Đề tài Một số giải pháp phát triển hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở công ty TNHH Doosol Việt Nam

Lời mở đầu 1.Lý do chọn đề tài. Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ; mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới càng trở nên chặt chẽ và rất phức tạp, chúng tác động rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với thực tế cấp thiết trên đòi hỏi Việt Nam phải tích cực chủ động tham gia hội nhập kinh tế với kinh tế khu vực và trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả các thế mạnh của nền kinh tế trong nước. Bên cạnh những hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại hiệu quả cao như xuất nhập khẩu hang hóa thì các hoạt động gia công quốc tế cũng là một phương pháp hữu hiệu, nó vừa phù hợp với đường lối chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa. Trong gia công quốc tế thì lĩnh vực gia công may mặc đóng một vai trò khá quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội của nước ta. Những năm gần đây tuy có trải qua những thăng trầm do sự biến động của tình hình kinh tế, tình hình lạm phát tăng cao, sự suy thoái của kinh tế và những thay đổi trong tình hình chính trị thế giới, nhưng ngành may mặc xuất khẩu ở Việt Nam đã nhanh chóng tìm được bạn hang ổn định và ngày càng khẳng định được chính mình trên thị trường thế giới. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công hàng may mặc nói riêng em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở công ty TNHH Doosol Việt Nam” để viết thu hoạch thực tập tốt nghiệp. 2.Mục tiêu đề tài. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm phân tích và đánh giá thực trạng gia công ở công ty TNHH Doosol Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở công ty TNHH Doosol Việt Nam. 3.Phương pháp nghiên cứu. Trong đề tài này phương pháp nghiên cứu chủ yếu là dung phương pháp duy vật biện chứng dựa vào số liệu thực tế của công ty để phân tích. 4.Phạm vi nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu: nội bộ trong công ty, được giới hạn trong các thông số, tài liệu của công ty và các bộ phận, phòng ban liên quan. 5.Giới thiệu kết cấu chuyên đề. Bài báo cáo thực tập gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận. Đưa ra những vấn đề chung nhất về cơ sở lý thuyết của hoạt động gia công xuất khẩu, những đặc điểm và những yếu tố ảnh hưởng đến nó. Chương II: Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty TNHH Doosol Việt Nam. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của công ty, những kết quả đạt được của công ty trong thời gian qua. Phân tích thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu của công ty trong thời gian gần đây. Chương 3: Một số giải pháp chính nhằm thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty TNHH Doosol Việt Nam. Đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty TNHH Doosol Việt Nam. Vì trình độ có hạn và thời gian thực tế tại công ty không nhiều nên những giải pháp đưa ra không thể bao quát hết được những vấn đề đang còn tồn tại trong hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc của công ty. Xin chân thành cảm ơn.

doc78 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2978 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở công ty TNHH Doosol Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8 2009 Gia công đơn thuần 3.487.596 3.808.541 4.532.304 3.315.989 3.597.323 FOB 7.560 285.659 506.934 480.653 Tổng 3.495.156 4.094.200 4.532.304 3.822.923 4.077.976 Tỷ trọng 99.78 93.02 86.74 88.21 Nguồn: Báo cáo từ phòng xuất nhập khẩu công ty TNHH Doosol Việt Nam. Phương thức gia công mua đứt, bán đoạn đã giúp công ty tăng được lợi nhuận và giúp công ty tích lũy được kinh nghiệm trong kinh doanh quốc tế là bước tạo đà cho công ty tiến tới xuất khẩu trực tiếp. Hiện nay các sản phẩm mà công ty sản xuất gia công chủ yếu là cho thị trường Mỹ, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chiếm đạt tỷ trọng lớn nhất (thường chiếm trên dưới 30% trong tổng giá gia công của công ty). Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải cố gắng mở rộng các thị trường khác như: Nhật, Hàn quốc, Đài loan,… hơn nữa. Trong những năm qua, với sự cố gắng không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty trong việc áp dụng quản lý chất lượng vào sản xuất, công ty đã đạt được chứng chỉ ISO 9001:2000 vào 3 tháng đầu năm 2002. Đây là vấn đề rất quan trọng giúp công ty mở rộng thâm nhập thị trường khó tính nhưng có nhiều triển vọng như: Nhật bản, EU, Bắc Mỹ… Trong những năm gần đây, công ty đã tập hợp được một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, trong những năm tới cùng với xu hướng tinh giảm bộ máy quản lý của công ty cũng đang tiếp tục chiêu mộ những cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đạt được hiệu quả cao. Công ty cũng đã đào tạo được một đội ngũ công nhân viên có trình độ kỹ thuật khá về chuyên môn để thực hiện các đơn hàng đòi hỏi trình độ cao về chất lượng sản phẩm. 2.3.2 Những tồn tại trong hoạt động gia công xuất khẩu. Tuy mới được thành lập không lâu nhưng công ty TNHH Doosol Việt Nam đã không ngừng vươn lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trường trong nước và nước ngoài. Với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu thị trường đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa khâu ở công đoạn từ giao dịch đàm phán với khách hàng đến ký kết các điều khoản trong hợp đồng, bảo đảm được chất lượng và tiến độ giao hàng gắn với thời gian nhập khẩu nguyên phụ liệu. Công ty lại có ưu thế về nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ qua đó tạo được thế ổn định trong kinh doanh. Công ty có uy tín nên việc ký kết hợp đồng dễ dàng. Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các phòng ban, phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lượng cao, đảm bảo hợp lý về sản lượng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may mặc trong thời gian qua đã chứng minh cho khả năng phát triển mạnh mẽ của ngành. Đến nay công ty đã khẳng định được vị thế của mình bằng việc phát triển với tốc độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn công nhân lao động, tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế, nhanh chóng hội nhập vào quốc tế và khu vực, từng bước thiết lập nền công nghiệp chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc. Những thành tựu đạt được đó góp phần không nhỏ vào công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Qua việc phân tích thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc tại công ty TNHH Doosol Việt Nam ta thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được công ty vẫn còn một số tồn tại hạn chế cần khắc phục. Đây là những tồn tại không chỉ riêng công ty mà còn là vướng mắc của hầu hết các công ty kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam hiện nay: - Khả năng nắm bắt các thông tin thị trường và các cơ hội kinh doanh còn hạn chế khả năng tiếp thị kém chưa có được chính sách giao tiếp hiệu quả. - Mới chỉ phát triển chiều rộng chưa phát triển chiều sâu. Công tác cải tiến đa dạng hóa sản phẩm còn hạn chế. Các sản phẩm chưa phong phú, chủ yếu vẫn là áo Jacket, sơ mi, quần… những sản phẩm cao cấp chiếm tỷ lệ nhỏ hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu khách hàng. Đặc biệt, phương thức gia công đơn thuần chiếm tỷ lệ cao (88-100%), giá trị gia tăng của hoạt động gia công thấp. - Chế độ đãi ngộ cho người lao động chưa hợp lý, đặc biệt đối với cán bộ kỹ thuật và thợ kỹ thuật có tay nghề cao dẫn đến tình trạng lao động luôn bị xáo trộn do những người này đi tìm những nơi làm việc có chế độ đãi ngộ tốt. - Vấn đề thanh lý hợp đồng chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Theo quy định của Tổng cục Hải quan (quyết định số 126/TCHQ – quy định ngày 18/4/1995), sau khi kết thúc hợp đồng gia công, các doanh nghiệp phải thanh khoản với hải quan để xác định việc nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu sản phẩm, để từ đó có biện pháp xử lý nguyên phụ liệu dư thừa hoặc thiếu hụt. Tuy nhiên trong thực tế nhiều hợp đồng gia công với thời hạn quá dài hoặc thời hạn không xác định (bởi vì công ty có những khách hàng quen ký những hợp đồng kế tiếp nhau) đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc thanh khoản hợp đồng. Đã có trường hợp doanh nghiệp không thể quyết toán được nguyên phụ liệu do nhiều hợp đồng kế tiếp nhau với thời hạn không rõ ràng, nên cơ quan hải quan buộc phải tạm ngừng làm thủ tục miễn thuế nhập khẩu cho những lô hàng của hợp đồng mới gây khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng gia công. Về xử lý phế liệu thừa khi thanh lý hợp đồng: Đây là một vấn đề khá nan giải. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp các phế liệu sau khi gia công như: dao cắt, vải vụn, nhãn mác hoặc hàng hóa bán thành phẩm không đạt tiêu chuẩn phải loại bỏ (bên nước ngoài gửi bù không lấy lại)… cùng với số nguyên liệu thừa sau khi thanh lý hợp đồng hiện nay chưa có biện pháp xử lý thích hợp. Số hàng hóa này bên đặt gia công yêu cầu tái xuất và xin giao lại cho ta không tính tiền. Một nghịch lý ở chỗ các doanh nghiệp tiếp nhận sẽ không biết dùng vào việc gì và phải chịu thuế nhập khẩu đối với lô hàng phế liệu đó. Một số ý kiến đưa ra phương án phá hủy có chứng kiến của hải quan nhưng chi phí để phá hủy cũng như tác hại về môi trường sau khi phá hủy đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Trường hợp chuyển qua các hội từ thiện, nhân đạo thì phải qua nhiều khâu, nhiều thủ tục, mất thời gian. - Không có được sự chủ động trong lựa chọn đối tác: Trong hoạt động gia công xuất khẩu công ty chủ yếu thực hiện gia công theo các đơn đặt hàng hoặc do bộ thương mại giao cho nên trong quá trình tìm kiếm và ký kết hợp đồng công ty chưa có sự chủ động dẫn đến hiệu quả trong kinh doanh chưa cao. 2.3.3 Những nguyên nhân tồn tại. 2.3.3.1 Những nguyên nhân chủ quan. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may trong việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng cạnh tranh nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ, một số đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị. Quản lý, vệ sinh môi trường...còn nhiều việc phải củng cố lại. Chưa có sự liên kết giữa các đơn vị thuộc công ty với các ngành khác, với địa phương dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nước sản xuất ra đảm bảo chất lượng nhưng vẫn còn nhập, quá trình cổ phần hoá triển khai còn chậm chưa đạt được tiến độ như mong muốn... Thị trường xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nước, sức cạnh tranh hàng may mặc còn yếu nên thị trường nội địa không đủ sức cạnh tranh với hàng nhập ngoại, hàng của các Công ty 100% vốn nước ngoài. Công tác nghiên cứu và dự đoán thị trường chưa được chú trọng, công ty chưa có một phòng marketing với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ cán bộ thị trường có trình độ chuyên môn cao. Công tác kế hoạch quản lý và điều động sản xuất chưa triệt để, tiết kiệm chi phí dẫn đến giá thành gia công cao giảm lợi nhuận. Việc điều phối kế hoạch chưa nhịp nhàng dẫn đến các khâu trong dây chuyền chưa liên hoàn nhiều khi còn phải chờ đợi lẫn nhau dẫn đến kéo dài thời gian sản xuất và năng suất lao động không cao. Công ty có tổ chức được một xưởng chuyên thiết kế các mẫu chào hàng để chủ động trong vấn đề tiếp thị nhưng hiệu quả chưa cao. Công ty chưa chú trọng đến vấn đề quảng bá sản phẩm và tìm kiếm khách hàng mới cho nên việc có đầy đủ thông tin để xác định đúng đối tác cần lựa chọn đôi khi bị xem nhẹ nên một phần cũng làm hạn chế việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 2.3.3.2 Những nguyên nhân khách quan. Những năm qua, hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Doosol Việt Nam đã có những thuận lợi nhất định. Với thực tại nền kinh tế nước ta trong xu thế mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế đã tạo ra sự phát triển cho công ty. Với một loạt các sự kiện như việc Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ đối với Việt Nam, việc ký kết với Châu Âu, gia nhập ASEAN, WTO… đã góp phần tích cực trong hoạt động sản xuất hàng may mặc của công ty đối với các nước. