Với việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO kể từ 07/11/2006, chúng ta đã phải chấp nhận mở cửa hơn trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội; theo đó, lĩnh vực tài chính ngân hàng – lĩnh vực xương sống của nền kinh tế cũng không nằm ngoài xu hướng trên. Ngành ngân hàng không đơn thuần tồn tại chỉ để phát triển kinh doanh mà còn lĩnh ấn tiên phong, dẫn dắt, định hướng giúp nền kinh tế hoạt động có hiệu quả; để thể hiện rõ nét, chính xác vai trò của mình, yêu cầu đặt ra đối với ngành là tính năng động, nhậy cảm, tỉnh táo và những chiến lược phù hợp.
Ngân hàng thương mại cổ phần là mô hình khá mới mẻ trong hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng ngân hàng là hoạt động giúp các ngân hàng thương mại cổ phần nhận được phần lớn lợi nhuận. Là loại hình non trẻ lại hoạt động trong môi trường kinh tế chưa ổn định nên để có thể phát triển trong áp lực cạnh tranh, những rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hầu như khó tránh khỏi. Do vậy, để giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm ẩn, rất cần có những đề tài nghiên cứu mang tính chuyên sâu nhằm đưa ra những biện pháp quản trị, nâng cao chất lượng kinh doanh tiền tệ nói chung và lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng đảm bảo tính cạnh tranh nhưng đồng thời cũng đảm bảo an toàn trong hoạt động.
Luận văn được xây dựng theo kết cấu gồm 3 phần cơ bản như sau:
v Phần I: Phần mở đầu, đặt vấn đề.
v Phần II: Phần Phát triển vấn đề.
v Phần III: Phần kết luận.
Phần I: Phần mở đầu, đặt vấn đề gồm các nội dung cơ bản sau:
ü Bối cảnh nghiên cứu;
ü Mục đích nghiên cứu;
ü Đối tượng nghiên cứu;
ü Phạm vi nghiên cứu;
ü Giả thuyết nghiên cứu;
ü Phương pháp nghiên cứu.
Phần II: Phần phát triển vấn đề gồm các chương, mục sau:
Chương Một: Những khía cạnh lý thuyết về chất lượng tín dụng và thực tiễn cạnh tranh tín dụng trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn giữa các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
1.1 Tổng quan về tín dụng và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát chung về tín dụng ngân hàng
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.3 Các nghiệp vụ tín dụng của NHTM
1.1.4 Mối quan hệ giữa nghiệp vụ huy động và cho vay của ngân hàng
1.2 Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng của NHTM
1.2.2 Các tiêu chí phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng chất lượng tín dụng của NHTM
1.3. Cạnh tranh tín dụng giữa các ngân hàng trong điều kiện lãi suất có giới hạn
1.3.1 Lãi suất có giới hạn – thực tiễn tại Việt Nam
1.3.2 Cạnh tranh tín dụng giữa các NHTM trong điều kiện lãi suất có giới hạn
1.3.3 Ý nghĩa xã hội của cạnh tranh tín dụng giữa các ngân hàng thương mại
1.3.4 Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng – kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
Chương Hai: Nghiên cứu thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn hiện nay
2.1 Khái quát về NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.1.1 Giới thiệu sơ lược về NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.1.2 Các hoạt động kinh doanh chính của NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.1.3 Những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.2 Thực trạng về chất lượng tín dụng của NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.2.1 Các văn bản, hướng dẫn mà NHTM cổ phần XNK Việt Nam đang áp dụng
2.2.2 Chất lượng nghiệp vụ huy động vốn
2.2.3 Chất lượng nghiệp vụ sử dụng vốn
2.3 Đánh giá chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn hiện nay
2.3.1 Những kết quả đạt được và một số biện pháp đã sử dụng để nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTM cổ phần XNK Việt Nam
2.3.2 Một số tồn tại và nguyên nhân
Chương Ba: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn hiện nay
3.1 Định hướng hoạt động của NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong thời gian tới
3.1.1 Triển vọng phát triển ngành ngân hàng giai đoạn tới đây
3.1.2 Phương hướng nhiệm vụ của NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong thời gian tới
3.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn giữa các NHTM Việt Nam hiện nay
3.2.1 Một số giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn
3.2.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay
3.3 Những điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả các giải pháp
3.3.1 Đối với NHTM cổ phần XNK Việt Nam
3.3.2 Đối với Ngân hàng nhà nước
3.3.3 Đối với Nhà nước
Phần III: Phần kết luận
85 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2583 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu tuy nhiên các sản phẩm phục vụ nhu cầu khách hàng vẫn còn thiếu. Tài trợ nhập khẩu chỉ dưới các hình thức: cho vay thanh toán L/C, TTR, thanh toán bộ chứng từ nhờ thu nhập khẩu và chủ yếu là cho vay ngắn hạn; Tài trợ xuất khẩu dưới hình thức cho vay bổ sung vốn lưu động thu mua sản xuất hàng xuất khẩu, chiết khấu hối phiếu và bộ chứng từ hàng xuất theo hình thức có truy đòi; Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu mới chỉ dừng lại ở bảo lãnh phát hành L/C trả chậm và ký chấp nhận hối phiếu mà chưa phát sinh bảo lãnh bằng phát hành các loại thư bảo lãnh; Hoạt động bao thanh toán và mua các khoản phải thu đang rất phổ biến trong thương mại quốc tế hiện nay thì tại Eximbank mới chỉ dừng lại ở ban hành quy chế thực hiện, việc tổ chức triển khai còn rất chậm; ngoài ra Eximbank chưa có sản phẩm thuê mua tài chính, mua bán nợ. Như vậy, có thể nói rằng sản phẩm tài trợ xuất nhập khẩu còn rất đơn điệu, một số sản phẩm mới đưa ra (sản phẩm Bao thanh toán xuất nhập khẩu,....) nhưng quá trình triển khai lại chậm chễ.
Thứ tám, công tác tổ chức Phòng tín dụng tại các chi nhánh, sở giao dịch chưa có tính quy chuẩn, chuyên môn hóa, phân biệt rạch ròi từng bộ phận với nhau; mặc dù đã có một số chi nhánh tự thực hiện chia tách các bộ phận nhưng mới chỉ là manh nha, chưa có quy trình cụ thể. Cán bộ tín dụng phải làm tất cả các công việc từ tìm kiếm khách hàng, thẩm định khách hàng cho tới kiểm tra sau cho vay, thu hồi nợ do đó sẽ không có tính chuyên nghiệp trong từng nghiệp vụ dễ dẫn tới những thiếu sót hoặc tiêu cực trong công tác thẩm định nảy sinh. Eximbank vẫn chưa có một cơ chế động viên khuyến khích cán bộ tín dụng, chưa có một cơ chế trách nhiệm rõ ràng. Mức dư nợ giao cho một cán bộ tín dụng, ví dụ: 5 tỷ nếu cho vay đến 20 tỷ cũng không được khen thưởng gì, nhưng nếu có phát sinh nợ quá hạn lại bị chỉ trích, phê bình. Trong khi rõ ràng, khả năng phát sinh nợ quá hạn của một khoản vay 20 tỷ sẽ lớn hơn nhiều so với món vay 5 tỷ. Cơ chế thưởng phạt chưa rõ ràng đã làm giảm động lực làm việc cho cán bộ tín dụng
Thứ chín, việc phân quyền phán quyết cho vay đối với Chi nhánh, sở giao dịch hiện nay là tương đối lớn so với các NHTM cổ phần khác giúp các đơn vị có thể chủ động tìm kiếm, tiếp cận nhu cầu vay vốn của khách hàng. Mặc dù là một trong những ngân hàng có NPL thấp hiện nay và liên tục có chiều hướng giảm trong giai đoạn vài năm trở lại đây; tuy nhiên, với mức phán quyết cao này khi chưa có một trung tâm quản lý tín dụng nằm hoàn toàn độc lập khách quan đối với các chi nhánh để tái thẩm định lại món vay dễ dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn với tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng khi bất kì một chi nhánh, sở giao dịch nào có tỷ lệ nợ xấu cao sẽ ảnh hưởng tới dư nợ toàn hệ thống.
