Đề tài Một số khái niệm và vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ

MỤC LỤC Phần các khái niệm cơ bản, liên quan A. Các khái niệm định hình vùng 1. Không gian văn hoá 2. Lãnh thổ văn hoá 3. Vùng văn hoá 4. Tiểu vùng văn hoá B. Vùng văn hoá châu thổ Bắc bộ I. Đặc điểm môi trường tự nhiên, xã hội 1. Môi trường tự nhiên 2. Môi trường xã hội II. Đặc điểm văn hoá châu thổ Bắc bộ 1. Nhà ở 2. ẩm thực 3. Trang phục 4. Làng nghề 5. Di tích văn hoá 6. Văn hoá dân gian 7. Tín ngưỡng 8. Nền văn hoá bác học 9. Tiếp biên văn hoá Kết luận

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10420 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số khái niệm và vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn khoa văn học ------ Tiểu Luận Về một số khái niệm và vùng văn hoá châu thổ bắc bộ Sinh viên thực hiện : Nhóm 2 Lớp : K49- Văn học Hà Nội, 03 - 2005 Định vị vùng văn hoá Phần các khái niệm cơ bản, liên quan A. Các khái niệm định hình vùng. 1. Không gian văn hoá. Trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển của văn hoá, các điều kiện tự nhiên và xã hội có tác động trực tiếp và sâu sắc. Các điều kiện này khác nhau ở các vùng tạo ra sự phát triển văn hoá giữa các vùng có nhiều điểm không tương đồng và tạo nên một khái niệm đặc trưng cần nghiên cứu: vùng văn hoá - không gian văn hoá. Không gian văn hoá là khái niệm liên quan chặt chẽ nhưng không đồng nhất với khái niệm lãnh thổ. Nó bao quát tất cả những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn tại qua các thời đại, nghĩa là được xem xét qua một chiều dài thời gian. Khái niệm không gian văn hoá rộng hơn khái niệm không gian lãnh thổ. Như vậy, không gian văn hoá là khái niệm chỉ những vùng lãnh thổ qua sự tích luỹ của bề dày thời gian lịch sử. Nó thường là khái niệm mang tính tương đối, không tách bạch như không gian lãnh thổ, thậm chí không gian văn hoá của hai dân tộc cạnh nhau thường có phần chồng lên nhau có miền giáp ranh. Chẳng hạn, không gian văn hoá Việt Nam có liên hệ mật thiết nhưng không đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó không chỉ giới hạn trong giới hạn lãnh thổ mà có ảnh hưởng qua lại đến văn hoá các dân tộc, lãnh thổ lân cận như Trung Hoa, Lào, Campuchia... với các miền giáp ranh tương ứng. Trong phạm vi hẹp, không gian gốc văn hoá Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Bách Việt. Vùng được hình dung như một tam giác với cạnh đáy ở sông Dương Tử, đỉnh là vùng Bắc Bộ - Đây cũng là cái nôi của nông nghiệp lúa nước, nghệ thuật đúc đồng rất phát triển từ xa xưa. Trong phạm vi rộng hơn không gian văn hoá Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của người Inđônêxia lục địa. Có thể hình dung như một giam giác có cạnh đáy ở sông Dương Tử đỉnh là vùng đồng bằng sông Mê Kông. Xét từ nguồn cội, không gian văn hoá Việt Nam vốn được hình thành trên nền của không gian văn hoá khu vực Đông Nam á. Nó được hình dung như một hình tròn bao qút toàn bộ Đông Nam á lục địa và phần hải đảo. Đây là địa bàn cư trú của người Indonexia cổ đại. Do đó, các mối liên hệ được hình thành chặt chẽ từ xa xưa tạo sự thống nhất cao độ cho vùng văn hoá toàn Đông Nam á. Việt Nam thuộc góc tận cùng của vùng văn hoá Đông Nam á, hội tụ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực, trở thành một “Đông Nam á thu nhỏ”. 2. Lãnh thổ văn hoá. Là khái niệm có liên quan nhưng hẹp hơn khái niệm không gian văn hoá. Khái niệm này mang tính văn hoá chính trị và thường dùng để chỉ chủ quyền lãnh thổ của một dân tộc, nó được phân định khá rõ với biên giới rõ ràng dựa trên sự chứng minh lịch sử, cư trú - văn hoá các dân tộc. Đề cập tới lãnh thổ văn hoá do đó luôn đặt trong sự phân định rạch ròi với lãnh thổ khác. Lãnh thổ văn hoá gắn bó hữu cơ với lãnh thổ địa chính hành chính do đó “thống nhất lãnh thổ”, “toàn vẹn lãnh thổ” đồng thời mang ý nghĩa văn hoá. Đây cũng là công việc đất nước ta nỗ lực thực hiện sau ngày giành độc lập (1975) hoàn toàn trong cả nước. 3. Vùng văn hoá. Khái niệm này đặc trưng cho bản sắc riêng của từng vùng dưới sự thống nhất do cùng cội nguồn tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính đa dạng cho bức tranh văn hoá dân tộc. Vùng văn hoá do đó chỉ sự khác nhau của đặc trưng văn hoá tộc người theo không gian địa lí trên một lãnh thổ. Những nhóm tộc người khác nhau ở những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hoá vùng văn hoá. Từ xa xưa, ông cha đã ý thức về việc phân biệt văn hoá vùng miền và ngày càng được chú trọng một cách ý thức trong giới nghiên cứu ngày nay. Tuy nhiên hiện còn nhiều ý kiến không đồng nhất theo từng khuynh hướng, từng tác giả. Trong số này, quan điểm phân chia vùng văn hoá của nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng có nhiều cơ sở rất