A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự CNH-HDH đất nước trong thời kỳ đổi mới. Các đô thị lớn và nhỏ trong cả nước đang vươn lên chứng tỏ vai trò của mình. Mục tiêu đến năm 2010 nước ta cơ bản sẽ là nước công nghiệp. Vì thế để thực hiện được mục tiêu này thì quá trình CNH-HĐH ở các đô thị phải được ưu tiên hàng đầu. Nhưng nguồn thu cho sự phát triển đó được lấy ở đâu? Đây đang là bài toán nan giải cho các nhà quản lý đô thị nói chung và cho chính quyền từng thành phố nói riêng.
Nguồn thu trên giác độ kinh tế- xã hội có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển ở đô thị. Về bản chất hoạt động thu là sự vận động của các nguồn tiền tệ gắn với sự hình thành và các quỹ tiền tệ đó.
Thành phố Thanh Hoá sau 10 năm phát triển bây giờ là một đô thị loại 2. Trong 10 năm ấy đã thu được nhiều kết quả khả quan, Thành phố đang dần hoàn chỉnh các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch khu Đông Bắc Ga, khu nhà ở cho những hộ gia đình có thu nhập thấp, nâng cao đời sống cho người dân Thành phố có 12 phường và 6 xã với số dân là 286.848 người, mật độ dân số nội thành là 17.188 n/km2 (2003)
Nguồn thu ngân sách năm 2004 là 162.704200 (1000đ) và dự kiến năm 2005 là 210.961 triệu đồng. Như vậy nguồn thu ngân sách có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của Thành phố. Là sinh viên Khoa Kinh Tế & Quản Lý Môi Trường - Đô Thị khoá 43 và là một người dân Thanh Hoá. Nên tôi muốn tìm hiểu về Thành phố mình ở_ nơi tôi đã lớn lên. Tôi mạnh dạn chọnđề tài
“ Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010”
Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của Th.s Lê Thăng Long và các bạn trong lớp để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập rất quan trọng này.
II. Mục đích chọn đề tài.
Tôi muốn tìm hiểu những vấn đề làm được và chưa làm được việc sử dụng hợp lý nguồn thu cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá những năm qua. Nguồn thu của Thành phố là vấn đề rộng hay hẹp, mức độ phức tạp không? Và việc vận dụng những kiến thức học trong 4 năm để tìm hiểu một vấn đề cụ thể. Xem mình đã thu được gì trong thực tế trước khi ra trường.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là các nguồn thu từ thuế (thuế môn bài, thuế trước bạ, thuế nông nghiệp ), các khoản phí, lệ phí (phí ô nhiễm môi trường, phí giao thông ) từ việc cho thuê đất, bán đất trên địa bàn Thành phố.
Được thực tập ở phòng Quản Lý Đô Thị Thành phố là cơ quan hành chính sự nghiệp nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các đơn vị cơ quan hành chính như chi cục thuế Thành phố, phòng tài chính, phòng kế hoạch Nội dung đề tài là vấn đề nguồn thu trong phạm vi Thành phố Thanh Hoá.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của đề án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nền tài chính đô thị.
Chương 2: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001-2005.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2005-2010.
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3467 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính quyền đô thị diễn ra trong phạm vi nền tài chính quốc gia và trên địa bàn đô thị họ quản lý. Tài chính của mỗi cấp thể hiện sức mạnh quyền hạn, trách nhiệm của cấp đó trong bộ máy quản lý đô thị. Những mối quan hệ cơ bản về tài chính nảy sinh trên cơ sở công việc và điều kiện tài chính bao gồm:
Phân chia trách nhiệm: Ai làm gì? ai chi khoản gì? thực chất là sự phân quyền mà các cấp chính quyền luôn đòi hỏi sự công bằng và chính xác.
Phân chia nguồn thu: Ai nhận nguồn vốn nào? Phải làm gì khi thu chi không cân bằng? Là những điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền thực hiện nhiệm vụ của mình.
Bình đẳng trong vay mượn và hỗ trơ cung cấp các dịch vụ của Chính phủ:Tài chính liên cấp.
Chính quyền đô thị vừa là người điều tiết vừa là người cung cấp các dịch vụ trong phạm vi đô thị của mình.
Những loại dịch vụ cấp thành phố cung cấp bao gồm: Đường sá đô thị duy tu bảo dưỡng đường sá, chiếu sáng đô thị, vệ sing môi trường, giao thông, bệnh viện, cảnh sát,... Trong nền kinh tế thị trường, các chính quyền đô thị chỉ nên giới hạn vào cung cấp các dịch vụ cho dân cư đô thị của mình. Để sản xuất có hiệu quả các cấp các ngành cần xác định rõ sản xuất cái gì, cho ai, bao nhiêu và chất lượng thế nào?
Chính quyền đô thị phải cung cấp các dịch vụ có tính xã hội mà các doanh nghiệp tư nhân không muốn cung cấp như y tế cộng động, giáo dục công, văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội...
IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước
4.1. Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Ngân sách đô thị, hay ngân sách của thành phố, thị xã, thị trấn, được hình thành theo luật ngân sách Nhà nước năm 1998. Cũng giống như ngân sách các địa phương, ngân sách đô thị hình thành dựa vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước về hành chính kinh tế, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trên chế độ định mức chi tiêu và chính sách để lại nguồn thu cho các đô thị để thiết lập và chấp hành ngân sách. Các nguồn thu của ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm:
Các khoản thu được giữ lại 100%:
Tiền thuê chênh lệch giá đất
Tền thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước
Lệ phí trước bạ phát sinh trên địa bàn quận, huyện không kể lệ phí trước bạ nhà đất
Thu tiền từ hoạt động sổ xố kiến thiết
Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật.
Các khoản phí, lệ phí và các khoản thu nhập khác nộp vào ngân sách tỉnh theo quy định của chính phủ
Các khoản huy động của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định của chính phủ(các loại quỹ phát triển nhà ở)
Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố
Thu kết dư ngân sách ngân sách cấp tỉnh, thành phố
Bổ sung từ ngân sách trung ương (tài trợ của chính phủ)
Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và ngân sách cấp tỉnh, thành phố:
Thuế giá trị gia tăng (VAT) không kể VAT của hàng hoá nhập khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành
Thuế thu nhập (đối với người có thu nhập cao)
Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài
Thu sử dụng vốn ngân sách
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và ngân sách quận, phường:
Thuế chuyển quyền sử dụng đất, thực chất là chênh lệch giá đất
Thuế nhà đất
Tiền sử dụng đất
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách tỉnh và ngân sách huyện, xã:
Thuế sử dụng đất nông nghiệp(cho thị trấn, xã tối thiểu là 20%)
Thuế tài nguyên
Lệ phí trước bạ nhà đất
Thuế tiêu thụ đặc biệt (kinh doanh vàng mã; vũ trường, karaoke, massage...)
4.2. Ngân sách cấp thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận
* Các khoản thu này được giữ lại 100%.
- Thu ngoài quốc doanh: Đó là các khoản thu từ thuế và lệ phí đối với các công ty, doanh nghiệp, các tiểu thương, tiểu chủ không thuộc sở hữu Nhà nước.
- Thuế môn bài: Không gồm thuế môn bài thu từ các hộ gia đình, các nhà kinh doanh nhỏ ở thị trấn, xã.
- Thuế sát sinh: Thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn.
- Lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý.
- Thu kết dư ngân sách cấp thành phố: Đó là những khoản chi còn dư được tổng kết vào cuối năm.
- Bổ sung từ ngân sách tỉnh: Là những khoản trợ cấp ngân sách tỉnh cho thành phố, thị xã, huyện, xã.
