Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện, chúng ta đã kýđược hiệp định thương mại Việt - Mỹ vàđang trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam đang là những thời cơ và thách thức mới đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trong cạnh tranh. Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng cũng có những thời cơ và thách thức trong tình hình mới.
Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua ngày càng trở nên khó khăn, lãi suất trên thị trường thế giới liên tục giảm gây áp lực lên hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặt khác, bản thân các ngân hàng trong nước cũng có sự cạnh tranh quyết liệt với nhau nên càng gây ra nhiều khó khăn, buộc các ngân hàng phải nới lỏng các yêu cầu khi cho vay cũng như cắt giảm lãi suất tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và do đó gián tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng. Các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có thể sử dụng vốn vay của ngân hàng không đúng mục đích hoặc đầu tư không hiệu quả, thu nhập không đủ bùđắp chi phí . dẫn đến không thể trảđược nợ ngân hàng khi đến hạn, tất cả những điều đóđều có thể gián tiếp gây ra rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro đối với hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong thời gian tới việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là thực sự cóý nghĩa và luôn là một đề tài bức xúc đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tìm được các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng để tăng hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng là mong muốn của tất cả các nhà kinh doanh tiền tệ khi phải đối đầu với sự cạnh tranh quyết liệt, giành giật thị phần để mang lại lợi nhuận.
Nhận thức được điều đó, cùng với mong muốn sử dụng những kiến thức đã học cũng như các kết quả quan sát học hỏi từ thực tiễn hoạt động tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Trong bài luận văn này, em sẽ trình bày các vấn đề lý luận cũng như thực trạng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch. Từđóđưa ra một số giải pháp và kiến nghị góp hạn chế rủi ro tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung vàđối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng.
Kết cấu luận văn gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng.
Chương II: Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên bài luận sẽ không tránh khỏi có những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ tín dụng để bài luận văn hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Xuân Quế cùng các thầy cô trong Khoa Ngân hàng - Tài chính đã tận tình hướng dẫn giúp em làm tốt đề tài này. Em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ Phòng tín dụng I - Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình thực tập tại quý cơ quan.
MỤCLỤC
Lời nói đầu . 1
Chương I - Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng 3
I. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng 3
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng . 3
2. Phân loại tín dụng ngân hàng . 4
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng 5
3.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế 6
3.2. Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các NHTM . 8
II. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại . 8
1. Quan điểm chung về rủi ro tín dụng 8
2. Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng 10
2.1. Nợ quá hạn 10
2.2. Tổn thất tín dụng . 12
2.3. Rủi ro tiềm năng . 12
3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 13
3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan . 13
3.1.1. Môi trường tự nhiên 14
3.1.2. Môi trường kinh tế 14
3.1.3. Môi trường pháp lý 14
3.1.4. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước . 15
3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan . 15
3.2.1. Về phía khách hàng 15
3.2.2. Về phía ngân hàng 17
4. Tác động của rủi ro tín dụng . 20
4.1. Tác động của rủi ro tín dụng đến ngân hàng 20
4.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế 21
Chương II - Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 22
I. Khái quát chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 22
1. Lịch sử hình thành và phát triển 22
2. Cơ cấu tổ chức 24
3. Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong thời gian qua . 27
II. Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở . 34
1. Một số quy định chung đối với hoạt động tín dụng 34
1.1. Quy trình cho vay 34
1.2. Nguyên tắc cho vay . 37
1.3. Điều kiện vay vốn 37
1.4. Đối tượng cho vay 38
2. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch 38
2.1. Cơ cấu tín dụng theo loại cho vay . 38
2.2. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế . 42
2.3. Cơ cấu tín dụng theo tính chất bảo đảm 45
3. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch . 47
3.1. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay 48
3.2. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo thành phần kinh tế 51
3.3. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo khả năng thu hồi . 53
4. Đánh giá . 56
4.1. Những kết quảđạt được . 57
4.2. Những mặt còn hạn chế . 58
5. Nguyên nhân . 59
5.1. Nguyên nhân khách quan 59
5.1.1. Môi trường tự nhiên . 60
5.1.2. Môi trường kinh tế . 60
5.1.3. Môi trường pháp lý 61
5.2. Nguyên nhân chủ quan 62
5.2.1. Từ phía khách hàng . 62
5.2.2. Từ phía ngân hàng . 63
Chương III - Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam 68
I. Định hướng hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong năm 2002 68
II. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 72
1. Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng . 73
1.1. Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi
cho vay . 73
1.2. Tăng cường công tác thu thập thông tin 77
1.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay 77
1.4. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng . 78
1.5. Đa dạng hoáđầu tư . 79
1.6. Có chếđộ thưởng phạt hợp lýđồng thời đẩy mạnh công tác đào
tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng . 80
2. Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng . 81
2.1. Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn . 81
2.2. Đối với công tác thu nợ 82
2.3. Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp 82
2.4. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp 83
Kết luận 89
Danh mục tài liệu tham khảo 90
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn xét duyệt thì chắc chắn sẽ tìm ra được những khách hàng có khả năng và tiềm lực tài chính để cho vay. Đồng thời về phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng phải có thái độ tích cực để tạo ấn tượng tốt đối với các ngân hàng nói chung và đối với Sở giao dịch nói riêng, góp phần tăng tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở
Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Qua phân tích số liệu về tình hình tín dụng tại Sở giao dịch có thể thấy, tín dụng tăng trưởng khá tốt qua các năm. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao và cơ cấu tín dụng cũng ngày càng hợp lý hơn. Tuy nhiên, để đánh giá tình hình tăng trưởng tín dụng có thực sự tốt, chất lượng tín dụng có thực sự cao thì cần phải xem xét đến mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của Sở.
Việc phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Sở chủ yếu dựa trên chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và được xem xét trên ba tiêu thức đó là nợ quá hạn theo loại cho vay, nợ quá hạn theo thời gian quá hạn và nợ quá hạn theo khả năng thu hồi.
Nợ quá hạn theo loại cho vay:
Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại. Với đặc thù của Sở giao dịch là một Hội sở chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, luôn có mức dư nợ tín dụng hàng năm rất cao, hơn nhiều lần so với các ngân hàng khác trong cùng địa bàn, chính vì thế việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với Sở là một điều rất quan trọng nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng.
Việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với loại cho vay góp phần giúp Sở giao dịch có cái nhìn khách quan hơn đối với từng loại hình cho vay từ đó có thể nhận xét về chất lượng tín dụng của từng loại cho vay dẫn đến điều chỉnh cơ cấu cho hợp lý.