hợp lí. Theo đó, về tổng quát lãnh thổ Việt Nam chia làm 6 vùng văn hoá: 1. Vùng văn hoá Tây Bắc. Là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng (lưu vực sông Đà)k éo dài tới bắc Thanh Nghệ. ở đây có trên 20 tộc người cư trú, trong đó, các tộc Thái, Mường có thể xem là đại diện. Biểu tượng cho vùng văn hoá này là hệ thống mương phai ngăn suối dẫn nước vào đồn; là nth trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ hơi (khèn, sáo...) và những điệu múa xoè. 2. Vùng văn hoá Việt Bắc Là khu vực bao gồm hệ thống núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân vùng này chủ yếu là người Tày, Nùng với trang phục tương đối giản dị, với lễ hội lòng tồng (xuống đồng) nổi tiếng; với hệ thống chữ Nôm Tày được xây dựng trong giai đoạn cận đại. 3. Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ Có hình một tam giác bao gồm vùng db châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với cư dân Việt (kinh) sống quần tự thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú, bởi vậy nó từng là cái nôi của văn hoá Đông sơn thời thượng cổ, văn hoá Đại Việt thời trung cổ.. với những thành tựu rất phong phú về mọi mặt. Nó cũng là cội nguồn của văn hoá Việt ở nam Trung Bộ và Nam Bộ sau này. 4. Vùng văn hoá Trung Bộ Vùng văn hoá Trung bộ ở trên một dải đất hẹp chạy dài theo ven biển từ quảng Bình tới Bình thuận. Do khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, nên con người ở đây đặc biệt cần cù, hiếu học. Họ thạo nghề đi biển, bữa ăn của con người cũng giàu chất biển; dân vùng này thích ăn cay (để bù cho cá lạnh). Trước khi người Việt tới sinh sống, trong một thời gian dài nơi đây từng là địa bàn cư trú của người Chăm với một nền văn hoá đặc sắc, đến nay còn để lại sừng sững những tháp Chàm. 5. Vùng văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên Vùng văn hoá Trường Sơn - Tây Nguyên nằm trên sườn đông của dải Trường Sơn, bắt đầu từ vùng núi Bình-Trị -thiên với trung tâm là bốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. ở đây có trên 20 tộc người nói các ngôn ngữ Mô-Khmer và Nam Đảo cư trú. Đây là vùng văn hoá đặc sắc với những trường ca (khan, H’ămon), những lễ hội đâm trâu, với loại nhạc cụ không thể thiếu được là những dàn cồng chiêng phát ra những phức hợp âm thanh hùng vĩ đặc thù cho núi rừng Tây Nguyên 6. Vùng Văn hoá Nam Bộ. Vùng Văn hoá Nam Bộ nằm trong lưu vực sông Đông Nai và hệ thống sông Cửu Long, với khí hậu hai mùa (khô - mưa), với mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa tới khai phá đã nhanh chóng hoà nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer, Ma, Xtiêng, Chơro. Mnông). Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn giàu thủy sản; tính cách còn người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng tôn giáo hết sức phong phú và đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hoá phương Tây... - đó chỉ là vài nét phác thảo những đặc trưng văn hoá của vùng này. IV. Tiểu vùng văn hoá. Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn hoá. Khái niệm tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá. Mỗi tiểu vùng được xác định với những nét đặc thù bị chi phối bởi không gian địa lí, khí hậu và lịch sử hình thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng văn hoá hoàn toàn không phá vỡ tính thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá. B. Vùng văn hoá châu thổ Bắc bộ: Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hoá lớn phát triển nối tiếp nhau như: Văn hoá Đông Sơn, Văn hoá Đại Việt và văn hoá Việt Nam. Do vậy, văn hoá châu thổ Bắc Bộ vừa có những nét đặc trưng của văn hoá Việt lại vừa mang những nét riêng đặc sắc về văn hoá của vùng. ngoài ra văn hoá Bắc Bộ là sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá khu vực và nhân loại. PGS.TS. Ngô Đức Thịnh đã từng nhận xét: “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hoá Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hoá độc đáo và đặc sắc”. I. Đặc điểm môi trường tự nhiên, xã hội. 1. Môi trường tự nhiên. Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực các con sông: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã. Khi nói tới vùng văn hoá Bắc Bộ là nói tới vùng văn hoá thuộc địa phận các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng bằng của tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Về vị trí địa lý, vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này khiến nó trở thành mục tiêu xâm lược đầu tiên của tất cả bon xâm lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam á. Nhưng nó cũng tạo điều kiện cho vùng có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Vùng có địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình của vùng cao thấp không đều. Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 - 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưng vẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v.v… Đặc biệt, Bắc Bộ có khí hậu độc đáo, khác hẳn các vùng khác. Đây là vùng duy nhất có một mùa đông lạnh kéo dài ba tháng. Khí hậu Bắc bộ phân hoá thành bốn mùa tương đối rõ nét. Khí hậu lại rất thất thường, hay có bão, năm mưa nhiều, nằm mưa ít, mưa sớm, mưa muộn… Chính điều này làm cho sản xuất nông nghiệp của vùng không ổn định. ở Bắc Bộ, vấn đề đất và nước là hai yếu tố đan quyện vào nhau. Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 - 1,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng các mương máng tưới tiêu dày đặc. Đất đai trong vùng tương đối màu mỡ, thích hợp cho nền nông nghiệp lúa nước phát triển. Hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã cùng các nhánh của chúng là nguồn cung cấp nước thường xuyên cho hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, chế độ nước sông phân hoá theo mùa: mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục, mùa cạn dòng chảy nhỏ, nước trong. Chính yếu tố nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc đáo. 2. Môi trường xã hội. Dựa vào những điều kiện tự nhiên thuận lợi và các thành tựu kinh tế đạt được, những cư dân vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả - được gọi chung là cư dân Việt cổ, đã phát huy sức lao động và óc phát minh sáng tạo của mình để đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, vượt qua những hạn chế của thời nguyên thuỷ, đạt đến thời đại văn minh vào khoảng các thế kỷ VII - VI trước công nguyên. Tồn tại trong khoảng hơn 5 thế kỷ, nền văn minh đó được mệnh danh là văn minh Văn Lang - Âu Lạc, tương ứng với 2 quốc gia nối tiếp tồn tại trên đất bắc Việt Nam đương thời. Dựa vào các thành tựu của khảo cổ học, nhân học, chúng ta có thể biết cư dân nguyên thuỷ sống trên các vùng đồng bằng Bắc Việt Nam đương thời đều thuộc các chủng tộc Nam á (Việt - Mường, Môn - Khơme), Hán - Thái. Với thời gian, các nhóm tộc người đó ít nhiều hoà lẫn vào nhau, có tiếng nói gần gũi nhau, pha trộn. Những di chỉ được phát hiện chứng tỏ rằng, bấy giờ các nhóm cùng sống với nhau hoặc sống gần gũi nhau đã có số lượng khá đông, cùng lấy nghề nông trồng lúa nướcl àm nền kinh tế chủ yếu và cũng có ít nhiều những phong tục, tập quán giống nhau. Do yêu cầu phát triển sản xuất và tiêu dùng hàng ngày tăng lên cùng với sự gia tăng dân số, do tính phức tạp của một số ngành nghề, trong xã hội thời đó đã nẩy sinh sự phân công lao động, nghề luyện kim, đúc đồng ngày càng phát triển. Thông qua các di vật tìm ược ở các di chỉ sau Phùng Nguyên như Đồng Đậu, Gò Mun rồi tiếp đến Thiệu Dương, Đông Sơn, chúng ta hiểu rằng hồi ấy đã có hàng loạt công cụ sản xuất, vũ khí, nhạc cụ bằng đồng. Trong số này, đáng chú ý nhất là hàng loạt lưỡi cày đồng với nhiều hình dáng khác nhau: cánh bướm, hình thoi, v.v… Cũng với hình con bò trang trí trên mặt trống đồng, sự xuất hiện của lưỡi cày chứng tỏ rằng, người ương thời đã chuyển từ nghề nông dùng cuốc sang nghề nông dùng cày. Nguồn sử liệu cổ Trung Quốc Giao Châu ngoại vực kỷ thừa nhận: “Giao chỉ (tức là Bắc Việt Nam) khi chưa đặt thành quận, huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, theo nước triều lên xuống mà làm, dân khẩn lấy ruộng mà ăn” Nông nghiệp lúa nước trên vùng châu thổ các con sông lớn (Hồng, Mã, Cả, Chu) đã trở thành ngành kinh tế chủ yếu, vừa tạo cơ sở cho định cư lâu dài, vừa tạo ra thứ lương thực cần thiết hàng ngày của người dân ở đây. Tất nhiên, để có được những vụ mùa vững chắc, con người phải thích nghi với sông nước và từng bước xây dựng mối quan hệ làng với làng. Cũng từ đây, nảy sinh những sinh hoạt văn hoá phản ánh mối quan hệ giữa các cộng đồng người với tự nhiên, giữa người với người ở các cộng đồng nông nghiệp. Bên cạnh nghề nông, việc trồng rau, trồng cà, trồng cây ăn quả, trồng dâu chăn tằm, nuôi gà, lợn, chó, trâu bò v.v… cũng ngày càng phát triển. Lương thực thực phẩm tăng lên và ngày thêm đa dạng. Đời sống của người dân cũng được đảm bảo hơn, vui tươi, ổn định hơn. Như trên đã nói, các nghề thủ công như luyện kim và sau này là rèn sắt, làm đồ gốm, dệt lụa, đan lát ngày càng toạ ra nhiều sản phẩm hơn, phcụ vụ tốt hơn nhu cầu con người. Số lượng đồ đồng tăng lên so với nhiều loại dụng cụ như rìu, mũi giáo, mũi tên, liềm, dao; các nhạc cụ bằng đồng như chiêng, trống, và tượng đồng, v.v... số lượng đồ gồm cũng phong phú: bát, đĩa, bình, nồi, võ, chõ v.v... Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp với sự hỗ trợ đắc lực của nghề luyện kim đồng thau đã tạo nên cái nền cần thiết và cơ bản cho sự chuyển biến của xã hội từ trạng thái nguyên thuỷ sang thời đại văn minh. Tuy nhiên, cũng cần thấy thêm rằng, mặc dầu còn nhiều hạn chế, bấy giờ đã có sự giao lưu, trao đổi sản phẩm giữa các vùng, nhất là công cụ bằng đồng, các bát đĩa, bình gốm. Giao lưu là sợi dây nối liền các làng, các vùng tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức chính trị. Tất cả những đặc điểm trên sẽ góp phần tạo ra những đặc điểm riêng của vùng văn hoá Bắc Bộ. II. Đặc điểm văn hoá châu thổ Bắc bộ. 1. Nhà ở. Văn hoá nhà ở là một đặc trưng trong nền văn hoá Bắc Bộ. Nhà ở của cư dân Bắc Bộ thường sử dụng các vật liệu nhẹ, bền. Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền chắc, tó đẹp, tuy nhiên vẫn hoà hợp với cảnh quan, vì đối với họ, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo một cuộc sống ổn định. Hình dáng nhà. Nhà của người dân Bắc Bộ thường có mái cong truyền thống. Sau này, mái nhà bình thườgn được làm thẳng cho giản tiện, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì. Ngoài ra, các đầu đao ở bốn góc đình chùa, cung điện cũng được làm cong vút như con thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hoà mình vào thiên nhiên. Một sô nơi ở Bắc Bộ (ví dụ như Nghệ An) cũng thiết kế ngôi nhà của mình theo kiểu nàh sản để đối phó với lũ lụt, độ ẩm và ngăn côn trùng. Vào thế kỷ XVII, nhiều ngôi đình như đình Đình Bảng (Bắc Ninh), đình Chu Quyến (Hà Tây)... vẫn làm theo lối nhà san. Cấu trúc. Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam nói chung và của vùng Bắc Bộ nói riêng là “nhà cao cửa rộng”, cấu trúc mở. Nhà cao gồm hai yếu tố: sàn (nền) cao so với mặt đất và mái cao xo với sàn (nền). Nhà sàn đáp ứng yêu cầu thứ nhất, có tác dụng ứng phó với môi trường. Nhà Việt Nam nay đã chuyển sang nhà đất, nhưng nhà đất lí tưởng vẫn phải có nền cao. Cửa nhà không cao mà phải rộng, tránh nắng chiếu và mưa hắt, đón gió mát. Đầu dưới mái nhà (giọt gianh) thường được đưa ra khá xa so với mái hiên. Đầu hồi nhà thường có khoảng trống hình tam giác để thoát hơi nóng và khói. Dân Bắc Bộ có kinh nghiệm không làm cửa và cổng thằng hàng tránh gió độc, gió mạnh. Chọn hướng nhà, chọn đất: Đây là biện pháp quan trọng thứ hai để ứng phó với môi trường tự nhiên. Hướng nhà tiêu biểu ở Bắc Bộ là hướng Nam. Vì Bắc Bộ ở gần biển, trong khu vực gió mùa. Hướng Nam (hoặc Đông Nam) vừa tránh được nóng từ phía Tây, bão phía Đông và gió rét từ phía Bắc lại vừa tận dụng được gío mát vào mùa nóng (gió nồm). Tuỳ thuộc vào địa hình, địa vật xung quanh, vào sự có mặt của núi, của sông, của con đường... mà ảnh hưởng của gió nắng sẽ khác nhau. Vì thế, phải chọn đất làm nhà. Khi chọn đất, người Bắc Bộ chú ý tới phong thuỷ, vì khí hậu của ngôi nhà. Ngoài ra, người Việt Bắc Bộ thường có câu: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, chọn đất cũng phải quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Trong thời kì phát triển nền kinh tế hàng hoá, khi chọn đất, người ta thường chọn những nơi gần đường giao thông, thuận lợi cho đi lại, làm ăn, buôn bán. Cách thức kiến thúc. Nhà ở của người Bắc Bộ có đặc điểm là rất đông và linh hoạt, thường là loại nhà không có chái, hình thức nhà vì kéo phát triển. Bộ khung của nhà thường được liên kết với nhau theo một không gian ba chiều: đứng, gnang, dọc. theo chiều đứng, lực dồn vào đá tảng, theo chiều ngang các cột nối với nhau tạo các vì kèo; theo chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng xà, tạo thành bộ khung. Các chi tiết của ngôi nhà được ghép với nhau bằng mộng. Hình thức kiến trúc. Ngôi nhà Bắc bộ phản ánh truyền thống văn hoá của vùng. Tính cộng đồng thể hiện ở việc không chia phòng biệt lập. Giữa hai nhà ngăn bằng rào cây thấp để dễ liên hệ với nhau. Truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách thể hiện ở bàn thờ ở gian giữa (phía trong là bàn thờ, phía ngoài là bàn ghế tiếp khác). sau nữa là truyền thống coi trọng bên trái (phía Đông) với chiếc đòn nóc có đầu gốc ở phía Đông, bếp ở phía đông,... Trong kiến trúc nhà ở Bắc Bộ, nguyên tắc coi trọng số lẻ cũng được tôn trọng, thể hiện qua số gian, số cổng, số toà đều là số lẻ (có câu: Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu, Cột cờ 3 cấp). Đây là do quan niệm của người xưa: lẻ là số dương, dành cho người sống. 2. ẩm thực. ẩm thực cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoă Bắc Bộ. Giống như ở mọi vùng miền khác trên đất Việt, cơ cấu bữa ăn của cư dân Việt trên châu thổ Bắc Bộ bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước, bao gồm có cơm, rau, cá, thịt, cơm là thức ăn cho cơ thể. Đặc biệt, ở đây các gia vị có tính chất chua, cay, đắng không được ưa chuộng như ở vùng Trung Bộ vf Nam Bộ. Có người đã từng nói rằng Bắc Bộ là “nơi quần tụ văn hoá ẩm thực, văn hoá vùng miền”. Không thể kể hết những món ăn Bắc Bộ vô cùng đa dạng và độc đáo. Nào là bánh cáy Thái Bình, bánh dứa Hưng Yên, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh phu thê Bắc Ninh, bánh tôm Hà Nội, bánh nhãn Nam Định, ... Mỗi loại bánh mang những hương vị khác nhau, đặc trưng cho mỗi miền quê. Đến với vùng văn hoá này, người ta cũng không thể quên có một nghệ thuật ẩm thực Hà Nội sành điệu, tinh tế, ngon từ chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hài hoà đến sự sạch sẽ, tinh khiết. Người Hà Nội coi trọng chất ít nhưng phải ngon. Một là bánh cuốn Thanh Trì, một bìa đậu Mơ rán giòn, một bát bún ốc chua cay bốc khói, một gói cốm vòng xanh mướt... để lại dư vị khó quên tỏng lòng thực khách. 