2.2 Nguyên nhân của những tồn tại
Để có thể đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng thì tìm ra nguyên nhân, những yếu tố tác động chất lượng tín dụng là vô cùng quan trọng
2.2.1 Nguyên nhân bên ngoài:
a/ Môi trường kinh tế: Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn đầu quá trình đổi mới, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới, bởi vậy nhiều vấn đề còn chưa hoàn thiện. Môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong đó các ngân hàng thương mại còn chưa đầy đủ hoặc thiếu nhiều yếu tố như: hệ thống văn bản pháp luật nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí còn có khả năng chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chưa thực sự độc lập, đôi khi còn chịu những tác động của phương pháp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước khiến cho tín dụng kém hiệu quả, chưa thể hiện hết vai trò của tín dụng, bám sát cung cầu vốn thực tế của nền kinh tế.
Một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh còn kém hiệu quả, chưa đầu tư phát triển doanh nghiệp một cách có chiều sâu trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn trong cả khâu sản xuất (phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài) lẫn tiêu thụ hàng hoá (thị trường đầu ra còn bị bó hẹp do sản phẩm tạo ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường), ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp và khả năng trả nợ vốn vay Ngân hàng. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng về điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, hàng hoá vật tư bị tồn kho, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi.
b/ Môi trường pháp lý: môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chưa thực sự hợp lý và thiếu đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn hoặc chưa phù hợp, chưa đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, thể hiện:
- Hồ sơ thể hiện năng lực tài chính của doanh nghiệp: Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hoạch toán thống kê chính xác kịp thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa hoạch toán kế toán theo qui định, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nên số liệu không phản ánh chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh tài chính của khách hàng, làm cho việc xử lý phân tích thông tin và ra quyết định của Ngân hàng cũng thiếu chính xác.
- Vấn đề phát mại tài sản thế chấp: hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế. Thời gian và thủ tục để phát mại tài sản dài, chi phí ngoài cao dẫn đến hiệu quả của việc phát mại tài sản để thu hồi nợ là chưa cao khiến cho Ngân hàng khó thu hồi nợ làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Các hình thức kinh doanh tiền tệ trái phép đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do, như các tổ chức cho vay nặng lãi, cho vay nóng,... không có cơ quan nào quản lý, kiểm tra kiểm soát, thủ đoạn của chúng là móc nối với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng cho vay tiền sau đó cho vay lại, giúp khách hàng đảo nợ ở các tổ chức tín dụng, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng.
2.2.2 Nguyên nhân bên trong:
- Về chính sách phát triển mạng lưới: trong thời gian vừa qua Vietnam Eximbank mặc dù vẫn luôn cố gắng mở rộng mạng lưới không còn chỉ tập trung vào thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận nhưng việc triển khai vẫn còn chậm như việc triển khai xây dựng lắp đặt kể từ khi được cấp phép hoạt động tới khi đi vào hoạt động làm gia tăng chi phí hoạt động ngân hàng cũng như ảnh hưởng quá trình gia tăng thị phần của Eximbank đối với các ngân hàng khác ở những địa bàn có mức phát triển kinh tế tương đối mạnh thời gian vừa qua như miền Trung và miền Bắc. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng các chi nhánh Eximbank còn nhiều hạn chế khi ta biết hoạt động ngân hàng là loại hình kinh doanh hiện đại, luôn đòi hỏi nhu cầu đầu tư lớn vào hạ tầng cơ sở và chỉ trên một hạ tầng cơ sở, tài chính phù hợp thì mới có thể triển khai các dịch vụ tài chính mới, đồng thời mới giúp hạn chế rủi ro phát sinh.
- Xét về hoạt động Marketing Ngân hàng: Ngân hàng chủ yếu chỉ tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuếch trương, còn việc vận dụng Marketing nhằm nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, định vị hình ảnh, nâng cấp chất lượng dịch vụ, còn chưa tốt. Ngân hàng cũng chưa có những biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng.
- Về trình độ cán bộ tín dụng: mặc dù Eximbank luôn quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, ngay trong việc tuyển lựa cán bộ tín dụng cũng đặt ra yêu cầu trình độ đại học, đã qua công tác tín dụng ở Ngân hàng khác, hiểu biết về các ngành kinh tế khác. Song điều bất cập xảy ra là trình độ bằng cấp thì nhiều song việc áp dụng vào thực tế công việc đòi hỏi tính năng động, nhanh nhạy, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực quản lý, trình độ, kiến thức khoa học và thực tiễn cuộc sống để quyết đoán một món vay cho phù hợp, đúng cơ chế, tính toán được hiệu quả cho cả Ngân hàng và khách hàng và có thể lường trước được những bất trắc có thể xảy ra thì lại chưa cao.
- Về quy trình tín dụng: một số các sản phẩm tín dụng mặc dù được đưa ra nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu khách hàng nhưng về quy trình triển khai vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể, ví dụ như: cho vay đầu tư theo dự án,.. làm ảnh hưởng tiến độ thực hiện triển khai sản phẩm với khách hàng. Hiện Eximbank mới chỉ có quy trình tín dụng nói chung và quy trình độc lập về thanh toán quốc tế, chưa có quy định về sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan trong một quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu (một trong những sản phẩm có thế mạnh của Eximbank). Khi thẩm định một khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu, mỗi cán bộ tín dụng phải thu thập rất nhiều thông tin qua nhiều nguồn khác nhau, độ chính xác của các nguồn thông tin này cũng chưa được thẩm định. Eximbank thiếu hẳn quy trình xây dựng kho dữ liệu thông tin về khách hàng, về thị trường, ngành hàng và quy trình về bổ sung thông tin.
- Kiểm soát nội bộ: vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát tự phát hiện của các Chi nhánh cơ sở làm chưa thường xuyên, chưa sâu sát và chưa nghiêm túc cả về mặt nội dung, phương pháp và các biện pháp xử lý. Chất lượng kiểm tra, phúc tra và sửa chữa sai sót kiểm tra chưa cao, khắc phục xử lý chưa kiên quyết và dứt điểm. Tại các chi nhánh chưa thiết lập được Bộ phận hay Ban quản lý rủi ro; hoạt động giám sát mang tính hệ thống của Khối giám sát hoạt động mới đi vào hoạt động nên năng lực kiểm tra, giám sát còn hạn chế. Đó là: việc kiểm tra, đánh giá mang tính nguyên tắc cứng nhắc, chưa gắn liền với thực tế hoạt động của từng chi nhánh, từng địa bàn hoặc từng khoản tín dụng cụ thể.