- Các khoản thu khác theo quy định của nhà nước: Thuế tắc nghẽn giao thông, thuế ô nhiễm môi trường… cũng là những nguồn thu quan trọng, đồng thời góp phần khắc phục các vấn đề về giao thông và cải thiện môi trường.
* Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách tỉnh và ngân sách thành phố thuộc tỉnh.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là chênh lệch giá của đất trong quá trình chuyển quyền sử dụng. Thuế có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nên người sử dụng phải cân nhắc khi chuyển quyền sử dụng đất.
- Thuế đất ở: đất xây dựng các công trình sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và khả năng thu nhập của các công trình. Nếu đất đô thị chỉ để ở thì đất phụ thuộc vào vị trí từng loại phố, tuỳ loại đô thị, thuế đất ở đô thị cao hơn thuế đất nông nghiệp từ 2 đến 32 lần. Đất ven đô, ven trục giao thông chính có mức thuế cao hơn từ 1,5 đến 2,5 lần thuế đất nông nghiệp vào loại cao nhất trong vùng.
- Tiền thuê đất: Là khoản thu điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất mang lại. Tiền thuê đất phải lớn hơn thuế đất một khoản bằng lợi nhuận của người có tài sản cho thuê. Các đơn vị không được nhà nước giao đất phải đi thuê đất để xây dựng nhà xưởng để hoạt động.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp (cho thị trấn, xã tối là 20%): Thực hiện điều tiết đối với đất được sử dụng vào sản xuất nông nhiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và chất lượng kinh tế đất. Thuế suất được tính bằng kg thóc/sào/năm. Thực tế thường quy đổi thành tiền để đơn giản khâu thu nộp.
- Tiền sử dụng đất: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sủ dụng ổn định lâu dài, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước.
- Thuế tài nguyên: Đánh vào các chủ thể sử dụng tài nguyên khoáng sản hoặc người trực tiếp khai thác.
- Lệ phí trước bạ nhà đất: Là khoản tiền mà người mua đất hoăc mua nhà phải nộp thay người bán cho chi cục thuế.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt kinh doanh hàng mã, vũ trường, karaoke, massage….
- Nguồn thu từ hàng hoá công cộng.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ cung cấp một số hàng hoá dịch vụ, dịnh vụ giao thông, bảo vệ của cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, công viên và thoát nước… Tuy nhiên trong một số các điều kiện nhất định thì việc cung cấp hàng hoá của chính quyền địa phương đạt hiệu quả cao.
Nói chung nguồn thu từ hàng hoá công cộng là rất ít vì nó mang tính chất phục vụ cho tầng lớp nhân dân. Người dân sử dụng các hàng hoá công cộng đó họ phải trả tiền thông qua các dịch vụ.
Các loại lệ phí:
+ Lệ phí giao thông
+ Lệ phí cấp giấy phép xây dựng
+ Lệ phí xử phạt hành chính
+ Lệ phí lưu trú đô thị
+ Lệ phí khác: Phòng cháy chữa cháy, sử dụng bến bãi, lề đường, quảng cáo công chứng, vệ sinh môi trường...
* Trợ cấp của Chính phủ
Trợ cấp của chính phủ cho các công trình của địa phương như trợ cấp giáo dục, phúc lợi xã hội, nhà ở và phương tiện công cộng, đường giao thông, bệnh viện, y tế… là những nguồn tài chính quan trọng cho đô thị.
* Nguồn thu ngân sách từ trong nhân dân
Nguồn thu từ trong nhân dân có vai trò cũng rất quan trọng cho sự phát triển đô thị, huy động được lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân sẽ rất tốt cho sự phát triển đô thị. Chính quyền đô thị nên tạo ra nhiều dịch vụ mới để thu hút nhân dân tham gia và dựa trên nguyên tắc người được hưởng phải trả tiền.
V. Nguồn thu từ nước ngoài
Đó là các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật. Vay nước ngoài như từ nguồn vốn World Bank, IMF…Các nguồn vốn khác như ODA, FDI thì chủ yếu đầu tư vào nông thôn, vùng miền núi kinh tế còn gặp nhiều khó khăn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TĂNG NGUỒN THU NGÂN SÁCH CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ THÀNH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
I. Giới thiệu về Thành phố Thanh Hoá
Một người pháp tên là Charles Robequin viết lại những quan sát về thành phố Thanh hoá trong một luận văn tiến sĩ của mình, ông đặc biệt tán thưởng chất lượng các đồ gốm sành màu tím ngắt hoặc màu da lươn vàng ươm ở Lò Chum Bến Ngự chất đầy trên các con thuyền mành và thuyền đinh, mỗi năm có sản lượng 1.500 tấn và xuất khẩu ít nhất 270 tấn ra thị trường Bắc Bộ.
Thành phố Thanh hoá được biết đến với chiến thắng Hàm Rồng vẻ vang thể hiện tinh thần chiến đấu quật cường của quân dân Nam Ngạn trong kháng chiến chống Mĩ. Bây giờ lại rất nổi tiếng bởi là nơi cung ứng hàng trăm mặt hàng đá ốp lát có hàm lượng Silic cao với nhiều màu sắc tuyệt vời.
Thành phố nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vị trí địa lý trên là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho phát triển Thành phố mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước cũng như với nước bạn Lào.
Ngày 1/5/1994 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Thành phố Thanh hoá trên cơ sở là Thị xã Thanh hoá, Địa giới bao gồm:
Phía Bắc tới núi Vôi- Xã Đông Cương
Phía Đông tới cảng Lễ Môn- Xã Quảng Hưng
Phía Nam tới Cầu Quán Nam- Xã Đông Vệ
Phía Tây tới cây số Ba- Phường Phú Sơn
Năm 2003, Thành phố có diện tích tự nhiên là 58,58 km2 riêng đất xây dựng đô thị là 14.926 km2. Có 12 phường và 6 xã. Tính đến 01/01/2003 tổng số dân toàn thành phố là 286.848 người, mật độ dân số nội thành là 17.188 người/km2
Khu trung tâm có các phường Ba Đình, Điện Biên, Lam Sơn, Ngọc Trạo, Tân Sơn, Trường Thi.
Kế cận có phường Đông Sơn, Đông Vệ, Phú Sơn, Đông Thọ, Nam Ngạn, Hàm Rồng.
Ngoại vi thành phố có các xã Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng.
Hướng phát triển của thành phố là Đông- Đông Bắc(xã Đông Cương) và Đông- Đông Nam(xã Quảng Thành). Các xã Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng và Quảng Thắng là những quỹ đất tiềm năng rộng lớn cho các khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại. Thành phố có khu công nghiệp có tổng diện tích 180 ha: khu công nghiệp Đình Hương 30 ha, khu công nghiệp vừa và nhỏ Tây Bắc ga 50 ha, khu công nghiệp Lễ Môn 100 ha. Giá trị Sản xuất chiếm 34,4% tổng GDP của thành phố.
II. Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh hoá trong giai đoạn 2001- 2005
2.2.1 Vấn đề xây dựng nguồn thu:
Đây không phải là hạn chế riêng của Thành phố Thanh hoá mà còn là hạn chế của nhiều đô thị khác. Xây dựng nguồn thu là một phạm trù mới trong quản lý thu ngân sách Nhà nước. Cho nên vấn đề xây dựng và nuôi dưỡng nguồn thu chưa được các cấp chính quyền Thành phố quan tâm. Nguồn thu ngân sách chủ yếu là nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác. Các cán bộ quản lý chưa nhận thấy được tầm quan trọng khi tạo nên các nguồn thu mới trên địa bàn Thành phố. Ví dụ như thất thu từ việc không áp dụng thu thuế xây dựng nhà ở mà chỉ thu lệ phí cấp giấy phép xây dựng. Mà vô tình làm mất hàng chục tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước.