Bảng 8 cho ta thấy tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay tại Sở giao dịch:
Bảng 8: Tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay: Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
So sánh % (00/99)
So sánh % (01/00)
NQH
% trên Dư nợ
NQH
% trên Dư nợ
NQH
% trên Dư nợ
Ngắn hạn
847
0,15
1.595
0,17
2.621
0,2
188,31
164,33
Trung dài hạn TM
11.212
2,05
13.212
1,82
11.040
0,61
117,84
83,56
Trung dài hạn theo KHNN
14.599
0,68
13.696
0,55
13.755
1,34
93,81
100,43
Tài trợ, uỷ thác, cho vay khác
3.787
0,92
4811
1.35
7.061
1,82
127,04
146,77
Tổng
30.445
0,75
33.314
0,68
34.477
0,66
109,42
103,49
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh
Qua bảng 8 ta thấy, dư nợ quá hạn tại Sở giao dịch có tăng dần qua các năm. Năm 1999, tổng dư nợ quá hạn là 30.455 triệu đồng chiếm 0,75% trên tổng dư nợ. Có thể thấy, tỷ lệ nợ quá hạn này là thấp so với các ngân hàng khác điều này chứng tỏ công tác quản lý rủi ro tại Sở đã được thực hiện tốt. Sang năm 2000, tổng dư nợ quá hạn là 33.314 triệu đồng, đạt tỷ lệ 0,68% trên tổng dư nợ. Như vậy ta có thể thấy tỷ lệ nợ quá hạn trong năm 2000 đã giảm hơn so với trong năm 1999 tuy nhiên việc giảm này là do tổng dư nợ của Sở tăng nhanh trong năm 2000. Thực chất số nợ quá hạn tại Sở trong năm 2000 vẫn tăng nhẹ so với năm 1999, lượng tăng là 2.869 triệu đồng tương ứng với 9,42%.
Năm 2001, do làm tốt các công tác bảo đảm an toàn tín dụng nên dư nợ quá hạn tại Sở đã được duy trì ở mức 34.477 triệu đồng, chỉ tăng 1.163 triệu đồng so với năm 2000 tương ứng với 3,49%. Dư nợ quá hạn trong năm này chiếm 0,66% trên tổng dư nợ. Đạt được kết quả này là do trong năm 2001 Sở giao dịch đã cố gắng và tích cực thu nợ đến hạn, đặc biệt là với các dự án gặp khó khăn hoặc có dấu hiệu khó khăn, áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt để có thể thu nợ, cố gắng không để phát sinh thêm nợ quá hạn. Ta có thể thấy tuy tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm đi nhiều nhưng chủ yếu là do tổng dư nợ tăng lên còn số lượng nợ quá hạn thì vẫn tăng lên hàng năm. Chính vì thế, để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, giữ một tỷ lệ nợ quá hạn thấp trong những năm tiếp theo, Sở cần quan tâm hơn đến chất lượng tín dụng.
Đối với tín dụng ngắn hạn, số dư nợ quá hạn vẫn tăng cả về số tương đối và tuyệt đối. Năm 1999, dư nợ quá hạn ngắn hạn là 847 triệu đồng chiếm 0,15% dư nợ ngắn hạn. Đến năm 2000, số nợ quá hạn ngắn hạn đã là 1.595 triệu đồng, tăng hơn so với năm 1999 là 748 triệu đồng tương ứng với 88,31%. Năm 2001, số dư nợ quá hạn ngắn hạn là 2.621 triệu đồng tăng 1.026 triệu đồng so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ tăng là 64,33%. Chiếm 0,2% tổng dư nợ ngắn hạn. Điều này cho thấy, cùng với việc mở rộng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn trên tổng dư nợ thì tình hình nợ quá hạn ngắn hạn cũng tăng theo. Đây là điều mà Sở giao dịch phải cân nhắc khi mở rộng tín dụng ngắn hạn.
Số dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại năm 2000 tăng 2.000 triệu đồng tương ứng 17,84% so với năm 1999 trong khi dư nợ lại tăng 32,72% nên tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống còn 1,82% (năm 1999 là 2,05%). Sang năm 2001, dư nợ quá hạn trung và dài hạn thương mại đã giảm xuống còn 11.040 triệu đồng, mặt khác, do dư nợ tăng lên nhanh chóng, đạt 249,72% so với năm 2000, nên tỷ lệ nợ quá hạn đối với tín dụng trung và dài hạn thương mại đã giảm xuống đáng kể chỉ còn 0,61% dư nợ. Có thể thấy rõ, với chủ trương mở rộng tín dụng trung dài hạn thương mại để thay thế cho tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nước ở Sở đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Mặc dù dư nợ tăng nhanh nhưng Sở vẫn đảm bảo được chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đối với loại tín dụng này. Trong tương lai, khi dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng thêm, Sở cần cố gắng thực hiện các biện pháp nhằm duy trì số nợ quá hạn thấp cũng như tỷ lệ nợ quá hạn thấp, nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời giảm thiểu rủi ro.
Số dư nợ quá hạn của tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nước là lớn nhất, chiếm khoảng gần một nửa số nợ quá hạn phát sinh trong cả hai năm 1999 và 2000. Nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đối với loại tín dụng này lại khá thấp, thấp hơn tín dụng trung dài hạn thương mại. Điều này là do trong hai năm 1999, 2000 dư nợ tín dụng loại này đạt ở mức cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tại Sở giao dịch. Đến năm 2001, mặc dù số dư nợ quá hạn tín dụng trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chỉ tăng lên rất ít nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng cao điều này là do dư nợ của loại tín dụng này trong năm 2001 đã giảm đi hơn một nửa so với năm 2000 (chỉ còn bằng 41,24% so với năm 2000). Như vậy, có thể thấy với xu hướng giảm đi của tín dụng trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước, Sở giao dịch cần phải chú trọng hơn tới việc thu nợ để góp phần làm giảm số dư nợ quá hạn cũng như tỷ lệ nợ quá hạn của loại tín dụng này nhằm làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn chung.
Như vậy, qua phân tích tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có thể thấy, tỷ lệ nợ quá hạn giảm đi qua các năm. Tuy nhiên, tốc độ giảm còn chưa cao, chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng tín dụng chính vì thế, số dư nợ quá hạn hàng năm vẫn tăng. Trong giai đoạn tới, Sở giao dịch cần chú trọng hơn đến công tác bảo đảm an toàn tín dụng đối với tín dụng ngắn hạn và làm tốt công tác thu nợ đối với tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nước. Đồng thời, trong nghiệp vụ tín dụng cần chú trọng thực hiện tốt quy trình tín dụng, đánh giá khách hàng trước khi cho vay nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy đến trong giai đoạn xét duyệt. Đối với các khoản cho vay xấu, đã phát sinh nợ quá hạn thậm chí trở thành nợ khó đòi thì Sở giao dịch cần tích cực thực hiện các biện pháp thu nợ, giãn nợ, khoanh nợ nhằm giảm số nợ quá hạn cũng như tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ.
Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế:
Việc phân tích cơ cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế giúp cho ngân hàng có được cái nhìn tổng quát hơn về tình hình cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh. Qua đó ngân hàng có thể đưa ra được những nhận xét về tính rủi ro khi cho vay đối với từng khu vực, đồng thời có biện pháp nhằm hạn chế rủi ro. Trong những năm gần đây, cơ cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế tại Sở giao dịch nghiêng hẳn về khu vực kinh tế quốc doanh. Nợ quá hạn của khu vực này chiếm tới trên 95% tổng số nợ quá hạn. Thực trạng này được thể hiện qua kết quả tại bảng 9:
Bảng 9: Tình hình nợ quá hạn theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
NQH
Tỷ trọng (%)
%/Dư nợ
NQH
Tỷ trọng (%)
%/Dư nợ
NQH
Tỷ trọng (%)
%/Dư nợ
KTQD
29.633
97,33
0,77
32.124
96,43
0,69
34.477
100,00
0,70
KTNQD
812
2,67
0,40
1.190
3,57
0,45
0
0
0,00
Tổng
30.445
100,0
0,75
33.314
100,00
0,68
34.477
100,00
0,66
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh
Bảng 9 cho ta thấy, từ năm 1999 đến năm 2001, tỷ trọng nợ quá hạn của khu vực kinh tế quốc doanh luôn chiếm tới trên 95% tổng số nợ quá hạn.
Năm 1999, số nợ quá hạn của khu vực kinh tế quốc doanh là 29.633 triệu đồng chiếm tới 97,33% tổng số nợ quá hạn tại Sở giao dịch. Trong khi đó, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh con số này chỉ có 812 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 2,67%. Xét về mặt tỷ trọng thì có thể thấy nợ quá hạn của các doanh nghiệp quốc doanh chiếm hầu hết số nợ quá hạn của Sở giao dịch tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn đối với khu vực này chỉ là 0,77%.
Năm 2000, cùng với sự tăng trưởng tín dụng, số nợ quá hạn của các doanh nghiệp quốc doanh cũng tăng lên 2.491 triệu đồng đạt 32.124 triệu đồng chiếm 96,43% tổng nợ quá hạn. Số nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng tăng lên 378 triệu đồng đạt 1.190 triệu đồng chiếm 3,57% tổng nợ quá hạn.
Sang năm 2001, số nợ quá hạn của khu vực kinh tế quốc doanh tính đến thời điểm 31/12/2001 là 34.477 triệu đồng chiếm 100% tổng số nợ quá hạn tại Sở giao dịch. Như vậy, đến cuối năm 2001 thì toàn bộ số nợ quá hạn tại Sở giao dịch là nợ quá hạn xuất phát từ các doanh nghiệp quốc doanh. Có thể thấy rằng phần lớn số nợ quá hạn này là do tồn đọng từ những năm trước cộng thêm một số mới phát sinh trong năm.
Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Sở cần có những biện pháp tốt hơn trong việc xử lý những khoản nợ quá hạn còn tồn đọng, nợ khó đòi theo tinh thần chỉ thị 3370 ngày 30/11/2001 của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Thực hiện từng bước theo lộ trình xử lý nợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đến 31/12/2001 không phát sinh nợ quá hạn. Có thể trong năm 2001 khu vực này có phát sinh nợ quá hạn nhưng đã được Sở giao dịch thực hiện thu ngay trong năm nên đến cuối năm không có nợ quá hạn. Đạt được kết quả này là do Sở đã thực hiện tốt công tác thẩm định, đánh giá khách hàng trước khi cho vay nên hầu hết các dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có hiệu quả, trả được nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến việc thực hiện tốt công tác thu nợ, khiến cho số nợ quá hạn phát sinh được thu hết trong năm.
Những kết quả này cho thấy việc mở rộng kinh doanh đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là rất cần thiết, có ít rủi ro nếu như Sở thực hiện tốt các công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
Nợ quá hạn theo khả năng thu hồi:
Việc xem xét nợ quá hạn theo khả năng thu hồi sẽ giúp xác định được mức độ rủi ro đối với các khoản nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng dư nợ càng lớn thì khả năng mất vốn của ngân hàng sẽ càng cao.
Cơ sở để đánh giá các khoản nợ khó đòi tại Sở giao dịch được xác định như sau:
Khoản nợ mà khách hàng cố ý lừa đảo.
Các khoản dư nợ vay ảnh hưởng trực tiếp bởi thiên tai, lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh dẫn đến khó khăn không trả được nợ vay ngân hàng.
Dư nợ vay của khách hàng đã có quyết định tuyên bố phá sản, giải thể hoặc ngừng hoạt động.
Các khoản vay của tư nhân, cá thể đã chết không còn khả năng trả nợ, không còn người thừa kế theo quy định.
Khoản vay không phát huy được hiệu quả đầu tư, kinh doanh thua lỗ triền miên không được ngân sách cấp bù lỗ.
Các khoản vay mà sau khi phát mại tài sản vẫn không đủ trả nợ, người vay hết tài sản hoặc đã bị đi tù.
Tại Sở giao dịch, nợ khó đòi bao gồm:
Số nợ vay đã quá hạn trả trên 360 ngày.
Các khoản nợ được đánh giá là khó thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi. Bao gồm cả số dư nợ của các khoản vay còn trong hạn, quá hạn nhưng có đủ cơ sở để Sở giao dịch đánh giá là khó thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi.
Tình hình nợ quá hạn theo khả năng thu hồi tại Sở giao dịch trong những năm vừa qua là rất xấu. Nợ khó đòi luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số nợ quá hạn. Bảng 10 cho thấy rõ điều này.
