảng 73 báo cáo chi tiết (20~99 trang/báo cáo) về các sản phẩm mà Nhật Bản có nhu cầu như thực phẩm, quần áo, giải trí và thể thao, gia dụng, máy móc thiết bị ...Các báo cáo này được thực hiện trong giai đoạn 1997 ~ 2004. Thực ra, ITPC của Tp. HCM cũng đã có dịch vụ tương tự [31]. Tuy nhiên, do thông tin chậm cập nhật (số liệu thống kê chủ yếu năm 2000) nên có phần kém hấp dẫn. Điều kiện quan trọng giúp Jetro thu thập được số liệu sơ cấp là nhờ vào hệ thống 76 văn phòng ở hải ngoại. Tuy nhiên, tác giả tin rằng các tổ chức XTXK chính phủ Việt Nam trong hoàn cảnh còn nhiều thiếu thốn như hiện nay vẫn có thể làm tốt dịch vụ này qua hợp tác chặt với các tổ chức XTXK nước ngoài, mua lại thông tin của các hãng tin lớn như Reuters hoặc đơn giản nhất là chịu khó thu thập thông tin thứ cấp có giá trị có sẵn trên mạng Internet và dịch lại cho các DNVVN của Việt Nam. 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức hội chợ, triển lãm Các tổ chức XTXK chính phủ cần phải nâng cao hơn chất lượng của khâu tổ chức cho DN tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Để làm được việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều cơ quan khác nhau như xuất nhập cảnh, hải 66 quan (để chuyên chở hàng hoá dùng cho triển lãm), thiết kế gian hàng, in ấn tài liệu giới thiệu, truyền thông ... Cần phải thông tin đầy đủ về hội chợ, triển lãm cho các DN quan tâm biết để họ chuẩn bị tốt hơn. Sau khi kết thúc, cần phải lấy ý kiến phản hồi ngay của các DN tham dự để rút kinh nghiệm cho những lần tham dự sau. Trong điều kiện kinh phí XTXK còn hạn chế, các DN không thể tham dự tất cả mọi hội chợ liên quan đến ngành của họ. Tuy nhiên, một trong những biện pháp khắc phục đó là tổ chức các gian hàng thông tin của Việt Nam tại các hội chợ quốc tế mà các DN không thể tham dự vì lý do kinh phí. Chi phí thuê và hoạt động gian hàng sẽ do Vietrade chịu, các doanh nghiệp chỉ cần gửi cataloge, danh thiếp ... đến để trưng bày. Cách làm này vừa tiết kiệm nhưng cũng không kém phần hiệu quả nếu tổ chức tốt. 3.2.2.3. Cải thiện hoạt động thông qua "Chỉ số hài lòng của khách hàng" (Customer Satisfaction Index - CSI) và một số tiêu chí hoạt động (Key Performance Indicators - KPIs) Song song với việc tái tổ chức lại Vietrade và các tổ chức XTXK chính phủ khác, cần phải xây dựng phương thức đánh giá hiệu quả hoạt động của nó. Một trong những phương pháp hiệu quả đang được áp dụng tại một số quốc gia là xây dựng những tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức XTXK. Đơn cử trường hợp của Australian Trade Commission (Austrade). Austrade sử dụng một số KPIs như sau nhằm định hướng hoạt động của nhân viên Austrade và xác định mức độ thành công của Austrade: e Chỉ số hài lòng của khách hàng (CSI) e Tác động đến XK - Số DN và kim ngạch XK e Tác động các nhà XK mới - Số DN mới tham gia e Đầu tư ra nước ngoài - Số DN và vốn đầu tư e Mức độ am hiểu của cộng đồng về các dịch vụ XTXK của Austrade e Tỷ lệ dân chúng tin rằng XK đóng góp quan trọng cho nền kinh tế 67 Trong đó, chỉ số CSI có