Đề tài Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội

Bố cục đề tài gồm 3 phần: Chương 1: Cơ chế tự khai, tự nộp thuế và công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Chương 3: Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những khiếm khuyết trong nội dung. Em kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ thuế và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị đang công tác tại Phòng tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế - Cục Thuế Hà Nội và sự tận tình chỉ bảo của cô giáo, Ths Nguyễn Thị Minh Hằng tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội, tháng 04 năm 2011 Sinh viên

doc65 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3084 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng mắc về chính sách, pháp luật thuế mà cả những vấn đề bức xúc liên quan đến hành vi, thái độ không đúng mực của cán bộ thuế cũng được phản ánh. Qua những hội nghị đối thoại này, cơ quan thuế có được cái nhìn khách quan hơn về hoạt động quản lý của mình, từ đó có phương hướng, biện pháp cải thiện hoạt động. Năm 2010, Cục thuế tổ chức 1 buổi tọa đàm với 250 doanh nghiệp về chính sách thuế đối với kinh doanh bất động sản và ủy nhiệm thu bất động sản. Bảng 3: Số liệu thống kê hoạt động hỗ trợ NNT giai đoạn 2006 - 2010 STT Các hình thức hỗ trợ Đơn vị tính Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Số lượng So với 2006 Số lượng So với 2007 Số lượng So với 2008 Số lượng So với 2009 1 Hướng dẫn tại cơ quan thuế Lượt 18300 18500 101.1% 15800 85.4% 15000 94.9% 37870 252.5% 2 Hướng dẫn qua điện thoại Lượt 15850 13200 83.3% 12200 92.4% 13000 106.6% 73450 565% 3 Hướng dẫn bằng văn bản Lượt 1255 1800 143.4% 2300 127.8% 2766 120.3% 1740 62.9% 4 Tổ chức tập huấn cho doanh nghiệp + Số lớp Lớp 35 46 131.4% 14 30.4% 37 264.3% 152 410.8% + Lượt doanh nghiệp Lượt 7680 26500 345.1% 6450 24.3% 10850 168.2% 76000 700.5% (Nguồn: Phòng tuyên truyền hỗ trợ NNT - Cục Thuế Hà Nội) Qua bảng thống kê trên cho thấy: + Hình thức trả lời bằng điện thoại có tần suất nhiều nhất, năm 2008 giảm 7,6% so với năm 2007 nhưng đến năm 2009 tăng 6,6% so với năm 2008, và năm 2010 tăng 465% so với năm 2009. Lý do của sự tăng đột biến này là: có thể nói đây là những hình thức hỗ trợ tư vấn phổ biến và hiện nay, tại mỗi bộ phận của các phòng ban tại cục thuế đều bố trí điện thoại để các cán bộ có thể tư vấn cho người nộp thuế; mặt khác, các thông tin về các luật thuế mới, các cơ chế chính sách đều được đăng tải lên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể tra cứu dễ dàng. Vì vậy, nếu có vướng mắc, NNT sẽ trao đổi qua điện thoại, tiết kiệm thời gian. + Việc trả lời trực tiếp tại cơ quan thuế năm 2010 tăng 152,5% so với năm 2009. Với sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường như hiện nay cùng với sự chưa đồng bộ trong chính sách thuế. Do đó, vướng mắc của NNT cũng tăng theo và đòi hỏi sự tư vấn, hỗ trợ trực tiếp cũng tăng lên. + Hình thức trả lời bằng văn bản có tính pháp lý cao nhất nhưng lại là hình thức ít dùng và có tần suất ít nhất trong các hình thức hỗ trợ, trung bình chỉ bằng 5 - 6% so với hai hình thức trên. Năm 2008 tăng 27,8% so với năm 2007; năm 2009 tăng 20,3% so với năm 2008, nhưng đến năm 2010 giảm 37,1% so với năm 2009. Sự giảm này cũng dễ hiểu do công nghệ thông tin ngày càng phát triển, cục Thuế đã nghiên cứu và đưa vào áp dụng các hình thức hỗ trợ hiện đại hơn để giảm thiểu số lượng giấy tờ trong cơ quan thuế. + Việt Nam là quốc gia đang phát triển, số lượng các doanh nghiệp mới thành lập ngày càng tăng lên. Do đó, tập huấn cho đối tượng này trong việc nắm bắt được chính sách thuế và biết được nghĩa vụ thuế của mình cũng tăng lên: năm 2009 tăng 68,2% so với năm 2008; đặc biệt năm 2010 tăng 600,5% so với năm 2009. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách thuế là việc cần thiết để đạt hiệu quả trong công cuộc hiện đại hoá cục Thuế. Vì vậy, Cục thuế đã chú trọng đến công tác tập huấn cho các doanh nghiệp khi có chính sách thuế mới với mục đích giúp các doanh nghiệp không bị lúng túng khi có sự thay đổi. Ngoài các hình thức hỗ trợ trên, năm 2006 cơ quan thuế đã đưa vào ứng dụng phần mềm hỗ trợ kê khai thuế dựa trên công nghệ mã vạch hai chiều phiên bản 1.1.0 và hiện nay đã đưa ra phiên bản mới 2.5.3 và 2.5.4, khắc phục nhiều lỗi của các phiên bản trước như: lỗi không kê khai được từ 2 mặt hàng có cùng tên của tờ khai thuế 01/TTĐB, lỗi cảnh báo sai của tờ khai 02/KK-TNCN... Việc triển khai áp dụng ứng dụng HTKK sử dụng công nghệ mã vạch 2 chiều trong công tác quản lý kê khai thuế tại Hà Nội đã góp phần giảm thiểu thời gian khai thuế cho NNT; giảm được áp lực và khối lượng xử lý tờ khai cho cán bộ thuế, giảm được sai sót, nhầm lẫn, cung cấp dữ liệu nhanh chóng. Hiện nay, Cục thuế Hà Nội đang triển khai việc cấp MST TNCN và nhận hồ sơ quyết toán thuế TNCN và thuế TNDN qua mạng. Dự án này còn mới nên việc hỗ trợ cho NNT là rất quan trọng. Các doanh nghiệp sẽ được cán bộ tại cơ quan thuế hỗ trợ trong việc xử lý tờ khai, cấp MST… Trong quá trình thực hiện dự án, Cục thuế Hà Nội đã triển khai thí điểm cho 715 doanh nghiệp và hiện đang trong giai đoạn 3. Việc triển khai dự án này đã được các doanh nghiệp hoan nghênh đồng tình và hưởng ứng. Nhằm tăng cường công tác phục vụ doanh nghiệp, Cục thuế còn triển khai hỗ trợ NNT thông qua công tác thu nộp thuế và ủy nhiệm thu qua ngân hàng. Từ năm 2009, Cục thuế đã thực hiện kết nối dữ liệu giữa cơ quan thuế - Tài chính - Hải quan (TCS). Kết quả dự án đã mang lại lợi ích cho NNT: NNT rất thuận tiện khi lựa chọn và đến các điểm giao dịch của NHTM, giảm thời gian nộp thuế (thời gian nộp thuế chỉ còn trung bình 2 phút và có những giao dịch chỉ tính bằng giây). Như vậy, đi đôi việc tuyên truyền, cục Thuế cũng đã ngày càng quan tâm hơn đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho NNT. Việc này có ý nghĩa rất lớn, nó không chỉ giúp NNT thấy đơn giản hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, mà còn giúp cơ quan thuế trong việc kiểm tra các sai sót trong việc kê khai, tính toán của NNT. Từ đó góp phần nâng cao ý thức tự giác của NNT và tăng hiệu quả làm việc của cơ quan thuế. 2.3.2.3. Kết quả đạt được Qua hai năm thực hiện thí điểm và ba năm áp dụng chính thức cơ chế TKTN thuế, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của cục Thuế nói chung và của bộ phận TTHT NNT nói riêng cùng với sự ủng hộ của NNT và các ban ngành liên quan, công tác TTHT NNT đã đạt được những kết quả nhất định, bước đầu đạt được mục tiêu chính đề ra là nâng cao ý thức tuân thủ của NNT đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý thuế. Theo kết quả điều tra của Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, có 90% NNT hài lòng với chất lượng phục vụ của cơ quan thuế tại bộ phận “một cửa”. Bảng 4: Kết quả thu Ngân sách qua các giai đoạn Đơn vị tính: Tỷ đồng Chỉ tiêu Giai đoạn 2001 - 2005 Giai đoạn 2006 - 2010 Chênh lệch Tỉ lệ (%) 1. Thu NS 101.019 313.485 212.466 210,3 2. Truy thu và phạt hành chính 19.635 16.226 3.409 17,36 3. Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 118 124 6 5,08 (Nguồn: Phòng tuyên truyền hỗ trợ NNT - Cục thuế Hà Nội) Kết quả thu ngân sách 5 năm: 2006-2010 của Cục thuế luôn hoàn thành vượt mức dự toán được giao, đạt tốc độ tăng trưởng và số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Tổng số thu Ngân sách giai đoạn 2006-2010 là 313.485 tỷ đồng, cao hơn giai đoạn 2001 - 2005 là 212.466 tỷ đồng, tăng 210,3% (giai đoạn 2001-2005 là 101.019 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong giai đoạn 2006 - 2010 là 124%, cao hơn giai đoạn 2001 - 2005 là 6% (giai đoạn 2001 - 2005 là 118%). Có được thành tích này là nhờ sự phối hợp thường xuyên, hiệu quả của các ngành, các cấp trong công tác thuế; đại đa số NNT luôn phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức để duy trì, phát triển SXKD và chấp hành tốt pháp luật thuế; đặc biệt với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công chức thuế Hà Nội, hàng năm đã đề ra và triển khai đồng bộ, có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm, những biện pháp công tác. Bên cạnh đó, nhờ những nỗ lực của cục Thuế trong việc TTHT NNT, ý thức của NNT tăng lên rõ rệt so với giai đoạn trước. Bảng 5: Kết quả nộp tờ khai trên địa bàn cục thuế Hà Nội Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 1. Tỉ lệ nộp chậm tờ khai 15,8 5,62 2 2. Tỉ lệ không nộp tờ khai 2,86 3. Tỉ lệ tờ khai lỗi 10,4 6 5 (Nguồn: Phòng tuyên truyền hỗ trợ NNT - Cục thuế Hà Nội) Nếu ở thời điểm tháng 1/2008 tỷ lệ nộp chậm tờ khai là 15,8% thì đến tháng 12/2008 tỷ lệ này là 15%; đến năm 2009, tỷ lệ nộp chậm tờ khai là 5,62%, tỷ lệ không nộp tờ khai là 2,86%; đến năm 2010, tỷ lệ nộp chậm tờ khai là 2%. Đồng thời, chất lượng kê khai của tờ khai cũng tăng lên và số tờ khai lỗi giảm xuống từ 10,4% năm 2008 xuống 6% 2009, năm 2010 tỷ lệ này chỉ khoảng 2-5%. Điều này cho thấy, đại đa số bộ phận NNT đã có ý thức tuân thủ pháp luật và một phần do hiệu quả công tác TTHT NNT. 2.3.3. Đánh giá việc thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong cơ chế TKTN thuế tại cục thuế Hà Nội 2.3.3.1. Những mặt đã làm được Với quan điểm coi NNT là khách hàng mà mình phục vụ, cơ quan thuế không thụ động chờ đợi NNT đến hỏi những vướng mắc mà đã chủ động khảo, nắm bắt nhu cầu của NNT để tổ chức các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT sát với yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm NNT với những nội dung, hình thức phù hợp và chất lượng tốt bảo đảm đáp ứng tối đa nhu cầu của NNT nhằm hỗ trợ tối đa để NNT có thể tự tính thuế, tự kê khai và nộp thuế đúng với các quy định của pháp luật thuế. Hầu hết các hoạt động TTHT của cơ quan thuế đã được NNT đánh giá tốt và tương đối hài lòng với quá trình phục vụ của cơ quan thuế. Các hình thức TTHT NNT đã từng bước được xây dựng hoàn thiện với chất lượng tốt. Thông qua các hình thức tuyên truyền, quảng bá thông tin khá đa dạng, cơ quan thuế đã cung cấp cho NNT và các tổ chức, cá nhân có quan tâm các thông tin thật sự hữu ích, cần thiết cho hoạt động kinh doanh của NNT. Thông qua các cơ quan báo, đài và qua việc cấp phát miễn phí các tài liệu tuyên truyền thuế, những thông tin về chính sách thuế, thủ tục thuế được truyền tải rộng rãi đến NNT. Qua đó, NNT hiểu được nghĩa vụ đăng ký thuế, kê khai và nộp thuế của mình; các trình tự, thủ tục thực hiện các nghĩa vụ đó và thường xuyên được cơ quan thuế nhắc nhở về thời điểm phải hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước. Việc hợp tác tuyên truyền với các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài phát thanh, Đài truyền hình và các báo, tạp chí có số lượng xuất bản lớn đã giúp cục Thuế có phạm vi, mạng lưới tiếp cận rộng rãi hơn với công chúng. Người dân đã có cái nhìn rõ ràng hơn, hiểu biết hơn về bản chất tốt đẹp của tiền thuế là để phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Từ đó, nâng cao ý thức của cả cộng đồng với công tác thuế của Đảng và Nhà nước. Không chỉ có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật thuế mà người dân còn được nâng cao trách nhiệm trong việc phát hiện, lên án các hành vi lừa đảo, dây dưa, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Thông qua các kênh tư vấn, giải đáp vướng mắc khá đa dạng, phong phú như hiện nay, cơ quan thuế đã từng bước đáp ứng các yêu cầu của NNT trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thuế họ gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh. Với chất lượng dịch vụ tư vấn, hỗ trợ ngày càng được cục Thuế quan tâm và chú ý nâng cao thì NNT, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có điều kiện thuê các chuyên gia tư vấn thuế, tìm được một kênh tin cậy, hiệu quả để giải quyết các vướng mắc về thuế của mình. Ở nước ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ kinh doanh cá thể chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số các đối tượng thuộc diện nộp thuế. Hơn nữa, hệ thống các công ty tư vấn thuế, đại lý thuế chưa phát triển rộng rãi và chi phí tư vấn khá đắt so với thu nhập của phần đông các NNT. Do đó, dịch vụ tư vấn miễn phí của cơ quan thuế được mở ra là một địa chỉ quen thuộc cho NNT cũng như các tổ chức, cá nhân có liên quan tham khảo và liên hệ trao đổi thông tin. Các hội nghị đối thoại về thuế đã và đang trở thành một kênh tiếp xúc quan trọng giữa lãnh đạo của cơ quan thuế các cấp với NNT và các tổ chức có liên quan. Đây cũng là một nội dung, tiêu chí để cơ quan thuế cấp trên kiểm soát, đánh giá chất lượng quản lý của các cơ quan thuế cấp dưới. Hội nghị đối thoại luôn được mở ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn, NNT và người dân có điều kiện trao đổi các vướng mắc về thuế, kiến nghị những bất cập trong các chính sách pháp luật về thuế hiện hành và đề xuất các thay đổi, chỉ ra những khâu hạn chế, tiêu cực trong hoạt động quản lý của cơ quan thuế. Nội dung các buổi đối thoại luôn được ghi nhận, tổng hợp và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp cao hơn. Kết quả tổng hợp hội nghị đối thoại, trước hết để cơ quan thuế nắm bắt được thực trạng hoạt động và trình độ quản lý của