Các nguồn thu thường xuyên hàng năm không thể thay đổi được mà chính quyền các cấp thực hiện công tác thu tốt hơn, ngày một có hiệu quả hơn. Chính quyền thực hiện còn nhiều khó khăn như phụ thuộc vào quyết định của lãnh đạo tỉnh, theo đúng pháp luật hiện hành. Có một ví dụ về việc tạo thêm nguồn thu ngân sách của thành phố trong năm 2003-2004: Xã Quảng Thành năm 2003 lập quy hoạch một khu dân cư 50 lô đất, xã tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng đền bù giải phóng mặt bằng trước khi đấu giá đất. Năm 2004 thành phố thực hiện việc đấu giá đất, mỗi lô có giá trị gần 200 triệu đồng. Như vậy tổng thu là 50 tỷ đồng nếu được thực hiện thành công. Tài chính thành phố quy định số tiền này nộp vào Kho bạc Nhà nước để thu vào ngân sách thành phố 100% và yêu cầu xã giải trình để xin lại các chi phí đã bỏ ra. Quá trình giải quyết kéo dài nên quyền lợi của xã không được đảm bảo. Xã dừng việc thực hiện khu dân cư thứ hai lại. Xã Quảng Hưng bên cạnh biết như thế cũng dừng hạ tầng khu dân cư của mình lại. Như vậy nguồn thu kia đã vô tình bị mất do không thực hiện được dự án. Việc làm ấu trĩ về hạch toán và phân chi quyền lợi, chi phí về đất sử dụng nguyên thuỷ, quyền lợi về đất xã được bao nhiêu phần trăm. Bởi vậy việc làm của chính quyền thành phố vừa làm mất tiền vừa làm mất lòng tin của nhân dân của chính quyền thành phố.
2.2.2 Thực trạng thực hiện thu ngân sách
Năm 2001 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14 nhiệm kỳ 2001-2005. Là năm tạo tiền đề cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Trong năm qua UBND thành phố đã tích cực chỉ đạo công tác thu trên địa bàn và đạt được những kết quả khả quan, cụ thể:
Đơn vị: 1000đ
STT
Chỉ tiêu thu
Dự toán tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/ dự toán
1
Thuế CTN ngoài quốc doanh
1.7300.000
1.7546.000
101
2
Thuế nông nghiệp
1.050.000
501.000
47
3
Thuế trước bạ nhà đất
750.000
2.741.900
365
4
Thuế nhà đất
1.800.000
2.001.700
111
5
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
2.000.000
3.742.800
187
6
Tiền sử dụng đất
8.000.000
8.524.400
106
7
Tiền thuê đất
100.000
102.100
102
8
Phí, lệ phí
900.000
1.105.800
123
9
Thu khác ngân sách
600.000
314.300
52
10
Thu đóng góp
5.241.500
11
Thu sự nghiệp
245.700
12
Các khoản phụ thu
300.000
13
Trợ cấp ngân sách
9.547.500
14
Tổng
32.500.000
51.644.700
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2001) Tổng thu ngân sách năm 2001 đạt 51.644.700 (1000đ) bằng 113 % so với cùng kỳ. Các khoản thu thành phố thực hiện đều đạt và vượt chỉ tiêu là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trong đó thuế trước bạ nhà đất là cao nhất 365%. Chỉ có thuế nông nghiệp không đạt dự toán tỉnh giao(47%). Nguyên nhân là do thành phố có chính sách giảm, miễn thuế nông nghiệp cho các hộ nông dân có hoàn cảnh khó khăn và hiện tại tỷ trọng lao động trong nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần (4%). Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đó còn tồn tại nhiều khó khăn: Thành phố có khoảng 3.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 167 doanh nghiệp tư nhân nhưng vẫn còn tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế, quản lý các nguồn thu để xác định doanh thu thuế ở một số mặt hàng không đúng gây thất thu cho ngân sách. Nguồn thu từ đất thấp, một phần là do thành phố chưa duyệt quy hoạch chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường Đông Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng Hưng.
Tại kỳ họp thứ 8 Hội Đồng Nhân Dân Thành phố khoá 18 đã có nghị quyết phấn đấu thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2002, thành phố đã tổ chức thực hiện thu ngân sách đạt được những kết quả sau:
Đơn vị: 1000đ
STT
Chỉ tiêu thu
Dự toán tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/ dự toán
1
Thuế CTN ngoài quốc doanh
19.800.000
20.331.800
103
2
Thuế nông nghiệp
400.000
628.600
157
3
Thuế trước bạ nhà đất
2.800.000
2.961.200
106
4
Thuế nhà đất
1.750.000
1.900.600
108
5
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
3.700.000
2.702.600
73
6
Tiền sử dụng đất
13.000.000
16.251.800
125
7
Tiền thuê đất
36.000
105.000
291
8
Phí, lệ phí
1.400.000
1.033.700
74
9
Thu khác ngân sách
735.000
515.100
70
10
Thu đóng góp
3.375.700
11
Thu sự nghiệp
330.000
12
Các khoản phụ thu
0
13
Trợ cấp ngân sách
5.200.500
14
Tổng
43.621.000
55.336.900
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002) Tổng thu ngân sách đạt 55.336.900(1000đ) bằng 107% so với cùng kỳ. Như vậy nguồn thu năm 2002 đạt chỉ tiêu dự toán tỉnh giao nhưng tổng thu tăng không đáng kể (7%). Các chủ tiêu thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đều đạt chỉ tiêu. Nguyên nhân là do thành phố duyệt quy hoạch chi tiết các khu chung cư và quy hoạch phát trển thành phố đến năm 2010. Chi cục thuế kết hợp tốt với các ban ngành liên quan như chi cục quản lý thị trường, phòng tài chính thực hiện thu và xử phạt hành chính đối với các đối tượng trốn thuế,gian lậu thuế, kinh doanh, buôn bán trên các phường trung tâm. Các ngành chức năng ở cấp phường xã đã rà soát hầu hết các đối tượng phải nộp thuế, đưa vào sổ bộ quản lý, đã bước đầu điều chỉnh doanh thu tính thuế sát và đúng. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng đọng thuế xác định doanh thu các hộ kinh doanh vẫn còn sai sót, còn thất thu ở các lĩnh vực kinh doanh anư uống buổi sáng, tối, hộ kinh doanh vận tải, hoạt động buôn chuyến, xây dựng cơ bản tư nhân…
Thuế chuyển quyền sử dụng đất, phí, lệ phí, thu khác ngân sách không đạt dự toán ngân sách là do các cấp các ngành liên quan chưa phối kết hợp thường xuyên và có hiệu lực trong việc nắm bắt quản lý và thu thuế đối với các hộ mua bán nhà ở trên địa bàn. Công tác thu phí gặp nhiều khó khăn do, mức thu của nhà nước quy định giảm. Mặt khác trong thời gian qua tỉnh có chính sách cho các đơn vị kinh doanh nhà đất được nộp chậm tiền cấp quyền sử dụng đất một số dự án lớn như khu công nghiệp Tây Bắc ga, khu Bệnh viện Hợp Lực.