Những phân tích về thực trạng chất lượng tín dụng tại Vietnam Eximbank trong thời gian qua cho thấy những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng. Qua đó cũng khẳng định được vai trò, những đóng góp quan trọng của Vietnam Eximbank trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế trong hoạt động tín dụng, Vietnam Eximbank cần có những gải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng, để đóng góp ngày càng nhiều vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH LÃI SUẤT CÓ GIỚI HẠN HIỆN NAY
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM CỔ PHẦN XNK VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Triển vọng phát triển ngành ngân hàng giai đoạn tới đây
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua luôn đạt mức tăng trưởng cao với tiềm năng duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo. Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam trong hai năm 2007 và 2008 lần lượt đạt: 8,44% và 6,23% do ảnh hưởng của của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu; tới năm 2009 đạt mức 5,3% đã chứng tỏ nội lực của nền kinh tế đồng thời vinh danh Việt Nam ở vị trí thứ ba về tốc độ phục hồi kinh tế nhanh nhất tại khu vực Châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ
Với việc đảm bảo hoạt động luân chuyển vốn cũng như tính thanh khoản cho toàn nền kinh tế, sự phát triển của nền kinh tế đã tạo những tiền đề thuận lợi cho ngành ngân hàng. Số lượng các ngân hàng từ 9 năm 1991 đã lên con số 96 ngân hàng vào năm 2008. Tính đến cuối năm 2008, cả nước có 6 Ngân hàng thương mại nhà nước, 38 Ngân hàng thương mại cổ phần, 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 42 chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài và 5 Ngân hàng thương mại liên doanh. Quy mô hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng tăng lên nhanh chóng, năm 2002, tổng tài sản của hệ thống chỉ đạt 334 ngàn tỷ đồng chiếm 51% GDP. Đến năm 2007, tổng giá trị tài sản toàn hệ thống đã tăng lên hơn 1.500 tỷ đồng, bằng hơn 130% GDP. Mức tăng tín dụng trong nước bình quân đạt 29,6%/năm trong giai đoạn 2002 – 2006 nhờ nhu cầu tín dụng lớn của cả hai thị trường doanh nghiệp và bán lẻ. Đặc biệt trong năm 2007, tăng trưởng tín dụng đạt mức kỷ lục 54% do thị trường tín dụng trở nên quá nóng. Tốc độ tăng trưởng này đã được điều chỉnh giảm trong năm 2008 khi các Ngân hàng thương mại thực hiện tái cơ cấu tài sản và hoạt động thận trọng hơn nhằm thực hiện một trong những giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Mặc dù tốc độ phát triển của ngành ngân hàng tăng nhanh trong những năm vừa qua nhưng hiện tại lĩnh vực ngân hàng Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn phát triển ban đầu và vẫn còn rất nhiều tiềm năng. Với dân số khoảng 87 triệu người (đứng thứ 13 trên thế giới) trong khi đó mới chỉ có 7 triệu tài khoản được mở. Đây là hệ quả của quá khứ nền kinh tế sử dụng tiền mặt tại Việt Nam đã tồn tại ở Việt Nam cho đến trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán ở Việt Nam cuối năm 2007 là 18% cao hơn khoảng 8% so với nhiều nước trong khu vực. Ước tính khoảng 50% tiết kiệm cá nhân được giữ bên ngoài hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền mặt, vàng và các tài sản khác. Trong các năm tới, khi nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chuyển đổi từ nền kinh tế tiền mặt sang hệ thống tài chính chính thống, tỷ lệ thâm nhập dịch vụ tài chính dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, cuối năm 2006, chính phủ đã phê duyệt đồ án “Thanh toán không dùng tiền mặt” và hiện đang được triển khai ở quy mô lớn. Mục tiêu của đề án là đến năm 2020, tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán là 15%, số lượng tài khoản cá nhân đạt 45 triệu, hơn 90% người lao động lĩnh lương qua tài khoản và 95% khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp được thực hiện qua ngân hàng.
So sánh tín dụng và tiền gửi nội địa trên bình quân đầu người tại Việt Nam với các thị trường mới nổi lân cận cũng cho thấy tiềm năng tăng trưởng của khu vực ngân hàng. Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB, năm 2005 có mức tín dụng và tiền gửi bình quân đầu người tương ứng là 445 USD/người và 310 USD/người. Trong khi đó, số liệu bình quân đầu người ở Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia cao gấp 5,2 lần đến 14,5 lần, dao động từ 2.310 USD đến 5.876 USD. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong các năm tới, hoạt động ngân hàng bình quân đầu người sẽ có tốc độ phát triển nhanh chóng.
Bên cạnh tác động của việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch, sử dụng tiền mặt là chủ yếu sang nền kinh tế thị trường, việc hướng các dịch vụ tài chính vào khối ngân hàng bán lẻ còn là kết quả của dân số trẻ và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Theo số liệu thống kê, hàng năm có khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động và 1 triệu người sống ở nông thôn rời lên thành thị. Đây chính là những khách hàng sẽ sớm tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng. Trước kia, việc phát triển các dịch vụ ngân hàng còn hạn chế do dân cư ít tiếp cận với hệ thống ngân hàng, 73% dân số sinh sống ở nông thôn và các vùng miền xa không được tiếp cận với các các chi nhánh ngân hàng hoặc các máy ATM. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Việt Nam đang trải qua thời kỳ tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh chóng với tỷ lệ tăng dân số thành thị là 3,6%/năm trong giai đoạn 2002 – 2005, làm tăng các nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Việc mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng phần nào đáp ứng nhu cầu trên và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp này.
2. Phương hướng nhiệm vụ của Vietnam Eximbank trong thời gian tới
Định hướng chung của Vietnam Eximbank trong giai đoạn tới là mang lại sự thỏa mãn cho khách hàng bằng chất lượng và sự đa dạng sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại cùng một môi trường văn hóa mang bản sắc cộng đồng, theo đó nhân tố con người là nhân tố chủ đạo tạo ra giá trị gia tăng và tăng trưởng bền vững của Eximbank để từng bước trở thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng, hiện đại đạt mức trung bình trong khu vực và quốc tế, nằm trong nhóm dẫn đầu các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Dự kiến, “tập đoàn tài chính đa năng Eximbank” sẽ được hoạt động theo mô hình dưới đây trong đó, hoạt động Ngân hàng thương mại sẽ là “hoạt động cốt lõi” của Ngân hàng:
TRANG 15 BẢN CÁO BẠCHLà gì đây?
Trong giai đoạn tới đây, Eximbank tiếp tục thực hiện chiến lược tập trung và khác biệt hóa trên từng lĩnh vực cốt yếu của hoạt động ngân hàng thương mại (ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn – tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vốn,..), từng bước xâm nhập nhanh, có chọn lọc vào lĩnh vực ngân hàng đầu tư và tài trợ dự án đi kèm phát triển các dịch vụ tài chính. Chiến lược tập trung thể hiện bằng nỗ lực bám sát từng phân khúc thị trường theo tiêu thức địa lý, mạng phân phối, nhóm khách hàng riêng biệt trên từng khu vực thị trường. Chiến lược khác biệt thể hiện tính vượt trội của Eximbank trong việc lựa chọn phát triển sản phẩm, dịch vụ, công nghệ mang tính chiến lược then chốt, mang tính cạnh tranh nhằm tạo đòn bẩy mở rộng thị phần trong nước, từng bước vươn ra thị trường quốc tế.