vai trò quan trọng. Thực ra, đây là một kỹ thuật trong quản trị được áp dụng trong các DN từ lâu. Xét cho cùng thì dịch vụ của các tổ chức XTXK cũng là một dạng sản phẩm. Tham khảo thêm kinh nghiệm áp dụng chỉ số CSI của các tổ chức XTXK ở Tây Ban Nha ( Hy Lạp ( và Na Uy ( chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: e Mục tiêu : Đánh giá mức độ hài lòng của các DN đối với từng loại dịch vụ của các tổ chức XTXK nhằm cải thiện dịch vụ và xác định sớm những yếu tố kém hiệu quả (Copca - Tây Ban Nha), đánh giá hiệu quả của dịch vụ (Hepo-Hy Lạp) hoặc chứng minh tính hiệu quả của dịch vụ với những tổ chức tài trợ hoặc DN tham gia (NTC-Na Uy) e Cách làm : Copca và Hepo gửi những bản câu hỏi đã được chuẩn bị trước đến các DN tham gia các hoạt động XTXK Sau đó, Copca sẽ thuê một tổ chức độc lập sẽ tiến hành phân tích kết quả thu được. Với Hepo thì nhân viên sẽ tự phân tích lấy. Các bản trả lời không được dưới dạng vô danh vì Copca và Hepo đều muốn xác định rõ những thành công hoặc thất bại với từng DN cụ thể. Tổ chức độc lập sẽ báo cáo trực tiếp những điểm khách hàng không hài lòng với lãnh đạo Copca. Với những DN không trả lời, Copca sẽ tìm hiểu trực tiếp để thuyết phục họ cho biết ý kiến. Trên cơ sở ý kiến phản hồi, các tổ chức XTXK này sẽ phân tích và điều chỉnh cá hoạt động của họ. Hepo cũng tổ chức trưng cầu ý kiến DN về những hội chợ mà họ muốn tham dự. Hepo và NTC cũng dùng kết quả khảo sát để xác định hiệu quả của dịch vụ lẫn mức độ hài lòng của DN. Theo Copca, tốt hơn là sử dụng các tổ chức độc lập để điều tra và phải hết sức linh hoạt nếu muốn lấy ý kiến các DN ngay sau khi kết thúc hoạt động. Ngoài ra, nếu tìm hiểu mức độ hài lòng của DN thì nên khảo sát trong vòng tối đa 3 tháng sau khi sự kiện kết thúc. Ngược lại, để xác định hiệu quả hoạt động thì cần phải đợi ít nhất là 1 năm sau. Với Hepo, họ đã lập tức điều chỉnh nội dung các buổi huấn luyện sau khi biết các DN muốn tham khảo nhiều case-study hơn, ngoài ra họ cũng biết được những loại 68 hình quảng bá dịch vụ nào là hiệu quả hơn để áp dụng cho những sự kiện sắp tổ chức. Riêng NTC cho biết để cải thiện dịch vụ điều quan trọng là cần phải có những chương trình đồng tài trợ giữa hai bên: chính phủ và các DN. Chỉ số hài lòng của khách hàng Finpro 2001 Đánh giá chung Dịch vụ khách hàng & Marketing Dịch vụ liên quan đến sản phẩm Dịch vụ tư vấn Dịch vụ phát triển và cảI cách Hệ thống Trung tâm Thương mạI Finpro 3.90 3.79 3.88 3.90 4.00 4.07 1.00 2.00 3.00 4.00 5.00 Nguồn : Báo cáo hoạt động 2001 Finpro Như vậy, nếu áp dụng cách làm của Copca, Hepo hay NTC để biết CSI của các DN ngay sau những hoạt động như hội chợ, triển lãm, hội thảo, đào tạo ... và có tinh thần cầu thị nghiêm túc thì chắc chắn các tổ chức XTXK chính phủ Việt Nam sẽ nhanh chóng cải thiện được chất lượng dịch vụ của họ. 3.2.2.4. Phát triển các DN XK và mặt hàng XK mới Đây là một nội dung quan trọng của phát triển XK. Như đã trình bày trong chương 1, chiến lược XK của quốc gia sẽ kém bền vững nếu các tổ chức XTXK chỉ tập trung vào phục vụ cho các DN XK và các sản phẩm XK hiện tại mà xem nhẹ việc hỗ trợ các DN va sản phẩm có tiềm năng XK. Hiện nay, các tổ chức XTXK chính phủ ở Việt Nam chưa chú trọng đến nội dung này. Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì các DNVVN hiện đang chiếm tỷ lệ 95% ở Việt Nam. Để thực hiện điều này, một trong những giải pháp đơn giản và ít tốn kém nhất đó là giúp các DN có tiềm năng XK tự kiểm tra mức độ sẵn sàng tham gia XK qua mạng Internet. Vụ Thương mại của Áo - AWO đã thiết kế trên website của tổ chức này ( một công cụ tương tác có tên là Export Fitness Test dưới dạng hỏi đáp. Nhờ đó các DNVVN có thể tự xác định họ có nên khởi sự XK hay chưa hoặc nếu chưa thì họ cần phải làm những gì để có thể bắt đầu XK. 69 Hội đồng Phát triển Thương mại Hongkong (HKTDC) lại có cách tiếp cận khác [32]. Họ cho thành lập một số nhóm tư vấn trực tiếp (one-to-one) dành cho các DNVVN. Mỗi nhóm đặc trách về một vấn đề như quản lý tín dụng trong XK, quản trị tài chính dành cho các DNVVN, triển vọng và xu hướng của một số thị trường XK chọn lọc, luật thương mại áp dụng cho các DNVVN, thủ tục khai báo hải quan, lập chiến lược marketing quốc tế ...Nhân viên R&D của HKTDC và một số tổ chức tư vấn chuyên nghiệp sẽ tham gia chương trình dưới sự điều hành chung của HKTDC. 3.2.2.5. Cần đầu tư xây dựng trung tâm triển lãm hội chợ tầm cỡ quốc gia tại Tp. HCM Tp. HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, nhưng nơi đây không có một trung tâm lớn tầm cỡ quốc gia để phục vụ cho việc tổ chức thường xuyên hội chợ, triển lãm và các sự kiện XTTM quan trọng khác. Đây quả là một thiếu sót lớn trong công tác XTXK quốc gia. Trung tâm Triển lãm Hội chợ quốc tế Tp. HCM (HIECC) ra đời từ năm 1994 với quy mô 1 ha chỉ vừa đủ cho khoảng 200 - 300 gian hàng. So với các nước khác, HIECC chưa thể đáp ứng được yêu cầu tổ chức các hội chợ có quy mô quốc tế. Ngoài ra, khuôn viên của HIECC đã trở nên quá tải trong việc giải quyết nơi để xe cho khách tham quan. Tuy Sở Thương mại đã có dự án xây dựng trung tâm hội chợ, hội nghị mới cho Tp. HCM tại khu vực Kỳ Hoà 1 hoặc Saigon Tourist đang dự kiến xây dựng trung tâm tuơng tự tại khu Nam Sàigòn [33]. Tuy nhiên, các dự án này vẫn còn đang triển khai và phải mất nhiều thời gian nữa mới có thể hoàn tất. Theo tác giả thì song song với việc cơ cấu lại các tổ chức XTXK chính phủ, chính phủ nên nghiên cứu đầu tư xây dựng một trung tâm hội chợ - triển lãm - hội nghị tầm cỡ quốc gia tại Tp.HCM. Sau khi hoàn tất, chính phủ nên giao cho Vietrade quản lý và khai thác trung tâm này để tạo nguồn thu bổ sung cho kinh phí hoạt động. 3.2.2.6. Nâng cao hiệu quả của chương trình XTTM trọng điểm quốc gia 70 e Thống nhất đầu mối quản lý và thực hiện chương trình: Hiện nay, chương trình XTTM trọng điểm hàng năm do Bộ Thương mại phê duyệt theo sự uỷ quyền của Thủ tướng, còn việc chi hỗ trợ lại do Bộ Tài chính quyết định. Cách làm này đã gây ách tắc trong thực hiện. Sau khi hệ thống XTXK chính phủ đã được tổ chức lại theo đề xuất ở điểm 3.2.1.3 ở trên, chính