Nguồn thu ngân sách năm 2003 đạt kết quả như sau:
Đơn vị: 1000đ
Số thứ tự
Chỉ tiêu thu
Dự toán tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/ dự toán
1
Thuế CTN ngoài quốc doanh
25.700.000
25.650.000
100
2
Thuế nông nghiệp
20.000
52.100
13
3
Thuế trước bạ nhà đất
3.000.000
5.077.200
149
4
Thuế nhà đất
1.900.000
2.243.500
112
5
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
3.500.000
6.140.200
157
6
Tiền sử dụng đất
25.000.000
83.483.000
334
7
Tiền thuê đất
70.000
516.800
345
8
Phí, lệ phí
1.000.000
1.857.200
169
9
Thu khác ngân sách
500.000
453.000
91
10
Thu đóng góp
2.364.000
11
Thu sự nghiệp
620.300
12
Các khoản phụ thu
0
13
Trợ cấp ngân sách
726.600
14
Tổng
60.690.000
129.183.900
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003)
Tổng thu ngân sách đạt 129.183.900 bằng 233,5% (tăng 126,5%) so với cùng kỳ. So với năm 2002 thì năm 2003 tổng thu ngân sách có sự tăng trưởng vượt bậc. Tại sao lại đạt được kết quả cao như vậy? Nhìn vào bảng ta thấy năm nay do có sự tăng trưởng vượt bậc của tiền sử dụng đất là 83.483 triệu đồng đạt 334% thành phố thục hiện/ dự toán tỉnh giao. Tăng 513,7% so với cùng kỳ. Tiền sử dụng đất cao như vậy là do thành phố thực hiện quy hoạch chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường Đông Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng Hưng. Thu tiền đơn vị kinh doanh nhà đất dự án lớn như khu công nghiệp Tây Bắc ga, khu Bệnh viện Hợp Lực. Người dân mua nhiều đất để xây dựng nên đẩy giá đất lên cao. Tuy nhiên đây là sự tăng tưởng tạm thời không bền vững vì giá đất tăng cao rồi thì sẽ dừng lại và giảm xuống. Tồn tại trong công tác thu thuế là chưa quản lý hết các đối tượng sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn, doanh thu tính thuế phần lớn chưa được xác định sát đúng thực tế, công tác quản lý hộ nộp thuế kê khai chưa có chuyển biến so với năm 2002. Việc ghi chép trên sổ sách kế toán đối với nhiều hộ kinh doanh chỉ là hình thức đối phó với cơ quan thuế. Thu chưa được gọn bộ thuế, tình trạng dây dưa nợ đọng thuế vẫn còn tồn tại. Tình trạng bán hàng không xuất đủ hoá đơn, ghi không đúng giá bán trên hoá đơn, kê khai không đủ doanh thu thực tế tuy có giảm nhưng vẫn chưa được ngăn chặn, do vậy thuế GTGT còn thất thu.
Nguồn thu thành phố thực hiện năm 2004 như sau:
Đơn vị: 1000đ
Số thứ tự
Chỉ tiêu thu
Dự toán tỉnh giao
Thành
phố
thực hiện
%
thực hiện/ dự toán
1
Thuế CTN ngoài quốc doanh
34.400.000
39.500.000
126
2
Thuế nông nghiệp
40.000
33.900
85
3
Thuế trước bạ nhà đất
4.850.000
4.293.000
89
4
Thuế nhà đất
2.100.000
2.669.000
127
5
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
5.600.000
9.828.000
175
6
Tiền sử dụng đất
85.000.000
67.367.000
79
7
Tiền thuê đất
40.000
3.720.000
9.300
8
Phí, lệ phí
1.050.000
2.178.000
207
9
Thu khác ngân sách
530.000
995.100
95
10
Thu đóng góp
1.335.600
11
Thu sự nghiệp
400.000
12
Các khoản phụ thu
0
13
Trợ cấp ngân sách
30384000
14
Tổng
130.610.000
162.704.200
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004) Thu ngân sách Nhà nước năm 2004 thực hiện đạt dự toán tỉnh giao. Các chỉ tiêu thu vượt dự toán tỉnh giao là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, phí, lệ phí. Trong đó tiền thuê đất vượt dự toán (9.300%) cao nhất trong các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu thu không đạt dự toán là thuế nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, tiền sử dụng đất, thu khác ngân sách. Công tác thu thuế còn nhiều tồn tại, thu hộ cá thể trực tiếp năm 2004 vẫn chưa quản lý hết diện hộ có sản xuất kinh doanh, số hộ nộp thuế theo kê khai nhưng vẫn phải thực hiện biện pháp ấn định thuế hàng tháng, vẫn còn hộ dây dưa, nợ đọng thuế
Nguyên nhân là do năm nay từ thành phố đến các địa phương tập trung cho công tác bầu cử HĐND các cấp và kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập và phát triển thành phố nên một phần cũng ảnh hưởng đến việc tập trung thường xuyên cho công tác thu ngân sách Nhà nước. Trong năm qua do chủ trương về quy hoạh đất ở tại các mặt bằng và khu đô thị đầu năm có dự kiến sau đó lại có sự thay đổi nên nguồn đất đấu giá bị giảm, mặt khác giá đất bị chững lại do nhu cầu mua đất ở các tổ chức và nhân dân bị giảm đáng kể nên các mặt bằng đấu giá không hấp dẫn.
Đánh giá chung: Trong những năm tình hình thu ngân sách của thành phố đạt nhiều kết quả khả quan. Tổng thu ngân sách luôn tăng qua các năm, những kết qủa đạt được một phần là do các cấp các ngành kết hợp tăng cường công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ công tác thu trên địa bàn. Kết quả đạt được góp phần phát triển, ổn định tình hình kinh tế- xã hội trên địa bàn thành phố. Thành phố đang trong giai đoạn phát triển, năm 2004 thành phố kỷ niệm 10 năm thành lập, 200 đô thị tỉnh lỵ, thành phố trở thành đô thị loại II. Đó là động lực phấn đấu rất lớn của các cấp các ngành và nhân dân trong tỉnh nói chung và thành phố nói riêng quyết tâm đạt những kế hoạch, nhiệm vụ trong năm 2005 và trong giai đoạn phát triển kinh tế 5 năm 2006-2010.
Đơn vị:Triệu đồng
Thời gian
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng thu ngân sách
48.603,7
51.644,7
55.337,9
129.183,9
162.704,2
Qua bản đồ ta thấy tổng thu ngân sách năm 2000-2002 tăng đều nhưng tốc độ tăng chậm. Năm 2003 có sự tăng lên đột biến trong 5 năm qua, so với năm 2002 tăng 73.847.000 (1000đ). Năm 2004 tổng thu ngân sách tăng lên nhưng riêng trợ cấp ngân sách là 30.384.000 (1000đ) nên tổng thu năm 2004 so với cùng kỳ tăng không đáng kể.
Đánh giá về thu CTN ngoài quốc doanh.
Trong những năm qua thu thuế CTN ngoài quốc doanh đã có những biến chuyển tốt, kết quả đạt được cụ thể như sau:
Đơn vị: Triệu đồng
Thời gian
2000
2001
2002
2003
2004
Thu CTN ngoài quốc doanh
16.465
17.546
20.331
25.650
39.500
Từ năm 2000 đến 2003 nguồn thuế CTN ngoài quốc doanh tăng lên đều đặn, tăng 56%. Năm 2004 đạt 39.500 triệu tăng 54% so với cùng kỳ.
Trên địa bàn thành phố năm 2001 có khoảng 3.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 167 doanh nghiệp tư nhân đến năm 2004 thì thành phố có khoảng 5.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 300 doanh nghiệp tư nhân. Như vậy số lượng tăng lên không đáng kể, các doanh nghiệp có số vốn ít hoạt động trong thị trường nhỏ có tính cạnh tranh không cao. Công tác thu các doanh nghiệp tuy có thuận lợi hơn nhưng vẫn chưa quản lý hết diện hộ có sản xuất kinh doanh, số hộ nộp thuế theo kê khai nhưng vẫn phải thực hiện biện pháp ấn định thuế hàng tháng, vẫn còn hộ dây dưa, nợ đọng thuế. Chưa khắc phục được tình trạng bán hàng không ghi đúng giá, hoặc bán lẻ không xuất hoá đơn. Một số đơn vị còn để ngoài sổ sách kế toán những khoản thu nộp như: Hỗ trợ cước vận tải, hỗ trợ bán hàng và một số thu nhập khác.