Để thực hiện và đạt được mục tiêu trên, phương châm hành động của toàn hệ thống là phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả. Cạnh tranh bằng những sản phẩm, dịch vụ tiện ích vượt trội mang tính đặc thù của Eximbank: “Biến lợi thế về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và danh tiếng của Eximbank – cơ hội để tăng nhanh quy mô thành lợi thế cạnh tranh; biến thách thức, cạnh tranh thành động lực phát triển”.
Việc quản trị và thực hiện chiến lược và thực hiện thành công chiến lược phát triển, Eximbank xây dựng chính sách kinh doanh cụ thể căn cứ theo từng chiến lược nhỏ khác nhau:
- Chiến lược ngân hàng bán lẻ, tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vốn và ngân hàng bán buôn.
- Chiến lược khách hàng và phân khúc thị trường.
- Chiến lược và chính sách phát triển công nghệ.
- Chiến lược phát triển phát triển mạng lưới giao dịch và kênh phân phối (gắn liền kế hoạch đầu tư TSCĐ và trang thiết bị cho mạng lưới).
- Chiến lược Marketing – PR – xây dựng và phát triển thương hiệu (gắn liền phát triển văn hóa doanh nghiệp – văn hóa Eximbank).
- Chiến lược và chính sách đầu tư tài chính.
- Chiến lược và chính sách quản trị công ty và quản trị rủi ro.
- Thành lập hoặc liên danh thành lập một số công ty và đơn vị thành viên mà Eximbank là chủ sở hữu hoặc nắm quyền chi phối.
Một số giải pháp chủ yếu để đạt được mục tiêu đề ra đối với ngân hàng trong giai đoạn tới:
- Tập trung quản trị chiến lược theo hướng quản trị, điều hành tập trung thống nhất, xử lý giao dịch tập trung, kiểm soát tập trung nhưng phân cấp hoặc ủy quyền khi quyết định phù hợp với điều kiện thực tế.
- Tăng cường năng lực điều hành hệ thống các cấp quản trị hội sở. Xây dựng bộ máy quản lý rủi ro toàn hệ thống theo hướng phát triển hệ thống thông tin quản lý tập trung và quản lý rủi ro độc lập với sự giám sát của Ban kiểm soát. Xác định cơ chế phân cấp, ủy quyền, cơ chế khuyến khích phù hợp tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, yêu cầu an toàn hiệu quả của ngân hàng và việc giữ, thu hút nhân tài. Sớm hoàn thành và triển khai trong toàn hệ thống mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng, chủ động tìm đến khách hàng; nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, giản tiện các thủ tục khi giao dịch dựa trên cơ sở tận dụng tiện ích của công nghệ thông tin hiện đại tạo thuận lợi cho khách hàng. Từng bước cải tiến mô hình tổ chức bộ máy và phương thức quản trị phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và tốc độ phát triển của Eximbank, phù hợp với quy mô, tốc độ và tầm vóc mới – hướng đến tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng, hiện đại.
- Tiếp tục duy trì tốc độ và chú trọng hơn nữa chất lượng phát triển mạng lưới giao dịch và đa dạng hóa kênh phân phối để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và thị phần . Song song với việc đa dạng hóa sản phẩm được xác định là điểm cốt lõi, là mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng cá nhân và ngân hàng cho doanh nghiệp, tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội so với các sản phẩm trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh.
- Từng bước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, từng bước thâm nhập và cạnh tranh cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên thị trường khu vực ASEAN và quốc tế.
- Tăng cường công tác Marketing, trong đó chú trọng hoạt động PR, tiếp tục hoàn thành chiến lược tổng thể về hoạt động Marketing và PR, thực hiện các hoạt động quan hệ công chúng, quan hệ với nhà đầu tư (cổ đông), công bố thông tin và kịp thời ứng phó với các thông tin thất thiệt gây hiểu nhầm cho nhà đầu tư và ảnh hưởng tới uy tín và thương hiệu Eximbank.
- Xây dựng hệ thống tính điểm khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro, giúp cho việc ra quyết định cho vay nhanh chóng, chính xác; xây dựng chương trình xác định mức lợi nhuận của từng phân đoạn (từng nhóm) khách hàng, từng loại hình dịch vụ để có các định hướng phát triển phù hợp, qua đó thực hiện tốt chính sách khách hàng.
- Mục tiêu của Eximbank là thành lập hệ thống các công ty thành viên, mở rộng quy mô hoạt động, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Đây cũng là một trong các giải pháp để đa dạng hóa hoạt động và đa dạng hóa kênh phân phối của Eximbank.
Dựa trên những mục tiêu và tầm nhìn hoạt động, các chỉ tiêu cơ bản của Eximbank dự kiến tới năm 2011 sẽ được thể hiện theo bảng dưới:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Tổng tài sản
90.000.000
130.000.000
Vốn chủ sở hữu
14.000.000
15.000.000
Thu nhập lãi và khoản tương đươngThu nhập ngoài lãi thuầnTổng thu nhập hoạt động kinh doanhTổng chi phí hoạt động kinh doanh
6.795.000765.0007.560.0004.629.000
10.938.0001.054.00011.992.0007.669.000
Thu nhập hoạt động kinh doanh thuần
2.931.000
4.323.000
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụngLợi nhuận trước thuếThuế thu nhập doanh nghiệp
451.0002.480.000620.000
963.0003.360.000840.000
Lợi nhuận sau thuế
1.860.000
2.520.000
Tỷ suất Lợi nhuận/VCSH bình quânTỷ lệ chi trả cho cổ đông- Chi trả cổ tức (bằng tiền mặt)- Phát cổ phiếu thưởng từ các quỹ dự trữ
13%32%12%20%
17%30%13%17%
Hệ số an toàn vốn (%)
20% – 22%
15% – 18%
(Nguồn: Chiến lược phát triển Eximbank)
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHTM CỔ PHẦN XNK VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH LÃI SUẤT CÓ GIỚI HẠN GIỮA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Một số giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn
Thứ nhất là có định hướng, kế hoạch phát triển nguồn vốn phù hợp
Biện pháp đầu tiên mà Ngân hàng có thể làm đó là luôn đánh giá một cách chi tiết, phân tích tỉ mỉ tình hình, tỷ trọng, kết cấu nguồn vốn,..tình hình thực tiễn của Việt Nam (môi trường kinh tế, pháp lý, môi trường xã hội, tâm lý) để tìm ra những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ phía Ngân hàng hay từ phía người gửi tiền. Bên cạnh đó, ngân hàng phải chủ động quản lý được quy mô, cơ cấu, kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn một cách có hiệu quả vì cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và quyết định tới chi phí của Ngân hàng. Trên cơ sở thống kê đầy đủ, kịp thời những thay đổi về nguồn vốn, tốc độ quay vòng của mỗi nguồn vốn và những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới những thay đổi đó, Ngân hàng có thể lập chiến lược dài hạn về huy động vốn để từ đó có những biện pháp huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn cho bản thân Ngân hàng nói riêng, cho nền kinh tế nói chung và không để bị đọng vốn trong quá trình sử dụng vốn.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức thức huy động vốn
Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống như nhận tiền gửi với lãi suất linh hoạt thì ngân hàng cần triển khai và đưa ra các hình thức huy động vốn, sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng đối tượng khách hàng như: tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gửi góp,.. để luôn đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền nhưng cũng đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng và người đi vay; ví dụ như mở 02 tài khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi tiết kiệm song song cho khách hàng, khi tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng có số dư cao Ngân hàng sẽ linh hoạt chuyển một tỷ lệ nhất định sang tài khoản tiền gửi tiết kiệm; ngược lại, khi khách hàng có nhu cầu thanh toán, Ngân hàng sẽ tự động chuyển tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi thanh toán để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, điều này sẽ tạo ra sự tiện lợi, nhanh chóng cho khách hàng đồng thời giúp Ngân hàng giảm giai đoạn rút tiền nhiều lần, tốn thời gian và chi phí. Bên cạnh các hình thức huy động vốn bằng VND thì ngân hàng cũng cần đưa ra những sản phầm như kỳ phiếu, trái phiếu,.. mục đích thu hút lượng ngoại tệ nhằm đảm bảo tính thanh khoản đối với một ngân hàng chuyên hoạt động trong mảng thanh toán quốc tế như Eximbank.