3. Trang phục: Cách ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ. Vào thời kỳ Hùng Vương, sự phát triển của nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa giúp cho người Việt cổ Bắc Bộ ăn mặc ngày càng đẹp hơn. Nữ thường mặc váy, loại ngắn hoặc dài, đôi lúc có khâu thêm một mảnh vải vuông vắn có trang trí hoa văn ở trước bụng; phụ nữ thường mặc yếm; áo cánh hoặc áo chui đầu. Ngày lễ hội, họ mặc váy xoè, cắm thêm lông chim hoặc cả lá cây. Tóc ít khi để oax mà thường ược búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu khác nhau. Có lúc họ buộc một tấm khăn cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc. Dân sống ven sông thường có tục vẽ mình để tránh “giao long” làm hại. Các lạc hầu, lạc tướng có áo giáp đồng hộ than khi đi chiến đấu. Nối tiếp truyền thống làm đẹp của tổ tiên, người Việt cổ thích trang sức các dây chuyền bằng vỏ ốc, hạt đá hoặc đeo hoa tai, vòng tay bằng đá. Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ Bắc Bộ là: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá toạ, áo cánh màu nông sồng. Phụ nữ cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm, Bộ lễ phục củ phụ nữ gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Lễ phục của đàn ông là chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Tới nay, trang phục truyền thống của người Việt Bắc Bộ đã thay đổi. Bộ âu phục dần thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài của phụ nữ ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn như ngày nay, mặt khác do yêu cầu của lao động, công việc, không phải lúc nào phụ nữ cũng mặc áo dài mà chỉ những ngày trang trọng, ngày vui... thì mới có dịp để “thể hiện mình”. 4. Làng nghề: Khi nói về nét đẹp văn hoá vùng châu thổ Bắc Bộ, người ta không thể không nhắc đến những làng nghề thủ công đã có lịch sử phát triển cách đây hàng trăm năm. Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã đếm được 108 nghề thủ công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. ở đây có tới 500 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà tây, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Nội. Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi “đát lành chim đậu”, hội tụ tài hoa, thu hút những thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập nghiệp. Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân năm làng gốc ở huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỷ XVII, là tác giả của những pho tượng đồng vào loại quý giá nhất nước Nam. Đó là tượng Trấn Vũ bằng đồng đen cao 4m, nặng 4 tấn được đúc năm 1681, là quả chuông đồng cao gần 1,5m treo ở tam quan đền, là tượng Di Đà cao 3,95m, nặng 10 tấn với toà sen đặt tượng nặng 1,6 tấn đồng. Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng có lịch sử 500 năm, do những người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối thế kỷ XV. Và tất nhiên, nhắc tới Hà Nội, người ta cũng không quên một làng giấy phía Nam Hồ Tây, đã rất nổi tiếng trong câu ca dau “Mịt mù khói toả ngàn sương, Nhịn chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”, làng Thậm Thình, có truyền thống lịch sử 500 năm. Từ Hà Nội ngược về phía Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú “bên kia sông Đuống”, với làng tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đến đề tài, tư tưởng, phong cách nghệ thuật đều rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề tài tranh Đông Hồ rất đỗi bình dị, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của người dân quê Việt Nam, tiêu biểu là tranh “đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới chuột”.... Xuôi về phía Nam, ta đến với các làng nghề lụa Hà Đông (Hà Tây), đũi Nam Cao (Thái Bình),... Muôn bàn tay khéo léo tài hoa đã hội tụ lại trên mảnh đất châu thổ trù phú này, thời nào cũng thế, đã vun đắp làm đẹp cho đời, làm phong phú cuộc sống, giàu có tâm hồn, nối tiếp truyền thống của nền văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến vào thiên niên kỷ thứ ba. 5. Di tích văn hoá. Mặt khác, nói tới văn hoá ở châu thổ Bắc Bộ là nới tới một vùng văn hoá có một bề dày lịch sử hàng ngàn năm cũng như mật độ dày đặc của các di tích văn hoá. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hoá hữu thế tồn tại ở khắp các địa phương. Đền Hùng (Lâm Thao, Phú Thọ) gồm 4 đền, 1 chùa và 1 lăng mộ tổ Hùng Vương thứ VI. Có khả năng vào thế kỷ thứ X người Việt Nam đã xây nên Đền Hùng và tổ chức ngày giỗ tổ Hùng Vương với những nghi thức, phong tục đầy bản sắc dân gian Việt Nam. Thời Lý - Trần, Đền Hùng là một khu di tích khá đẹp do làng Cổ Tích dựng lên. Trong một số hố đào thám sát tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật: bát đĩa men ngọc, nhiều viên ngọc trang trí, có cả lon đựng sơn... thuộc thời Lý - Trần. Kiến trúc ở Đền Hùng có từ thời Lý - Trần đã được tôn tạo qua nhiều thời kỳ, đến nay chỉ còn lại một kiến trúc khá cổ là Gác Chuông, Tam Quan và Đền Hạ có từ thời Hậu Lê, những phần còn lại chủ yếu là các kiến trúc được xây dựng vào thời Nguyễn. Đền Gióng thuộc làng Gióng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), thời Thánh Gióng, người có công dẹp giặc Ân thời Hùng Vương. Từ xa xưa, đền là một thảo am. Đến thế kỷ XI, Lý Thái Tổ tạo và xây dựng khang trang, kiến trúc “nội công ngoại quốc” trên một thế đất đẹp có hồ bán nguyệt và thuỷ đỉnh ở trước cổng. Bên trong có nhà tiên tế, đến chính và nhà giãi vũ. Trong đền còn lưu giữ ược nhiều cổ vật quý: Tượng Thánh Gióng cao 2m, có hàng trăm năm nay và các tác phẩm điêu khắc gố: cuốn thư, hoành phi, câu đối bàn thờ; các tác phẩm điêu khắc đá: rồng đá, nghê đá, giếng đá, liềm đá,... chùa Một Cột tên chữ là Diên Hậu tự, nằm giữa hồ Linh Chiểu (nay thuộc phố Chùa Một Cột). Chùa dựng năm 1049, phỏng theo giấc mơ của Lý Thái Tông (1028 - 1054) thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen mời vua bước lên. Vua bèn cho xây chàu theo hình hoa sen để thờ và cầu xin tuổi thọ. Chùa xây dựng một cột giữa lòng hồ nên có tên Một Cột. Cụm di tích cố đô Hoa Lư tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình) là kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt, do Đinh Tiên Hoàng xây dựng năm 968. Khu di tích đền - miếu được chia thành hai khu: Khu thứ nhất (bên tả) thờ Đinh Bộ Lĩnh và ba người con trai của ông là thái gử Đinh Hạ Lang, Hoàng tử Đinh Toàn và Hoàng tử Đinh Liễn (sau này nối ngôi cha); Khu thứ hai thờ vua Lê Đại Hành, Hoàng hậu Dương Vân Nga và Hoàng tử Lê Long Đĩnh (vua cuối cùng của triều Tiền Lê). Nhiều di tích khảo cổ mang đậm dấu ấn của các nền văn minh Văn Long - Âu Lạc và văn minh Đại Việt. 6. Văn hoá dân gian. Vùng châu thổ Bắc Bộ có một kho báu vô giá truyền từ đời nọ sang đời kia. Đó là một kho tàng di sản văn hoá phi vật thể đa dạng và phong phú: là nguồn ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, truyện cổ tích, truyện cười, giai thoại, ..., là các lễ hội truyền thống lâu đời đặc sắc, là cái nôi của ca nhạc dângian, trò diễn,... Có thể nói Bắc Bộ là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt ươm chồi, nảy lộc. Trên đất nước Việt Nam, đất nước của ca dao, thần thoại, văn học dân gian Bắc Bộ là một trong những viên ngọc quý giá nhất, mang nhiều nét đặc trưng, đúng như GS Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm”. Ca dao, dân ca xứ Bắc không nhưng ngọt ngào, đằm thắm mà còn thấm thía ân tình. Xứ Bắc có một kho tàng đồ sộ những tích truyện, truyện cổ dân gian, truyền thuyết, truyện cười... với những hình ảnh ông bụt, cô Tấm, những chàng Sơn tinh, Thuỷ Tinh... đã đi vào tâm khảm người Việt hàng thế kỷ qua. Đặc biệt, Bắc Bộ có truyện thần thoại - thể loại văn học dân gian mà không vùng miền khác nào có được. Khác với các vùng khác, truyện Trạng của vùng thường thiên về nói chữ, chơi chữ, thể hiện trí tuệ vượt bậc của người xưa. ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu văn, hát quan họ, múa rối,... Từ bao đời nay hát chèo đã trở thành một loại hình sinh hoạt văn hoá nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng, nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc. Chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Vùng đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định được tầm quan trọng trong nền văn hoá dân gian . Trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của vùng đồng bằng Bắc Bộ còn có hát ca trù. Theo “Việt Nam ca trù biên khảo” (Đỗ Bằng đoàn - Đỗ Trọng Huề), ca trù có nguồn gốc từ sự kết hợp của ca vũ Trung Hoa với âm nhạc cung đình Việt Nam trong khoảng thời gian từ 111 trước công nguyên đến năm 938. Với mối liên hệ truyền cảm và ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau giữa ca nhạc, trống chầu, nghệ thuật ca trù ngày càng trở nên điêu luyện, tinh vi. Đi liền với ca trù và nghệ thuật văn thơ tuyệt vời đã được ngâm nga, những làn điệu dân ca mộc mạc, thôn dã đến với ca trù đã trở nên chau