LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình hội nhập, thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, kể cả đối với các nước đang phát triển cũng như đối với các nứoc phát triển. Với những lợi ích thu đựơc từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên nhận),FDI đã mở ra các cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững.FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của các nước tiếp nhận đầu tư.Thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo của nhiều quốc gia.
Nước ta đang trong giai đoạn CHN - HĐH nên việc đẩy nhanh thu hút đầu tư nước ngoài để bổ sung tổng vốn đầu tư phát triển là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng và là một trong những động lực cơ bản giúp nước ta đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Khai thác và sử dụng tốt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra hàng hóa để xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ và cân bằng cán cân thanh toán .
Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.Hà Nội đã và đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư để đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.Trong những năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được nhiều thành tựu quan trọng và có ý nghĩa, thực hiện được các mục tiêu thành phố đặt ra như bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, đóng góp vào ngân sách,chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH .Hà Nội đã trở thành địa phương đứng thứ hai trong cả nước về thu hút FDI tính từ năm 1989 đến nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động thu hút sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì vậy, để nhìn lại những thành quả đã đạt được và tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội”.
Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội và những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân của nó. Từ đó đưa ra một số giải pháp về phía nhà nước nói chung và một số giải pháp của Hà Nội dựa trên tình hình cụ thể của địa phương nhằm thu hút ngày càng có hiệu quả FDI.
Nội dung của đề tài có kết cấu gồm 2 chương :
Chương I : Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội.
Chương II : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU . 1
Chương I: Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội. 3
I: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào Hà Nội. 3
1.Điều kiện tự nhiên . 3
2.Điều kiện kinh tế xã hội: 4
II. Một số vấn đề lý luận về FDI . 7
1.Khái niệm 7
2. Đặc điểm. 7
3. Tính tât yếu thu hút FDI của một quốc gia 8
III. Tổng quan thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước . 9
1.Đánh giá tình hình ĐTNN tại việt nam những năm qua . 9
2. Xu thế Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây . 21
3 Triển vọng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới . 23
II. Thực trạng thu hút đàu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội 24
1.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội phân theo giai đoạn 24
2.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự án 29
3.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối tác. . 32
4.Tình hình thu hút FDI phân theo hình thức đầu tư . 36
5. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành . 38
III. Đánh giá tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội . 40
1. Thành công trong thu hút FDI . 41
1.1.FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển . 41
1.2. Góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện cơ cấu kinh tế 43
1.3. FDI tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng lao động 45
1.4.Tạo và tăng thu ngân sách cho thành phố 46
1.5.FDI góp phần chuyển giao và nâng cao năng lực công nghệ mới của nền kinh tế, góp phần tăng nhanh năng suất lao động . 47
1.6. FDI làm tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế 48
2. Những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 51
2.1. Những hạn chế 51
2.2.Nguyên nhân của những yếu kém trong thu hút FDI vào Hà Nội . 54
Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội . 58
I. Mục tiêu, nhu cầu, định hướng và các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài của xã hội Hà Nội thời gian tới . 58
1. Mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội thời gian tới 58
1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tới năm 2010 58
1. 2. Nhu cầu vốn đầu tư xã hội và vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2006-1010. 59
1. 3. Định hướng phát triển thành phố Hà Nội đến năm 2010 60
1. 4. Các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài : . 62
2. Quan điểm và định hướng thu hút FDI thời gian tới . 63
2.1. Quan điểm thu hút FDI 63
2.2. Định hướng thu hút FDI của Hà Nội trong thời gian tới 64
3. Những thuận lợi và khó khăn của Hà Nội trong quá trình thu hút FDI 65
3.1. Những yếu tố thuận lợi . 65
3.2. Những thách thức 67
II. Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội. . 70
1.Một số giải pháp về phía Nhà nước 70
1.1 Về pháp luật, chính sách: 70
1. 2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN: 71
1.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT: 72
1. 4. Giải pháp về lao động tiền lương . 73
1.5. Giải pháp về thuế 73
2.Giải pháp từ phía Hà Nội 74
2.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch . 75
2.2. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính 76
2.3 Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư . 77
2.4 Phát triển các dịch vụ tư vấn . 79
2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước 80
2.6. Nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố . 80
2.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực . 81
2.8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân 82
2.9. Các hỗ trợ khác 83
KẾT LUẬN 84
87 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất là xuất khẩu lao động (kể cả lao động qua đào tạo có chất lượng và trình độ cao). Phát triển các dịch vụ cho nông nghiệp và nông thôn (điện, nước, tài chính, văn hóa, y tế, giáo dục và tiêu thụ sản phẩm...) vừa mang tính hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.
Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế với phương thức đa dạng, có trọng tâm, trọng điểm; lựa chọn các đối tác chiến lược, đối tác lớn, đối tác tiềm năng trong quá trình hợp tác. Coi trọng việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch, các dự án và các cam kết hợp tác kinh tế và quản lý đô thị giữa Hà Nội với các thành phố lớn trong nước và quốc tế.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn phấn đấu tăng bình quân 13 - 15%/năm, trong đó xuất khẩu địa phương tăng bình quân 15 - 17%/năm. Phấn đấu thu hút vốn FDI được 2,5 - 3 tỷ USD và 0,7 - 1 tỷ USD vốn ODA trong giai đoạn 2006-2010.
Chỉ tiêu
2005
2010
Tổng diện tích
Trong đó
* Đất ở đô thị
* Đất chuyên dùng
920.97 km2
4.3%
28.2%
920.97 km2
6.4%
32.3%
Dân số
3.1 triệu người
3.6-3.7 triệu người
Tốc độ tăng GDP bq năm giai đoạn
11-12%
(2001-2005)
11-12%
(2006-2010)
GDP bq đầu người
1500$
2450-2500$
Nhà ở đô thị bq người
7.5 m2
9-10 m2
Cơ cấu kinh tế
* Công nghiêp.
* Dịch vụ
* Nông nghiệp
40.5%
57.5%
2%
41.2%-41.4%
57.3-57.5%
1.1-1.3%
Cấp nước sạch
120 lít nứơc/ngày
150-160 lít/ ngày
Diện tích cây xanh bq đầu người
5.5m2
6.5-7%
Tỷ lệ giao thông công cộng đáp ứng nhu cầu đi lại
25%
30-35%
Nguồn : UBND thành phố Hà Nội
1. 4. Các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài :
Phát triển các ngành công nghiệp điện tử- tin học- thiết bị điện, cơ-kim khí , vật liệu xây dựng cao cấp, trang phục thời trang và thể thao, dược mỹ phẩm, chế biến thịt gia xúc gia cầm.