Vietnam Eximbank nên chăng cải tiến thời gian làm việc để thuận tiện cho người gửi, rút tiền. Các chi nhánh, phòng giao dịch nên bố trí người làm việc sớm hơn và nghỉ muộn hơn (kể cả giao dịch thời gian tối lẫn ngày nghỉ) bởi hiện nay việc giao dịch gửi tiền qua máy ATM của Eximbank chưa được thực hiện trong khi hiện nay có rất nhiều người lao động chỉ có ngoài giờ làm việc hoặc ngày nghỉ mới có thời gian đến Ngân hàng để gửi, rút tiền.
Với lề lối, tác phong làm việc, thủ tục trong việc huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi tiết kiệm cũng nên tránh sử dụng quá nhiều chứng từ, thủ tục rườm rà, tốn công sức, tiền của của Ngân hàng mà lại gây thiếu thiện cảm của khách hàng.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách khách hàng và chiến lược Marketing hiệu quả
Ngân hàng cần có chính sách khách hàng đúng đắn đó là thu hút, mở rộng nhiều khách hàng, duy trì nhóm khách hàng truyền thống. Với những khách hàng lâu năm, có số dư tiền gửi lớn được Ngân hàng tín nhiệm thì Ngân hàng sẽ có chính sách ưu tiên về lãi suất, kỳ hạn món vay cũng như việc xem xét thưởng.
Để thu hút khách hàng đến với Ngân hàng ngày một nhiều hơn thì Ngân hàng cần có chiến lược khách hàng. Vì lợi ích của khách hàng, Ngân hàng cần có phòng Marketing riêng chuyên thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu của khách hàng, phân loại thị trường, phân loại khách hàng để từ đó có cách xử lý cho phù hợp. Thêm vào đó, hoạt động khuếch trương, quảng cáo đối với Ngân hàng là không bao giờ thừa bởi hiện nay rất nhiều người dân chỉ quen với việc đến Ngân hàng gửi tiền và lấy lãi, khái niệm sản phẩm Ngân hàng đối với họ còn khá trừu tượng. Do đó, Eximbank cần có những hình thức tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu để đưa thông tin đến với khách hàng giúp người dân biết tới hoạt động của Ngân hàng; đồng thời họ thấy được lợi ích khi giao dịch với Eximbank, về lãi suất, về dịch vụ nhận, chuyển tiền, về các chính sách ưu đãi của các hình thức huy động vốn của Ngân hàng.
Thứ tư là đổi mới công nghệ Ngân hàng
Một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn là đổi mới công nghệ Ngân hàng, tiếp cận nhanh với công nghệ hiện đại. Công nghệ ngân hàng không đơn thuần chỉ là những máy móc phục vụ nhu cầu thanh toán của khách hàng mà còn là việc sử dụng công nghệ tin học để quản lý về mặt tác nghiệp trong đó có quản lý kế toán và thanh toán giúp cho việc thu hút nguồn vốn huy động được nhanh chóng và chính xác hơn
Thứ năm, nâng cao phong cách phục vụ khách hàng
Phong cách khi tiếp xúc với khách hàng cần niềm nở, tận tình, tạo được ấn tượng tốt về thái độ phục vụ. Với mỗi một Chi nhánh, Phòng giao dịch, Eximbank nên có những phòng V.I.P với một cách bài trí riêng, một đội ngũ nhân viên có trình độ, có ngoại hình tốt tư vấn giúp khách hàng lớn gửi tiền.
Đưa ra những kế hoạch gặp gỡ các khách hàng tiềm năng, tổ chức các buổi gặp gỡ tiếp xúc với khách hàng để có được thông tin phản hồi từ khách hàng nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng.
Thứ sáu, huy động vốn gắn liền với sử dụng vốn
Trong hoạt động Ngân hàng, giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có quan hệ thường xuyên, tác động hỗ trợ lẫn nhau. Nguồn vốn là cơ sở, là tiền đề để Ngân hàng thực hiện công tác sử dụng vốn. Nhưng chỉ khi Ngân hàng tiến hành cho vay quay vòng vốn thì nguồn vốn mới sinh lời do đó sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để Ngân hàng xác định nguồn vốn cần huy động.
Thứ bảy, tiết giảm giá thành đơn vị huy động vốn
Trong cuộc chạy đua giành thị phần và nguồn vốn như hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tăng lãi suất huy động để thu hút khách hàng. Tuy nhiên, một khi lãi suất huy động tăng cao, hoặc nếu Ngân hàng không tăng được lãi suất cho vay thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của chính Ngân hàng; nhưng nếu Ngân hàng tăng lãi suất cho vay thì lại làm giảm hiệu quả kinh tế đối với toàn xã hội vì chi phí sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư gia tăng. Nguồn vốn huy động được xem là có chất lượng cao nếu nó được huy động với giá cả hợp lý từ những nguồn ổn định. Muốn vậy, Eximbank cần quản lý được lãi suất đầu vào: đó là việc xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất huy động như khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ sinh lời và các hoạt động đầu tư khác, trình độ phát triển của thị trường tài chính cũng như khả năng sinh lời và độ an toàn của các ngân hàng,.. Từ các nhân tố này, Eximbank cần có những phòng, ban nghiệp vụ chuyên môn phân tích về hướng đi “đường cong lãi suất” trong những giai đoạn ngắn, trung, dài hạn để đưa ra được phương thức huy động vốn phù hợp.