chuốt, điêu luyện. Ca trù trở thành một thứ thưởng thức nghệ thuật riêng biệt với không khí ấm cúng, tế nhị, hào hoa kinh kì. Hằng năm, trong các cuộc vui chơi chung tại Văn Miếu, đền Ngọc sơn, các chầu hát ca trù lại được mở, những lời hát ca ngợi quê hương, đất nước tươi đẹp, ca ngợi con người và cuộc sống mới lại ngân lên thánh thót, hoà lẫn ráng chiều vàng rực trên sóng nước Hồ Gươm. Hát quan họ là điệu hát quen thuộc của người con xứ Kinh Bắc. Cứ đến hẹn lại lên, vào hội hát quan họ, du khách thập phương yêu thích quan họ gần xa kéo tới. Sân đình, sân đền... đều có các đám hát, người nghe vòng trong vòng ngoài. Các liên anh khăn xếp, áo the, tay cầm ô; các liền chị áo mớ ba mớ bảy với chiếc nón quai thao hát những câu ca cổ: “Nhớ chị hai”, “Thiết tha”, “Nhớ mãi mà không nguôi”,... Câu hát gieo vào lòng người cái tình quan họ đắm đuối, thiết tha, bền chặt. Múa rối nước là loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc của riêng đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật này xuất hiện từ khá ứơm, đầu tiên ở Thăng Long - Hà Nội. Hiện nay, ở thôn Đào Thục, xã Thụy Lâm, huyện Đông anh còn lưu lại được dấu tích của một phường rối nước từ hàng trăm năm trước. Ngay từ thời nhà Lý, rối nước đã được kết hợp với rối cạn một cách cực kỳ nhuần nhuyễn và đạt đến độ tinh xảo trong diễn xuất. Rối nước dần thâm nhập vào đời sống sinh hoạt làng xã, càng trở nên đa dạng, sinh động với các loại trò diễn mang đậm phong cách diễn xuất dân gian. Ngày này, nghệ nhân diễn rối nước ngoài kế thừa các kĩ thuật cổ truyền, còn cố gắng sáng tạo và làm phong phú hơn lên cho loại hình nghệ thuật này ở cả khía cạnh trò diễn cũng như kĩ thuật biểu diễn và ca từ. 7. Tín ngưỡng. Lý giải về tín ngưỡng, trong cuốn “Hán - Việt từ điển”, Giáo sư Đào Duy Anh đã viết: Tín ngưỡng là “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”. Có thể nói tín ngưỡng là một nhân tố văn hoá không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Nếu nhìn trên lát cắt đồng đại của tiến trình lịch sử, “tín ngưỡng” đã lắng đọng ở đây những nét văn hoá. Nhìn vào đời sống văn hoá của vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ, ta thấy rõ được tính đa dạng, phong phú của nó, trong đó, một trong những nét lớn là văn hoá tín ngưỡng. Văn hoá tín ngưỡng ở vùng văn hoá Bắc Bộ là một hình thức văn hoá đặc thù bao chứa nhiều nội dung như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, tín Ngưỡng thờ thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ ông tổ nghề và tín ngưỡng lễ hội,...: Tín ngưỡng thờ tổ tiên. Tục thờ cúng tổ tiên là một phong tục lâu đời của người Việt. Gia đình nào dù nghèo hay giàu cũng đều có bàn thờ tổ tiên và hàng năm cúng giỗ cha mẹ, ông bà. Con cháu xa nhà đến ngày giỗ ông bà, cha mẹ đều nhớ về quê. Những dòng họ lớn, có học thức thường soạn gia phả để giáo dục các thế hệ kế tiếp giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình. Tín ngưỡng phồn thực: Trải qua quá trình sinh sống, sinh hoạt, trong tâm lý cư dân người Việt nói chùng và người dân vùng văn hoá Bắc Bộ nói riêng hình thành tâm lý tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng phồn thực, thực chất là khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của con người và tạo vật, lấy các biểu tượng sinh thực khí và hành vi giao phối làm đối tượng. Có thề thấy văn hoá tín ngưỡng phồn thực của vùng văn hoá Bắc Bộ trên các tượng bằng đất nung (di tích Mã Đồng - Hà Tây); một số hình điêu khắc ở những ngôi đình như Đông Viên (Ba Vì), Đình Phùng (Đan Phượng), đình Thổ Tang (Phú Thọ), Đệ Tứ (Nam Định). Trong một số bức tranh Đông Hồ (Hứng Dừa, Đánh ghen) cũng phảng phất văn hoá tín ngưỡng phồn thực. Ngoài ra, cư dân Bắc Bộ còn thể hiện văn hoá tín ngưỡng này qua những trò chơi trong các lễ hội cổ truyền: trò múa mo Sơn Đồng (Hoài Đức, Hà Tây), trò chen lễ hội làng Nga Hoàng (Bắc Giang). Tín ngưỡng phồn thực thể hiện đậm đà, đa dạng và độc đáo, quán xuyến đời sống tâm linh của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Tư chất, tâm lý, tính cách của họ được in hình rõ nét qua văn hoá tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng thờ thành hoàng. Đặc trưng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ là sống quần xã, hình thành nên các đơn vị làng xã. Do vậy, tục thờ thành hoàng làng được xem là điều không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Tất cả những làng xã ở vùng Bắc Bộ đều có một vị thành hoàng làng riêng cho làng mình. Vị Thành Hoàng đó được xem như là một vị thánh của làng, là người mà đương thời có công lớn đối với quê hương, đất nước. Với những người dân vùng văn hoá Bắc Bộ, thành hoàng là chỗ dựa tinh thần, là nơi gửi gắm niềm tin cho cuộc sống có không ít khó khăn sóng gió của