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hưởng những quy chế tối huệ quốc và gia nhập WTO đã giúp tất cả hàng dệt may Việt Nam được hòa nhập trở lại theo những nguyên tắc thương mại thông thường, hàng rào hạn ngạch hàng may của Mỹ được loại bỏ và thuế trung bình sẽ giảm. Đây là cơ hội để đi vào thị trường đầy tiềm năng này. Nhờ những cơ hội đó mà hàng may mặc xuất khẩu không ngừng tăng lên. Do biết vận dụng những cơ hội về chính sách mở cửa của chính phủ vì vậy cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thế giới vừa qua không làm ảnh hưởng lớn đến sản lượng xuất khẩu hàng may mặc của công ty. Tuy nhiên kim ngạch sản xuất vẫn giảm do một số nước bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên hủy bỏ đơn hàng, điều này cũng gây khó khăn cho công ty. Đây là những nguyên nhân thuộc về môi trường kinh doanh bên ngoài của công ty: - Sự cạnh tranh trong nước và khu vực trong ngành hàng may mặc đang diễn ra gay gắt, đơn giá gia công thấp. - Nguổn hàng may mặc chủ yếu phải thu mua, gia công ở các cơ sở sản xuất dẫn đến giá thành cao, không chủ động, hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc thu gom khối gom khối lượng hàng xuất khẩu thường gặp nhiều kho khăn. - Ngành may chu yếu là may gia công cho nước ngoài nên kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng thực thu ngoại tệ thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch. Thị trường xuất khẩu không ổn định, bị động, ép giá… có tới 85% sản phẩm may là làm gia công chỉ còn 10-15% sử dụng vải trong nước. Thị trường nội địa còn để sản phẩm ngoại chiếm phần lớn. - Đặc biệt, đối với thị trường phi hạn ngạch, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vẫn chưa ổn định chủ yếu là do: + Hàng hóa của ta sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. + Phương thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu. + Việc tổ chức mạng lưới thông tin, tiếp thị ở nước ngoài chưa được triển khai thống nhất. + Một số thị trường chưa được hưởng các quy chế ưu đãi. + Còn thiếu hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nước và khu vực trên thế giới. - Do xu hướng tự do hóa thương mại nên hàng may mặc bên ngoài tràn vào nước ta từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trốn thuế, hàng sida… giá rất rẻ, tràn ngập thị trường trong nước làm cho sản xuất hàng may mặc trong nước bị thu hẹp. Hơn nữa, ngành may còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu vào lẫn đầu ra. Ở đầu vào, nguyên liệu trong nước (ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất lượng vải thấp nên phải nhập khẩu, vì vậy rất bị động thường không đồng bộ và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian. Giá gia công những năm gần đây không tăng thậm chí còn giảm. Năng suất ngành may còn thấp (một công nhân trung bình ở nước ta chỉ làm được 10 áo sơ mi thấp hơn 27 áo so với nước ngoài). Ở đầu ra, ở một số nước bị hạn chế hạn ngạch. Còn thị trường trong nước cũng đang bị hàng nhập lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt. - Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất hàng may mặc, như hiện tượng thuế trùng thuế, không cạnh tranh được với giá thành, giá bán trên thị trường. Chính phủ chưa có ưu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển ngành Dệt- May nên các dự án đầu tư mới, vốn lớn không dám triển khai vì không tính toán trả được lãi vay và vốn. - Nhà nước chưa có định hướng rõ ràng và cụ thể động viên khuyến khích phát triển hàng gia công may mặc. Các thủ tục vay vốn và các thủ tục xuất nhập khẩu còn rườm rà cũng cản trở hoạt động gia công xuất khẩu của công ty. Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong các cơ quan Nhà nước sao cho hợp lý. - Đặc biệt công ty đang phải đương đầu với những đối thủ trên sức mình trong lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn như Trung Quốc, một nước láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng may mặc rất phát triển. Hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trường Việt Nam với những ưu thế hơn hẳn cả về chất lượng và giá cả. Trên đây là những tồn tại và nguyên nhân của hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc ở công ty TNHH Doosol Việt Nam. Đây cũng là những tồn tại chung của các doanh nghiệp sản xuất gia công xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế đó và thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu trong thời gian tới là rất quan trọng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC TẠI CÔNG TY TNHH DOOSOL VIỆT NAM. Trong những năm tới, hoạt động gia công may mặc ở Việt Nam còn tiếp tục được áp dụng, đó là xu thế thời đại, là một tất yếu trong quá trình phân công lao động quốc tế. Ngoài lợi ích kinh tế, hoạt động gia công may mặc xuất khẩu còn giải quyết việc làm cho một số lớn lực lượng lao động ở các thành phố cũng như các vùng sâu vùng xa. Có thể nói, tăng cường hoạt động gia công xuất khẩu hang may mặc là một bước chuẩn bị quan trọng để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, cần hoàn thiện hoạt động gia công xuất khẩu để đáp ứng các mục tiêu trên. Từ những phân tích chi tiết về hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc ở công ty TNHH Doosol Việt Nam, ta thấy rằng bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Sau đây là một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những tồn tại đó và thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu của công ty. 3.1 Nhóm giải pháp đối với công ty. 3.1.1 Đẩy mạnh hoạt động Marketing, nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là nhân tố quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường xuất khẩu, khách hàng của hàng xuất khẩu còn làm tăng tính cạnh tranh của khách hàng, tăng khả năng lựa chọn của doanh nghiệp, từ đó tăng được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Bởi vì, mở rộng thị trường, khách hàng, tức là tăng cầu, mà cầu tăng sẽ kéo theo cung tăng lên và giá cũng tăng lên. Theo qui luật của nền sản xuất hàng hoá, không còn tồn tại khái niệm tính toán áp đặt một nhu cầu để bố trí sản xuất, mà cần nắm bắt được diễn biến của thị trường đểt phát triển sản xuất theo qui luật khách quan của nó. Phương châm của Công ty là: Hướng ra xuất khẩu và coi trọng thị trường nội địa-nên phải hoà mình vào thị trường may mặc thế giới và khu vực để đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển, đủ sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước và có sức vươn lên hơn nữa. Do đó, phát triển thị trường may mặc thực sự là một yêu cầu cấp thiết hiện nay cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là: Uy tín sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường quốc tế là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ mẫu mã, chủng loại, kiểu cách đến chất lượng sản phẩm. Đối với Công ty, hiện tại việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm được thực hiện dưới hai hình thức: gia công xuất khẩu và mua nguyên liệu bán sản phẩm. Việc xuất khẩu theo hình thức gia công đã góp phần quan trọng vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, song hiệu quả thấp. Tuy vậy, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều phải trải qua hình thức này. Đây cũng là cơ hội để Công ty tập dượt, làm quen với cách thức làm ăn trên thị trường quốc tế, từ việc tiếp nhận nguyên