Phát triển trung tâm tài chính- ngân hàng.
Đầu tư phát triển các khu đô thị bắc song hồng.
Phát triển trung tâm văn phòng- thương mại-triển lãm, trung tâm đào tạo-nghiên cứu-phát triển tại Bắc Sông Hồng.
Đầu tư phát triển khu công nghệ cao tại Hà Nội.
Phát triển khu công viên giải trí Yên Sở, Cổ Loa sóc sơn
Xây dựng 2 bệnh viện quy mô 500-1000 giường tại gia lâm Đông Anh.
Kè vở và khai thác khu vực hai bờ song hồng.
Cải tạo và phát triển các khu tập thể cũ thành các khu đô thị mới, hiện đại và hạ tầng hoàn chỉnh.
2. Quan điểm và định hướng thu hút FDI thời gian tới
2.1. Quan điểm thu hút FDI
Việc tăng cường thu hút FDI đáp ứng yêu cầu phát triển thủ đô Hà Nội cần xuất phát từ những quan điểm sau:
Thứ nhất, duy trì nhất quán, ổn định, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, nhất là FDI. Cần thống nhất nhận thức về tầm quan trọng, triển vọng và các điều kiện hoạt động của FDI trong đời sống kinh tế-xã hội đất nước, khắc phục những lệch lạc, dao động, thiếu nhất quán trong nhận thức, cơ sở pháp lý và chỉ đạo thực tiến quá trình thu hút FDI cả trước mắt và lâu dài.Coi FDI là một bộ phận hữu cơ quan trọng về vốn và kinh doanh của nền kinh tế đất nước.
Thứ hai, coi trọng đồng bộ hoá các giải pháp, tạo thuận lợi và bình đẳng tối đa đồng thời đáp ứng cao nhất các yêu cầu hội nhập đã cam kết, tạo những ưu đãi mọi mặt không thua kém mức cao nhất của các nước khu vực về môi trường đầu tư cho FDI. Có rất nhiều yếu tố liên quan trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài đến động thái, các quyết định đầu tư và việc triển khai các dự án FDI đã đăng ký. Vì vậy, cần có các giải pháp đồng bộ, thống nhất và đặc biệt là cần đứng từ góc độ nhà đầu tư để xây dựng các ưu đãi, tạo mọi điều kiện bình đẳng và thuận lợi nhất cho họ hoạt động, định hướng và khuyến khích họ kinh doanh phù hợp mục tiêu lợi nhuận theo đuổi, phù hợp khuôn khổ luật pháp và các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội quốc gia và địa phương, ngành.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả dòng FDI với các nguồn vốn đầu tư phát triển khác, nhất là vốn trong nước. Để phát triển kinh tế-xã hội đất nước cần nhiều vốn được “hợp lưu” từ các dòng chảy khác nhau: nhà nước-ngoài nhà nước, trong nước-ngoài nước, đầu tư gián tiếp-đầu tư trực tiếp v.v. , song không được tách rời chức năng và môi trường hoạt động của từng loại vốn, mà cần hoà nhập chúng một cách tổng thể, hiệu quả. Cần định hướng, khuyến khích và chủ động tổ chức sự gắn kết, hợp tác, hỗ trợ kinh tế lẫn nhau giữa các loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế, trong từng ngành, từng địa phương, từng dự án đầu tư phát triển, cả đầu tư trong nước lẫn ĐTNN.
Thứ tư, Thu hút FDI càng nhiều càng tốt, nhưng không phải bằng mọi giá mà cần gắn với quy hoạch, với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từng bước tiếp cận nhanh nền kinh tế tri thức; phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả nền kinh tế; giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự lành mạnh xã hội và môi trường sinh thái.
Thứ năm, đa dạng hoá cơ cấu nguồn FDI và các hình thức ĐTNN. Đồng thời, dành quan tâm và ưu tiên đặc biệt đối với các nhà đầu tư lớn, dự án lớn, có tiềm năng lớn về tài chính, nắm công nghệ nguồn; và cả những công nghệ nhỏ nhưng chuyển giao công nghệ hiện đại hoặc phát triển các vùng sâu, vùng xa hay trong các lĩnh vực cần phát triển được chọn lựa thích hợp.
2.2. Định hướng thu hút FDI của Hà Nội trong thời gian tới.
- Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút và sử dụng FDI vào tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không thuộc lĩnh vực loại trừ vì lý do quốc phòng, an ninh, bao gồm: sản xuất và dịch vụ phục vụ sản xuất; công nghiệp chế biến nhất là chế biến nông-lâm-thuỷ sản, khoáng sản, nguyên nhiên liệu; sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó ưu tiên đặc biệt cho sản xuất có sử dụng nguyên liệu trong nước và tỷ lệ nội địa hoá cao; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, kinh doanh xây dựng nhà ở, khu đô thị mới.
- Tiếp tục thu hút và mở rộng cho các dự án FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng, các KCN, KCX tập trung, khu du lịch mà Hà Nội chưa có điều kiện khai thác. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho ĐTNN vào những vùng có nhiều điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ĐTNN. Tập trung thu hút FDI vào các KCN tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt.
- Khuyến khích các nhà ĐTNN từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Hà Nội, thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu... cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại.
- Đa dạng hoá các hình thức doanh nghiệp FDI, đặc biệt là mở rộng hình thức công ty hợp danh, công ty đa mục tiêu, ... Tất cả các thành phần kinh tế có đủ điều kiện đều được tham gia vào liên doanh, hợp tác đầu tư với nước ngoài, kể cả thể nhân. Khuyến khích và mở rộng hơn nữa cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với doanh nghiệp trong nước để tạo ra môi trường cạnh tranh sôi động, lành mạnh, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong khuôn khổ của luật pháp.
3. Những thuận lợi và khó khăn của Hà Nội trong quá trình thu hút FDI
3.1. Những yếu tố thuận lợi
Thuận lợi lớn nhất, cơ bản và bao trùm là xu hướng nhất quán đẩy nhanh quá trình cải cách chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường diễn ra trên phạm vi toàn quốc, và trong từng địa phương, cũng như trong từng doanh nghiệp thành viên. Trên cơ sở đó, đời sống kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực, theo hướng dân chủ hóa, thị trường hóa. Tốc độ tăng trưởng GDP được duy trì khá ổn định. Đời sống nhân dân được nâng lên. Dung lượng thị trường trong nước mở rộng.Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư chung được cải thiện. Tính tích cực đầu tư của các thành phần kinh tế được tăng cường...