phủ nên xem xét giao hẳn việc xét duyệt và chi hỗ trợ cho Vietrade. e Tài trợ 100% một số khoản chi phí nào đó: Thay vì tài trợ 50% hoặc 70% tổng chi phí tham dự chương trình của DN, nên chuyển sang tài trợ 100% một số khoản nhất định nào đó như vé máy bay khứ hồi, chi phí khách sạn (có quy định mức tối đa), chi phí thuê gian hàng, chi phí thiết kế gian hàng, phí đi lại ... Đó thường là những khoản chi chủ yếu và dễ kiểm tra. Sau đó, DN chỉ cần nộp hoá đơn chi gốc cho cơ quan chủ trì để được hoàn 100% khoản chi theo quy định. Như vậy, việc hoàn chi phí cho các DN chắc chắn sẽ đơn giản và nhanh chóng hơn, khắc phục được tình trạng chậm trễ như hiện nay. Đây cũng là cách mà Matrade, Kotra và nhiều tổ chức XTXK khác đang áp dụng đối với các DN của họ. e Duyệt xét chương trình XTTM trọng điểm sớm hơn: Chính phủ cần phải thông qua các chương trình XTTM trọng điểm cho năm tới sớm hơn, tốt nhất là trong quý 4 của năm trước. Vì có nhiều hoạt động hội chợ, triển lãm ở nước ngoài được tổ chức ngay vào đầu năm sau. Để tham dự các kỳ hội chợ, triển lãm này, DN và đơn vị chủ trì cần phải có thời gian chuẩn bị và đăng ký ngay từ quý 4 của năm trước. e Tài trợ cho các nhà nhập khẩu nước ngoài đến Việt Nam: Chương trình cũng nên có nội dung tài trợ các DN nước ngoài đến tham dự hội chợ, triển lãm tại Việt Nam, hoặc khảo sát thị trường Việt Nam theo lời mời của các tỉnh, thành phố liên quan, DN Việt Nam hoặc hiệp hội ngành nghề tương ứng. e Hỗ trợ các DN Việt Nam chi phí tham gia đấu thầu ở nước ngoài ... e Hỗ trợ các DN (đặc biệt là DNVVN) vận dụng những tiện ích căn bản của máy tính và Internet phục vụ kinh doanh như hỗ trợ lập website ít nhất với hai ngôn ngữ Việt-Anh; hướng dẫn tổ chức và lưu trữ thông tin một cách hợp lý và 71 khoa học; tìm kiếm thông tin trên mạng Internet; sử dụng e-mail trong chào hàng, giao dịch với các đối tác nước ngoài; sử dụng Microsoft Powerpoint để giới thiệu về DN một cách chuyên nghiệp; thiết kế brochure qua các hình thức in ấn, dĩa CDs hoặc thậm chí e-card một cách thẩm mỹ, chuyên nghiệp ... Những vấn đề trên tưởng chừng hết sức nhỏ nhặt nhưng trong thực tế còn rất nhiều DN Việt Nam chưa quan tâm đúng mức hoặc không thực hiện được do trở ngại về mặt kinh phí. Trên đây là một số giải pháp cả vĩ mô và vi mô được xây dựng chủ yếu dựa vào tình hình thực tế của các tổ chức XTXK chính phủ kết hợp với những kinh nghiệm của các tổ chức XTXK nước ngoài. Chắc chắn những đề xuất trên vẫn chưa phải là những giải pháp đầy đủ và tối ưu. Tuy nhiên, tác giả tin tưởng rằng nếu được thực hiện, các giải pháp trên sẽ góp phần tích cực và nhanh chóng cải thiện chất lượng hoạt động. 72 KẾT LUẬN Cùng với quá trình hội nhập, khái niệm biên giới kinh tế và bảo hộ mậu dịch sẽ dần dần biến mất. Các DN đang chuyển dần từ cạnh tranh nội địa thuần tuý sang cạnh tranh quốc tế ngay trong thị trường nội địa. Do đó, cải thiện khả năng cạnh tranh không phải chỉ nhằm mục tiêu XK mà trước hết, đó là yêu cầu bắt buộc để tồn tại của bất kỳ DN nào. Trong bối cảnh đó, bản chất của