phụ liệu gia công sản xuất đến tiến độ giao hàng ... để tiến đến hình thức xuất khẩu sản phẩm cao hơn: mua nguyên liệu, bán sản phẩm. Để đạt được việc xuất khẩu sản phẩm theo hình thức này, Công ty cần phải huy động một lực lượng tổng lực từ điều tra nhu cầu thị trường nước ngoài để tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu, đến tổ chức sản xuất đúng với tiến độ tiêu dùng của thị trường mà sản phẩm cần tới. Làm được điều này, ngoài việc giải quyết lao động như hình thức trên, nó còn gòp phần thúc đẩy bản thân ngành Dệt (cung cấp các loại vải cho may mặc) và nhiều ngành công nghiệp khác phát triển. Đồng thời hiệu quả về thu ngoại tệ cũng tăng lên nhiều. Hai là: Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng uy tín hàng may mặc Việt Nam, đồng thời đưa hàng xuất khẩu Việt Nam vào các kênh tiêu thụ hợp lý (trên cơ sở kinh nghiệm từ kiến thức của nhà phân phối ) qua đó xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường. Ba là: Đặt những đại diện, các cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc của Công ty tại các thị trường lớn ở nước ngoài. Lập kho hàng ở các cảng lớn để giao nhận hàng kịp thời. Bốn là: Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc Việt kiều để làm cơ sở đẩy mạnh hàng xuất khẩu may mặc ra thị trường thế giới. Một điều đáng chú ý ở đây là tiềm năng của Việt kiều và người Việt Nam định cư ở nước ngoài: có nhiều người là các ông chủ lớn với các doanh nghiệp sở tại, như ở Nga và một số nước Trung Đông. Đây là một thị trường không nhỏ cho hàng may mặc của Công ty. Năm là: Đẩy mạnh hoạt động mốt, đào tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán trước sản phẩm. Các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho người mua nhằm thắng được đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Sớm hoà nhập vào thị trường quốc tế và khu vực bằng đầu tư phát triển và tổ chức lại hoạt động xuất khẩu hàng may mặc theo cơ chế thị trường, theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, bằng tiếp thị, hội thảo, hội trợ, triển lãm, gia nhập các hiệp hội Dệt-May quốc tế và khu vực, giao lưu với thời trang thế giới. Để hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động trên đem lại kết quả mong muốn thì trước tiên doanh nghiệp phải tự bảo đảm được chất lượng, qui cách chủng loại của sản phẩm, phù hợp với "thượng đế ngoại". Tăng cường tìm kiếm các thị trường không hạn ngạch và có chính sách sản phẩm đối với từng thị trường. Việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn đối với từng thị trường có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm, đến chi phí, giá thành và lợi nhuận của Công ty. Chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng khả năng xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường và tăng lợi nhuận của Công ty vì thị trường là tấm gương phản ánh mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Trong nền kinh tế hiện đại, công tác marketing được coi là đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường sẽ đem đến các thông tin làm cơ sở cho công ty xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Một doanh nghiệp mạnh gắn liền với khả năng marketing mạnh, do đó cần phải có các nhìn mới về marketing đặc biệt là marketing quốc tế, phải nhận thức được tầm quan trọng của marketing như là một công cụ hàng đầu của quản trị kinh doanh. Sau đây là một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và dự báo thị trường: - Công việc quan trọng nhất là tạo dựng được một đội ngũ cán bộ marketing có năng lực thông qua các biện pháp tuyển dụng mới và tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ thị trường. - Tổ chức một phòng marketing với đầy đủ các trang thiết bị thông tin, tin học hiện đại, tích cực áp dụng kỹ thuật quản trị marketing hiện đại. - Xúc tiến các hoạt động quảng cáo khuếch trương, tham gia các hội chợ thương mại, các hội thảo chuyên ngành trong và ngoài nước để giới thiệu các mặt hàng của công ty và những thế mạnh của công ty trong hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc. 3.1.2 Đẩy mạnh hoạt động liên doanh, liên kết. Việc mở rộng mối quan hệ với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty cần chú trọng đến các mối liên kết sau: 3.1.2.1 Liên kết kinh tế kỹ thuật giũa các doanh nghiệp may. Tạo dựng mối liên kết này sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trao đổi thông tin và hợp tác với nhau trên nhiều phương diện sẽ có hiệu quả hơn. Nó giúp cho công ty ngày càng bám sát hơn đến tận các khâu, quy trình sản xuất nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc phát sinh trong sản xuất, nghiệm thu kịp thời những khó khăn vướng mắc phát sinh trong sản xuất, nghiệm thu sản phẩm kịp thời và xây dựng khung giá hợp lý tạo sức mạnh và ổn định về kinh doanh trên thị trường quốc tế. Mặt khác hiện nay nhiều công ty ở cả thị trường lớn thường đặt những đơn hàng rất lớn mà khả năng của công ty không thể đáp ứng được thì liên kết giữa các công ty lại với nhau để đáp ứng các đơn đặt hàng như vậy là rất cần thiết. 3.1.2.2 Hợp tác kinh doanh với các hãng nước ngoài trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là một biện pháp giúp công ty mở rộng quy mô sản xuất, thu hút vốn, công nghệ từ nước ngoài. Theo hình thức này thì đối tác nước ngoài sẽ góp vốn, máy móc thiết bị, đảm nhận việc tìm khách hàng (kể cả những khách hàng đặt gia công) và tiêu thụ sản phẩm còn phía công ty góp vốn, lao động, lợi nhuận được phân chia theo thỏa thuận. Với hình thức này công ty có điều kiện thu hút vốn, công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến từ phía nước ngoài, gia tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. 