mình. Tiếp đó, cơ quan thuế trực tiếp quản lý phải có trách nhiệm nghiên cứu trả lời cho các yêu cầu, đề xuất của NNT. Đồng thời, những ý kiến, đề xuất tại hội nghị cũng là cơ sở để cơ quan thuế có những biện pháp cải thiện hoạt động và xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật thuế để phù hợp với điều kiện hoạt động của NNT. Qua việc tuyên truyền, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình cũng sẽ tạo nên mối quan hệ thân thiện giữa cơ quan thuế và NNT theo hướng NNT là người được phục vụ, là khách hàng của cơ quan thuế và cơ quan thuế là người phục vụ đáng tin cậy nhất của NNT. Cơ quan thuế và NNT là người bạn đồng hành trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. NNT nói riêng và người dân nói chung sẽ nhận thức được rằng họ có thể tiếp xúc thuận lợi, dễ dàng với cán bộ thuế và cơ quan thuế, có thể tìm đến cơ quan thuế để được giúp đỡ và giải đáp những vướng mắc trong quá trình chấp hành pháp luật thuế. Đặc biệt, với việc thực hiện cơ chế thuế “một cửa” cùng với Luật quản lý thuế có hiệu lực thi hành giúp NNT không phải đi lại nhiều nơi, nhiều lần để thực hiện việc kê khai và nộp thuế. NNT chỉ cần đến địa chỉ thuế một cửa của cơ quan thuế, tại đây không những các vướng mắc về thuế của NNT được giải đáp mà họ có thể thực hiện nghĩa vụ về thuế của mình tại đây. Qua đó đã giúp cho NNT giảm được các chi phí chấp hành nghĩa vụ thuế, giúp cho cơ quan thuế giảm bớt chi phí quản lý. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ mã vạch hai chiều trong việc kê khai giúp cơ quan thuế giảm bớt khối lượng giấy tờ do NNT nộp, dễ dàng hơn trong việc quản lý. Với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ điều này có ý nghĩa quan trọng trong chương trình cải cách và hiện đại hoá ngành Thuế. Việc ứng dụng hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp tra cứu thông tin bằng màn hình máy tính có cảm ứng cho phép NNT chủ động hơn trong việc tra cứu các thông tin về thuế, bao gồm cả thông tin chung và thông tin riêng về tình hình nộp thuế của từng NNT, tạo điều kiện cho NNT dễ dàng chủ động đối chiếu dữ liệu thu nộp thuế với cơ quan thuế một cách nhanh chóng, góp phần nâng cao sự hiểu biết, tính tuân thủ và chấp hành đúng các quy định về thuế của NNT. Hoạt động TTHT NNT đã gián tiếp góp phần cải thiện chất lượng các hoạt động khác trong cơ quan thuế như: việc nhận và xử lý các tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế đầy đủ, nhanh chóng, chính xác. Hạch toán chính xác, đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ thuế của NNT và theo dõi thu nộp thuế, tính nợ thuế theo từng khoản thuế phải nộp; trong công tác quản lý thu nợ và cưỡng chế thuế, hàng tháng cơ quan thuế tiến hành phân loại các khoản nợ để có biện pháp thu nợ thuế phù hợp; công tác thanh tra, kiểm tra đã dựa trên kỹ thuật phân tích rủi ro để phát hiện những trường hợp gian lận, trốn lậu thuế. Bước đầu tạo được tác phong làm việc chuyên nghiệp, có hệ thống, bài bản cho cán bộ cục Thuế nói chung và cán bộ làm công tác TTHT NNT nói riêng. 2.3.3.2. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân * Những mặt còn hạn chế  Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác TTHT NNT vẫn còn những hạn chế : Trong thời gian 6 năm thực hiện chuyển đổi cơ cấu tổ chức mới, mặc dù hệ thống TTHT NNT đã có những cố gắng nhất định trong việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, đa dạng hoá nội dung và hình thức trong việc cung cấp thông tin cho NNT tuy nhiên xét một cách khách quan và cụ thể thì vẫn còn nhiều thông tin được cung cấp chưa đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, kịp thời cho NNT. Mặt khác, các hình thức cung cấp thông tin qua các phương tiện báo, đài vẫn tương đối khô khan và dập khuôn, hoặc cung cấp trực tiếp nội dung hỏi đáp lên các chuyên mục về thuế, hoặc cung cấp thông tin qua các phóng sự, đối thoại… chưa có nhiều sự đổi mới, sáng tạo để thu hút sự quan tâm của NNT và xã hội. Qua cuộc khảo sát, đánh giá nhu cầu NNT đã được cục Thuế thực hiện, rất nhiều đối tượng cho thấy sự thiếu quan tâm của họ đối với các thông tin được cơ quan thuế tuyên truyền trên báo, đài. Ngay cả đối với Internet - một trong những phương tiện truyền thông phổ biến nhất hiện nay, các trang Web của cơ quan thuế cũng chưa phát huy được thế mạnh của mình. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này đó là tốc độ truy cập các trang Web của cơ quan thuế khá chậm, nội dung và hình thức tuy đã có sự đổi mới, bổ sung nhưng vẫn chưa chuyên sâu, chưa thực sự hấp dẫn và phù hợp với từng NNT. Bên cạnh đó, tính cập nhật của trang thông tin này vẫn còn chậm nên chưa chiếm được sự hài lòng của nhiều đối tượng. Việc triển khai thực hiện mô hình “một cửa” tại bộ phận TTHT của cơ quan thuế vẫn còn gặp hạn chế về trang thiết bị và địa điểm tiếp đón, do đó chưa đạt được sự hài lòng của NNT. Một trong những hạn chế đang là vấn đề lớn đối với cục Thuế hiện nay đó là trình độ kiến thức, kỹ năng công tác của đội ngũ cán bộ làm công tác TTHT NNT. Trình độ của cán bộ làm công tác TTHT còn chưa cao, chưa đồng bộ vẫn còn trường hợp cùng một nội dung nhưng cách giải thích và hướng dẫn của từng cán bộ thuế lại khác nhau, tính đến cuối năm 2010 có 97,38% cán bộ thuế đạt trình độ từ trung học trở lên, trong đó chỉ có 63% có trình độ đại học. Hơn nữa hầu hết các cán bộ làm việc ở bộ phận TTHT trong cơ quan thuế là các cán bộ được điều chuyển từ các bộ phận khác nhau như bộ phận nghiệp vụ, thanh tra, quản lý NNT, quản lý hoá đơn ấn chỉ… Do đó, về trình độ hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm thực hiện công tác TTHT NNT đều chưa có. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho chính cán bộ trực tiếp hoạt động cũng như các cán bộ quản lý hoạt động, dẫn đến chất lượng của công tác tư vấn, hỗ trợ vẫn chưa thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng của NNT. Việc điều tra khảo sát nhu cầu của NNT để lập chương trình kế hoạch phát triển chức năng TTHT NNT mới chỉ đươc thực hiện ở mức đơn giản, rời rạc, không thành hệ thống và theo một quy mô tổng thể, bài bản. Do đây là công việc hoàn toàn mới đối với cục Thuế trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế “chuyên quản” - coi NNT là đối tượng bị quản lý sang cơ chế phục vụ NNT, cục Thuế không có nhiều kinh nghiệm trong việc nắm bắt và phân tích nhu cầu của NNT. Hiện nay, cục Thuế chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về NNT mà các thông tin về NNT đang ở dạng phân tán tại cơ sở dữ liệu của các chi cục thuế. * Nguyên nhân Công tác TTHT NNT vẫn còn những hạn chế trên là bởi các nguyên nhân sau: - Với quan điểm coi NNT là khách hàng, còn mình là người phục vụ tuy nhiên tư duy quản lý của cơ quan thuế chưa thực sự hướng đến lợi ích của NNT. Ví dụ như việc thiết kế phần mềm hỗ trợ kê khai thuế sử dụng mã vạch hai chiều chỉ thuận lợi cho cơ quan thuế trong việc nhập dữ liệu còn đối với NNT không thuận lợi cho việc áp dụng phần mềm kế toán để kết nối dữ liệu kê khai. - Cục Thuế chưa xây dựng được cơ chế đánh giá và chỉ tiêu đo lường chất lượng TTHT của cơ quan thuế cũng như chưa có cơ chế kiểm soát chất lượng và thái độ làm việc của cán bộ làm công tác TTHT. Vì thế mà vẫn còn có một bộ phận cán bộ nộp thuế chưa thật sự chuyên tâm với công việc; có cán bộ hỗ trợ trả lời sai mà vẫn không phải chịu trách nhiệm. - Số lượng cán bộ thuế nói chung và số lượng cán bộ làm công tác TTHT nói riêng còn ít so với số lượng NNT ngày càng gia tăng như hiện hiện nay. Hơn thế nữa, đây là công việc khá mới nên các cán bộ làm công tác TTHT chưa có nhiều kinh nghiệm. - Việc triển khai thực hiện mô hình “một cửa” tại bộ phận TTHT trên thực tế vẫn gặp những hạn chế là do một số quy định về chức năng, nhiệm vụ và quy trình nghiệp vụ chưa quy định rõ ràng, hợp lý. Đặc biệt, một bất cấp cơ bản của quy trình “một cửa” hiện nay là quy trình này chỉ thực sự giải quyết được vấn đề đơn giản hóa trong tiếp nhận các hồ sơ thuế chứ chưa giải quyết được các vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý liên quan đến các chức năng đặc thù. Do vậy, trên thực tế, hầu như bộ phận chức năng nào của cơ quan thuế cũng có quyền yêu cầu NNT giải trình. Tức là, vô hình trung quá trình thực hiện đã đi ngược lại với mục tiêu của cơ chế “một cửa”. Ngoài ra, trụ sở của không ít cơ quan thuế quá chật hẹp, trong khi NNT thường tập trung vào những ngày cao điểm nên khó bố trí nhân lực tiếp đón NNT theo đúng yêu cầu. - Hà Nội là một thành phố phát triển, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ trọng lớn so với cả nước. Tuy nhiên vẫn chưa có một cơ chế chính sách thuế dành riêng cho đối tượng này. Do đó, việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ cho đối tượng này vẫn chưa đạt được sự thỏa mãn của NNT. - Một nguyên nhân nữa khiến cho công tác TTHT chưa đạt được kết quả như mong muốn, đó là chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm tại bộ phận TTHT chưa được quan tâm đúng mức. * * * Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, HỖ TRỢ NNT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Mục tiêu, phương hướng phát triển công tác TTHT trên địa bàn thành phố Hà Nội Trong những năm qua, HĐND và UBND TP. Hà Nội luôn giành sự quan tâm sát sao đến tiến trình phát triển của cục Thuế, bởi đây là xương sống cho sự phát triển của nền kinh tế, là nguồn huy động chủ yếu phục vụ cho các hoạt động chi tiêu chiến lược của thành phố. Trong chiến lược cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế đến năm 2010 đã đưa ra những phương hướng cụ thể với các khâu: thể chế, chính sách, cơ chế quản lý thuế, tổ chức bộ máy cục Thuế, xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu NNT và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong cục Thuế. Đây chính là cơ sở cho việc định hướng phát triển công tác TTHT đối tượng nộp thuế trong cơ quan thuế để đáp ứng nhu cầu xã hội và thỏa mãn nhu cầu thu nhận thông tin của NNT. 3.1.1. Mục tiêu tổng quát - Mục tiêu của công tác hỗ trợ NNT là thông qua việc cung cấp đầy đủ và có chất lượng cao dịch vụ hỗ trợ về thuế để nâng cao tính tuân thủ, tự giác chấp hành tôt nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo quy định của các luật thuế trên cơ sở hiểu sâu sắc bản chất tôt đẹp của việc nộp thuế, nội dung quy định cụ thể của các chính sách thuế, các thủ tục hành chính về thuế. - Thông qua công tác tuyên truyền làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội hiểu rõ tiền thuế là của dân, do dân đóng góp và được sử dụng vì mục đích của nhân dân. Nộp thuế là lợi ích Nhà nước và chính là lợi ích của cộng đồng. Mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ được nội dung cơ bản của các chính sách thuế. Trên cơ sở đó, tạo dựng được sự đồng tình cao với các chính sách thuế của Nhà nước, sẵn sàng và tự nguyện cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế, lên án mạnh mẽ các hành vi về thuế. Vận động mọi người thực hiện tốt các chính sách thuế của Nhà nước. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể - Đào tạo để cung cấp cho các cán bộ thuế kiến thức và kỹ năng thực hiện dịch vụ hỗ trợ và giáo dục cho NNT để họ tuân thủ một cách tự nguyện. - Rà soát nội dung các tài liệu tuyên truyền hiện tại hỗ trợ NNT và cán bộ thuế nhằm xoá bỏ hoặc cập nhật tất cả các tài liệu. Rà soát chất lượng và số lượng các thông tin sẵn có. - Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cho các tài liệu tuyên truyền mới và các tài liệu hỗ trợ để NNT và cán bộ thuế có thể tiếp cận dễ dàng. - Xây dựng và mở rộng trang Web để cung cấp thông tin và tuyên truyền về chính sách và thủ tục về thuế. - Xây dựng kế hoạch cung cấp các dịch vụ trực tuyến cho NNT (kê khai và nộp thuế trực tuyến). - Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và mở rộng các phương thức thông tin tới cộng đồng nhằm cung cấp thông tin kịp thời và giáo dục NNT về trách nhiệm và nghĩa vụ với NSNN. - Đưa các chương trình giáo dục và thông tin về thuế tới học sinh và sinh viên. - Rà soát hiện trạng công tác tuyên truyền trên các panô, áp phích... để xây dựng mới, thay đổi, sửa chữa cho phù hợp và chuẩn bị kế hoạch triển khai tuyên truyền thuế trên các bảng quảng cáo điện tử. - Xây dựng phương pháp điều tra xã hội về nhu cầu của NNT và triển khai các cuộc điều tra cần thiết. - Xây dựng và chuẩn bị kế hoạch triển khai theo từng giai đoạn để cung cấp “các trung tâm hỗ trợ” cho NNT đặc biệt tại các khu kinh tế. - Nghiên cứu các lựa chọn, xây dựng kế hoạch hoạt động, và triển khai hệ thống điện thoại trả lời tự động đảm bảo hiệu quả nhất về chi phí. - Căn cứ vào việc rà soát hiện trạng về cơ sở vật chất của cơ quan thuế để phân tích, xây dựng kế hoạch và triển khai để nâng cấp cơ sở và thiết bị - Xây dựng và triển khai các phương pháp đánh giá chất lượng và số lượng dịch vụ đã cung cấp cho NNT. 3.2. Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội Những kết quả đã đạt được trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT là nền tảng cho công tác thu NSNN phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, để hoạt động TTHT phục vụ tốt nhất cho NNT cũng như cơ quan thuế, bên cạnh việc phát huy những mặt đã làm được còn phải khắc phục những tồn tại, hạn chế của công tác này. Trên cơ sở các mục tiêu đặt ra, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó để đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT ở cục thuế Hà Nội. 