Đánh giá về nguồn thu từ đất:
Đất là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia nói chung và của đô thị nói riêng. Là tài sản mang lại giá trị kinh tế lớn, vì thế mà ông cha ta đã nói “ Tấc đất tấc vàng” nên chúng ta phải biết quý trọng giữ gìn nó. Đất đô thị là một tư liệu sản xuất đặc biệt, sự đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ: Diện tích đất thì có giới hạn, đất không di chuyển được, không thuần nhất về chức năng, vị trí, không bị hao mòn. Đất thuộc sở hữu nhà nước nhưng vẫn được người sử dụng mua bán trao đổi, chuyển nhượng và đó là một hàng hoá đặc biệt. Vì có diện tích có hạn nên mức độ khan hiếm của hàng hoá này rất cao. Nên thành phố đã duyệt quy hoạch sử dụng đất năm 2003 trên khu vực 12 phường và 6 xã đến năm 2010 với tổng diện tích 58,58 km2. Phát triển thành phố theo hướng chính là Đông Nam quy hoạch các xã Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng và Quảng Thắng. Đây là những quỹ đất có tiềm năng rất lớn cho sự phát tiển các khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại nối liền với thị xã Sầm Sơn.
Đơn vị: triệu đồng
Thời gian
2000
2001
2002
2003
2004
Thu từ đất
14.879
17.613,9
24.550
97.512,8
87.910,9
Nguồn thu từ đất qua các năm liên tục tăng và tăng cao nhất là năm 2003. Năm 2003 nguồn thu từ đất đạt 97.512,8 triệu đồng chiếm tỷ trọng 75,5% tổng thu ngân sách. Trong đó riêng tiền sử dụng đất thành phố thu đạt 83.483 triệu đồng chiếm 85,6% tổng nguồn thu từ đất.
Những tồn tại: Nhìn vào đồ thị ta thấy sự bất hợp lý trong tổng thu từ đất trong các năm cụ thể, từ năm 2000 đến năm 2002 nguồn thu tăng rất chậm, nhưng đến năm 2003, 2004 tăng với tốc độ cao. Công tác thu thuế tiền sử dụng đất, tiền thuê đất…của các đội thuế chưa thực sự bám sát nhiệm vụ được giao, chưa chủ động tổ chức thực hiện những biện pháp, công tác cụ thể.
Thành phố áp dụng việc bán đấu giá chậm, các mặt bằng đấu giá không hấp dẫn, giá cứng nhắc cho từng lô đất nên chưa mang lại hiệu quả cao. Chưa hình thành thị trường nhà đất nên dẫn đến nạn đầu cơ đất đẩy giá đất của thành phố lên cao.
Trên địa bàn có một số khu đất của một số cơ quan doanh nghiệp được nhà nước giao đất từ lâu, nay do làm ăn thua lỗ nên bị giải thể hoặc thanh lý. Do sử dụng đất không đúng mục đích, vi phạm quy hoạch xây dựng và luật đất đai nghiêm trọng. Cần xử lý thu hồi và chuyển mục đích sử dụng. Nhà nước quản lý đấu giá chuyển sang đất ở hoặc đấu giá cho thuê kinh doanh.
Số lượng ước 20 x 5.000 m2 = 100.000 m2
Đất ở : 3 triệu/m2 x (30% x 100.000)m2 = 90.000 triệu (90 tỷđồng )
Thuê đất 60.000đ/m2/năm x (50% x 100.000)m2 = 3.000 triệu ( 3tỷ/năm)
Chi phí cho công tác thanh tra kiểm tra, quy hoạch xây dựng lập lại quy hoạch xử dụng đất, chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, chi phí khác. Tổng chi phí ước tính 15 tỷ đồng. Vậy ước thu được 78 tỷ đồng đóng góp vào ngân sách. Hàng năm thu thuế là
30.000m2 x 5.000đồng/m2/năm = 150 triệu đây cũng là nguồn nuôi dưỡng nguồn thu.
Đánh giá nguồn thu từ phí, lệ phí.
Đơn vị: triệu đồng
Thời gian
2000
2001
2002
2003
2004
Phí ,lệ phí
1.005,1
1.105,8
1.033,7
1.857,2
2.178
Nguồn thu từ phí, lệ phí qua các năm tăng nhưng tăng chặm với quy mô nhỏ. Cao nhất là năm 2004 2.178 triệu đồng chiếm tỷ trọng 1,34% trong tổng thu ngân sách.Nguồn thu từ phí, lệ phí chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu ngân sách. Công tác thu phí lại mất nhiều thời gian và chi phí nên nguồn thu này trên địa bàn thành phố không được chính quyền quan tâm.
Đánh giá về nguồn thu khác ngân sách
Nguồn thu khác ngân sách của thành phố chủ yếu là từ chênh lệch giá đất do thành phố quy hoạch các khu chung cư, khu công nghiệp nên có sự chênh lệch giữa đất các khu vực với nhau. Nguồn thu từ quỹ phát triển nhà ở hiện tại chưa có, nguồn thu từ trong nhân dân vẫn chưa được quan tâm. Các nguồn thu khác như thu đóng góp, thu sự nghiệp, các khoản phụ thu hay trợ cấp ngân sách là những nguồn thu thường xuyên, ổn định hàng năm.
Nguồn vốn từ nước ngoài:
Nguồn vốn nước ngoài đầu tư (viện trợ không hoàn lại) vào thành phố từ năm 1998-2008 với các dự án sau:
- Dự án ADB- cấp nước với tổng mức đầu tư 200 tỷ đồng
- Dự án ADB Pháp- điện lực với tổng mức đầu tư 200 tỷ đồng
- Dự án ADB cải thiện môi trường 300 tỷ đồng
Tổng số 700 tỷ đồng được giải ngân trong 10 năm, như vậy mỗi năm 70 tỷ đồng.
III. Những nguyên nhân tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được còn những tồn tại trong công tác xây dựng và công tác thu đúng thu đủ tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước của thành phố Thanh hóa. Những tồn tại trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau Về nguyên nhân chủ quan:
Các đội thu thuế chưa thực sự bám sát nhiệm vụ được giao, chưa chủ động tổ chức thực hiện những biện pháp, công tác để khai thác nguồn thu, quản lý chặt chẽ đối tượng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Sự phối kết hợp giữa các tổ trong đội trong quá trình thực hiện quy trình có nơi thiếu chặt chẽ.
Trình độ nghiệp vụ chuyên môn, năng lực công tác của một số cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu công tác quản lý trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc tuyên truyền, hướng dẫn chính sách thuế.
Còn biểu hiện ngại khó khăn, ngại va chạm, chưa thực sự cố gắng tích cực để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Cá biệt còn có cán bộ thiếu rèn luyện tu dưỡng vi phạm kỷ luật, vi phạm chế độ thu nộp tiền thuế.
Công tác phối hợp tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp các ngành có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, liên tục.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật sau 10 năm phát triển chưa hoàn chỉnh, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn thu ngân sách cho phát triển thành phố nhỏ.
Nguồn thu của các đô thị nói chung thuộc phạm trù kinh tế nhưng lại được quản lý kiểu hành chính nên làm mất tính năng động của các cấp quản lý, làm chậm tốc độ đô thị hoá. Cơ chế cấp vốn và kinh phí còn mang nặng tính bao cấp. Quá coi trọng chế độ cấp vốn từ ngân sách Nhà nước, coi nhẹ khả năng tự hoạt động và cung cấp các dịch vụ đô thị. Thành phố Thanh hoá cũng thuộc một trong những đô thị như vậy.