Nhiều chuyên gia kinh tế đã phân tích về xu hướng chuyển dịch đầu tư của các công ty xuyên quốc gia từ Trung Quốc sang các nước trong khu vực theo mô hình "Trung Quốc + 1" nhằm phân tán rủi ro và khai thác tối đa những lợi thế của cả khu vực về mặt thị trường, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên... Việt Nam được đánh giá là một trong những "ứng cử viên" sáng giá được nhiều tập đoàn lớn quan tâm do có sự ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào và tương đối có kỹ năng, có nguồn tài nguyên đa dạng và thị trường tiềm năng với hơn 80 triệu dân đang được kết nối với thị trường hơn 500 triệu dân của ASEAN.
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao trong năm 2006 với mức tăng GDP trên 8,2%. Giá trị xuất khẩu đạt trên 39,6 tỉ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 57,2% kể cả dầu thô (trừ dầu thô đạt 35,6%). Số lượng mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỉ USD đã tăng lên so với năm 2005 (gồm: dầu thô, dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện tử, gạo, cao su). Cơ cấu kinh tế đã có chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa.
Trong năm 2006 vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục nâng cao hơn sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị APEC lần thứ 14 và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Bên cạnh đó là việc triển khai các luật mới và thủ tục đầu tư được đơn giản hóa. Các yếu tố trên không chỉ mở ra triển vọng và động lực mới cho đầu tư của các thành phần kinh tế mà còn củng cố và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhà đầu tư Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam.
Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng là yếu tố quan trọng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đặc biệt, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp cùng với Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Hơn nữa, Hà Nội còn là Thủ đô - thành phố quan trọng nhất của cả nước, được TW coi là địa bàn trọng điểm đầu tư và bảo đảm an ninh mọi mặt, đồng thời được phép có cơ chế phân cấp quản lý kinh tế- xã hội nói chung, và quản lý đầu tư đặc thù nói riêng. Đây là nơi tập trung những cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ngành, các cơ quan Trung ương, hiệp hội, đoàn thể, các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện, các trung tâm dịch vụ tài chính - ngân hàng, thương mại, thông tin - bưu chính viễn thông; nơi có cơ sở hạ tầng giao thông vận tải khá phát triển, có mặt hoặc có điều kiện để phát triển đủ các loại hình, phương thức giao thông đối nội và đối ngoại (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường biển và đường hàng không, đặc biệt là cảng hàng không quốc tế Nội bài và đường giao thông bộ thuận tiện nối với cửa khẩu biển quốc tế ở Hải phòng, Quảng Ninh), giữa chúng đã bước đầu có sự phát triển liên thông, hình thành các mạng, tuyến giao thông vận tải dọc ngang trên toàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và nối liền với các vùng khác trong cả nước; nơi tập trung các trường đại học, dạy nghề, viện nghiên cứu và các cơ sở vật chất khoa học- công nghệ lớn nhất cả nước, nơi có các nguồn nhân lực vừa đông đảo vừa có chất lượng, trình độ cao hàng đầu cả nước và có mức thu nhập bình quân trên đầu người cao, tạo thuận lợi cả về "đầu vào" lẫn "đầu ra" cho phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp có hàm lượng vốn và hàm lượng công nghệ cao (trên địa bàn Thành phố có 49 trường đại học, cao đẳng, chiếm 60% cả nước; 34 trường trung học chuyên nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 viện nghiên cứu, với khoảng 34% lao động được đào tạo có bằng cấp, so với mức 10-12% của cả nước) .Các điều kiện cung cấp điện nước cho sản xuất, sinh hoạt của Thủ đô cũng khá thuận lợi (gần nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và nguồn nước ngầm, nước mặt dồi dào...).Đồng thời, những kinh nghiệm quốc tế và những bài học đắt giá trong thực tiễn thu hút FDI của nước ta trong suốt thời gian qua...cũng là những hành trang cần thiết và hữu ích để chúng ta học hỏi, điều chỉnh và hoàn thiện những ứng xử và công cụ, cũng như các điều kiện cần thiết cho việc thu hút FDI nhiều hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn.
Những yếu tố trên cùng với nỗ lực nhằm nâng cấp kết cấu hạ tầng, cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng đang tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào nước ta
Sự tập trung của các dự án FDI trên địa bàn (Hà Nội đứng thứ 2 cả nước về thu hút FDI) cũng đang và sẽ đóng góp và làm tăng thêm những động lực mạnh mẽ và tích cực để phát triển công nghiệp trong Vùng và kinh tế nói chung, cũng như tạo ra sức hấp dẫn cho việc thu hút FDI nói riêng, bao gồm từ việc tạo nền tảng cơ sở của ngành, phát triển phân công và hợp tác lao động, phát triển các doanh nghiệp vệ tinh và dịch vụ kèm theo, đào tạo lao động công nghiệp, kích thích cạnh tranh và chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tiếp thị và những tác động hữu ích khác cho các doanh nghiệp Hà Nội trong quá trình hội nhập KTQT.
3.2. Những thách thức
Khó khăn nổi bật là sức ép mở cửa hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực, cũng như ngay cả giữa các địa phương trong nước.
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005 đánh dấu sự tiến bộ về môi trường pháp lý đối với đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện 2 luật này trong giai đoạn đầu khó tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc do có nhiều quy định mới đòi hỏi phải được hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, việc phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải khẩn trương kiện toàn tổ chức, bộ máy và nhân sự của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của các địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Tình trạng cạnh tranh thu hút vốn FDI giữa các tỉnh, thành phố ngày càng gay gắt. Một số địa phương đưa ra hang loạt các chính sách ưu đãi, đầu tư riêng nhằm thu hút tối đa nguồn vốn và các dự án đầu tư nước ngoài vào tỉnh mình để phát triển kinh tế mà không tính đến quy hoạch tổng thể của cả nước. Điều đó gây ra một số ảnh hưởng nhất định đến môi trường đầu tư và tốc độ phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta trong đó Hà Nội cũng không là ngoại lệ.
Nhà nước cũng như Thành phố đã xây dựng nhiều chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hình thành và phát triển lành mạnh trong cơ chế thị trường song còn có sự thiếu đồng bộ trong cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại; chính sách thuế; quy định của pháp luật về đất đai, điều kiện thông tin,.... , nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư bởi các vướng mắc về thế chấp, việc thẩm định các dự án để cho vay còn nhiều thủ tục phiền hà.