Bảng 10: Tình hình nợ quá hạn theo khả năng thu hồi. Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
(±) %
Dư nợ
Tỷ trọng (%)
(±) %
NQH thông thường
7.818
25,68
6.330
19,00
-19,03
8.619
25,00
+36,16
+ Ngắn hạn
847
2,78
1.019
3,06
+20,31
1.558
4,52
+52,89
+ TDH TM
3.184
10,46
500
1,50
-84,30
0
0
---
+ TDH theo KHNN
0
0
0
0
---
0
0
---
+ ODA
3.787
12,44
4.811
14,44
+27,04
7.061
20,48
+46,77
Nợ khó đòi
22.627
74,32
26.984
81,00
+19,25
25.858
75,00
-4,17
+ Ngắn hạn
0
0
576
1,73
---
1.063
3,08
+84,55
+ TDH TM
8.028
26,37
12.712
38,16
+58,35
11.040
32,02
-13,15
+ TDH theo KHNN
14.599
47,95
13.696
41,11
-6,19
13.755
39,90
+0,43
+ ODA
0
0
0
0
---
0
0
---
Tổng cộng
30.445
100,00
33.314
100,00
+9,42
34.477
100,00
+3,49
Nợ khó đòi/Dư nợ
0,56
0,55
0.5
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh
Kết quả tại bảng 10 cho thấy một thực trạng là trong cả ba năm từ 1999 đến 2001, nợ khó đòi luôn chiếm một tỷ trọng tương đối lớn (khoảng trên 75%) trong tổng số nợ quá hạn tại Sở giao dịch. Phần lớn các khoản nợ quá hạn tại Sở là khó thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi. Điều này là do hầu hết số nợ quá hạn của tín dụng trung dài hạn thương mại và trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước đều trở thành nợ khó đòi. Như vậy, trong ba năm qua, về cơ bản các khoản nợ khó đòi tồn đọng nhiều năm vẫn chưa có giải pháp xử lý nhất là cho vay theo kế hoạch Nhà nước. Điều này mang lại nhiều rủi ro cho Sở giao dịch.
Trong năm 2000, nợ quá hạn thông thường tại Sở giao dịch giảm 1.488 triệu đồng và còn chiếm 19% tổng dư nợ quá hạn, trong khi nợ khó đòi lại tăng lên 4.357 triệu đồng chiếm 81% tổng dư nợ quá hạn. Nguyên nhân của vấn đề này là do các khoản nợ quá hạn từ năm 1999, Sở giao dịch chưa thu được và sang năm 2000 thì trở thành nợ khó đòi. Đồng thời, trong năm 2000 có một số khoản nợ quá hạn mới phát sinh nhưng có dấu hiệu chứng tỏ là nợ khó đòi. Trong số các khoản nợ khó đòi này, chủ yếu là các khoản nợ khó đòi do doanh nghiệp bị giải thể, ngừng hoạt động, dự án kém hiệu quả.
Sang năm 2001, tỷ trọng nợ khó đòi đã chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng nợ khó đòi đã giảm xuống còn 75% trên tổng dư nợ quá hạn. Điều này cho thấy sự cố gắng lớn của Sở giao dịch trong việc giảm tỷ lệ nợ khó đòi phát sinh trong năm. Giảm được tỷ lệ nợ khó đòi trong khi tổng dư nợ quá hạn chỉ tăng lên rất ít là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy mức độ rủi ro của các khoản nợ quá hạn có giảm đi. So với năm 2000, số nợ quá hạn đã giảm đi cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Có được kết quả này là do trong năm 2001, Sở giao dịch đã chú trọng công tác thu nợ, tập trung xử lý các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi, áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt để có thể thu được các khoản nợ tồn đọng năm cũ chuyển sang. Tuy nhiên nợ khó đòi đối với tín dụng trung dài hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các khoản nợ khó đòi đối với tín dụng trung dài hạn theo KHNN vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm. Hiện nay, Sở giao dịch đang phối hợp với các doanh nghiệp và cơ quan chức năng để giải quyết khoản nợ tồn đọng của công ty chế biến lâm sản Trung Văn, công ty Đất Việt, công ty XNK Thanh niên, và đã làm việc với các doanh nghiệp để trả dần các khoản nợ khó đòi.
Như vậy, có thể thấy, Sở giao dịch đã rất cố gắng dùng nhiều biện pháp để giảm tỷ lệ nợ quá hạn nói chung cũng như tỷ lệ nợ khó đòi nói riêng nhằm hạn chế tối đa mức độ rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, tỷ trọng nợ khó đòi trong tổng dư nợ quá hạn vẫn còn rất cao (trên 75%), đồng thời các khoản nợ khó đòi đối với tín dụng trung - dài hạn vẫn chưa có biện pháp xử lý dứt điểm. Chính vì thế đây là điều mà Ban lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng tại Sở cần quan tâm xem xét để khắc phục trong những năm tới. Với tỷ lệ nợ khó đòi cao nói lên mức độ rủi ro tiềm ẩn của các khoản tín dụng, Sở giao dịch sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu nợ, xử lý các khoản nợ khó đòi này. Đối với nợ quá hạn thông thường, các biện pháp xử lý, thu hồi thường không quá khó khăn và tỷ lệ thu hồi được nợ là cao. Còn đối với nợ khó đòi thì cần phải có biện pháp kiên quyết tận thu nhằm làm giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Đánh giá:
Những kết quả đạt được:
Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm và được duy trì ở mức thấp (0,66%) trong khi tổng dư nợ vẫn tăng lên qua các năm. Có thể nói đây là một tỷ lệ nợ quá hạn lý tưởng đối với các Ngân hàng thương mại.
Khi Nhà nước có quyết định chuyển các dự án tín dụng trung và dài hạn theo KHNN sang cho Quỹ đầu tư phụ trách thì Sở giao dịch đã có những biện pháp tích cực nhằm tăng dư nợ của tín dụng trung dài hạn thương mại để bù đắp cho phần tín dụng trung dài hạn theo KHNN bị mất đi. Mặc dù dư nợ tín dụng trung dài hạn Thương mại tăng rất nhanh trong năm 2001 đạt 249,72% nhưng số nợ quá hạn đối với loại tín dụng này vẫn được duy trì ở mức thấp thậm chí còn giảm nhẹ so với năm 2000.
Tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Trong việc xét duyệt các khoản vay, Sở giao dịch đã chú trọng công tác phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả và các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay.
Thực hiện tốt việc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo công tác tín dụng.
Nắm bắt kịp thời diễn biến tình hình hoạt động của doanh nghiệp và cùng doanh nghiệp có biện pháp tích cực tháo gỡ khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Đồng thời, hợp tác với các doanh nghiệp trong việc xử lý các khoản nợ quá hạn kể cả cho vay ngắn hạn tạo nguồn thu cho đơn vị để trả nợ.
Thực hiện nghiêm túc luật các TCTD, các quy định, quy chế uỷ quyền cũng như quy trình nghiệp vụ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ban hành.
Sở giao dịch đã thực hiện nghiên cứu, phân tích đánh giá khách hàng từ nhiều kênh thông tin, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng nhằm xây dựng hạn mức tín dụng phù hợp với từng khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng cũng như giảm thiểu thời gian và thủ tục duyệt vay.