Ngoài ra ngoài ngân sách ra thì nguồn tài chính từ trong khu vực dân cư, của khu vự nước ngoài gần như bị thả nổi, chưa được quan tâm đúng mức. Đây là tình trạng chung của các đô thị.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TĂNG NGUỒN THU NGÂN SÁCH CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ THANH HÓA TRONG GIAI ĐỌAN 2005 - 2010
I. Nhiệm vụ của Thành phố trong thời gian tới
Năm 2005 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 17 nhiệm kỳ 2001-2005, là năm có nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, kỷ niệm 60 năm ngày độc lập, 30 năm ngày đất nước hoàn toàn giải phóng… Một năm có vai trò quyết định trong việc hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005 và tạo tiền đề cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010.
Thực hiện nghị quyết của Hội Đồng Nhân Dân Thành phố khoá XIX kỳ họp thứ 3 tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt: 210.961 triệu đồng. Trong đó cục thuế thu 21.961 triệu đồng, thành phố thu 189.000 triệu đồng. Để thực hiện tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố thống nhất các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Các đơn vị phải thực hiện tốt luật ngân sách Nhà nước và các thông tư, văn bản hướng dẫn kèm theo.
Thực hiện phối hợp thường xuyên chặt chẽ với chi cục thuế và UBND các phường, xã để rà soát các khoản thu theo phân cấp cục thuế thu.
Cấp uỷ, chính quyền thành phố chỉ đạo chi cục thuế phối kết hợp với các phòng, ban ngành thành phố, cấp uỷ chính quyền phường, xã có các biện pháp cụ thể đối với tăng nguồn thu trên địa bàn để tiến hành thực hiện theo luật định.
Nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục tăng cường kiểm tra giám sát công tác thu thuế trên địa bàn 12 phường nội thành và 6 xã ngoại thành.
II. §ịnh hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thành phố thanh hoá đến năm 2010.
1. Quan điểm phát triển
Tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển bền vững, đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, quan tâm phát triển các lĩnh vực xã hội, đảm bảo sự hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, hướng vào việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Xây dựng thành phố thanh hoá trở thành đô thị văn minh, hiện đại có vị trí trung tâm của tỉnh thanh hoá về kinh tế- xã hội. Đồng thời có sự ảnh hưởng, tác động qua lại với các tỉnh Bắc Trung Bộ, với địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và với cả nước.
Phát huy nội lực kết hợp với đầu tư nước ngoài tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng CNH-HĐN, lấy khoa học công nghệ làm nền tảng. Tập trung phát triển công nghiệp và dịch vụ hướng vào xuất khẩu. Phát tiển cong nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, cơ khí , điện và điện tử.
Gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, nâng cao mức sống và trình độ dân trí cho nhân dân. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- Xã hội toàn diện 6 xã nông nghiệp, nhằm giảm bớt sự chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư.
Phát triển tổng hợp sức mạnh của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò then chốt ở một số ngành như điện, bưu điện…Đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nội lực vững mạnh và môi trường thuận lợi thông thoáng, đẩy nhanh thu hút vốn đầu tư và công nghệ mới từ bên ngoài.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức hiện có, nhằm tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Phát triển đô thị, đặc biệt là cơ sở hạ tầng theo quy hoạch. Phát triển kinh tế- xã hội, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Mục tiêu và các phương án tăng trưởng kinh tế.
Để đầu tư phát triển kinh tế, thành phố thanh hoá có thể lựa chọn trong các phương án tăng trưởng sau:
Phương án 1(cao): Phấn đấu đạt mục tiêu mà Đại Hội đảng thành phố thanh hóa đề ra: tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1997-2000 khoảng 18%/ năm; giai đoạn 2001-2005 là 16%/ năm; và giai đoạn 2006-2010 đạt 15,5%/ năm. Thu nhập bình quân trên đầu người năm 2000 là 615 USD, năm 2005 là 1.222 USD và năm 2010 sẽ đạt 2.381 USD. Với tốc độ tăng trưởng này, thành phố nhanh chóng sẽ trở thành trung tâm kinh tế- xã hội của vùng. Để đạt được phương án này, tổng vốn đầu tư cho cả giai đoạn 1997-2010 yêu cầu tới 1.484 USD.
Số vốn đầu tư này rất lớn, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực về mọi mặt của thành phố cần thiết phải có một môi trường khách quan thuận lợi và sự giúp đỡ to lớn từ bên ngoài.
Phương án 2 (trung bình): Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1997-2000 sẽ đạt 14%/ năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng hiện nay, giúp cho thu nhập bình quân đầu người năm 2000 sẽ là 523 USD; giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ 12,5%, thu nhập bình quân trên đầu người năm 2005 sẽ là 913 USD (bằng 1,7 lần so với năm 2000). Giai đoạn 2006-2010, kinh tế tăng trưởng ở mức 11,5% và thu nhập năm 2010 sẽ là 1.492 USD. Nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn 1997-2000 là 138 triệu USD; giai đoạn 2001-2005 là 288 triệu USD; và giai đoạn 2006-2010 khoảng 432 triệu USD.
Đây là mức tăng trưởng tương đối cao và yêu cầu lượng vốn đầu tư lớn, thành phố sẽ đáp ứng được yêu cầu này với sự nỗ lực của toàn dân thành phố cộng với sự thuận lợi của môi trường khách quan xung quanh.
Phương án 3 (thấp): Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1997-2000 sẽ đạt 10,5%/ năm, giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ 10%; giai đoạn 2006-2010 đạt 9,5%/ năm. GDP/người năm 2000 sẽ đạt 474 USD, và năm 2010 sẽ đạt 1.080 USD (bằng 2,3 lần so với năm 2000). Mặc dù mức tăng trưởng của thành phố đều cao hơn mức tăng trưởng của cả nước và của tỉnh Thanh Hoá(ước tính), nhưng điều này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thành phố. Mức vốn đầu tư cho cả giai đoạn 1997-2010 là 560 triệu USD.
Tổng hợp các phương án phát triển
Chỉ tiêu
Đơn vị
Ph¬ng ¸n t¨ng trëng
P.¸n 1
P.¸n 2
P.¸n 3
1.Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn 1997-2000
2001-2005
2006-2010
%
%
%
18,0
16,0
15,5
14,0
12,5
11,5
10,5
10,0
9,5
2.Thu nhập bình quân/ người
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
USD
USD
USD
615
1.222
2.381
536
913
1.492
474
723
1.080
3.Tổng vốn đầu tư
Giai đoạn 1991-2000
2001-2010
2006-2010
USD
USD
USD
1.484
188
453
843
858
138
288
432
561
98
193
270
4. Vốn tự có
%
90
55
30
Từ việc phân tích các phương án tăng trưởng trên, thành phố có thể lấy phương án 2 làm phương án tăng trưởng lựa chọn. Đây là phương án không những chủ động chú ý phát huy nội lực mà kết hợp cả việc gọi vốn đầu tư nước ngoài. Phương án 1 yêu cầu một lượng vốn quá lớn, chủ yếu từ bên ngoài, nên có thể xem là phương án phấn đấu trong điều kiện cho phép.
3. Lựa chọn cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế thành phố được lựa chọn trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế sẵn có của địa phương vèe vị trí địa lý, các tài nguyên sẵn có,… đồng thời khắc phục sự hạn hẹp về quỹ đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế thành phố vẫn phải đảm bảo nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường theo hướng CNH-HĐH. Việc đảm bảo đời sống, giải quyết việc làm và nâng cao tích luỹ cho thành phố cũng được đặt ra cho việc lựa chọn cơ cấu kinh tế.
Xuất phát từ yếu tố đó, từ nay đến năm 2010, thành phố tập trung vào việc phát triển mạnh ngành công nghiệp, đồng thời duy trì sự tăng trưởng của các ngành dịch vụ, Do đó, cơ cấu kinh tế của thành phố là Công nghiệp- Dịch vụ- Nông lâm ngư nghiệp.