Các quan hệ kinh tế đối ngoại nhất là hệ thống chính sách và tư duy kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước nói chung, của Thủ đô nói riêng (cả ở cấp lãnh đạo, điều hành lẫn doanh nghiệp và nhân dân) đã mở rộng nhiều mặt, song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí thiếu thống nhất. Mức độ tự do hoá kinh doanh thị trường chưa cao, còn nhiều quy định cứng nhắc và "khép cửa" ,nhất là về thủ tục xin phép đầu tư, thay đổi mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh, chuyển nhượng tài sản, bất động sản, xuất - nhập khẩu của doanh nghiệp. Nhiều định chế thị trường cần thiết vẫn chưa được lập, nhiều thị trường đang có chỉ được phép mở cửa từng phần với thị trường thế giới... Đặc biệt, khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa thực sự được cởi trói, đối xử bình đẳng với khu vực DNNN, nhất là trong phát triển các quan hệ hợp tác liên doanh với các đối tác nước ngoài, trong việc vay vốn, cung cấp thông tin, vận động đầu tư và xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Nhà nước có vai trò hết sức mờ nhạt trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này tập hợp lại với nhau hình thành và phát triển thành những tập đoàn kinh doanh đủ mạnh để giữ vững thị trường trong nước và từng bước vươn ra thị trường thế giới, xây dựng các sản phẩm chủ lực mang thương hiệu Việt Nam, chiếm lĩnh thị trường trên cơ sở cạnh tranh hiệu quả với các sản phẩm nước ngoài.
Tuy trong thời gian qua kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của nước ta đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, nhưng thiếu vốn bảo dưỡng và duy trì, vẫn thuộc diện kém phát triển, còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn hơn so với nhiều nước trong khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình trạng quá tải, gây ách tắc giao thông; nguy cơ quá tải của hệ thống mạng thông tin viễn thông, cảng biển và cấp - thoát nước đã và đang ảnh hưởng, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng, nhất là giá nhiên liệu tăng đáng kể, chi phí tiền lương tăng sau khi nâng mức lương tối thiểu... đang gây khó khăn cho nhà đầu tư và có nguy cơ làm giảm sự hấp dẫn đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Cạnh tranh thu hút vốn FDI giữa các nước trong khu vực ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của nước ta; đồng thời, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, sâu rộng hơn trên bình diện quốc gia, giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước do thuế nhập khẩu cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống 13,4% trong vòng từ 3 đến 4 năm tới. Cùng với việc gia tăng sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ dẫn đến ngừng triển khai dự án hoặc rơi vào tình trạng phá sản. Mặt khác, nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về Luật Lao động chưa tốt, tiềm ẩn tình trạng đình công bất hợp pháp tại một số doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh và môi trường đầu tư tại Việt Nam. Do vậy, cần phải nâng cao nhận thức về những thách thức nảy sinh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với cả cơ quan quản lý các cấp lẫn các doanh nghiệp và người lao động, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của WTO.
Tóm lại, việc thu hút FDI để góp phần phát triển kinh tế Thủ đô trong quá trình hội nhập KTQT đang và sẽ chịu sự tác động tổng hoà và mang tính 2 mặt của các nhân tố trong nước và ngoài nước, vĩ mô và vi mô, vật chất và phi vật chất, ngắn hạn và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp, liên quan tới tất cả các yếu tố đầu vào - đầu ra của toàn bộ quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội nói chung trên địa bàn và từ các khu vực khác. Khai thác, phát huy những tác động tích cực, những lợi thế và tiềm năng phát triển, hạn chế và "trung hoà" những tác động tiêu cực của chúng là yêu cầu đặt ra cho mỗi cấp, mỗi ngành và doanh nghiệp.
II. Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội.
Từ những phân tích trên cho thấy hiện nay còn rất nhiều rào cản đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội. Vì vậy để có thể thu hút mạnh mẽ hơn nữa dòng vốn FDI thì cần có các giải pháp sau.
1.Một số giải pháp về phía Nhà nước.
Mặc dù, trong mấy năm trở lại đây và đặc biệt là trong 5 tháng đầu năm 2006, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá, như vốn thực hiện và vốn đăng ký mới, nhìn chung mới đạt khoảng 40% mức dự kiến cả năm. Vì vậy để tạo ra bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có đầu tư nước ngoài như báo cáo của chính phủ đã nêu trước Quốc hội vừa qua, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.1 Về pháp luật, chính sách:
- Chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư chung; Cần sớm ban hành các Nghị định và Thông tư hướng dẫn hai Luật nói trên để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư bất luận trong hay ngoài nước, đặc biệt là bảo đảm tính minh bạch và tiên liệu trước được trách nhiệm giải trình để các nhà đầu tư an tâm đầu tư; tuyên truyền, phổ biến nội dung của các Luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính, củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ĐTNN phù hợp với quy định của Luật mới. Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các Luật mới.
- Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Bổ sung cơ chế, chính sách xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong mở cửa lĩnh vực dịch vụ (bưu chính viễn thông, vận chuyển hàng hóa, y tế, giáo dục và đào tạo.v.v).
- Đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, ĐTNN theo hình thức mua lại và sáp nhập (M&A)... Sớm ban hành Quy chế công ty quản lý vốn (holding company) để điều hành chung các dự án. Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp ĐTNN để nhân rộng.
1. 2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:
- Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương tránh tình trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
Chính phủ Việt Nam cũng đang tích cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư nhằm tạo nên một bước ngoặt. Cuối tháng 10, một loạt các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư (Nghị định 108), Luật Doanh nghiệp (Nghị định 88) và Nghị định 101 về việc đăng ký lại của các doanh nghiệp FDI bắt đầu có hiệu lực.
Tinh thần của các Nghị định là Chính phủ sẽ phân cấp triệt để cho ủy ban nhân dân các địa phương xem xét, cấp phép và quản lý các dự án đầu tư trên địa bàn, không hạn chế về quy mô, hình thức đầu tư. Bộ KH&ĐT sẽ chuyển các dự án đầu tư đang thụ lý về các địa phương, tới đây bộ sẽ là cơ quan chủ trì xây dựng chiến lược, quy hoạch, xúc tiến đầu tư, theo dõi đánh giá hoạt động đầu tư và tiến hành thanh tra, hậu kiểm...
Rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, tràn lan, manh mún dẫn đến sự lãng phí và kém hiệu quả, trong đó Chính phủ đóng vai trò chỉ huy thống nhất trên phạm vi toàn vùng, có biện pháp bảo đảm, nâng cao tính hiệu lực pháp lý của các quy hoạch đã công bố. Trên cơ sở quy hoạch chung của vùng, các địa phương xây dựng chiến lược và các dự án kêu gọi đầu tư phù hợp với khả năng của mình và phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư.
- Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban Vùng; duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
- Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. (Đây là cách tốt nhất chứng minh có sức thuyết phục về môi trường ĐTNN ở Việt Nam đối với các nhà ĐTNN tiềm năng).
- Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập qũy, vay vốn đầu tư ; đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động ĐTNN ở cả trung ương lẫn địa phương.
1.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT:
- Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược. Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu và xác định qua kinh nghiệm vấn đề đầu tư tại Nhật Bản vừa qua, cần tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành.
- Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư, mời các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với ĐTNN.
- Phối hợp triển khai Đề án kết nối kinh tế Việt Nam - Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút ĐTNN.
- Nâng cấp trang thông tin website về ĐTNN. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về ĐTNN (guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến ĐTNN).
- Nghiên cứu các địa bàn đầu tư tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả.
1. 4. Giải pháp về lao động tiền lương
Sớm xem xét bổ sung hoặc ban hành các chính sách về tiền lương, bảo hiểm, nhà ở và một số chính sách xã hội khác, đồng thời tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện các chính sách đó để đảm bảo lợi ích chính đáng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân, lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI.
1.5. Giải pháp về thuế
Chính sách và pháp luật thuế giai đoạn 2006-2010 để đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.
Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm mức điều tiết, nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế nên hầu hết các sắc thuế đã thực hiện tốt chức năng điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp và dân cư, đã tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, giữa người trong nước và người nước ngoài; thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác, đang góp phần đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO
Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, chúng tôi chủ trương tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, đổi mới công nghệ, đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên GDP phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế.
Những năm tới trình Quốc hội sửa đổi và bổ sung Luật thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN, thuế tài nguyên và pháp luật phí, lệ phí (sửa đổi) và trình Quốc hội ban hành mới các Luật: thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất; thuế thu nhập cá nhân thay cho pháp lệnh thuế TNCN đối với người có thu nhập cao hiện hành và Luật quản lý thuế – một bước đột phá trong hành chính thuế ở Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế.
Giải pháp từ phía Hà Nội.
Những giải pháp từ phía Nhà nước sẽ góp phần tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh, thi đua thu hút vốn FDI với các địa phương khác, Hải Phòng cũng cần có sự chủ động và những nỗ lực mạnh mẽ của riêng mình
Theo Sở KH&ÐT, muốn đạt được mục tiêu đã đặt ra cần phải có những giải pháp thích hợp. Trước hết phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá về môi trường, tiềm năng đầu tư, thương mại, du lịch, định hướng phát triển, tạo dựng và đề cao hình ảnh Hà Nội với thế giới. Thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội thảo giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội nhằm kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư để giải quyết các công việc liên quan đến đầu tư, bảo đảm nhanh gọn, chính xác, thuận lợi cho nhà đầu tư. Triển khai mở văn phòng đại diện kinh tế của Hà Nội ở nước ngoài, như Mỹ, Nhật, Tây Âu. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục đầu tư theo hướng thông thoáng và tập trung một đầu mối. Ðơn giản các tiêu chí xem xét, thẩm định dự án, rút ngắn thời gian xét duyệt, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư. Ðịnh kỳ tổ chức đối thoại, thiết lập "đường dây nóng" giữa lãnh đạo thành phố với các doanh nghiệp FDI để kịp thời giải quyết vướng mắc cho DN.
Tạo cơ chế khuyến khích, ưu đãi như xây dựng quỹ đất để nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn địa điểm đầu tư bằng cách đền bù giải tỏa trước hoặc tổ chức đấu giá đất đã hoàn thành hạ tầng kỹ thuật. Ðối với các dự án ưu tiên, thành phố sẽ chịu một phần chi phí đền bù, GPMB. Chính quyền sở tại sẽ giúp các nhà đầu tư giải quyết đền bù, GPMB. Ðối với các dự án đặc biệt, thành phố sẽ ứng trước tiền đền bù, GPMB và nhà đầu tư cam kết thanh toán khoản tiền này. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN tập trung bằng các cơ chế, chính sách cụ thể. Có chính sách đặc biệt ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư cao như công nghiệp điện tử, thông tin, công nghệ sinh học, hạ tầng đô thị, khu đô thị mới, giao thông công cộng... Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tập đoàn, DN có tiềm lực tài chính mua lại các dự án FDI hoạt động kém hiệu quả.
Thành phố khuyến khích và giúp đỡ các DN nước ngoài tham gia đầu tư, xây dựng khu đô thị mới và hạ tầng đô thị, giao thông công cộng bằng xe điện, xe buýt, cầu qua sông Hồng, các bệnh viện và trường học quốc tế. Nâng cao năng lực hoạt động của DN trong nước, tạo điều kiện hợp tác với DN nước ngoài. Có kế hoạch đồng bộ để giúp DN giảm chi phí trung gian trong sản xuất, kinh doanh. Cụ thể là một số giải pháp sau.
2.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch.
Cải tiến và nâng cao chất lượng quy hoạch là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Công tác quy hoạch đô thị và các sản phẩm, ngành nghề ưu đãi, khuyến khích là cơ sở để các nhà ĐTNN lựa chọn mục tiêu đầu tư, căn cứ hình thành dự án. Tuy nhiên công tác lập quy hoạch đô thị phải đi trước một bước và được chú trọng hơn. Đi đôi với việc lập quy hoạch cần xây dựng cơ chế và kế hoạch triển khai thực hiện. Tập trung cao cho các công tác quy hoạch, phối hợp với các bộ xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch tổng thể phát triển thủ đô, quy hoạch xây dựng chi tiết để có cơ sở xá định rõ địa điểm cụ thể và công khai kêu gọi đầu tư.
Các căn cư để lập quy hoạch của đất nước theo ngành, theo vùng, ngành nghề sản phẩm và định hướng phát triển của thủ đô cũng như đảm bảo khai thác được các lợi thế so sánh của địa phương. Các quy hoạch này phải tính đến các yếu tố trong tương lai, kha năng đáp ứng cũng như tính ổn định của quy hoạch. Trong thời gian trước, công tác lập quy hoạch của Hà Nội còn chưa tốt đã làm cho một số dự án phải chuyển đổi mục tiêu đầu tư , giảm sút long tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong công tác quy hoạch cần chú trọng những địa bàn có khả năng thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các khu công nghiệp. Hiện nay sở quy hoạch và kiến trúc Hà Nội đã trình ủy ban nhân dân thành phố vị trí của năm khu công nghiệp mới trong đó mỗi khu công nghiệp có chức năng của từng ngành công nghiệp chủ lực. Các ngành công nghiệp này nằm ngoài vành đai ba hoặc các huyện ngoại thành bởi quỹ đất của Hà Nội đã hết cũng như giảm thiểu được các ô nhiễm môi trường mà các khu công nghiệp này tạo ra.
Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể cũng như quy hoạch đầu tư nước ngoài sẽ giảm thiểu được tình hình đầu tư tràn lan, phá vỡ quy hoạch, lãng phí nguồn lực nhằm tăng tính hiệu quả của các dự án đầu tư nước ngoài.
2.2. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính
Thời gian qua, các tỉnh phía Nam đã thu hút được nhiều vốn FDI một phần là do thủ tục hành chính ở các tỉnh này được đơn giản hóa rất nhiều. Các cơ quan quản lý ở đây áp dụng các quy chế một cách “mềm dẻo theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Tuy thủ tục hành chính tại Hà Nội đã được cải thiện nhiều nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong khâu triển khai thực hiện dự án như: việc gải phóng mặt bằng, chi phí đền bù, giao thông, cấp điện, cấp nước, doanh nghiệp có vốn FDI phải chịu sự kiểm tra, giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng…Ở Hà Nội hiện nay, các dự án đang trong giai đoạn xem xét cấp giấy phép đầu tư, Sở Kê hoạch và đầu tư phải gửi hồ sơ dự án tới các ngành liên quan để xin ý kiến, như vậy là rất rườm rà, mất nhiều thời gian. Do đó, thời gian tới, Thành phố nên tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hơn nữa từ quá trình xin cấp giấy phép đầu tư, các thủ tục triển khai dự án đầu tư như : thuê vào giao đất, cấp giấy phép xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện, xuất nhập cảnh…. Nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án FDI.
Bắt đầu từ 2/1/2007, Hà Nội bắt đầu triển khai cơ chế "một cửa liên thông" về thủ tục thành lập doanh nghiệp, do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Công an Hà Nội và Cục Thuế Hà Nội kết hợp thực hiện. Đây là một quyết định quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư của Hà Nội, và cũng là bước khởi đầu đột phá trong công tác cải cách hành chính của thành phố ngay từ những ngày đầu năm 2007
Triên khai thưc hiện thủ tục đầu tư nước ngoài theo cơ chế “một đầu mối”với cơ quan thường trực là sở KH&ĐT. Tăng cường hoạt động của tổ công tác liên thông giải quyết thủ tục hành chính để bảo đảm kịp thời giải quyết , tháo gỡ khó khăn cho các nhà đâu tư trong cả quá trình từ xúc tiến đến lập và triển khai dự án.
Cơ chế “ Một đầu mối” hiện nay đang được nhiều địa phương áp dụng có hiệu quả như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Để đẩy mạnh hơn nữa trong cải cách thủ tục hành chính , thủ đô Hà Nội cần tiếp tục làm những nội dung sau:
+ Tổ chức một đầu mối, trong thời hạn quy định cần cung cấp đầy đủ các thông tin ban đầu, hướng dẫn các nhà đầu tư nước ngoài thiết lập hồ sơ dự án. Đặc biệt hạn chế các nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần, đến nhiều cơ quan lấy thông tin ban đầu hoặc xin chủ trương, thỏa thuận đầu tư. Những trường hợp cần thiết có thể giới thiệu cụ thể tới các cơ quan hữu quan.
+ Thành lập tổ công tác đầu tư nước ngoài của thành phố, tổ chức họp thường ký vào một thời gian cố định trong tuần để xem xét chủ trương, đề xuất giới thiệu địa điểm, đối tác, thẩm định các dự án có quy mô lớn.
+ Cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, phân định rõ trách nhiệm quyền hạn khi giải quyết các vấn đề ĐTNN phát sinh. Việc thành lập các tổ liên ngành là cần thiết để rà soát các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng như bãi bỏ các quy định không cần thiết.
Đến nay, thành phố đã đạt được một số kết quả bước đầu, tạo tiền đề rất quan trọng cho năm 2007 và những năm tới. Đó là, đã triển khai rộng khắp việc tổng rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính. Cơ chế “một cửa” đã triển khai ở tất cả các cơ quan hành chính 3 cấp: Sở, Ngành của Thành phố; UBND Quận, Huyện; UBND Phường, xã, Thị trấn, riêng đối với các cơ quan Sở, Ngành, đã hoàn thành việc bóc tách chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh để tập trung làm các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Một số Sở, Ngành đã nhận thực hiện khoán biên chế hành chính, bước đầu có hiệu quả. Hầu hết các cơ sở sự nghiệp đã chuyển sang thực hiện chế độ tự chủ tài chính. Gần đây, thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 32/2006/CT-TTg ngày 07/09/2006 về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp, Thành phố đã chỉ đạo đều khắp cơ quan hành chính các ngành, các cấp triển khai. Tổ chức 14 đoàn do các đồng chí Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch UBND Thành phố dẫn đầu về làm việc cụ thể tại 29 Sở, Ngành, Quận, Huyện, thực hiện kiểm tra, chấn chỉnh, thúc đẩy làm tốt hơn nữa các nội dung CCHC và yêu cầu mới của Thủ tướng Chính phủ.
2.3 Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư
Nghiên cứu, xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn (5 năm, 10 năm) và kế hoạch hành động ngắn hạn từng năm trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô. Thủ đô Hà Nội cần tập trung xây dựng một chiến lược cụ thể về xúc tiến đầu tư gồm các bước cơ bản: xác định các cở sở để xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư; xác định ngành nghề và khu vực ưu tiên thu hút đầu tư; xây dựng chương trình xúc tiến và cơ chế chính sách đầu tư; xây dựng kế hoạch hành động; đánh giá hiệu quả. Một khi đã thông qua chiến lược xúc tiến đầu tư và kế hoạch hoạt động, cần thực hiện nghiêm túc theo đúng kế hoạch và chiến lược đã đề ra.
Gắn kết chương trình xúc tiến đầu tư ở thủ đô với chương trình xúc tiến đầu tư ở mỗi vùng, miền và với chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia để vừa tiết kiệm chi phí vừa đem lại hiệu quả cao hơn. Các địa phương có lợi thế khác nhau có thể hợp tác thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư chung, tăng cường liên kết vùng. Điều này có thể áp dụng đối với các địa phương trong nước với nhau cũng như đối với các địa phương của một số nước khác nhau. Địa phương cần chủ động dành nguồn kinh phí lớn, ổn định cho hoạt động xúc tiến đầu tư bằng cách hình thành quỹ xúc tiến đầu tư, bên cạnh đó tích cực kêu gọi các nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương và nước ngoài.