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Cái gốc của tuyên truyền công tác thuế là chính sách thuế. Vì vậy, cần tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng thật sự đơn giản, dễ hiểu, công bằng, công khai và ổn định. Xây dựng chiến lược và kế hoạch tuyên truyền dài hạn phù hợp với từng giai đoạn. Hà Nội hiện nay có khoảng trên 80.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực dân doanh, hợp tác xã và khoảng trên 120.000 hộ kinh doanh cá thể (gọi chung là khu vực kinh tế tư nhân). Trong nền kinh tế chuyển đổi như hiện nay, khối kinh tế tư nhân ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong sự phát triển của thủ đô. Với tổ chức linh hoạt, rất đa dạng về quy mô và ngành nghề... kinh tế tư nhân đã đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong việc cung cấp và phân phối sản phẩm đến các quận, huyện trên địa bàn thành phố; đồng thời tại khu vực này hàng năm cũng tạo ra công ăn việc làm cho đại đa số người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề về xã hội. (Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mỗi năm Hà Nội có thêm khoảng hơn 124.000 người lao động mới có công ăn việc làm từ khu vực tư nhân). Tuy nhiên, hiện nay các DN vừa và nhỏ cũng như các hộ kinh doanh đều thực hiện chung các chính sách thuế như đối với các doanh nghiệp lớn. Một số hộ kinh doanh quy mô nhỏ thực hiện nộp thuế theo phương pháp khoán. Điều này đã gây ra những gánh nặng về mặt thủ tục cho NNT, đồng thời cũng không đảm bảo yếu tố công bằng trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế. Do vậy, trong thời gian tới để có các sản phẩm tuyên truyền, hỗ trợ phù hợp với đối tượng này thì cũng cần phải có những cải cách về cả mặt chính sách cũng như công tác quản lý thuế giúp cho việc tuân thủ của đối tượng này được dễ dàng và thuận lợi hơn. Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung các thủ tục hành chính về thuế cũng cần quy định chế tài xử lý trong trường hợp người làm công tác hỗ trợ, tư vấn thuế cung cấp thông tin sai, bởi vì cung cấp thông tin không đúng có thể làm cho NNT mắc phải những sai phạm. Đặc biệt, cán bộ tư vấn, hỗ trợ lại tư vấn cho NNT để trốn thuế thì việc xử lý thật nghiêm minh. Sử dụng đồng thời các công cụ quản lý thuế kết hợp giáo dục, hành chính, kiểm tra thanh tra, xử lý vi phạm kết hợp với tuyên truyền mới đem lại hiệu quả. 3.2.2. Tổ chức bộ máy cung cấp dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ NNT Hiện nay, bộ máy cung cấp dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong cơ quan thuế đã được tổ chức tại tất cả các cấp theo ngành dọc. Từ khi bắt đầu chính thức ra đời và đi vào hoạt động từ năm 2004, hệ thống tuyên truyền và hỗ trợ NNT đã cải thiện đáng kể về chất lượng và tạo được một diện mạo mới cho cục Thuế - hướng về phục vụ NNT. Tuy nhiên, bộ máy hệ thống này cũng có những vấn đề nhất định cần hoàn thiện như việc cung cấp dịch vụ sẽ bị phân tán, khó khăn trong việc trang bị các phương tiện hiện đại phục vụ hoạt động và khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng công tác TTHT, đặc biệt là chất lượng các câu trả lời, tư vấn, giải đáp cho những vướng mắc của NNT. Để có thể đáp ứng yêu cầu của xã hội và NNT không ngừng tăng lên cả về yêu cầu khối lượng và chất lượng dịch vụ cung cấp, cục Thuế cần xây dựng mô hình tổ chức hiện đại, chuyên nghiệp theo định hướng sau: Thứ nhất, xây dựng hệ thống các Trung tâm hỗ trợ NNT để tập trung chuyên giải quyết các nhu cầu hỗ trợ của NNT. Việc ra đời của Trung tâm hỗ trợ sẽ giúp giảm gánh nặng trong việc quản lý quá nhiều hoạt động của cơ quan thuế các cấp đồng thời tạo điều kiện cho cục Thuế có thể tập trung trang bị các phương tiện công tác hiện đại, chuyên dụng như hệ thống dữ liệu, hệ thống phần mềm quản lý, điện thoại có tai nghe, thiết bị ghi âm cuộc gọi,... Với chức năng chuyên sâu về hỗ trợ, giải đáp các vướng mắc cho NNT, Trung tâm hỗ trợ NNT sẽ giải đáp các vướng mắc một cách nhanh chóng và chuyên nghiệp. Đồng thời, các bộ phận quản lý trong Trung tâm cũng dễ dàng hơn trong việc giám sát, kiểm tra chất lượng tư vấn của các cán bộ hỗ trợ đã thực hiện. Đặc điểm hoạt động này của Trung tâm này ở cụ thuế Hà Nội như sau: + Trước mắt, xây dựng Trung tâm này thuộc Phòng Tuyên truyền, hỗ trợ, sau sẽ tách ra Trung tâm độc lập. + Hoạt động hỗ trợ của Trung tâm này chủ yếu qua điện thoại. + Trung tâm hỗ trợ cho NNT không thu phí, trừ trường hợp Trung tâm cung cấp cho NNT những thiết bị công nghệ cao. Với phạm vi hoạt động này, Trung tâm sẽ giúp cho cơ quan thuế giảm tải công việc, tập trung vào các hình thức hỗ trợ khác nhằm đem lại hiệu quả hỗ trợ NNT cao hơn. Thứ hai, tổ chức các bộ phận chuyên gia tại cục Thuế để thực hiện hỗ trợ chuyên sâu trong trường hợp các Trung tâm hỗ trợ NNT nhận được các yêu cầu vướng mắc chưa được quy định trong các văn bản pháp luật hoặc vượt quá thẩm quyền ra quyết định. Các hướng dẫn của bộ phận này sẽ đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật thuế tại cơ quan thuế đảm bảo tính thống nhất với tất cả các vấn đề mới phát sinh. Đồng thời cũng là bộ phận thu nhận các phản hồi về chính sách pháp luật thuế để có thể đề xuất các sửa đổi cho phù hợp. Thứ ba, thành lập bộ phận Bảo vệ quyền lợi của NNT tại các cấp trong cục thuế để đảm bảo quyền lợi cho NNT. Việc tổ chức bộ phận Bảo vệ quyền lợi NNT sẽ góp phần giúp cho NNT được đảm bảo về mặt quyền lợi khi tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp cho cơ quan thuế có thể ra các quyết định xử lý kịp thời, giảm thiểu các trường hợp phải tranh tụng và giải quyết tại toà án. Thứ tư, tiếp tục duy trì và tăng cường hoạt động cho bộ phận thực hiện tuyên truyền về thuế tại tất cả cơ quan thuế. Bộ phận tuyên truyền tại các cấp cơ quan thuế sẽ đóng vai trò là cầu nối, là kênh thông tin chính sách pháp luật thuế cho cộng đồng và NNT. 3.2.3. Xây dựng hệ thống chuẩn mực trong công tác TTHT NNT Trong quá trình hiện đại hoá Cục Thuế, để tăng tính hiệu quả của công tác quản lý thuế, cơ quan thuế cũng cần quan tâm tới việc xây dựng và thực thi các chuẩn mực để đánh giá công tác quản lý và chỉ đạo. Đặc biệt trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT cũng cần phải có những chuẩn mực bởi kết quả của công tác TTHT NNT là ý thức trách nhiệm nộp thuế của người dân đối với Nhà