Dự kiến đến năm 2010 (theo phương án chọn), tỷ trọng của ngành Công nghiệp sẽ tăng từ 29,44%(năm 1996) lên 44,2%; tương ứng các ngành dịch vụ sẽ giảm từ 61,68% xuống còn 51,63% và Nông nghiệp giảm từ 8,89% xuống còn 4,18%. Cơ cấu này cũng được xây dựng trên cơ sở định hướng của Đại hội đảng bộ thành phố: Đến năm 2010, Công nghiệp: 45%, dịch vụ: 50%, nông nghiệp: 5% và năm 2020 tỷ lệ này là 50% - 45% - 5%.
III. Một số giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách của thành phố trong giai đoạn 2006-2010.
Quan điểm phát triển thành phố đến năm 2010 là xây dựng Thành phố Thanh hoá trở nên thành đô thị văn minh, hiện đại, có vị trí trung tâm của tỉnh Thanh hoá về kinh tế- xã hội. Đồng thời có sự ảnh hưởng, tác động qua lại với các tỉnh Bắc Trung bộ, với địa bàn kinh tế Bắc Bộ với cả nước. Tăng trưởng kinh tế 11,5 % và thu nhập năm 2010 là 1.492 USD. Nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn này là khoảng 432 triệu USD. Đây là mức tăng trưởng cao và yêu cầu lượng vốn đầu tư lớn, thành phố sẽ đáp ứng được yêu cầu này với nỗ lực của toàn dân thành phố cộng với những thuận lợi của môi trường khách quan xung quanh. Dự kiến vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế đạt khoảng 25% vào năm 2010. Huy động tối đa vốn tự có trong dân sẽ đáp ứng được khoảng 30%. Như vậy thành phố sẽ phải đáp ứng khoảng 55% số vốn đầu tư. Phần thiếu sẽ phải vay và gọi vốn Đầu tư Nhà nước.
Vì vậy thành phố phải có những giải pháp dài hạn để đáp ứng 55% số vốn đầu tư. Cần đảm bảo tăng nguồn thu ngân sách để sao cho trong chi ngân sách dành cho Xây dựng cơ bản là 30%, khuyến khích nguồn vốn tư nhân vào cơ sở hạ tầng ở các xã ngoại thành. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu:
3.2.1 Giải pháp xây dựng nguồn thu ngân sách
Ngoài những chỉ tiêu thu cố định trong thu ngân sách Nhà nước. Các cấp chính quyền Thành phố phải tích cực tìm ra những nguồn thu mới để tiếp tục tăng nguồn thu ngân sách.
Thành phố nên thành lập quỹ phát triển nhà ở cho những người lao động, thu tiền thuế xây dựng nhà ở vì mới chỉ đánh thuế đất còn chưa đánh thuế xây dựng nhà mà chỉ thu lệ phí cấp phép xây dựng. Làm thất thoát nguồn thu ngân sách hàng năm hàng chục tỷ đồng.
Chính quyền Thành Phố nên khuyến khích các tổ chức, các nhân đầu tư vào phát triển các dịch vụ công cộng như trường học tư, bệnh viện tư…theo nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền. Bởi vì các dịch vụ của chính quyền Thành Phố có tính xã hội không đặt vấn đề lợi nhuận lên hàng đầu mà chỉ phục vụ cho mọi người dân.
Ban hành cơ chế chính sách tạo nguồn thu cho phát triển thành phố trong một thời gian dài bởi vì. Đối với các dự án hạ tầng đô thị thì cần nguồn tài trợ rất lớn. Điều này đòi hỏi phải có cải cách trong việc định giá dịch vụ và cấu trúc thuế của thành phố vì không phải dịch vụ nào cũng có thể áp dụng việc đánh thuế người sử dụng. Vì vậy thành phố có thể áp dụng các biện pháp hành chính, tài chính và pháp luật cần phải được thực hiện cùng với quá trình tài trợ phát triển thành phố. Tuy nhiên rất khó tìm ra các nguồn tài trợ cho quá trình phát triển thành phố với các khoản đầu tư hạ tầng kỹ thuật như khu công nghiệp Lễ Môn, khu công nghiệp Tây Bắc ga, Khu chung cư Đông Bắc ga, khu chung cư Cầu Hạc…Vì thời gian thu hồi vốn chậm, nguồn vốn ODA, FDI, chủ yếu đầu tư vào các dự án phát triển nông thôn, miền núi. Do vậy thành phố phải có chính sách thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài trợ từ các nước phát triển, các nguồn tài trợ từ WB, IM, ADB...
Chính quyền Thành phố có thể đầu tư một khoản tiền để thu hút vốn đầu tư vào các dự án phát triển các khu vui chơi giải trí, công viên của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
Vấn đề thứ hai là nuôi dưỡng nguồn thu: Khi xây dựng được những nguồn thu mới thì Thành phố phải nuôi dưỡng các nguồn thu đó như thế nào? Đó là một câu hỏi mà chính quyền Thành phố đang tìm câu trả lời. Việc áp dụng những công cụ kinh tế là một biện phát hữu hiệu của Thành phố. Tạo một hành lang pháp lý, các chính sách thông thoáng để thu hút các nguồn đầu tư trong nước và nước ngoài và các công trình phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất và kinh doanh (nhất là du lịch) bằng cách 3-5-10 năm đầu không thu thuế, kinh doanh. Chậm thu phí đất năm ân hạn thuê đất một số doanh nghiệp. Sẽ thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, tăng dự toán. sau đó ổn định ở mức cao thì mới thu thuế. Với chính sách như vậy sẽ thu hút lao động, tình hình an ninh chính trị ổn định. Như vậy chi ngân sách sẽ giảm, dẫn đến nguồn thu tăng.
3.2.2 Giải pháp về thu đúng và thu đủ
Những tồn tại chủ yếu của tăng nguồn thu ngân sách là vấn đề thu đúng và đủ. Thu theo luật thuế là thu đúng nhưng còn thu đủ thì thu bao nhiêu là đủ? Tổng thu của thành phố qua các năm luôn tăng và vượt dự toán tỉnh giao nhưng tăng đó còn có quy mô nhỏ, nguồn thu chủ yếu là từ đất. Thành phố đã đưa ra một số giải pháp sau:
1. Tăng cường kiểm tra – giám sát công tác thu thuế trên địa bàn Thành phố
- Về quản lý thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh
Thường xuyên kiểm tra, quản lý đối tượng sản xuất kinh doanh trên địa bàn để thu thuế môn bài, phân loại đưa vào thu thuế GTGT và TNDN. Hàng tháng quản lý chặt chẽ các hộ gia đình có đơn xin nghỉ kinh doanh, hộ thôi kinh doanh doanh nhưng lại chuyển tên khác để giảm mức thu thuế. Định kỳ tổ chức khảo sát điều tra doanh thu để xác định doanh thu sát thực tế. Tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ kinh doanh nộp thuế theo kê khai, thực hiện nghiêm túc sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ.
Rà soát phân loại từng cơ sở sản xuất kinh doanh, kiểm tra và quyết toán thuế, có biện pháp kiên quyết để ngăn chặn thất thu về doanh số đối với các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Tăng kiểm tra hoạt động xây dựng nhà tư nhân, xây dựng vãng lai, thu thuế trên khâu lưu thông, quản lý phương tiện vận tải…
- Các nguồn thu từ đất: chi cục thuế phối kết hợp với UBND các phường xã lập bộ thuế nhà đất và áp dụng mức giá đất Tỉnh mới triển khai. Kiểm tra diện hộ sở dụng đất trên địa bàn, tổ chức thu 2 kỳ trong một năm nhanh gọn, không để nợ đọng thuế. Thường xuyên liên tục phối hợp với các phòng ban liên quan và các phường xã để kiểm tra hoạt động mua bán nhà đất trên địa bàn, kịp thời thu thuế chuyển quyền sở dụng đất và lệ phí trước bạ nhà đất. Các phòng, ban , phường xã chủ động tham mưu cho UBND Thành phố có phương án quy hoạch đất ở, trình UBND tỉnh phê duyệt để nhanh chóng triển khai thực hiện đấu giá thu tiền sử dụng đất đạt kết quả cao.