3.1.3 Nâng cao khả năng sản xuất kinh doanh. Những năm gần đây, qua phân tích ta thấy giá trị gia công xuất khẩu hàng may mặc của công ty luôn ổn định và đạt kim ngạch xuất khẩu trên dưới 4 triệu USD một năm. Cụ thể là trong năm 2009 giá trị gia công là 4.007.976 USD, doanh thu là 62.146 triệu đồng. Tuy nhiên công ty muốn phát triển và cạnh tranh với các đối thủ trong tương lai như Trung Quốc và các nước trong khu vực thì phải nâng cao hơn nữa khả năng sản xuất kinh doanh của mình. Đây có thể coi là một trong những vấn đề quan trọng nhất, chính nó sẽ làm cho công ty mở rộng được khả năng sản xuất, nâng cao được năng suất lẫn chất lượng sản phẩm và tạo được sự cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp khác. Nhưng đây cũng là giải pháp khó thực thi ngay một lúc mà đòi hỏi phải có thời gian và phương thức làm ăn phù hợp mới có thể thực hiện được. Để thực thi giải pháp này công ty cần phải: - Đổi mới trang thiết bị: đây là việc làm rất khó đòi hỏi nguồn vốn lớn, vậy nguồn vốn này lấy từ đâu ra, đây là vấn đề nan giải. Hơn nữa, khi đổi mới và mua mới mở rộng sản xuất thì phải làm sao cho máy móc làm việc liên tục, tránh tình trạng ngừng hoạt động do thiếu việc. Thực tế công ty hiện nay công ty còn thiếu máy móc có thể sản xuất một số mặt hàng cao cấp. Đổi mới và mua máy móc thiết bị nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu khách hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh nhưng mặt khác nó cũng chứa đựng những khó khăn mà ban lãnh đạo công ty phải xem xét: - Lập kế hoạch triệt để, tổ chức dây chuyền hợp lý: Song song với việc đổi mới, mua sắm máy móc thiết để làm sao có được dây chuyền sản xuất hợp lý và hiệu quả công ty cần lập kế hoạch một cách triệt để hơn để trong quá trình sản xuất các dây chuyền không phải chờ đợi nhau làm giảm năng suất dẫn đến giá thành sản phẩm cao. - Để có được dây chuyền sản xuất hợp lý cần phải thỏa mãn: + Tận dụng hết công suất cho phép của máy móc dây chuyền. + Không gây ra tình trạng ùn tắt trong quá trình sản xuất cũng như không gây ra tình trạng đứt chuyền (các khâu trong dây chuyền phải chờ đợi nhau). + Không gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của công nhân trực tiếp đứng máy, không gây ô nhiễm môi trường. - Do đó khi lắp đặt dây chuyền sản xuất cần phải tuân thủ các nguyên tắc: + Bố trí máy móc sao cho tạo được một dây chuyền sản xuất liên tục. + Bố trí công nhân sản xuất phù hợp với từng máy móc, công đoạn sản xuất. - Nâng cao tay nghề cho người lao động và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng: + Hàng năm mặc dù vẫn tổ chức cho công nhân học tập nâng cao tay nghề nhưng trình độ của công nhân vẫn chưa đạt mức cao để thực hiện sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Công ty cần phải tổ chức đào tạo những người lao động chưa theo kịp với dây chuyền sản xuất, tổ chức tuyển chọn công nhân có đủ tay nghề để trực tiếp sản xuất nhanh cũng như sa thải những người lao động có tay nghề quá thấp. Và những cán bộ nhân viên quản lý phải được xây dựng đủ mạnh, có trình độ nghiệp vụ cao, tình thần trách nhiệm cao có thể đối phó lại những tình huống bất ngờ trong kinh doanh. + Công ty cũng cần phải có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm làm cho người lao động gắn bó với công ty hơn, tránh tình trạng chảy máu chất xám, bởi vì do sự biến động của thị trường, những người lao động có trình độ tay nghề cao và trình độ nghiệp vụ cao thường tìm đến những nơi có chế độ đãi ngộ tốt hơn để làm việc. - Tìm kiếm các nguồn có thể cung cấp nguyên phụ liệu ổn định có uy tín: + Hiện nay công ty vẫn phải thực hiện phần lớn là gia công đơn thuần nhưng đôi lúc phía đối tác vẫn ủy thác cho công ty nhập nguyên phụ liệu của một công ty nước ngoài khác được chỉ định hoặc cho công ty quyền tự chủ mua nguyên phụ liệu để sản xuất. Điều này sẽ tạo cho công ty có được nguồn cung cấp nguyên phụ liệu ổn định và đáng tin cậy, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty xúc tiến phương thức mua đứt bán đoạn. + Việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời chính xác nhu cầu thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt. Thu mua là khâu quan trọng, là khâu đầu tiên quyết định trong quy trình sản xuất kinh doanh, đồng thời chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng phát triển ở giai đoạn sau hay không. + Trong thu mua hàng dệt may, vấn đề lựa chọn nguồn hàng là rất quan trọng. Cần phải lựa chọn nguồn hàng phù hợp với điều kiện kinh doanh của công ty và đặc điểm của thị trường nước ta. Vì vậy cần nghiên cứu khác thác các nguồn nguyên phụ liệu phù hợp kể cả trong và ngoài nước. 3.1.4 Phát triển các quan hệ đối tác. Quan hệ đối tác có thể coi là một tài nguyên vô hình của một doanh nghiệp. Các chính sách của công ty có thể phát triển được hay không là nhờ vào hai mặt: Thực lực của công ty và các quan hệ đối tác mà công ty đã tạo dựng được. Để giữ vững được các quan hệ đó, công ty phải luôn giữ chữ tín với các đối tác, có thể đó là thái độ sòng phẳng hoặc là chiếu cố lẫn nhau trong quan hệ sản xuất. Muốn cho hoạt động gia công phát triển hơn nữa, công ty phải có các giải pháp đối với các đối tác như sau: Quan hệ trực tiếp với các đối tác gia công: công ty cần tạo cho được các quan hệ trực tiếp này tức là phải bỏ qua được khâu trung gian bởi hầh hết các hoạt động gia công ký kết qua các công ty trung gian đều dẫn đến là lợi nhuận bị chia sẻ nên lợi ích của công ty bị hạn chế. Nếu bỏ qua khâu trung gian, công ty quan hệ trực tiếp với các đối tác nước ngoài thì lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn rất nhiều. Muốn làm được điều này công ty cần phải: + Tạo ra được những mặt hàng có mẫu mã hợp lý, phù hợp với thị trường: đây chính là cơ sở để bên nước ngoài đặt gia công. Phía nước ngoài sẽ căn cứ vào mẫu mã do công ty tạo ra để đánh giá được trình độ sản xuất, thể hiện chất lượng có đáp ứng được yêu cầu gia công hay không. Điều đó đòi hỏi người thiết kế mẫu phải có trình độ cao. + Mở rộng quan hệ với khách hàng mới: một khách hàng có thể đặt gia công tại nhiều doanh nghiệp trên một nước hay nhiều nước khác nhau. Vấn đề nay đã tạo ra sự cạnh tranh trong việc thu hút các đơn hàng gia công. Bởi vậy, nếu như công ty chỉ có một số lượng khách hàng ít ỏi thì trong nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn trong vấn đề ký kết hợp đồng. Do vậy, ngoài việc công ty phải giữ mối quan hệ với khách hàng truyền thống, công ty chú trọng quan hệ với các khách hàng mới. Trong những năm gần đây,Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với Mỹ đã mở ra một cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam bởi vì đây là thị trường có kim ngạch nhập khẩu rất lớn và cơ cấu thị trường rất đa dạng. 3.1.5 Tạo dựng đội ngũ cán bộ quản lý có bản lĩnh trong kinh doanh quốc tế. Công ty muốn nâng cao hiệu quả trong kinh doanh, muốn tạo dựng uy tín trên thương trường thì bản thân bộ máy quản lý phải thông suốt, có sự phân cấp và trách nhiệm rõ ràng. Khi tuyển chọn cần phải lựa chọn những người có trình độ nghiệp vụ thông qua việc tổ chức thi tuyển để có thể tuyển chọn được đội ngũ cán bộ có năng lực trong kinh doanh, thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi của thị trường làm cho công ty tránh được các rủi ro trong kinh doanh, nắm bắt được các cơ hội kinh doanh, tiếp thu được công nghệ sản xuất mới, hiện đại từ phía nước ngoài, có khả năng phân tích đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh, vạch ra các chủ trương, chương trình hành động thích hợp cho công ty. Một trong những yêu cầu đặt ra cấp bách hiện nay đối với công ty là phải tạo dựng được một đội ngũ vững mạnh về quản trị Marketing, quản lý công tác xuất nhập khẩu và cán bộ có khả năng tổ chức đàm phán trong kinh doanh quốc tế. Công ty có thể lựa chọn một trong các phương án sau: - Tổ chức cho cán bộ tham gia các khóa học nghiệp vụ chuyên môn tại các trung tâm đào tạo quản trị kinh doanh hay tại các trường đại học trong nước. - Gửi các cán bộ có năng lực ra nước ngoài học tập. - Thuê chuyên gia về đào tạo tại chỗ. Với chương trình đào tạo hợp lý công ty sẽ có một đội ngũ cán bộ quản lý vững mạnh có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. 