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay
Xuất phát từ những hạn chế và những phương hướng hoạt động trong thời gian tới của Vietnam Eximbank cũng như từ những hiểu biết của bản thân trong thời gian làm công tác tín dụng tại Ngân hàng, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho vay trong thời gian tới của Eximbank như sau:
Thứ nhất, xây dựng chính sách tín dụng phù hợp với từng địa bàn, chi nhánh và từng đối tượng khách hàng
Có thể nói, chính sách tín dụng là nhân tố tiên quyết ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của Ngân hàng. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tín dụng phù hợp không những làm gia tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng mà còn giúp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng đó
Với Vietnam Eximbank hiện nay, mức phán quyết cho vay của Giám đốc chi nhánh, Sở giao dịch là tương đối lớn so với hầu hết các NHTM cổ phần trên toàn hệ thống. Mặc dù vậy, theo quy chế hiện tại, nếu vượt mức phán quyết của Giám đốc thì sẽ cần có việc phê duyệt chấp thuận của Ban tín dụng chi nhánh bao gồm: Cán bộ thẩm định, Lãnh đạo Phòng tín dụng, Các thành viên ban giám đốc; tuy nhiên việc họp Ban tín dụng chưa được diễn ra một cách thường xuyên công khai gây ảnh hưởng tới quyết định cho vay của Ban tín dụng chi nhánh. Và, nếu khoản vay vượt mức phán quyết của Ban tín dụng chi nhánh thì hồ sơ vay vốn sẽ được trình trực tiếp lên Hội đồng tín dụng Hội sở tại Thành phố Hồ Chí Minh nên thời gian từ khi thẩm định cho tới khi ra được quyết định cho vay sẽ tương đối lâu. Eximbank nên chăng thành giảm mức phán quyết của các Chi nhánh thấp xuống và thành lập các Trung tâm tín dụng tại từng vùng miền khác nhau như Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam,... Tại từng vùng sẽ có các Giám đốc vùng là những người có kinh nghiệm đã từng công tác lâu năm, hiểu biết địa bàn; dưới đó là các phòng ban tác nghiệp, toàn bộ hồ sơ vay vốn khách hàng mới sẽ được các chi nhánh, phòng giao dịch gửi lên, tại đây Trung tâm tín dụng sẽ đưa ra phán quyết cho vay làm tăng mức độ khách quan của hồ sơ vay vốn. Cán bộ tín dụng ở các chi nhánh sẽ có nhiệm vụ chính là tìm kiếm khách hàng mới cũng như chăm sóc các khách hàng cũ.
Mặt khác, Eximbank nên nhanh chóng thực hiện công tác phân loại khách hàng thành những cấp bậc khác nhau dựa trên những tiêu chí như: uy tín trong quan hệ tín dụng, cơ cấu nguồn vốn, tổng số lao động, doanh thu, lợi nhuận,.. để từ đây có những ưu đãi đặc biệt về giới hạn tín dụng được cấp, lãi suất có thể điều chỉnh,..
Thứ hai, kiện toàn thành phần nhân sự bộ máy tín dụng và quy trình tín dụng của các Chi nhánh, Sở giao dịch
Tại các Chi nhánh, Sở giao dịch hiện nay, Cán bộ tín dụng phải làm tất cả mọi công việc từ thẩm định, phát vay, kiểm tra sau vay cho tới thu hồi nợ. Quy trình tín dụng đang được áp dụng hiện nay như sau: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn sẽ được tiếp xúc trực tiếp với Lãnh đạo phòng tín dụng. Lãnh đạo phòng tín dụng sau khi thẩm định qua sẽ giao cho một Cán bộ tín dụng thẩm định lại thông qua việc nghiên cứu hồ sơ đề nghị vay vốn, thẩm định năng lực tài chính, tư cách khách hàng, tài sản đảm bảo, nếu thấy phương án khả thi và có hiệu quả sẽ trình Trưởng phòng tín dụng cùng Ban giám đốc quyết định. Nếu được chấp thuận, Cán bộ sẽ soạn thảo Hợp đồng tín dụng, Khế ước nhận nợ để ký kết giữa Ngân hàng và khách hàng. Sau đó, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành các thủ tục giải ngân, thực hiện lưu trữ hồ sơ, theo dõi việc sử dụng đúng mục đích các khoản vay, đôn đốc khách hàng trả nợ gốc lãi hàng tháng và xử lý nợ quá hạn. Chính bởi phải làm quá nhiều nghiệp vụ nên Cán bộ tín dụng không có nhiều thời gian để tiếp xúc, Marketing sản phẩm với khách hàng mới trong khi công tác thẩm định cho tới kiểm tra sau cho vay chưa chắc đã có thể hoàn chỉnh như yêu cầu. Do đó, ở Phòng tín dụng các Chi nhánh cần có sự phân tách biệt giữa các bộ phận như: Bộ phận bán hàng, Bộ phận thẩm định, Bộ phận kiểm tra sau cho vay giúp cho công tác tín dụng chuyên nghiệp hóa hơn cũng như hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan, các biểu hiện tiêu cực trong quá trình thẩm định xét duyệt cho vay, đảm bảo tính khách quan, kịp thời phát hiện các khách hàng kém hiệu quả, dự án kém khả thi. Khi đó, hoạt động tín dụng mới có được sự phối hợp của tất cả các bộ phận, phòng ban, có sự giám sát, kiểm tra chéo nhau để kịp thời phát hiện những sai sót có thể xảy ra.
Thứ ba, phân tích kỹ về lãi suất cho vay để cạnh tranh về phương thức phục vụ. Đa dạng và cụ thể hơn nữa chính sách lãi suất, phí giao dịch
Thời gian qua, Eximbank đã và đang áp dụng chính sách lãi suất khá linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng vay vốn khác nhau phân theo kỳ hạn vay, quy mô khoản vay, tài sản đảm bảo cho khoản vay cũng như các sản phẩm khác như “Tài trợ xuất khẩu với lãi suất ưu đãi”, “Cho vay tài trợ xuất khẩu” theo các chương trình 1, 2, 3. Tuy nhiên, để có thể cạnh tranh hơn nữa với những NHTM cổ phần hiện nay khi các sản phẩm do Eximbank đưa ra luôn được các Ngân hàng khác “áp dụng” khá nhanh chóng thì Eximbank cũng nên có thêm những quy định về mức miễn giảm lãi đối với những khách hàng truyền thống có quan hệ tín dụng lâu năm, đang gặp những khó khăn nhất thời tại một thời điểm. Ngoài ra, một biện pháp nữa cũng có thể đưa ra là chính sách miễn giảm phí giao dịch và phí chuyển tiền với các khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên, khách hàng có số dư tiền gửi lớn.
Thứ tư, hoàn thiện các sản phẩm cũ và nghiên cứu, phân tích đưa ra những sản phẩm tín dụng cố gắng không lệ thuộc vào lãi suất được khống chế hiện nay
Với các khoản vay trung, dài hạn, Ngân hàng có thể đưa ra những sản phẩm đi cùng với doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn đầu tư dự án như thành lập một “tổ hợp chức năng” từ việc tư vấn, phát hành trái phiếu cho doanh nghiệp cho tới việc thực hiện tự doanh chính trái phiếu doanh nghiệp. Như vậy, Ngân hàng có thể không cần đề cập tới vấn đề lãi suất doanh nghiệp phải trả, mà mức lãi suất này chính là lãi suất của trái phiếu Ngân hàng đã mua của doanh nghiệp và không nằm trong chế tài quy định mức lãi suất khống chế của Ngân hàng nhà nước. Mặt khác, thông qua quá trình tư vấn phát hành, Ngân hàng có thể hiểu tương đối kỹ về doanh nghiệp và có thể đồng hành cùng doanh nghiệp vay vốn, nâng cao hiệu quả dự án vay.
Ngoài ra, Vietnam Eximbank vẫn cần có chiến lược nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới nhằm chiếm lĩnh thị trường mục tiêu, những thị trường ít tính cạnh tranh như: Tín dụng thuê mua nhập khẩu tài trợ trung dài hạn, hợp tác với các TCTD nước ngoài để phát triển hình thức tài trợ XNK đối lưu (một bên tài trợ xuất khẩu với một bên tài trợ nhập khẩu cho cùng một thương vụ hay cùng một khách hàng)....