- Các nguồn thu từ phí, lệ phí
Chi cục thuế phối hợp với các phòng, ban, UBND các phường, xã tổ chức quản lý thu phí, lệ phí thuộc thành phố quản lý.
Các phường xã lập phương án thu phí vỉa hè, lề đường, bến bãi đỗ xe, trên địa bàn thành phố để kịp thời triển khai thực hiện. Đây là nguồn thu mới, để thực hiện có hiệu quả cần phải có sự tham gia của nhiều đơn vị và phê duyệt của thành phố.
- Thu phí trước bạ ô tô, xe máy: đây là nguồn thu mới được phân cấp về cho thành phố, chi cục thuế phải tổ chức tố các khâu tiếp nhận hồ sơ, xác định giá để tính mức thu lệ phí trước bạ ô tô, xe máy chặt chẽ nhanh gọn, đảm bảo thuận tiện cho người nộp, phối kết hợp với các cơ quan để kiểm tra quản lý phương tiện, thực hiện chính sách miễn giảm và tổ chức thu theo quy định hiện hành.
- Các phường, xã rà soát, có phương án thu tích cực khoản thu sự nghiệp trên địa bàn.
2. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy chính quyền Thành phố
Kiện toàn bộ máy chính quyền từ Thành phố tới cơ sở theo hướng gọn nhẹ có hiệu quả phù hợp với chức năng của đô thị loại II. Nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật, xử lý nghiêm các cán bộ công chức vi phạm pháp luật Nhà nước như tham ô, hối lộ, lạm dụng chức quyền.
Triển khai thực hiện đồng bộ cải cách hành chính ở tất cả các cơ quan, đơn vị, các phường, xã tăng cường hiệu lực quản lý, điều hành bộ máy nhà nước từ Thành phố đến cơ sở. Thực hiện phân công phân cấp rõ ràng, trách nhiệm cho từng cơ quan, đơn vị, tăng cường phân cấp cho cơ sở phường, xã. Nhất là công tác thu thuế, phí và lệ phí. Chấn chỉnh lề lối tác phong làm việc, quan hệ, phối hợp công tác giữa phòng, ban ngành có liên quan. Tiếp tục thực hiện công tác đánh giá, luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại các cán bộ và làm tốt công tác điều động các cán bộ thu thuế, phí, lệ phí cán bộ quản lý đảm bảo công bằng khách quan.
Uỷ ban nhân dân các phường, xã nghiêm túc triển khai những chủ trương, nhiệm vụ của cấp trên giao cho, tránh đùn đẩy né tránh, dễ làm khó bỏ, các phòng, ban chức năng của thành phố tăng cường công tác hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra giám sát thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở.
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, thủ trưởng các phòng ban, chủ tịch các phường, xã cần tập trung bàn bạc xác định công việc trọng tâm, trọng điểm, cụ thể hoá những nhiệm vụ chủ trương giải pháp của thành phố để triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Quyết tâm chống lại những hiện tượng tiêu cực làm mất lòng dân ở một số cán bộ.
3. Mở rộng quyền thu cho thành phố
Ngoài những loại thuế đã quy định trong nguồn thu ngân sách thì Thành phố có thể nghiên cứu và ban hành các nguồn thu mới, như thuế tài sản đánh thuế thuê nhà của công ty nước ngoài, thuế thuê nhà của học sinh, sinh viên. Đối tượng là các công ty nước ngoài, người nước ngoài, học sinh, sinh viên từ các huyện, xã lên thành phố học. Trường Đại học Hồng Đức có gần 10.000 sinh viên học tập, sinh sống trên địa bàn phường Đông Sơn chủ yếu là từ các huyện lên Thành phố học. Đây là nguồn thu chưa được quản lý vì số lượng sinh viên thuê nhà không ổn định, và quản lý sinh viên rất khó khăn. Số lượng người nước ngoài trên địa bàn ít và hầu như không có. Thành phố nên thành lập quỹ phát triển nhà ở cho người lao động, tăng cường huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nhân dân, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước phát triển, tiếp tục nâng cao mối quan hệ với thành phố Chaville của Pháp.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua tình hình thu ngân sách Nhà nước của thành phố Thanh Hoá đạt được những kết quả rất khả quan. Tổng thu hàng năm tăng khá nhanh, đã và đang dần khắc phục được các tồn tại trong công tác thu trên địa bàn. Để phát triển kinh tế xã hội của thành phố thì cần một lượng vốn khá lớn, mà lượng vốn đó chủ yếu phát huy ở nội lực. Vì vậy giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn có tính chất quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của thành phố. Mục tiêu năm đến năm 2010 sẽ xây dựng thành phố Thanh Hoá là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế... của tỉnh Thanh Hoá.
Thành phố Thanh Hoá sau 10 năm thành lập và phát triển trên cơ sở là thị xã Thanh hoá có cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ. Nền kinh tế đang phát triển gặp nhiều khó khăn. Nguồn thu của Thành phố những năm qua tuy đạt nhiều kết quả khả quan nhưng vẫn còn đó những tồn tại, hạn chế. Nên nguồn thu còn có quy mô nhỏ với nhu cầu chi cho đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội. Sau thời gian thực tập ở phòng quản lý Đô thị TP Thanh Hoá tìm hiểu về chuyên đề tốt nghiệp này. Tôi hy vọng rằng các bạn có thể hiểu thêm điều nào đó về nguồn thu Đ« thị nói chung và của Thành Phố Thanh hoá noi riêng. Nhưng do năng lực hạn chế, trình độ lý luận và hiểu sâu vấn đề không cao nên bản thân tôi thấy mình thực hiện đề tài này không sâu sắc. Tôi rất mong sừ đóng góp của Thầy Th.S Lê Th¨ng Long và các bạn trong lớp để đề tài của tôi hoàn chỉnh.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lê Trung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Giáo trính quản lý đô thị. Khoa quản lý Môi trường & Đô thị - ĐHKTQD.
2 - Giáo trính kinh tế đô thị. Khoa quản lý Môi trường & Đô thị - ĐHKTQD.
3 - Bảo cáo tài chính 2001.
4 - Bảo cáo tài chính 2002.
5 - Bảo cáo tài chính 2003.
6 - Bảo cáo tài chính 2004.
7- Dự toán tài chính năm 2005.
8- Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế Thành phố Thanh Hoá đến năm 2010
9- Tập san Thành phố Thanh Hoá 10 năm thành lập và phát triển.
10- Báo cáo tổng kết cuối năm 2003- 2004 Chi cục thuế Thành Phố.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: Lý luận chung về nền tài chính đô thị.
3
I. Hệ thống tài chính quốc gia và nền tài chính đô thị.
3
II. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính.
9
III. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính
10
IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước
11
V. Nguồn thu từ nước ngoài
15
CHƯƠNG II: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của thành phố thanh hoá trong giai đoạn 2001-2005
16
I. Giới thiệu về Thành phố Thanh hoá
16
II.Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh hoá trong giai đoạn 2001- 2005
17
III. Những nguyên nhân tồn tại.
29
CHƯƠNG III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2005-2010.
31
I. nhiệm vụ của Thành phố trong thời gian tới
32
II. định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thành phố thanh hoá đến năm 2010.
34
III. Một số giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách của thành phố trong giai đoạn 2006-2010
35
KẾT LUẬN
41
Nhận xét nơi thực tập
Tài liệu tham khảo
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010.doc