nước chứ không phải là những số thu vào NSNN do đó rất khó đánh giá được hiệu quả của nó. Vì vậy, việc xây dựng những chuẩn mực cần thiết trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT là hết sức cần thiết. Trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các nước, Cục thuế Hà Nội có thể đưa ra các chuẩn mực để đánh giá chất lượng của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT không chỉ nhằm vào việc xử lý tờ khai thuế, nộp thuế chính xác và đúng hạn mà còn cung cấp các thông tin chính xác và kịp thời cho NNT khi họ cần sự giúp đỡ từ phía cơ quan thuế. Kinh nghiệm của Cục thu nội địa Singapore (IRAS) chính là, trước hết, phải tạo điều kiện cho họ có những hiểu biết về thuế và cung cấp các phương tiện để NNT đơn giản hoá việc thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Bước đi đầu tiên mà IRAS thực hiện là tăng cường sử dụng các hình thức kê khai thuế không dùng giấy như kê khai qua hệ thống điện thoại và kê khai thuế điện tử. Bằng những nỗ lực trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường tuyên truyền, quảng bá các hình thức kê khai mới. Đến năm 2010, ở Singapore có tới 1/3 NNT thực hiện kê khai thuế điện tử và số còn lại hầu hết đều kê khai qua hệ thống điện thoại. Theo đó, có tới 43% các vấn đề vướng mắc về thuế được giải quyết bằng dịch vụ trả lời điện thoại tự động và NNT có thể sử dụng dịch vụ “một cửa” để được giải đáp tất cả các vưỡng mắc về thuế từ các vướng mắc về chính sách nói chung tới tất cả các vấn đề thông tin về nghĩa vụ thuế riêng của mình. Tính hiệu quả có thể đạt được không chỉ thông qua việc xử lý nhanh số lượng lớn các thắc mắc của NNT mà nó còn phải được đảm bảo bằng mức độ chính xác cao của các câu trả lời tư vấn. Mục tiêu hàng đầu của công tác TTHT NNT là nâng cao tính tự giác tuân thủ của NNT, nhưng việc cung cấp thông tin nhanh mà không chính xác có thể gây ra những tác động ngược trở lại, NNT có thể vi phạm pháp luật thuế khi làm theo. Cách duy nhất để kiểm tra được mức độ chính xác của thông tin cung cấp là các cán bộ quản lý (lãnh đạo) và giám sát viên phải điều hành chặt chẽ công việc của các cán bộ tham gia vào công tác TTHT NNT. Việc xây dựng được một hệ thống chuẩn mực để đánh giá chất lượng công tác TTHT NNT trong cơ quan thuế là một công việc khá phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư, nghiên cứu của cục Thuế trong các bước khảo sát, học tập kinh nghiệm nước ngoài, phân tích môi trường, điều kiện hoạt động trong nước. Từ đó mới có thể xác lập được nhóm các chỉ tiêu đánh giá cho từng giai đoạn và tổng kết tầm nhìn dài hạn để có được một hệ thống chỉ tiêu hoàn chỉnh. Đồng thời với việc xây dựng hệ thống chuẩn mực, quy trình nghiệp vụ, cơ quan thuế cũng cần quan tâm đến vấn đề tổ chức nhân sự, kinh phí thực hiện cho việc quản lý chất lượng dịch vụ cho phù hợp. 3.2.4. Phân loại NNT để cung cấp các dịch vụ TTHT một cách hiệu quả Việc phân loại NNT là một yêu cầu không chỉ đối với hoạt động cung cấp dịch vụ TTHT mà còn là yêu cầu để phục vụ quản lý của rất nhiều bộ phận khác trong cơ quan thuế như bộ phận thu nợ, thanh tra... NNT có thể được phân loại theo nhiều nhóm khác nhau, tuỳ thuộc vào yêu cầu hoạt động. Một kinh nghiệm rất tốt của Cơ quan thuế Autralia (ATO) trong công tác TTHT NNT là phân loại NNT và cung cấp các dịch vụ phù hợp cho họ. ATO đã thống kê và phân loại NNT thành các nhóm khác nhau với những đặc điểm riêng biệt: nhóm NNT là cá nhân, nhóm NNT kinh doanh nhỏ lẻ, nhóm NNT là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm NNT là doanh nghiệp có quy mô lớn, nhóm NNT là các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức phi chính phủ. Trên cơ sở học tập cách phân loại NNT theo các nhóm khác nhau, cục thuế có thể tiến hành các phân tích về nhu cầu của NNT, các xu hướng và mức độ tuân thủ của họ, qua đó có các biện pháp cung cấp dịch vụ công cho phù hợp và hiệu quả cho từng nhóm. Trong số các nhóm NNT được phân loại theo các tiêu thức, thì nhóm NNT nhỏ và vừa là nhóm cần được quan tâm hơn cả bởi vì đây là nhóm NNT chiếm tỷ trọng lớn nhất (chiếm 97% tổng số đối tượng NNT trên địa bàn), và là một bộ phận có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế đang phát triển của nước ta. Các DNNVV hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế và hoạt động dưới mọi hình thức. Hơn nữa, năng lực kinh doanh và năng lực quản lý còn thấp. Đây là loại hình kinh tế còn non trẻ nên trình độ, kỹ năng của nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như của người lao động còn hạn chế. Số lượng DNNVV có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Chính vì thế, cần tăng cường công tác TTHT cho nhóm đối tượng này để tránh thất thu thuế. Với nhóm NNT nhỏ và vừa, cơ quan thuế cần có những biện pháp quản lý ưu tiên nhất định và nhất là ưu tiên trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ cho nhóm này. 3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TTHT NNT Với vai trò làm đại diện chi Nhà nước, làm cầu nối giữa Nhà nước với các NNT, mối quan hệ giữa cán bộ thuế và NNT là mối quan hệ diễn ra trong lĩnh vực thuế, giải quyết các vấn đề liên quan đến thuế theo pháp luật. Trong hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT thì yếu tố con người luôn giữ vai trò then chốt và có ý nghĩa quyết định. Để công tác tư vấn, hỗ trợ NNT đạt hiệu quả cao xứng tầm là “người phát ngôn” thì cán bộ làm công tác làm công tác TTHT NNT phải là những người có năng lực thật sự, được đào tạo chính quy và đáp ứng đủ các yêu cầu: về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ; về việc sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, có trình độ ngoại ngữ tốt, có kinh nghiệm thực tế; có phẩm chất đạo đức, có tác phong làm việc chuyên nghiệp, có kỹ năng giao tiếp, ứng xử tốt... Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, hỗ trợ NNT cán bộ thuế phải tiếp xúc với rất nhiều đối tượng liên quan đến nhiều khía cạnh trong lĩnh vực thuế. Trong khi đó chính sách thuế ở nước ta lại thường xuyên thay đổi, bổ sung vì vậy trong khi thực hiện nhiệm vụ tư vấn cán bộ thuế phải: thường xuyên củng cố và bổ sung các kiến thức cần thiết và những kỹ năng giao tiếp cơ bản để làm tốt công việc được giao. Cần nhận thức rõ ràng rằng, NNT không còn là đối tượng bị cơ quan thuế quản lý mà đã trở thành khách hàng quan trọng, là người kết hợp cùng cán bộ thuế và cơ quan thuế hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước. Chính vì vậy, khi tiếp xúc với NNT, cán bộ thuế cần có thái độ nhiệt tình, công tâm trên tinh thần hợp tác vì quyền lợi của hai bên và lợi ích chung của toàn xã hội. Cần có thái độ chống những hành vi tiêu cực trong khi phục vụ NNT, ví như các hành vi sách nhiễu, đòi hỏi, có phong cách bề trên, tỏ ra là người ban ơn đối với NNT. Những hành vi tiêu cực này chính là nguyên nhân gây khoảng cách giữa cán bộ thuế và NNT, dẫn đến NNT ngại tiếp xúc, ngại hỏi thông tin; thu hẹp phạm vi hoạt động và làm giảm hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Cán bộ thuế trong khi trả lời cần đảm bảo tính chính xác của thông tin cung cấp. Muốn vậy, cần nắm vững các cơ sở pháp lý của những vấn đề đưa ra trả lời. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó tạo uy tín của cán bộ thuế, của cơ quan thuế đối với NNT, khách hàng của cơ quan thuế. Cung cấp những thông tin chất lượng cho NNT là yêu cầu cơ bản của bộ phận hỗ trợ NNT. Kiểm tra chất lượng thông tin trước khi cung cấp cho khách hàng là nhiệm vụ quan trọng; bên cạnh đó cán bộ thuế làm công tác này cũng cần nắm bắt thái độ tiếp nhận của khách hàng đối với các thông tin được đưa ra; khách hàng có thoả mãn với những thông tin đã nhận được hay không, mức độ thoả mãn như thế nào… Trên cơ sở các thông tin phản hồi này, cán bộ thuế nói riêng và Phòng tuyên truyền và hỗ trợ nói chung phải điều chỉnh, bổ sung và cập nhất các thông tin cần thiết để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của NNT. Việc tuyển chọn cán bộ làm ở bộ phận tuyên truyền, tư vấn thuế phải thông qua các cuộc thi do cục thuế tổ chức. Các nội dung thi bao gồm: chính sách thuế, nghiệp vụ kế toán, kỹ năng thuyết trình… chứ không phải bằng các hình thức thi như hiện nay. Cũng có thể tuyển chọn những cán bộ thuế có kinh nghiệm, công tác trong cục Thuế từ 10 năm trở lên không phải thi. 3.2.6. Đổi mới, nâng cấp các phương tiện công tác và ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động TTHT Hiện nay các trang, thiết bị công tác phục vụ công tác TTHT trong cơ quan thuế còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Điều này ảnh hưởng nhiều không chỉ đến chất lượng cung cấp dịch vụ mà còn ảnh hưởng tới hình ảnh của cơ quan thuế bởi bộ phận TTHT là bộ phận đầu tiên và thường xuyên tiếp xúc với NNT. Các trang thiết bị phục vụ cho công tác TTHT rất đa dạng, gồm cả các thiết bị làm việc văn phòng như bàn, ghế, máy vi tính, các văn phòng phẩm,... cho đến các trang thiết bị chuyên dụng cho hoạt động tuyên truyền như máy quay phim, chụp ảnh, máy ghi âm... và các yêu cầu phục vụ cho hoạt động tư vấn, hỗ trợ như phòng tiếp đón NNT, bàn, ghế ngồi chờ, các quầy tiếp đón, điện thoại có tai nghe... Cung cấp đầy đủ các trang thiết bị này cho cơ quan thuế các cấp đòi hỏi một lượng kinh phí rất lớn và nhiều khi vượt quá khả năng của cơ quan thuế, đặc biệt là yêu cầu về địa điểm tiếp đón NNT. Vì vậy, để giải quyết yêu cầu về trang thiết bị trong điều kiện kinh phí hiện nay của cục thuế cần phải xác định chiến lược đầu tư cho hiệu quả. Việc đầu tư, mua sắm trang thiết bị cần được thực hiện theo định hướng sau: Thứ nhất, đầu tư tập trung các nguồn lực cho việc xây dựng các Trung tâm hỗ trợ NNT. Các Trung tâm này sẽ làm nhiệm vụ giải đáp các vướng mắc của NNT cho từng khu vực chứ không phân tán như đang thực hiện tại các chi cục như hiện nay. Theo đó, các Trung tâm này sẽ được xây dựng tại các khu vực thuận tiện cho việc đi lại, sẽ được trang bị các thiết bị làm việc đầy đủ và hiện đại với mục tiêu tập trung xử lý khoảng trên 80% nhu cầu tư vấn của NNT. Thứ hai, trang bị các phương tiện thiết yếu phục vụ công tác TTHT NNT tại các địa phương như: máy quay phim, máy chụp hình, máy ghi âm, hệ thống máy tính nối mạng. Và các cục thuế, chi cục thuế cũng cần đặc biệt lưu ý đến vấn đề bố trí phòng tiếp đón NNT. Phòng tiếp đón NNT có thể đặt ngay tại cơ quan thuế nhưng cần được bố trí tại nơi thuận tiện đi lại, có diện tích đủ rộng để NNT có nơi trao đổi, làm việc, có nơi để ngồi chờ đến lượt. Thứ ba, trang bị các thiết bị tra cứu thông tin như máy tính nối mạng, KIOSK thông tin, các tủ tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền thuế tại nơi tiếp đón NNT để NNT có thể tự tìm kiếm, nghiên cứu các vấn đề mình quan tâm trong khi chờ đến lượt được tư vấn. Đây là một biện pháp hữu hiệu trong việc giảm tải trong việc giải đáp các vướng mắc mang tính đơn giản cho cơ quan thuế trong điều kiện trang thiết bị thiếu thốn như hiện nay. 3.2.7. Cải thiện mối quan hệ với NNT Yêu cầu phải tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp, hỗ trợ qua lại lẫn nhau giữa cơ quan thuế và NNT là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đối với cơ quan thuế các nước. Trước hết bởi mối quan hệ này thường xuyên bị xung đột về mặt lợi ích kinh tế, tiếp đến là do tinh thần, thái độ làm việc quan liêu của cán bộ thuế luôn còn tồn tại dù ít hay nhiều. Để có thể cải thiện mối quan hệ với NNT với khẩu hiệu “cơ quan thuế là người bạn đồng hành của NNT” thì cơ quan thuế cần phải thường xuyên tìm hiểu, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của NNT để giải quyết các vấn đề vướng mắc một cách hợp tình hợp lý. Dưới đây là một số kiến nghị về các hoạt động cơ quan thuế cần thực hiện để duy trì và cải thiện mối quan hệ với NNT: Thứ nhất, thường xuyên tổ chức các buổi đối thoại và khảo sát nhu cầu NNT: Việc tổ chức đối thoại với NNT đã được Nhà nước quan tâm và chỉ đạo cục Thuế phải thực hiện sát sao. Tuy nhiên, tại nhiều nơi, việc làm này còn mang tính hình thức, kém hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này, cục Thuế cần có những quy định rõ ràng trong việc tổ chức hội nghị đối thoại như: quy định số lượng, thành phần đối tượng tham dự đối thoại; quy định về việc trả lời và giám sát các nội dung trả lời đối thoại; quy định về chế độ kiểm tra, báo cáo của cơ quan cấp trên đối với hoạt động đối thoại. Với hoạt động khảo sát nhu cầu của NNT, mặc dù đây là một nội dung hoạt động mới nhưng cục Thuế cũng cần sớm có những nghiên cứu, định hướng để hoạt động này có thể được thực hiện một cách thường xuyên, định kỳ tại cơ quan thuế các cấp. Thứ hai, tạo điều kiện phát triển mạng lưới các đại lý thuế tại Hà Nội: Đại lý thuế là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn pháp luật, thay mặt NNT thực hiện các thủ tục về thuế. Đại lý này có nghĩa vụ cung cấp cho cơ quan thuế các tài liệu, chứng từ để xác minh tính chính xác việc quyết toán thuế, nộp thuế, miễn giảm, hoàn thuế... và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Với số lượng NNT sẽ tăng gấp nhiều lần hiện nay thì việc quản lý thông qua các đại lý thuế sẽ là một biện pháp rất hiệu quả cho cơ quan thuế vì mỗi