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Ngân hàng
Nâng cao vai trò công tác thanh tra, kiểm soát là công việc rất quan trọng để đảm bảo chất lượng cho vay. Thông qua quá trình kiểm tra, giám sát vốn vay, Ngân hàng sẽ đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng, ngoài ra, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Ngân hàng giúp phát hiện kịp thời những sai sót trong việc thực hiện quy trình tín dụng để có thể kịp thời khắc phục và thanh lọc những cán bộ thực hiện công tác tín dụng năng lực kém, mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của Ngân hàng
- Về công tác kiểm tra giám sát tại Chi nhánh, Phòng giao dịch: Để quy trình tín dụng được tuân thủ nghiêm ngặt, chất lượng dịch vụ được nâng cao cần phải có sự thay đổi rất lớn trong công tác tập huấn nghiệp vụ cho Cán bộ tín dụng, tổ chức giám sát chặt chẽ nghiệp vụ tại các chi nhánh, trong đó các Lãnh đạo phòng ban nghiệp vụ chính là cán bộ giám sát chủ chốt. Chỉ có thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát tính tuân thủ quy trình nghiệp vụ, kết hợp với chính sách khen thưởng, kỷ luật theo đúng trách nhiệm rõ ràng mới có thể nâng cao chất lượng lượng tín dụng tại từng đơn vị. Theo kinh nghiệm của các Ngân hàng quốc tế, các lỗi trong thực hiện giao dịch thường được cán bộ chuyên trách ghi chép lại chi tiết và làm căn cứ để đánh giá cán bộ. Ngược lại, sáng kiến và đóng góp tích cực trong hoạt động nghiệp vụ sẽ được khen thưởng nhanh chóng. Chính chính sách kiểm tra và giám sát chặt chẽ khiến cho tính tuân thủ tại các Ngân hàng quốc tế rất cao, đồng thời sự chủ động, sáng tạo được phát huy tối đa.
- Với công tác kiểm tra, kiểm soát mang tính hệ thống: hiện tại, công tác này được thực hiện bởi Khối giám sát hoạt động, ngoài ra còn có sự giám sát của Ban giám sát tín dụng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Vietnam Eximbank hiện vẫn còn thiếu về số lượng và yếu cả về chất lượng. Một năm, bình quân các đoàn kiểm tra, kiểm soát về tới các chi nhánh, Phòng giao dịch chỉ từ 2 tới 3 lần nên khả năng kiểm tra tính tuân thủ trong hoạt động, đưa ra những khuyến cáo là không kịp thời; trong khi đó, nhiều cán bộ trong đoàn thanh, kiểm tra chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động nên những đề nghị chỉnh sửa đối với hoạt động là thiếu thực tế dẫn tới những khó khăn trong công tác tín dụng của các bộ phận.
Thứ sáu, Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ trong lĩnh vực tín dụng
Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội nói chung và trong hoạt động cho vay nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, từ những bước thẩm định khách hàng vay, thực hiện cho vay, thu hồi nợ không có máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bộ tín dụng có khả năng đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Mặc dù hàng năm, các trường đại học, cao đẳng khối kinh tế đã đào tạo hàng chục nghìn sinh viên ra trường nhưng người có trình độ chuyên môn sâu và các kỹ năng kèm theo như ngoại ngữ, tiếng anh, kiến thức về luật pháp....lại không nhiều. Trong khi đó, việc gia tăng thành lập các định chế tài chính kéo theo nhu cầu nhân sự ngày càng cao, dẫn đến thực trạng di chuyển, câu kéo những cán bộ đã có kinh nghiệm tại các Ngân hàng khác. Khó khăn đối với Vietnam Eximbank đó là các cán bộ làm công tác tín dụng đều còn trẻ và ít kinh nghiệm. Vì vậy, Ngân hàng cần có những chính sách nâng cao chất lượng cán bộ, cụ thể:
- Ngân hàng cần có chính sách đào tạo đối với cán bộ mới một cách bài bản, chuyên sâu. Chú trọng công tác đào tạo lại và tổ chức thường xuyên, rộng rãi các buổi tập huấn nghiệp vụ đối với những cán bộ đang thực hiện nghiệp vụ nhằm tiếp cận kịp thời với những thay đổi mới trong chính sách, quy trình tín dụng và điều kiện mới về môi trường thực hiện. Để giúp nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc thuê các chuyên gia trực tiếp giảng dạy; cử cán bộ đi học tại các trường đào tạo nâng cao hoặc các Ngân hàng đã có bề dày hoạt động ở nước ngoài nhằm tiếp cận với những kiến thức mới về nghiệp vụ và quản lý; hoặc để giảm kinh phí đào tạo và không ảnh hưởng nhiều đến công việc hiện tại thì có thể tổ chức cho nhân viên tham gia các lớp học trực tuyến (online).
- Có chế độ đãi ngộ hợp lý, thậm chí mang tính cạnh tranh đối với các Ngân hàng khác thu hút và giữ chân nguồn cán bộ có trình độ và kinh nghiệm. Hiện nay, ngoài các quy chế về lương, thưởng, Eximbank đã có các chương trình nhằm đãi ngộ người lao động như: Cho vay ưu đãi cán bộ nhân viên nhằm hỗ trợ cuộc sống, cho mua ưu đãi cổ phiếu của NH......nhưng chế độ lương, thưởng cần phải đảm bảo công bằng hơn dựa trên trình độ chuyên môn, mức độ đảm nhiệm công việc, trách nhiệm, hiệu quả làm việc, thời gian cống hiến.
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP
1. Đối với Vietnam Eximbank
- Eximbank nên tổ chức nhiều hội thảo, chuyên đề tín dụng để cho các cán bộ tín dụng tại các Chi nhánh, Sở giao dịch, Phòng giao dịch có điều kiện giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm công tác, nâng cao trình độ của mình cũng như triển khai, hướng dẫn kịp thời các văn bản, quyết định của Ngân hàng nhà nước
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các chi nhánh và đội ngũ nhân sự, đảm bảo thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng của các Chi nhánh, Phòng giao dịch
- Để phục vụ khách hàng vay vốn một cách nhanh chóng và thuận tiện, đề nghị Eximbank cho phép loại bỏ hoặc rút ngắn những giấy tờ không cần thiết bởi hiện đang có rất nhiều cá nhân, doanh nghiệp phản ánh rằng để có thể vay vốn Ngân hàng cần quá nhiều loại giấy tờ không cần thiết và tốn nhiều thời gian. Với các giấy tờ nên đưa ra những lựa chọn giúp khách hàng “tích” một cách nhanh chóng, tránh tình trạng để khách hàng cần phải tự viết nhiều loại giấy tờ
- Cần có chế độ khen thưởng, kỷ luật rõ ràng đối với cán bộ tín dụng. Phân chỉ tiêu dư nợ tới từng nhóm, từng bộ phận; nếu hoàn thành, hoàn thành vượt mức sẽ có những mức thưởng tương xứng và nếu không thực hiện được chỉ tiêu, mức lương sẽ bị giảm trừ.
2.. Đối với Ngân hàng nhà nước
- Tăng cường hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ, chức năng giám sát kiểm tra đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
- Ngân hàng nhà nước nên hình thành cơ quan phân tích đánh giá về tài chính và dự báo xu hướng phát triển của ngân hàng thương mại trên cơ sở đó kịp thời điều chỉnh các quy định và biện pháp giám sát.
- Cho phép NHTM được áp dụng nhiều biện pháp thích hợp với từng loại tài sản ngoài những biện pháp thông thường hiện nay để khai thác kể cả chấp nhận việc bán thấp hơn giá trị nhận cầm cố, thế chấp, coi đó là hiện tượng kinh tế bình thường để có vốn luân chuyển.