XTXK ở tầm quốc gia cũng phải thay đổi. Từ chỗ tìm mọi cách để bảo hộ hàng nội hoá và xâm nhập thị trường mục tiêu, XTXK ngày nay phải nhắm đến cả mục tiêu XK lẫn gia tăng khả năng cạnh tranh của DN. Để đạt được mục tiêu đó, các tổ chức XTXK chính phủ cần phải thay đổi chiến lược hoạt động. Thực tế cho thấy khái niệm và cách làm XTXK theo nghĩa hẹp ngày nay là không đủ. Nghĩa là không thể chỉ tập trung vào những hoạt động có mục đích khuyến khích nhu cầu nhập khẩu của khách hàng. Nhưng các tổ chức XTXK chính phủ cần phải đóng một vai trò tích cực trong nỗ lực cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của các DN. Để làm được điều đó, các tổ chức XTXK của chính phủ cần phải có một vị thế pháp lý tương xứng. Kinh nghiệm cho thấy đa số các tổ chức XTXK quốc gia đều được tổ chức theo hình thức công lập nhưng được tự chủ về tài chính và quản trị. Chính nhờ đặc điểm này mà các tổ chức XTXK chính phủ có tầm ảnh hưởng chính trị và linh hoạt cần thiết để liên kết các tổ chức liên quan nhằm thực hiện chiến lược XK quốc gia. Về cơ bản, chính phủ Việt Nam đã thiết lập được một mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ ở các cấp khác nhau. Đó là cơ quan XTXK quốc gia (Vietrade), các trung tâm XTXK địa phương, mạng lưới thương vụ và các trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài. Đồng thời, cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động XTXK cũng đã được ban hành ở những mức độ khác nhau. Trong những năm qua, các tổ chức XTXK chính phủ đã góp phần tích cực vào kết quả hoạt động XK của Việt Nam. Đặc biệt chương trình XTTM trọng điểm quốc gia đã thu hút sự tham gia tích cực của các DN. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan, hoạt động của các tổ chức XTXK chính phủ vẫn chưa đi đáp ứng 73 được trọn vẹn nhu cầu của cộng đồng DN. Điển hình là chất lượng thông tin, đào tạo, hội thảo ... vẫn còn thấp; khâu tổ chức các chương trình hội chợ, triển lãm ...vẫn còn thiếu chuyên nghiệp ... Và quan trọng nhất là tính hệ thống của toàn bộ mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ vẫn còn rất thấp. Để khắc phục những nhược điểm trên, cần phải có những giải pháp đồng bộ cả về mặt tổ chức lẫn cơ chế. Các giải pháp này cần dựa vào tình hình thực tế của các tổ chức này, vào ý kiến đóng góp của các DN và kinh nghiệm từ các tổ chức XTXK nước ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp vĩ mô và vi mô mà theo tác giả là quan trọng và có tính khả thi cao trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Tác giả mạnh dạn nghiên cứu về đề tài còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam này với mong muốn góp một phần nhỏ bé trong lĩnh vực nghiên cứu về XTXK. Tuy nhiên, do khả năng còn hạn chế nên chắc chắn nội dung luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý Thầy Cô, các nhà chuyên môn và các bạn học viên góp ý thêm để nội dung nghiên cứu của tác giả sẽ trở nên hoàn chỉnh hơn. 74

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf025.LVQTKD1.Kilobooks.com.pdf
Luận văn liên quan