đại lý thuế sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế thay cho rất nhiều đối tượng nộp thuế. Do đó, cơ quan thuế sẽ được giảm tải một khối lượng đáng kể cho công việc xử lý lỗi kê khai, thu nợ thuế và tuyên truyền, tư vấn thuế. Thứ ba, tăng cường tuyên truyền, giáo dục về thuế thông qua các tổ chức, hiệp hội. Các tổ chức, hiệp hội tham gia công tác tuyên truyền về thuế có thể là các cơ quan Nhà nước như cơ quan tư pháp, tài chính, Uỷ ban nhân dân xã, phường; các tổ chức xã hội như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên...; các hiệp hội ngành nghề như hiệp hội sản xuất ô tô, xe máy, hiệp hội sản xuất xi măng, hiệp hội dệt may... và có thể có cả các hội của NNT. Hiện nay, tại Hà Nội mới chỉ có các cơ quan Nhà nước và một số hiệp hội ngành nghề có tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế. Do đó, kết quả hoạt động cũng còn rất khiêm tốn. Để có thể phát huy vai trò của nhóm tổ chức, hiệp hội này, cơ quan thuế cần phải có những biện pháp tác động tích cực như xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước, bổ sung kinh phí hoạt động, tăng cường phối hợp với các hiệp hội và đặc biệt là thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các hiệp hội NNT. Tại rất nhiều nước trên thế giới, hiệp hội NNT được tạo điều kiện phát triển rất đa dạng, có thể đến như các hiệp hội kê khai thuế (tại một số nước, các đối tượng nộp thuế có lịch sử tuân thủ tốt sẽ được kê khai trên tờ khai màu xanh - tờ khai được ưu tiên xử lý sớm các hồ sơ, thủ tục về thuế), hiệp hội bảo vệ NNT... Việc thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hiệp hội này ra đời và phát triển sẽ giúp NNT tự học tập lẫn nhau trong việc tuân thủ nghĩa vụ thuế. Thông qua các hiệp hội này, cơ quan thuế cũng dễ dàng hơn trong việc truyền tải các chính sách pháp luật đến cho các đối tượng nộp thuế. 3.2.8. Các giải pháp khác Ngoài các giải pháp đã nêu trên, để nâng cao tính hiệu quả trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT thì việc áp dụng một số biện pháp mang tính điều kiện mang tính cần thiết, như: Thứ nhất, Tổ chức thường xuyên các buổi tiếp NNT nhằm giúp NNT hiểu đầy đủ nội dung chính sách thuế. Chú trọng tổ chức tiếp các doanh nghiệp mới ra kinh doanh. Đối với loại đới tượng này cần thông tin các loại thuế mà cơ sở phải nộp; hướng dẫn các thủ tục kê khai thuế, phương pháp tính thuế, kê khai thu nộp… Trong các buổi tiếp NNT không chỉ có cán bộ thuế mà cần phải có cả nhân viên kế toán tham gia hướng dẫn công tác kế toán. Bộ phận cưỡng chế cũng tham gia trong các bưổi tiếp xúc với NNT. Trong trường hợp này, họ trình bày những trường hợp có thể xảy ra nếu doanh nghiệp thực hiện không nghiêm chỉnh buộc cơ quan thuế phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Việc giới thiệu này giúp cho NNT tránh mắc phải những sai phạm, hoàn toàn không có tính đe dọa. Thứ hai, Tăng cường khối lượng in các tờ rơi, văn bản pháp luật mới về thuế, bao gồm cả những công văn trả lời chính sách thuế. Các ấn phẩm này được cung cấp trực tiếp cho NNT hoặc tại trụ sở tiếp NNT. Thứ ba, định kỳ tổng hợp các vấn đề mà NNT có nhu cầu giải thích, các sai phạm mà NNT thường mắc phải qua công tác thanh tra phát hiện để bổ sung các chương trình hỗ trợ NNT, kết quả của việc xử lý các sai phạm, nếu là hiện tượng phổ biến thì sử dụng làm thông tin cảnh báo cho các doanh nghiệp và NNT. Thứ tư, tăng cường sự chỉ đạo một cách đồng bộ, xuyên suốt trong toàn cục Thuế để có sự thống nhất trong việc giải quyết vướng mắc về chính sách cho NNT, tránh sự mâu thuẫn trong việc hỗ trợ giữa các đơn vị về cùng một vấn đề. Thứ năm, có chế độ lương và chế độ thưởng thích hợp để khuyến khích các cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Cần thấy rõ việc tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một hoạt động quan trọng nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ thuế của mình. Đây không phải việc làm theo chiến dịch mà cần thực hiện thường xuyên, cán bộ làm công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT phải làm cầu nối, truyền đạt chính sách, chế độ pháp luật về thuế cùng với việc thăm dò nguyện vọng, nhu cầu tháo gỡ vướng mắc của NNT; tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất kinh doanh hợp pháp, tăng thu Ngân sách cho Nhà nước và cũng thông quá đó phản ánh lên cấp trên để xem xét, sửa đổi, bổ sung để chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, mang tính khả thi, cán bộ thuế hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với phương châm: “thu được thuế, thu được lòng dân”. KẾT LUẬN Trong yêu cầu cải cách và hiện đại hoá ngành Thuế như hiện nay, công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT của cục thuế Hà Nội đã góp phần giúp cho NNT có thể đơn giản hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, đồng thời giáo dục ý thức của NNT và cộng đồng đối với đồng tiền thuế. Nhờ đó hiệu quả trong công tác quản lý của cục thuế sẽ được cải thiện rõ rệt. Trong thời gian qua, cục thuế Hà Nội đã có những bước tiến bộ đáng kể trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, từ việc xây dựng một bộ máy thống nhất tại cả Văn phòng cục và các chi cục, đến việc ban hành quy trình quy định các hình thức, biện pháp tuyên truyền, hỗ trợ. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu của NNT nói chung và thực hiện mục tiêu nâng cao tính tuân thủ của NNT thì vẫn còn nhiều vấn đề cần được xem xét và tìm biện pháp khắc phục. Với mong muốn đóng góp một phần vào công tác quản lý trong cục thuế Hà Nội nói chung cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT nói riêng, luận văn đã đi sâu nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, nghiên cứu tình hình thực tế tại cục thuế Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện công tác này phục vụ mục tiêu nâng cao tính tuân thủ của NNT. Hi vọng với những giải pháp này sẽ giúp ích được phần nào cho công tác tuyên truyền hỗ trợ của Cục thuế Hà Nội, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao của cục thuế trong năm 2011 và các năm tiếp theo. Do trình độ lý luận và kiến thức thực tế còn hạn chế, bài luận văn sẽ không khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của cô giáo, ThS. Nguyễn Thị Minh Hằng, Ban lãnh đạo cùng các cô chú, anh chị ở Phòng tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế - Cục thuế thành phố Hà Nội đã giúp em hoàn thành bài luận văn này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế trong điều kiện tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn cục thuế Hà.doc
Luận văn liên quan