- Trong điều kiện kinh tế hiện nay Trung tâm thông tin Ngân hàng của nước ta còn chưa kịp thời đầy đủ, đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấn chỉnh hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng từ khâu cập nhật số liệu, cung cấp số liệu đảm bảo thông tin chính xác kịp thời
3. Đối với Nhà nước
- Nhà nước cần tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng. Do tình hình kinh tế - xã hội phát triển nhanh chóng, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường thực sự cần có sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật. Chính vì vậy đòi hỏi cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa cho hoạt động của Ngân hàng cũng như hoạt động của chính doanh nghiệp là rất cần thiết.
- Cần có nhiều biện pháp kiểm tra chặt chẽ hơn nữa chất lượng hoạt động của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt chú trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng.
- Chấn chỉnh việc chấp hành chế độ kế toán và quản lý tài chính ở các doanh nghiệp. Tổ chức kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán theo đúng Pháp lệnh hạch toán kế toán và thống kê, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời nhằm giúp Ngân hàng có được các thông tin tài chính để phân tích tín dụng được chính xác.
- Cải tiến công tác tòa án, thi hành án sớm, sớm chỉnh sửa pháp lệnh thi hành án để nâng cao hiệu lực pháp lý của các bản án đã có hiệu lực thi hành, rút ngắn thời gian tố tụng, thời gian thi hành án
Với mục tiêu phát triển mạnh mẽ ở rất nhiều mảng hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động Ngân hàng vẫn là hoạt động cốt lõi thì mảng kinh doanh tín dụng sẽ tiếp tục là lĩnh vực cần coi trọng của Vietnam Eximbank trong thời gian tới. Do đó, việc tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng là cần thiết để xây dựng một “tập đoàn tài chính đa năng Eximbank” giai đoạn sau này.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong điều kiện cạnh tranh lãi suất hiện nay thì việc tăng trưởng tín dụng trong khi vẫn phải đảm bảo chất lượng là điều tương đối khó khăn. Mặc dù các nghiên cứu tương tự đề tài là tương đối nhiều nhưng đây vẫn là một vấn đề rộng, khó và nhiều vấn đề phức tạp mà các nhà nghiên cứu vẫn không ngừng đề cập. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn làm việc tại ngân hàng, tác giả cố gắng chắt lọc những mặt còn tồn tại và yếu kém để từ đó đề xuất một số kiến nghị với mong muốn nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam trong giai đoạn tới. Trên cơ sở thực hiện các mục tiêu và yêu cầu của đề tài, chuyên đề đã hoàn thành một số nội dung nghiên cứu sau:
1. Phân tích về mặt lý luận những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng, chất lượng tín dụng ngân hàng cũng như lãi suất cạnh tranh giữa các NHTM tại Việt Nam hiện nay
2. Phân tích thực trạng tín dụng tại NHTM cổ phần XNK Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn hiện nay, từ đây nêu được những mặt tích cực, những mặt còn tồn tại, hạn chế cần nghiên cứu và giải quyết để cải thiện tốt nhất chất lượng tín dụng tại Ngân hàng.
3. Đưa ra một số giải pháp cụ thể đóng góp cho NHTM cổ phần XNK Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tín dụng và hiệu quả tín dụng của Ngân hàng.
Đối với các nghiên cứu tiếp theo về cùng hướng phát triển: đề tài đưa ra được thêm những cơ sở lý luận, những giải pháp có thể áp dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại một số Ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mùi (1999), Quản lý và kinh doanh tiền tệ, Nhà xuất bản Tài Chính
2. Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Tài Chính
3. Phan Thị Thu Hà – Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Giáo trình ngân hàng thương mại – Quản tri nghiệp vụ, Nhà xuất bản Thống Kê
4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X (2008), Luật các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
5. Nguyễn Minh Kiều (2008), Quản trị rủi ro trong ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
6. Federic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật.
7. Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài Chính
8. David Begg and Stanley Fitcher, Rudger Dornbusch (1992), Kinh tế học tập I, Nhà xuất bản Giáo Dục
9. Edward W.Reed & Edward K.Gill (1993), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản TPHCM
10. Nguyễn Minh Kiều, Bùi Kim Yến (2008), Thị trường tài chính, Nhà xuất bản Thống Kê
11. Nguyễn Đăng Dờn (2009), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản đại học Quốc Gia TPHCM
12. Lê Văn Tề (2009), Tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Giao thông vận tải
13. Trần Viết Hoàng, Cung Trần Việt (2008), Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Thống Kê
14. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động ngân hàng, Nhà xuất bản tài chính
15. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2002), Bàn về cho vay theo lãi suất thỏa thuận bằng VNĐ, Nhà xuất bản Thống Kê
16. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2001), Ngân hàng với nền kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Thống Kê
17. Nguyễn Văn Tiến (2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
18. Tô Ngọc Hưng (2002), Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
19. Eximbank Việt Nam (2009), Bản cáo bạch NHTM cổ phần XNK Việt Nam
20. Eximbank Việt Nam (2006, 2007, 2008, 2009), Báo cáo thường niên NHTM cổ phần XNK Việt Nam
Các Website :
1. Http:// www.vbard.com.vn
2. Http:// www.saga.vn
3. Http:// www.vneconomy.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mùi (1999), Quản lý và kinh doanh tiền tệ, Nhà xuất bản Tài Chính
2. Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Tài Chính
3. Phan Thị Thu Hà – Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Giáo trình ngân hàng thương mại – Quản tri nghiệp vụ, Nhà xuất bản Thống Kê
4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X (2008), Luật các tổ chức tín dụng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia
5. Nguyễn Minh Kiều (2008), Quản trị rủi ro trong ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
6. Federic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật.
7. Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài Chính
8. David Begg and Stanley Fitcher, Rudger Dornbusch (1992), Kinh tế học tập I, Nhà xuất bản Giáo Dục
9. Edward W.Reed & Edward K.Gill (1993), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản TPHCM
10. Nguyễn Minh Kiều, Bùi Kim Yến (2008), Thị trường tài chính, Nhà xuất bản Thống Kê
11. Nguyễn Đăng Dờn (2009), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản đại học Quốc Gia TPHCM
12. Lê Văn Tề (2009), Tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Giao thông vận tải
13. Trần Viết Hoàng, Cung Trần Việt (2008), Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Thống Kê
14. Lê Vinh Danh (2006), Tiền và hoạt động ngân hàng, Nhà xuất bản tài chính
15. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2002), Bàn về cho vay theo lãi suất thỏa thuận bằng VNĐ, Nhà xuất bản Thống Kê
16. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2001), Ngân hàng với nền kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Thống Kê
17. Nguyễn Văn Tiến (2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
18. Tô Ngọc Hưng (2002), Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản Thống Kê
19. Eximbank Việt Nam (2009), Bản cáo bạch NHTM cổ phần XNK Việt Nam
20. Eximbank Việt Nam (2006, 2007, 2008, 2009), Báo cáo thường niên NHTM cổ phần XNK Việt Nam
Các Website :
1. Http:// www.vbard.com.vn
2. Http:// www.saga.vn
3. Http:// www.vneconomy.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại nhtm cổ phần xnk việt nam trong điều kiện cạnh tranh lãi suất có giới hạn giữa các nhtm việt nam.doc