Cần công bố công khai chiến lược xúc tiến đầu tư quốc gia, chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, vùng, miền dài hạn và hằng năm để các địa phương có thể tham khảo, chủ động kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư của địa phương với vùng, miền và cả nước. Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ địa phương làm công tác xúc tiến đầu tư. Thiết lập kênh thông tin đầu tư thường xuyên và kịp thời giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các địa phương trong cả nước nhằm giải quyết những vướng mắc trong quá trình xúc tiến dự án, tham vấn những vấn đề liên quan đến pháp luật; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xúc tiến đầu tư và xây dựng kênh thông tin đầu tư. Phân bổ hợp lý nguồn kinh phí xúc tiến đầu tư cho từng vùng, theo từng chương trình xúc tiến đầu tư cụ thể.
Công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 và chuẩn bị các tài liệu đầu tư làm cơ sở tiến hành vận động đầu tư theo các phương thức mới, nhằm vào các tập đoàn lớn và các dự án trọng điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Hà Nội; chuẩn bị để sớm đặt thêm các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài.
Để nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến đầu tư, Hà Nội cần đa dạng hóa phương thức xúc tiến theo hướng sau:
+ Tiếp xúc trực tiếp giữa thành phố với các tập đoàn có tiềm lực mạnh về công nghệ và vốn để xúc tiến các dự án quan trọng đã được định hướng.
+ Cung cấp đầy đủ các thông tin về các dự án có tính khả thi cao cho các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Hợp tác với các cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài nước để họ cung cấp các thông tin về Hà Nội, tránh tình trạng bóp méo thông tin.
+Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xúc tiếnđầu tư như xây dựng các trang web riêng để giới thiệu cụ thể và chi tiết hơn so với hiện nay về cơ hội đầu tư, tiềm năng, các văn bản pháp lý, quy trình thủ tục và những ưu đãi khi đầu tư vào Hà Nội.
+ Tăng cường tổ chức các buổi hội thảo trao đổi giữa các cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hà Nội.
Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế-xã hội, cơ sở dự liệu hỏi đáp phục vụ XTĐT, với trang thiết bị mạng cần thiết tạo điều kiện để mọi tổ chức trong và ngoài nước đẽ dàng tìm kiếm thông tin . Kịp thời cung cấp thông tin, quảng bá môi trường đầu tư và dự án XTĐT lên mạng trong nước và ngoài nước.
Về xúc tiến thương mại và đầu tư, các chương trình cần phải làm liên tục, thường xuyên, chứ không thể ào ào rồi bỏ đấy. Điều này đòi hỏi những người làm xúc tiến phải dày công và chịu khó. Nhưng quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động giới thiệu về mình. Các nhà đầu tư không thể chỉ trông chờ vào fax hay số điện thoại, mà họ cần những thông tin đầy đủ từ các trang web của doanh nghiệp.
2.4 Phát triển các dịch vụ tư vấn
Thời gian qua, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước bị vấp phải những khó khăn về thị trường và thông tin. Do vậy, đi liền với công tác xúc tiến đầu tư thì Hà Nội cần phát triển hơn nữa các dich vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn khụng chỉ dừng lại ở việc cung cấp thụng tin cho các nhà đầu tư mà cần phát triển lên mức độ cao hơn là giúp các đối tác đầu tư nước ngoài và Việt nam gặp gỡ nhau và cùng nhau hợp tác. Dịch vụ tư vấn càng phát triển, càng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi có những vướng mắc trong quá trình đầu tư thì làm cho khả năng thu hút FDI của thành phố càng thuận lợi.
2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước
Tăng cường công tác quản lý nhà nước, xúc tiến đầu tư phải gắn bó mật thiết với việc quản lý đầu tư nước ngoài để việc hỗ trợ nhà đầu tư thống nhất xuyên suốt trong cả ba giai đoạn chuẩn bị dự án, cấp phép và triển khai hoạt động. Xúc tiến đầu tư tốt sẽ thu hút ngày càng nhiều dự án đầu tư, tạo tiền đề cho quản lý đầu tư và ngược lại quản lý đầu tư tốt cũng chính là một phương thức hữu hiệu, ít tốn kém nhất để vận động xúc tiến đầu tư.
Mở rộng hoạt động đối ngoại, kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư trong các chuyến công tác của lãnh đạo địa phương ra nước ngoài. Nghĩa là tăng cường các hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế, phục vụ xúc tiến đầu tư; tránh tình trạng bị động trong việc tổ chức các hội nghị, hội thảo về đầu tư hoặc mang tính phô trương, hình thức; tăng cường vai trò và hoạt động của các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Đây là một kênh thông tin quan trọng nhằm thẩm tra, đánh giá năng lực của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như vai trò hỗ trợ của các cơ quan ngoại giao trong việc tiếp cận các nhà đầu tư lớn tiềm năng.
Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác giữa cơ quan xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài với các sở, ban, ngành liên quan ở địa phương, với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và nước ngoài. Mối quan hệ hợp tác này đặc biệt cần thiết đối với công tác xúc tiến, quản lý đầu tư nước ngoài trong cả ba giai đoạn trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư vì năng lực, quyền hạn, tài chính... của cơ quan chuyên trách về đầu tư nước ngoài hạn chế, cần có sự thỏa thuận, hợp tác của nhiều cơ quan, tổ chức liên quan
2.6. Nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố
Cơ sở hạ tầng của địa phương cũng là một vấn đề đáng quan tâm của chủ đầu tư nước ngoài khi tiến hành hoạt động FDI tại địa phương đó. Một cơ sở hạ tầng hoàn thiện sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí đầu vào cho sản xuất cũng như dễ dàng hơn cho việc tiêu thụ sản phẩm. Thành phố cần mạnh dạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật coi đây là nguồn vốn ban đầu( vốn đối ứng) để thu hút đầu tư. Hệ thống giao thông phát triển bao gồm cầu cảng, đường xã ( đường bộ, đường sông, đường hàng không và đường sắt), kho bãi, sự đa dạng của các phương tiện vận tải. Để phục vụ cho các dự án triển khai thuận lợi, Hà Nội chú trọng vào việc tích cực chuẩn bị và sớm xây dựng ba tuyến đường vành đai, 3 tuyến xe điện, 3 cầu qua sông hồng. Thành phố sẽ phát triển khoảng trên 10000 ha khu vự bắc sông hồng, 2 khu du lịch lớn và xây dựng nhiều công viên, trung tâm thương mại, bệnh viện…tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –Hà Nội vào năm 2010, đây là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư lớn.