Những mặt còn hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được trong năm qua, còn tồn tại một số mặt mà Sở Giao Dịch cần phải khắc phục đó là:
Tỷ lệ nợ quá hạn tuy có giảm nhưng chủ yếu là do tăng dư nợ, về số tuyệt đối nợ quá hạn vẫn tăng lên.
Tín dụng ngắn hạn tăng trưởng tốt tuy nhiên còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do số nợ quá hạn cũng tăng theo.
Nợ khó đòi chiếm phần lớn trong tổng số nợ quá hạn tại Sở giao dịch. Điều này nói lên mức độ rủi ro đối với các khoản tín dụng là khá lớn. Những khoản nợ khó đòi này làm cho nguy cơ mất vốn của ngân hàng cao.
Nợ khó đòi tập trung chủ yếu vào tín dụng trung - dài hạn thương mại và trung dài hạn theo KHNN. Đối với tín dụng trung dài hạn thương mại, dư nợ trong năm 2001 tăng lên rất nhiều đã làm cho tỷ lệ nợ quá hạn giảm đi tuy nhiên, toàn bộ số nợ quá hạn đó đều trở thành nợ khó đòi. Đối với tín dụng trung dài hạn theo KHNN, nợ quá hạn tăng thêm cộng với dư nợ giảm làm cho tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên cao. Về cơ bản, các khoản nợ khó đòi tồn đọng nhiều năm vẫn chưa có giải pháp xử lý được để thu hồi những khoản nợ tồn đọng nhiều năm, nhất là cho vay theo kế hoạch Nhà nước. Đây là một vấn đề rất khó khăn đối với Sở giao dịch.
Nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp quốc doanh, chiếm tới trên 95% tổng số nợ quá hạn tại Sở.
Tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản còn ít chưa phù hợp với mục tiêu tăng tỷ trọng dư nợ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch.
Cả nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng đều tập trung ở một số khách hàng lớn dẫn đến các hoạt động, các giải pháp biện pháp của Sở giao dịch bị phụ thuộc và ảnh hưởng nhiều bởi quyết định của các doanh nghiệp này.
Cơ cấu tài sản Nợ - Có về loại tiền tuy đã cải tiến nhưng vẫn chưa đạt mức bình quân của ngành , tỷ trọng tiền gửi khách hàng vẫn còn thấp mới chiếm gần 28% trong tổng số nguồn vốn huy động, tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn so với Ngân hàng trên địa bàn cao.
Tuy đã chủ động tìm đến khách hàng, nhưng do cạnh tranh quyết liệt và phương pháp, điều kiên tiếp cận chưa phù hợp nên hiệu quả chưa cao.
Thông tin về khách hàng và Ngân hàng bạn còn ít, chưa nắm bắt kịp thời nên xử lý công việc còn lúng túng dẫn đến mất thời cơ hoặc ảnh hưởng đến lợi ích trong kinh doanh
Nguyên nhân:
Những mặt còn hạn chế tại Sở giao dịch trong thời gian vừa qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Việc phân tích để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Sở là việc làm rất quan trọng. Từ những nguyên nhân đó sẽ giúp lãnh đạo Sở vạch ra được những giải pháp hợp lý nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng cũng như bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh.
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Trong thời gian vừa qua, hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch chịu ảnh hưởng lớn bởi những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi ro tín dụng. Những nguyên nhân này tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp đến sự an toàn của các khoản tín dụng. Môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý hay sự quản lý vĩ mô của Nhà nước một khi có sự thay đổi thì đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Sở giao dịch và đôi khi có thể dẫn đến rủi ro.
Môi trường tự nhiên:
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, có nhiều thiên tai như bão, lũ, lụt lội, hạn hán, dịch bệnh. Những thiên tai này gây thiệt hại cho các ngành sản xuất, dịch vụ do vậy ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Thực tế cho thấy, trong vài năm gần đây, thời tiết ở Việt Nam cũng như trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Những trận lũ lụt ở miền trung cũng như ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất và dịch vụ ở nước ta. Những thiệt hại đó khiến cho các doanh nghiệp không thể trả tiền vay của ngân hàng đúng hạn đôi khi còn không đủ khả năng trả nợ gây mất vốn cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế:
Bên cạnh những tác động của môi trường tự nhiên thì môi trường kinh tế cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín dụng. Nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi chưa lâu, các cơ chế, chính sách, nền tảng pháp lý còn đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không có được sự ổn định cao, do đó các nhà đầu tư còn dè dặt, chưa dám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, đặt biệt là đầu tư cho những dự án lớn, thời gian dài khiến cho việc mở rộng tín dụng của ngân hàng gặp khó khăn. Hơn thế nữa, trong thời gian gần đây nhất là trong năm 1999 tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, tình trạng thiểu phát kéo dài. Các doanh nghiệp trong nước vốn dĩ đã hạn chế về vốn, kỹ thuật, công nghệ lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại, hàng nhập lậu nên hầu hết làm ăn thua lỗ, sản xuất cầm chừng, điều đó một mặt làm cho nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm sút đồng thời là nguyên nhân gây ra tình trạng nợ quá hạn cho ngân hàng.
Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay không thuận lợi, các quy định của pháp luật liên quan đến tài sản thế chấp còn nhiều bất cập. Rất nhiều tài sản thế chấp của các doanh nghiệp hiện nay không có đăng ký sở hữu, mà đây lại là điều kiện bắt buột đối với các tài sản được dùng làm tài sản thế chấp. Việc xử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xẩy ra cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại về mặt pháp lý.
Nguyên nhân chủ quan:
Từ phía khách hàng:
Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn thấp. Điều này cũng một phần bắt nguồn từ sự hạn chế về vốn và khả năng lập dự án. Hạn chế về vốn vay kéo theo trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, làm giảm khả năng cạnh thanh của doanh nghiệp trên thị trường. Trình độ lập dự án thấp nên nhiều dự án ban đầu lập ra tưởng khả thi nhưng do không lường hết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện nên thất bại dẫn đến thua lỗ không trả được nợ. Ngay cả khi trang thiết bị, công nghệ hiện đại, dự án khả thi nhưng năng lực quản lý kém cũng sẽ làm cho việc thực hiện dự án không đạt được kết quả như dự tính và cũng có thể là nguyên nhân của rủi ro.