3.1.6 Nâng cao tỷ trọng gia công theo phương thức mua đứt, bán đoạn, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. Công ty TNHH Doosol Việt Nam cũng như các doanh nghiệp gia công xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam hiện nay thực hiện gia công đơn thuần là chủ yếu, điều này đã làm giảm lợi nhuận và làm chậm quá trình thâm nhập mặt hàng của mình vào thị trường thế giới. Theo như bảng 2.8: Hình thức gia công hàng may mặc ở công ty TNHH Doosol Việt Nam. ĐVT: VND Hình thức gia công 2005 2006 2007 2008 2009 Gia công đơn thuần 3.487.596 3.808.541 4.532.304 3.315.989 3.597.323 FOB 7.560 285.659 506.934 480.653 Tổng 3.495.156 4.094.200 4.532.304 3.822.923 4.077.976 Tỷ trọng 99.78 93.02 86.74 88.21 Nguồn: Báo cáo từ phòng xuất nhập khẩu công ty TNHH Doosol Việt Nam. Theo bảng số liệu thì tỷ trọng gia công đơn thuần chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng doanh thu xuất khẩu của công ty. Cụ thể là chiếm hơn 90% trong tổng tỷ trọng hàng may mặc. Điều này không hẳn là không tốt tuy nhiên công ty cần xác định rằng gia công xuất khẩu, đặc biệt là phương thức gia công đơn thuần chỉ là hoạt động kinh doanh tạm thời trong giai đoạn trước mắt, trong tương lai công ty cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài bằng cách xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm của mình. Muốn làm được điều này thì ngay bây giờ công ty phải đẩy mạnh hoạt động gia công theo hình thức mua đứt bán đoạn, đây là tiền đề để công ty chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. Gia công theo hình thức mua đứt, bán đoạn sẽ giúp công ty tìm được những nhà cung cấp nguyên phụ liệu có uy tín và chất lượng ổn định. Mặt khác gia công theo hình thức này làm cho công ty luôn phải thích ứng với sự thay đổi của thị trường, điều này giúp cho cán bộ công nhân viên của công ty nâng cao được trình độ cũng như bản lĩnh kinh doanh trên thương trường quốc tế. Vì vậy, gia công theo hình thức mua đứt bán đoạn vừa làm nâng cao được lợi nhuận vừa tạo tiền đề cho công ty tiến tới xuất khẩu trực tiếp. 3.2 Những kiến nghị đối với Nhà nước. Dưới đây là một số kiến nghị với Nhà nước nhằm thúc đẩy gia công xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam. 3.2.1 Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt và may. Hiện nay, ngành dệt trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành may. Các doanh nghiệp may hầu như phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp may gia công thì gần 100% các loại vải là do nhập khẩu, chính vì vậy cần phải làm sao cho cân đối giữa ngành dệt và ngành may mặc. Cần phải đầu tư ngành dệt theo chiều sâu, hình thành một số cụm sản xuất dệt, in nhuộm với công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng cho ngành may xuất khẩu. Điều đó vừa tạo cho sự phát triển của ngành may lẫn ngành dệt của Việt Nam. Muốn làm được điều này, cần phải: - Công nghiệp Dệt-May phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta những năm tiếp theo. Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã vươn tới đứng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ vào khoảng trên 10% giai đoạn 2003-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo cảu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dệt may phải được ưu tiên phát triển. - Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm. Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiến tiến và công nghệ cao. Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu được ưu tiên phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm. Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước nhu cầu hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng các mặt hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối, còn tỷ lệ tiêu dùng cho các như cầu khác cũng sẽ tăng lên trong đó có nhu cầu về may mặc. Như vậy, cũng với việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong những năm tới thị trường trong nước sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng. Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào các thị trường quốc tế mới, ngành Dệt-May càng cần phải được trang bị lại theo hướng hiện đại. Có như vậy mới có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao, càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu. - Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu. Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh nghiệm cuả nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã được xác nhận. Đó là một chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Chúng ta phải tận dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế hiệu quả, không mâu thuẫn với hướng về xuất khẩu. Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm đuợc điều đó. Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lược hướng về xuất khẩu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không ngừng tăng lên. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện phát triển tái đầu tư để hiện đại hoá, đẩy mạnh sản xuất. Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với số dân đông và sức mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng phải đáp ứng cho được các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm dệt may bình thường, phù hợp với đa số người dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những nhóm người có thu nhập cao. Để làm được điều này, vấn đề quyết định là phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới, trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm công tác nghiên cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang được nhập khẩu nhiều mà năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp trong nước phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt hàng này. Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lượng có kém hơn song do thắng áp đảo về giá nên họ chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở khu vực nông thôn. Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được. - Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm 2003 và 2010 Đảng ta chỉ rõ, cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hóa nông thôn. Như vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp Dệt-May là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp như bông, tơ tằm, trong chiến lược phát triển của mình cần xác định được hướng phát triển là gắn với sự phát triển của ngành nông nghiệp. Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu. Kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta có thể cung cấp một phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu, nhưng nguồn tơ sản xuất bị hạn chế cả về chất lượng lẫn số lượng nên giá trị xuất khẩu thấp. Do vậy, muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định, bền vững, ngành Dệt-May phải tạo được cho mình một một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định. Phát triển công nghiệp Dệt-May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt các ngành công nghiệp khác như hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên liệu tổng hợp, nhân tạo, các loại hoá chất, thuốc nhuộm... Công nghiệp cơ khí chế tạo để sản xuất ra các loại máy móc từ đơn giản đến phức tạp cho ngành. Ngoài ra còn kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì. Để làm được những vấn đề trên,điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là phải xây dựng được hệ thống các qui hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra sự liên kết ngang chặt chẽ giữa ngành công nghiệp Dệt-May với các ngành công nghiệp khác và nông nghiệp. Các qui hoạch này cần được phối hợp, bảo đảm tính cân đối, ăn khớp giữa chúng với nhau. Đặc biệt đối với nông nghiệp, thì phải có qui hoạch từ khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến tiêu thụ sản phẩm. Làm được như vậy, ta sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của bản thân ngành công nghiệp Dệt-May, đồng thời còn góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều ngành khác. 3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính. Hiện nay, các thủ tục hành chính của Nhà nước còn rất rườm rà, phức tạp. Điều đó làm cản trở rất lớn tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà công ty cũng nằm trong số đó. Hiện nay, yếu tố cản trở lớn nhất đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là việc thông qua hải quan. Vẫn biết rằng hải quan có trách nhiệm và nghĩa vụ của họ nhưng vấn đề ở chỗ là thủ tục hải quan rất rườm rà nhiều khi làm chậm tiến độ giao hàng. Tổ chức và quản lý hợp lý các khâu thuộc nghiệp vụ xuất khẩu như cấp giấy phép, phân bổ quota, thủ tục hải quan... cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói rỉêng. Thực tế việc phân bổ hạn ngạch trong xuất khẩu hàng may mặc không hợp lý, thủ tục hải quan còn nhiều phức tạp... làm hạn chế khả năng xuất khẩu mặt hàng này. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần sớm ban hành luật hải quan cho phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Các ngành hữu quan nghiên cứu để ban hành biểu phân loại mã số hàng xuất khẩu (biểu mã số HS) phù hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong xu thế hợp tác và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nên có sự thống nhất từ cơ quan quản lý trong việc ghi mã số HS trước tên hàng trong các hồ sơ chứng từ có liên quan để tạo ra một sự đồng nhất trong việc xác định loại hàng hoá làm cơ sở cho việc khai báo, tính và nộp thuế, việc quản lý gia công cho nước ngoài... Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao cho giá xuất khẩu tiểu ngạch tương đương với giá xuất khẩu chính ngạch vừa quản lý chặt chẽ được xuất khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Công ty chủ động trong giao dịch, kinh doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính và chống tham nhũng trong các cơ quan chức năng của Nhà nước như thuế vụ, hải quan, ngân hàng… đổi mới quy chế và cách thức làm việc, bỏ bớt các khâu trong xét duyệt đầu tư, vay vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với mọi cấp mọi ngành. 3.2.3 Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy các hoạt động gia công. Nước ta là một nước có nền kinh tế có xuất phát điểm rất thấp, các doanh nghiệp thường đi sau trong quá trình hội nhập, vì vậy Nhà nước cần phải có những chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển sản xuất. Cụ thể là: - Về lãi ngân hàng: Hiện nay ngành may mặc của nước ta, các máy móc sản xuất đa phần là các máy móc lạc hậu, một số máy móc vẫn còn mới nhưng trình độ công nghệ không cao do vậy chất lượng sản phẩm không cao. Để đầu tư cho sản xuất thì nguồn vốn của bản than doanh nghiệp không thể nào đáp ứng được, do vậy cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. - Về quản lý và phân bổ hạn ngạch: trong những năm qua Nhà nước đã có thay đổi rất nhiều trong vấn đề quản lý và phân bổ hạn ngạch. Mặc dù với cách phân bổ hiện nay của Bộ thương mại đã có nhiều tiến bộ nhưng vấn đề phân bổ hạn ngạch vẫn còn có nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết. Thực tế hiện nay số lượng sản phẩm sản xuất để xuất khẩu bao giờ cũng lớn hơn số lượng trong hạn ngạch. Do vậy, công ty liên tục bị thiếu hạn ngạch và luôn phải lo lắng xin hạn ngạch bổ sung hoặc tìm các doanh nghiệp khác để xuất khẩu ủy thác. Điều này làm chi phí sản xuất gia công tăng, đồng thời tạo ra nhiều hiện tương tiêu cực trong vấn đề xin hạn ngạch. - Nhà nước cần phải có sự hỗ trợ về mặt tín dụng như đơn giản các thủ tục cho vay vốn, giảm lãi vay…Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho Công ty đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá: + Cho tiếp tục áp dụng thuế suất hàng dệt may bằng 0% để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. + Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy hiệu quả, nội lực của đất nước, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng trong nước đã bắt đầu sản xuất được, trong đó có sợi, vải để đảm bảo sản xuất ttrong nước tránh tình trạng giá thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá ta trên thị trường nước ngoài. Nhà nước cần miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm (mặt hàng dệt, phụ liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu, tạo điều kiện cho Công ty có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho hàng may mặc xuất khẩu được theo phương thức FOB. + Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp khác như cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu.... nhằm giúp Công ty giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu. Thực tế mấy năm qua, Nhà nước vẫn chưa thực sự chú trọng tới hoạt động hàng may mặc. Một thực trạng trong ngành may xuất khẩu đó là: dù biết rằng gia công may không hiệu quả bằng hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Công ty phải vay vốn mua nguyên liệu đầu vào, rồi sau một chu kì sản xuất (3-4 tháng) mới bán sản phẩm thu tiền lãi trả ngân hàng. Do không có ưu đãi về lãi suất nên sau khi trừ đi chi phí sản xuất và lãi ngân hàng, hiệu quả thu được không cao hơn hình thức gia công là bao nhiêu, lại chịu nhiều rủi ro. Trong khi đó, hình thức gia công tuy hiệu quả thấp nhưng chắc chắn. Như vậy Nhà nước và xã hội bị thiệt vì đơn cử một ví dụ là: theo hình thức gia công thì giá gia công một áo sơ mi khoảng 0,7-0,8 USD, gấp gần 5 lần. Do vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng áp dụng một cách hợp lý các biện pháp trên để khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đem lại hiệu quả cao. - Chính sách về vốn. + Nhà nước cần bảo đảm cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp của ngành dệt may một cách hợp lý. Có cơ chế vay và bảo lãnh vốn vay một cách hợp lý. + Cho ngành dệt được sử dụng hoặc vay vốn ODA, vốn tín dụng của Chính phủ với lãi suất ưu đãi (khoảng 5%), thời gian vay dài (trên 10 năm đối với ngành dệt và 7 năm đối với ngành may). + Miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các công trình đầu tư ngành dệt may trong thời gian chưa trả nợ xong. Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cùng với Công ty đưa Công ty Tài chính dệt may sớm đi vào hoạt động để huy động vốn từ các nguồn vay trong nước, ngoài nước, trái phiếu, cổ phiếu... nhằm cho vay đầu tư phát triển. - Chính sách tỷ giá hối đoái. + Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được sử dụng như một công cụ lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển và là một trong những công cụ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển. +Đối với Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới không ngừng phát triển và thị trường tiền tệ thế giới đầy biến động thì việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế đối nội và tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết. + Đối với ngành Dệt-May, việc điều hành tỷ giá ngoại tệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để đảm bảo xuất khẩu có lãi và khuyến khích xuất khẩu. Tất nhiên tỷ giá đó không được thoát ly quá nhiều so với tương quan cung cầu về ngoại tệ. Đồng thời Nhà nước phải luôn chú trọng đầy đủ các yếu tố kích thích xuất khẩu khi ấn định tỷ giá. Đây là những quyết định chủ quan nhưng rất cần thiết vì không đẩy mạnh được xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ tự có, chúng ta sẽ không đủ ngoại tệ để cân đối cán cân thanh toán quốc tế. 3.2.4 Tăng cường cung cấp thông tin khoa học công nghệ về ngành dệt may. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp thường thiếu thông tin về công nghệ và thị trường công nghệ, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Nhà nước phải có các dự án nhằm cung cấp các thông tin cho doanh nghiệp. Công ty dệt may Việt Nam nên tổ chức hệ thống thông tin về khoa học công nghệ dệt may. Ngoài thông tin công nghệ và thị trường công nghệ, hệ thống còn cung cấp các thông tin khác về thị trường hàng may mặc. Tóm lại: Trên đây là một số giải pháp cơ bản vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có ý nghĩa lâu dài nhằm khắc phục những hạn chế và thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu ở công ty TNHH Doosol Việt Nam. Để thực hiện tốt những giải pháp này đòi hỏi có sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên của công ty và sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. KẾT LUẬN Hoạt động gia công xuất khẩu đã và đang trở thành một ngành sản xuất có tính chất chiến lược ở nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, nền khoa học công nghệ còn lạc hậu, lực lượng lao động còn thất nghiệp rất lớn thì phát triển gia công xuất khẩu là một tất yếu. Gia công xuất khẩu sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, phát triển gia công xuất khẩu giúp chúng ta tiếp thu được khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến từ nước khác, nó cũng làm tăng thu nhập, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay, Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, WTO, sự gia nhập này đòi hỏi nền kinh tế nước ta duy trì mức tăng trưởng từ 9-10% một năm, kim ngạch xuất khẩu phải tăng từ 20-25% năm, gia công xuất khẩu hàng hóa là một trong những giải pháp thực hiện nhằm đạt được các chỉ tiêu này. Muốn vậy chúng ta cần phải đầu tư hơn nữa sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, quan tâm thích đáng công tác thị trường, cải tiến và nâng cao hơn nữa bộ máy quản lý đa dạng hóa thị trường, sản phẩm từng bước hướng vào gia công theo chiều sâu, tăng dần tỷ trọng nguyên vật liệu trong nước trong giá trị sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời hết sức coi trọng uy tín trong quan hệ kinh doanh quốc tế. Chắc chắn rằng hoạt động gia công xuất khẩu sẽ đem lại lợi ích kinh tế xã hội cao hơn, đóng góp ngày càng nhiều hơn trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong những năm tới, với sự nỗ lực không ngừng vươn lên của chính mình, công ty TNHH Doosol Việt Nam đã và sẽ cố gắng phát triển hoạt động gia công xuất khẩu hàng may mặc hơn nữa góp phần phát triển ngành dệt may Việt Nam, nâng cao uy tín của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Tô Xuân Dân (2002). Giáo trình kinh tế quốc tế. NXB Thống kê. TS Đỗ Đức Bình (2003). Giáo trình kinh doanh quốc tế. NXB Thống kê. PGS. TS Đoàn Thị Hồng Vân. (2003). Logistics Những vấn đề cơ bản. NXB Thống kê. Vũ Hữu Tửu (2003). Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. NXB Thống kê. Báo cáo xuất khẩu từ năm 2005-2009 của công ty TNHH Doosol Việt Nam. Báo cáo giá trị xuất khẩu công nghiệp (doanh thu- sản phẩm) của công ty TNHH Doosol Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docBìa.doc
  • docMỤC LỤC.doc