Trong thời gian tới Hà Nội cần tập trung xây dựng mới và hoàn thiện dần các công trình trọng điểm trên địa bàng, từng bước cải thiện bộ mặt đô thị của Thành phố, từ đó làm tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.Hà Nội cần nâng cao chất lượng của các khu công nghiệp và khu chế xuất như chỗ ở cho công nhân viên, các điều kiện về điện nước, thông tin liên lạc đến tận hàng rào khu công nghiệp, không tính tiền thuê đất và đền bù công trình hạ tầng ngoài hàng rào, khi các nhà đầu tư ứng trước thì trừ vào tiền thuê đất hoặc các nghĩa vụ khác mà doanh nghiệp phải nộp sau này… để khuyến khích các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các dịch vụ phụ trợ như y tế, ngân hàng, khu vui chơi giải trí... cũng cần được phát triển hơn nữa để các nhà đàu tư` có những điều kiện tốt nhất tiến hành đầu tư tại đây.
Hệ thống thông tin liên lạc phải được bao phủ rộng khắp , kết nối với các quốc gia trên thế giới để đủ sức phục vụ nhu cầu của cỏc nhà đầu tư trong các giao dịch , hoạt động sản xuất kinh doanh . Việc cung cấp điện nước cần đảm bảo tính ổn định, tránh việc gây gián đoạn ảnh hưởng đến sản xuất. Ngoài ra các dịch vụ tài chính, quảng cáo cũng cần được đa dạng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp FDI.
Phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi khối lượng lớn về vốn đầu tư. Vì vậy, ngoài nguồn vốn từ ngân sách, Hà Nội cần chủ động xây dựng kế hoạch thu hút vốn từ các nguồn khác như ODA, các khoản vay thương mại, phát hành trái phiếu, tín phiếu xây dựng công trình thậm chí cả vốn của các doanh nghiệp tư nhân
2.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một trong những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam núi chung và Hà Nội núi riêng. Đó là đội ngũ lao động trẻ, dồi dào, cần cù, chăm chỉ.Chi phí lao động của Việt Nam nằm trong khoảng 100-200 USD được các nhà đầu tư đánh giá là hấp dẫn. Tuy nhiên đây không phải là yếu tố quyết định để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư mà họ đòi hỏi một đội ngũ lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của công việc.
Dự báo nhu cầu nhân lựcPhân theo trình độ đào tạo:
Năm 2005
Năm 2010
Năm 2015
Trên đại họcĐại học, cao đẳngTrung cấpSơ cấp và huấn luyện ngắn hạnPhân theo ngành nghề kinh doanh:Khách sạn, nhà hàngLữ hành, vận chuyển du lịchDịch vụ khác
48229.84435.966167.804115.05031.03688.010
96645.81849.276239.336
168.63245.869118.276
2.80471.57075.716354.112
240.07063.672199.370
Học tập kinh nghiệm của thành phố Hồ Chớ Minh, Hà Nội nên trích một khoản ngân sách dành cho việc dào tạo đội ngũ lao động làm việc trong các liên doanh. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài giảm chi phí cũng như thời gian đầu tạo , tăng tính hấp dẫn môi trường đầu tư ở Hà Nội. Nội dung đào tạo bao gồm trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngư và tin học cũng như kiến thức về pháp luật, hiểu biết về kinh tế xá hội.
Thuê các công ty tư vấn luật nước ngoài hoặc xin giúp đỡ của trung tâm xúc tiến đầu tư phía bắc- cục đầu tư nước ngoài để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo trong doanh nghiệp FDI.Tăng cường phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề để tìm ra các chương trình đào tạo phù hợp với các đòi hỏi cỏc doanh nghiệp FDI, lý thuyết đi đôi với thực hành thậm chí nếu có điều kiện bố trí cho các sinh viên đi kiến tập ở các doanh nghiệp này.
2.8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân
Như đó đề cập ở phần trên, các doanh nghiệp Nhà nước là chủ thể cơ bản tham gia hợp tác đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng theo chủ trương tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp ở Hà Nội sẽ tiến hành cổ phần hoá, chia tách, sáp nhập, giải thể ... Do đó, có xu hướng tăng dần các doanh nghiệp tư nhân hoặc là cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp giảm xuống. Khi quyền lợi gắn liền với trách nhiệm thì họ sẽ làm việc có hiệu quả hơn, không phụ thuộc vào sự trợ giúp của Nhà nước. Ngoài ra, bản thân cỏc doanh nghiệp cũng tự đi tìm đối tác đầu tư cho mình nên họ chính là lực lượng quan trọng để quảng bá môi trường đầu tư của Hà Nội với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp tư nhân phát triển là một yêu cầu tất yếu đặt ra. Thực tế hiện nay cho thấy hầu hết bên đối tác Việt nam tham gia trong liên doanh với nước ngoài tại Hà Nội là các doanh nghiệp tư nhân. Họ đã có những đóng góp rất lớn cho thành phố trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không những chỉ mang lại lợi ích cho Thành phố mà bản thân các doanh nghiệp cũng thu hút được nhiều lợi nhuận hơn và mở rộng quy mô sản xuất của mình.
Nghiên cứu xây dựng áp dụng các hình thức đầu tư mới như BOT/BTO/BT/PPP…trong đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ.
2.9. Các hỗ trợ khác.
Bên cạnh các giải pháp đã nêu trên , để đẩy mạnh quá trình thu hút ĐTNN vào Hà Nội, thủ đô cần có nhứng biện pháp hỗ trợ sau:
+ Ưu đãi thuế
+ Miễn giảm giá thuê đất, văn phòng, nhà ở.
+ Hỗ trợ tài chính tín dụng.
+ Tăng cường phát triển các ngành công nghiệp phu trợ.
Nếu các giải pháp cơ bản nói trên được thực hiện nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và giữa Trung ương với địa phương thì triển vọng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng sẽ rất sáng sủa, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức.
KẾT LUẬN
FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội theo xu hướng đổi mới mở cửa và hội nhập. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành mọt bộ phận trong chiến lược đầu tư phát triển của nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng,góp phần phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để lợi thế so sánh.
Trong quy hoạch tổng thể thủ đô, Hà Nội đã xác định chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài và đã đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa và giành được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo.
Như đã phân tích,qúa trình hội nhập tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức trong việc thu hút FDI. Thủ đô Hà Nội cần biết tận dụng triệt để những thuận lợi và có những giải pháp hợp lý khắc phục nhưngc hạn chế để trở thành điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội.docx