Mặt khác, việc làm ăn kém hiệu quả của một số doanh nghiệp quốc doanh có vay vốn tại Sở giao dịch cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn kéo dài năm này qua năm khác nhưng vì hoạt động kinh doanh kém nên đã không thể trả nợ được cho Sở giao dịch do đó số nợ quá hạn này đã trở thành nợ khó đòi. Với những trường hợp Sở giao dịch cho vay theo kế hoạch Nhà nước thì việc xử lý những khoản nợ khó đòi đã được chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ với các biện pháp như giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ.
Từ phía ngân hàng:
Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía Sở giao dịch không phải là những nguyên nhân chủ yếu, thường không nhiều.
Công nghệ Ngân hàng cả về quy trình nghiệp vụ lẫn trang thiết bị công nghệ, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh, còn yếu, chưa thực hiện đi trước một bước và chưa tương xứng với một Ngân hàng có quy mô hoạt động lớn như Sở Giao Dịch, các thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành chưa đầy đủ, tức thời, mang tính thủ công.
Cán bộ Sở Giao Dịch đa số là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm nên chưa thích ứng ngay được với cơ chế thị trường, ít được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và cập nhật thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế, đặc biệt số cán bộ có trình độ tổng hợp, biết tổng quát về hoạt động của Ngân hàng còn chưa nhiều.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM
ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TRONG NĂM 2002.
Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính:
Xây dựng phương án xử lý nợ tồn đọng từ 31/12/2000 trở về trước và nâng cao chất lượng tín dụng.
Xây dựng kế hoạch tài chính lành mạnh gắn liền với thực hiện kế hoạch kế toán đầy đủ theo nguyên tắc tự trang trải và cẩn trọng; nâng cao hiệu quả kinh doanh; cơ cấu lại nguồn thu và thực hiện tiết kiệm chi phí, bảo đảm đủ trang trải chi phí, trích dự phòng rủi ro, quản lý chi tiêu theo định mức.
Tăng trưởng nâng cao chất lượng tín dụng:
Duy trì thường xuyên công tác tổ chức đánh giá phân loại khách hàng theo định kỳ trên cơ sở các thông tin có lựa chọn. Từ đó xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
Mở rộng tín dụng sang các lĩnh vực khác và các thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thí điểm lựa chọn một số công ty cổ phần đã có uy tín trong giao dịch, có khả năng tài chính để đầu tư trên cơ sở bảo đảm đúng chế độ quy định. Có kế hoạch tiếp thị và khai thác khách hàng trong các khu công nghiệp.
Tăng cường thu thập thông tin về các chương trình đầu tư phát triển của thành phố, của các bộ ngành, các tổng công ty kết hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhằm lên kế hoạch tiếp cận cụ thể với các chính sách áp dụng phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng.
Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng và quy trình tín dụng của ngành, nâng cao vai trò công tác thẩm định trong xét duyệt cho vay, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nhất là đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn để không phát sinh thêm nợ quá hạn và rủi ro tín dụng.
Mạnh dạn mở rộng tín dụng ngắn hạn trong các ngành nghề phi xây lắp (như sản xuất công nghiệp, dịch vụ...) một cách có chọn lọc đối với một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường. Mở rộng tín dụng các lĩnh vực khác và thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có uy tín trong giao dịch.
Mở rộng tín dụng ngoại tệ với khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ứng ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp với áp dụng các công cụ phòng tránh rủi ro tỷ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của Sở Giao Dịch đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp với tình hình cung cầu.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Rủi ro tín dụng không chỉ là vấn đề nan giải ở các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với tất cả các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở trong tình trạng nợ quá hạn nặng nề và có xu hướng gia tăng trong những năm tới. Mặc dù các Ngân hàng thương mại đã áp dụng những biện pháp phòng tránh nợ quá hạn mới phát sinh và các biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũ, tuy nhiên, kết quả đạt được là rất khiêm tốn. Mặt khác, trước thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch, với các mục tiêu tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá năng lực tài chính mà Sở giao dịch đã đặt ra thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro là thực sự cần thiết và luôn được lãnh đạo Sở quan tâm. Để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch thì các giải pháp phải được tiến hành trên cả hai mặt đó là phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề này tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Các giải pháp chia làm hai nhóm: nhóm giải pháp có tính chất phòng ngừa rủi ro và nhóm giải pháp xử lý những rủi ro đã xảy ra.
Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng dù xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan cũng được thể hiện trên hai mặt đó là những rủi ro có thể xảy ra và những rủi ro đã xảy ra. Những rủi ro có thể xảy ra tuy là những rủi ro tiềm ẩn nhưng trong nhiều trường hợp do có tính lặp lại nên người ta có thể tìm ra được quy luật của nó và từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Tại Sở giao dịch, để phòng ngừa rủi ro cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay:
Sàng lọc khách hàng là việc ngân hàng tìm hiểu và đánh giá khách hàng để lựa chọn ra những khách hàng có đủ điều kiện cho vay. Sàng lọc khách hàng là công việc quan trọng không thể thiếu để ngăn ngừa những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngân hàng đầy rủi ro như hiện nay thì sàng lọc khách hàng càng phải được chú trọng. Sàng lọc khách hàng được thực hiện qua hai hoạt động: Phân tích đánh giá khách hàng và Thẩm định tính khả thi của dự án.
Phân tích đánh giá khách hàng:
Khách hàng là người sử dụng và quyết định hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền vay, cũng là người chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay. Vì vậy, việc phân tích đánh giá khách hàng là một biện pháp hết sức quan trọng và cần thiết để ngăn ngừa những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng trong quá trình xét duyệt. Khi đánh giá khách hàng là các tổ chức, đơn vị kinh doanh, cán bộ tín dụng phải chú ý một số nội dung chủ yếu như sau:
Tư cách pháp nhân của khách hàng:
Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng:
Tình hình tài chính của khách hàng
Thẩm định tính khả thi của dự án:
Khách hàng được đánh giá tốt là một điều kiện cần tuy nhiên chưa phải là điều kiện đủ để có thể được ngân hàng cho vay vốn. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định khách hàng có được cho vay vốn hay không đó là khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc lớn vào những nguồn thu trong tương lai trong đó nguồn thu từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng là nguồn trả nợ chính. Vì vậy, khả năng sinh lợi từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng quyết định lớn đến khả năng trả nợ đủ và đúng theo thời hạn trong hợp đồng. Khi thẩm định tính khả thi của dự án, cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Về phương pháp thẩm định:
Khi thẩm định dự án cần phải chú trọng hơn nữa tới giá trị thời gian của tiền, áp dụng các chỉ tiêu hiện đại như NPV, IRR, phân tích độ nhạy... coi là những chỉ tiêu bắt buộc khi phân tích dự án.
Để có tính toán đúng khi xác định dòng tiền để tính những chỉ tiêu trên cần phải xác định đủ và đúng các giá trị như: giá trị thanh lý tài sản cố định, thu hồi vốn lưu động ròng...
Xác định tỷ lệ lãi suất chiết khấu hợp lý dựa trên tính toán về chi phí vốn bình quân.
Xây dựng các bảng dự trù tài chính của dự án để thực hiện phân tích tài chính dự án hàng năm, việc xác định doanh thu và chi phí của dự án hàng năm phải kết hợp tính toán cả công suất dự kiến và khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng năm.
Về tổ chức điều hành thẩm định dự án:
Thực hiện tốt hơn công tác tổ chức điều hành, xây dựng và chuẩn hoá quy trình hoạt động thẩm định, áp dụng chặt chẽ cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống thông tin nội bộ toàn hệ thống để thu thập phân tích và lưu trữ thông tin về các khách hàng, thông tin về tình hình kinh tế...
Tăng cường công tác thu thập thông tin:
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thông tin nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay rồi mới tiến hành.
Đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam công tác thu thập và xử lý thông tin nên dành cho phòng Thông tin - Điện toán. Khi có khách hàng đến vay vốn cán bộ tín dụng sẽ yêu cầu phòng cung cấp cho mình những thông tin cần thiết. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thông tin do khách hàng cung cấp và những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán bước đầu sẽ cho phép cán bộ tín dụng giá mức độ trung thực của khách hàng vay vốn. Bên cạnh, đó những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán cung cấp còn cho phép đánh giá đầy đủ hơn về khách hàng cũng như dự án vay vốn. Như vậy có thể thấy được việc tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Thông tin - Điện toán là một trong những vấn đề ngân hàng cần xem xét trong thời gian càng sớm càng tốt vì đó là điều kiện để thực hiện nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các khoản vay:
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Thực hiện thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những sai phạm của doanh nghiệp đồng thời giúp ngân hàng luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm bắt được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiện nay việc kiểm tra giám sát sau khi vay ở Sở giao dịch còn mang nặng tính hình thức, kiểm tra chủ yếu dựa trên những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp và được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Việc kiểm tra này không mang lại hiệu quả cao, bởi lẽ chẳng có gì đảm bảo rằng những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp hoàn toàn đúng sự thật. Kiểm tra định kỳ và không thường xuyên như vậy thì nếu doanh nghiệp không có thiện chí họ sẽ có những thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm tra. Để khắc phục điều này trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay phải được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở không nên tiến hành định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước có vậy mới đảm bảo những gì mắt thấy tai nghe là trung thực. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể trả nợ theo đúng hợp đồng thì cán bộ tín dụng nên báo cáo về ngân hàng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là khó tránh khỏi, trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng khiến cho ngân hàng có khả năng lâm vào tình trạng mất vốn kinh doanh. Để khắc phục tình trạng đó, việc ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro là rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có nguồn bù đắp lại những rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà ngân hàng phải gánh chịu.
Mục tiêu của việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là còn để đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, phản ánh đúng vị thế tài chính của ngân hàng và nó được đảm bảo bằng nguồn tiền có thực để trang trải rủi ro khi xảy ra. Trong những trường hợp ngân hàng gặp rủi ro không thu hồi vốn được thì việc xoá những khoản nợ không thể thu hồi này và công bố những khoản mất vốn sẽ là những bât lợi đến kết quả kinh doanh và đến vốn kinh doanh của ngân hàng nếu như không có quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ trước. Trong trường hợp đã có trích lập quỹ dự phòng rủi ro, khi xảy ra khả năng mất vốn thì việc loại trừ những khoản nợ không thể thu hồi sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong báo cáo tài chính của ngân hàng.
Đa dạng hoá đầu tư:
Đa dạng hóa đầu tư là biện pháp chiến lược có tính chủ động nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực chất của đa dạng hoá đầu tư là phân tán đầu tư trên các loại tài sản khác nhau. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy, việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và đồng tài trợ. Qua các hình thức này, ngân hàng không tập trung quá nhiều vốn cho một món vay, phân tán hệ số rủi ro trên số món vay do đó giảm mức rủi ro chung cho toàn bộ hoạt động tín dụng.
Trong thời gian qua, Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã thực hiện thành công hoạt động đồng tài trợ nhằm phân tán rủi ro. Tuy nhiên, phân tích cơ cấu cho vay của Sở giao dịch cho thấy cơ cấu vốn cho vay không đồng đều, phần lớn tập trung vào một số khách hàng truyền thống như các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, hoạt động của Sở cũng phụ thuộc khá nhiều vào các khách hàng này. Do đó, Sở cần có chính sách khách hàng hợp lý nhằm duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút và mở rộng các khách hàng thuộc các lĩnh vực, ngành nghề khác tạo được cơ cấu tín dụng đa dạng để có thể giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở có thể áp dụng đa dạng hoá các hình thức cho vay như cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay ưu đãi... Bên cạnh đó, cần phát huy hình thức dịch vụ trọn gói từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ..., mở rộng hình thức nối mạng thanh toán cho khách hàng với các ngân hàng khác, dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng.
Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng:
Thứ nhất, cán bộ tín dụng là những người thực tế thẩm định và đề xuất cho vay khách hàng, là người chịu trách nhiệm chính đối với khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, Sở cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là một việc làm quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, cán bộ tín dụng cho rằng nếu cho vay thu nợ đầy đủ hàng trăm tỷ cũng không được khen thưởng, không được tăng lương, nhưng chỉ cần một khoản vay phát sinh quá hạn là bị coi là yếu kém, bị xử lý... Do vậy cán bộ tín dụng chỉ cần hoạt động cầm chừng.
Thứ hai, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó, đặc biệt với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía Sở giao dịch nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành, liên ngành; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần phòng tránh những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng
Bên cạnh những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng thì việc xử lý những rủi ro thực tế đã xảy ra cũng là một vấn đề rất bức thiết đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Qua phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Sở ở chương II cho thấy, số nợ quá hạn thông thường cũng như nợ khó đòi tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh.Số nợ khó đòi về cơ bản vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm, nên đã xảy ra tình huống số nợ này cứ tồn tại năm này qua năm khác gây ra những tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của Sở. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Sở. Do đặc thù của Sở giao dịch, nợ quá hạn phát sinh từ tín dụng trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chiếm phần lớn số nợ quá hạn tại Sở giao dịch nên Sở giao dịch trước hết cần thực hiện tốt những biện pháp xử lý theo sự chỉ đạo của Chính phủ sau đó kết hợp với tình hình thực tế để đưa ra những biện pháp hợp lý.
Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn:
Khi đến hạn trả nợ, khách hàng không tự giác trả nợ và lãi cho Sở giao dịch thì Sở giao dịch tiến hành trích tiền gửi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Sở giao dịch để thu nợ, thu lãi hoặc nhờ thu qua ngân hàng bạn nếu tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Sở giao dịch không đủ để thanh toán toàn bộ và khách hàng có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng khác, hoặc yêu cầu người bảo lãnh vay vốn trả thay.
Đối với các khoản nợ quá hạn thông thường, cán bộ tín dụng phụ trách tích cực bám sát, theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng, liên tục đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để kiểm tra và gửi giấy nhắc trả nợ (có ghi rõ số nợ quá hạn, lãi suất, thời gian quá hạn, biện pháp xử lý có thể áp dụng), theo dõi tài khoản tiền gửi của họ có phát sinh số dư Có.
Kiểm soát trưởng hoặc kiểm soát viên cùng với trưởng phòng tín dụng, cán bộ tín dụng phụ trách đơn vị kiểm tra lại việc thực hiện theo quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng để xác định lại xem có bỏ qua bước nào không, xác định nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn là do Sở giao dịch, khách hàng hay nguyên nhân khác. sau đó sẽ đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để rà soát tổng dư nợ vay các loại của khách hàng, xác định khả năng trả nợ của khách hàng, nguyên nhân chi tiết dẫn đến nợ quá hạn để xác định tính chất của khoản nợ quá hạn và đưa ra các biện pháp xử lý có hiệu quả nhất.
Đối với công tác thu nợ:
Khi người vay đem tiền đến để thanh toán khoản nợ quá hạn thì Sở giao dịch tiến hành thu nợ theo thứ tự sau: thu lãi quá hạn, thu gốc quá hạn, thu lãi đến hạn, thu gốc. Vì vậy, đối với các khoản nợ quá hạn trên 12 tháng, nếu khách hàng chỉ có khả năng trả gốc và lãi suất thông thường thì Sở giao dịch nên xem xét và quyết định chỉ thu lãi suất thông thường. Trong trường hợp khách hàng thật sự khó khăn, Sở giao dịch nên thu hồi phần vốn gốc trước và thu hồi phần lãi sau. Như vậy sẽ đề phòng trường hợp người vay mất khả năng trả nợ trong tương lai, giảm gánh nặng lãi quá hạn cho bên vay. Mặt khác, nếu thu lãi trước sẽ tạo thành thu nhập phải nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước trong khi chưa thể thu hồi hết nợ của người vay và đây là điều bất lợi cho Sở giao dịch. Nếu bên vay đã trả được nợ gốc, chưa trả lãi thì khế ước vay vốn vẫn được lưu lại ở Sở giao dịch và Sở giao dịch cùng khách hàng thoả thuận về kế hoạch trả lãi.
Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, có nợ đọng kéo dài mặc dù Sở giao dịch đã tiến hành các biện pháp để giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, Sở giao dịch có thể yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành Phố, hội đồng quản trị Tổng công ty 91 lựa chọn và quyết định cổ phần hoá các doanh nghiệp này, ngoài ra có thể tiến hành cho thuê, bán, khoán các doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi áp dụng các biện pháp này, các Giám đốc doanh nghiệp sẽ là người có năng lực, có quyền tự chủ trong kinh doanh với người lao động tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, dần dần phục hồi và phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch sẽ từng bước thu hồi được vốn.
Ngoài ra, với số tiền thu được do cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp có thể được dùng để trả nợ cho Sở giao dịch hoặc Sở giao dịch có thể tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp và tham gia điều hành doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không trả được nợ, trong một số trường hợp, Sở giao dịch có thể chuyển vốn cho vay thành vốn góp vào doanh nghiệp kèm theo là việc cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Sở giao dịch chuyển số tiền đó từ hình thức cho vay sang hình thức đầu tư. Biện pháp này phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng và để thực hiện thì cần phải có sự đồng ý của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương vì nó liên quan đến việc đem vốn tự có của ngân hàng đi đầu tư.
Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Đây là biện pháp được dùng để xử lý các khoản nợ khó đòi mà khả năng thu hồi được là rất ít. Trong trường hợp này thường được sử dụng đối với các khoản nợ mà Sở giao dịch là chủ động không có bảo đảm được hoặc có bảo đảm một phần. Sở giao dịch có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp phá sản thì Sở giao dịch còn có thể thu hồi được một phần hoặc tất cả nợ gốc. Điều đó vẫn còn tốt hơn là Sở giao dịch không thu được nợ gốc, lại mất thêm chi phí giám sát, quản lý khoản nợ nếu doanh nghiệp không bị phá sản.
Nếu khi cho vay, Sở giao dịch nhận tài sản thế chấp, cầm cố thì Sở giao dịch là chủ nợ có bảo đảm, Sở giao dịch sẽ không có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi bán tài sản thế chấp, cầm cố mà không đủ thanh toán nợ cho Sở giao dịch thì Sở giao dịch sẽ là chủ nợ không bảo đảm và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu hồi được nợ từ tài sản còn lại của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng cần theo dõi tình hình của doanh nghiệp để có thể bán tài sản thế chấp, cầm cố trước khi doanh nghiệp bị các chủ nợ khác yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu đến khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Sở giao dịch muốn bán tài sản thế chấp, phải có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán, hoặc để cho tổ thanh toán tài sản bán. Tất nhiên, giá bán lúc này không thể cao được. Như vậy, Sở giao dịch đã bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá số tiền thu được.
Khi thực hiện biện pháp này Sở giao dịch cần xác định đúng mình là loại chủ nợ nào của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý hợp lý nhất. Các doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp này là các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ cho Sở giao dịch sau khi đã áp dụng các biện pháp khai thác hoặc cố tình dây dưa không chịu trả nợ.
T
KẾT LUẬN
rong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mà còn là của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong luận văn này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
Đưa ra một quan điểm chung về rủi ro tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và tình hình rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua ba năm 1999, 2000 và 2001. Thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân của chúng để đưa ra giải pháp khắc phục.
Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới trên cả hai mặt phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn Hoàng Xuân Quế và các cán bộ phòng Tín dụng I Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Tác giả Frederic S. Mishkin.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Lê Văn Tư.
Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
Quy định cho vay đối với khách hàng Sở Giao Dịch I.
Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng Sở Giao Dịch I.
Các báo cáo hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch I.
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 , 2000 & 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.docx