họ. Và việc thờ thành hoàng là một nét đẹp trong văn hoá tín ngưỡng của cư dân Bắc Bộ. Tín ngưỡng thờ mẫu. Đây cũng được xem là một nét văn hoá tín ngưỡng lớn của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Gắn bó với tín ngưỡng thờ mẫu là hệ thống các huyền thoại, thần tích, các bài văn chầu, truyện thơ Nôm, các bài giáng bút, câu đối, đại tự, hát xướng, hát chầu văn, lên đồng, múa bóng... Những thần ngưỡng của tín ngưỡng thờ Mẫu gồm các nhiên thần, nhân thần, trong đó có khá nhiều các nhân vật lịch sử anh hùng như Trần Hưng Đạo (Vị vua cha). Nhân vật của tín ngưỡng thờ Mẫu được thờ trong những điện, đền, phủ... mà những di tích này nằm rải rác rất nhiều ở vùng văn hoá Bắc Bộ. Tín ngưỡng thờ cụ tổ nghề. Ngoài ngành kinh tế nông nghiệp thuần nông thì các ngành nghề thù công rất phổ biến ở các làng trong vùng văn hoá Bắc Bộ. Những làng quê đó dần được phát triển thành những làng nghề chuyên nghiệp. Do đó, việc thờ các ông tổ nghề (dệt, gốm, đúc đồng...) là nét không thể thiếu trong văn hoá tín ngưỡng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ. Tín ngưỡng lễ hội Nét lớn cuối cùng trong văn hoá tín ngưỡng được xem là “sinh hoạt văn hoá tổng hợp” của vùng văn hoá Bắc Bộ đó là lễ hội. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá lớn, nó bao chứa các hình thức tín ngưỡng khác, hay nói cách khác là những hình thức này tiềm ẩn, tồn tại trong lễ hội. Như đã nói ở trên, đặc trưng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ là sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước. Vòng quay tự nhiên tạo ra tính chất mùa vụ và hình thức lễ hội ra đời trong thời gian đó. Ban đầu, nó đơn thuần chỉ là hính thức văn hoá giải trí. Dần dà, qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nó lắng đọng lại và trở thành văn hoá tín ngưỡng. ở đồng bằng Bắc Bộ, lễ hội rất phong phú, đa dạng, rực rỡ về thời gian, số lượng, mật độ, nội dung... Theo thời gian, có thể chia lễ hội làm nhiều loại: Lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu... Theo không gian địa lý, lễ hội được phân làm những dạng: Lễ làng, lễ hội vùng, lễ hội cả nước... Tuy vậy, dù vào thời gian nào hay ở địa phương nào, lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ đều có đặc điểm chung là mang tính chất lễ hội nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ trong các hình thức lế hội như thờ mẹ lúa, thờ thần mặt trời, cầu mưa... Lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ không chỉ là những nét phác thảo về văn hoá mà còn mang đậm tính chất tín ngưỡng tôn giáo. Những lế thội thường được đồng nhất với lễ chùa chiền, miếu mạo. Nếu xét trong phạm vi hẹp nhất định. Trên mảnh đất thiêng này, ta có thể bắt gặp nhiều lễ hội truyền thống: Hội chùa Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội Gióng (Hà Tây), hội lim. (Bắc Ninh)... những lễ hội ấy là kết quả của những tinh hoa văn hoá dân tộc được kế thừa, chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua các thời kỳ lịch sử, là kết quả của quá trình tiếp diễn văn hoá mà đã được đánh giá là “diễn ra lâu dài và nội dung phong phú hơn cả” (Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận “Các vùng văn hoá Việt Nam - Nxb văn học). Theo GS Đinh Gia Khánh, “Đây là một sinh hoạt tập thể long trọng thường đem lại niềm phấn chấn cho tất cả mọi người, cho mỗi một con người. Nhưng qui cách và những nghi thức trong lễ hội mà mỗi người phải tuân thủ theo tạo nên niềm thông cảm của toàn thể cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn với cộng đồng và do đó, thấy mình vươn lên ở những tầm vóc cao hơn với một sức mạnh lớn hơn” (Trên đường tìm hiểu văn hoá Việt Nam - Nxb KHXH-Hà Nội). Như vậy, ta có thể thấy rõ rằng lễ hội là một nét tiêu biểu trong văn hoá tín ngưỡng của vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ. Tựu trung lại với những sắc thái đặc trưng, những giá trị lớn, văn hoá tín ngưỡng ở vùng Bắc Bộ đã góp một phần không nhỏ trên hành trình xây dựng một nền văn hoá tiến bộ, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. 8. Nền văn hoá bác học. Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS. Đinh Gia Khánh còn là “nơi phát sinh nền văn hoá bác học”. Sự phát triển của giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp trí thức ở Bắc Bộ. Từ cuối đời trần, đặc biệt sang thời Lê sơ, khoa cử đã trở thành một trong những phương thức tuyển lựa quan lại chủ yếu của triều đình phong kiến. Sang thế kỷ XVII, XVIII, hầu hết các làng ở Đang ngoài và sau đó ở Đàng trong đều có lớp học tư do các thầy đồ phụ trách. Làng đã dành một số ruộng (gọi là học điền) phục vụ việc nuôi thầy và khuyến khích học tập. Lệnh thành lập các trường công ở xã thời Tây Sơn tuy chưa được thực hiện nhưng có tác dụng khuyến khích rất lớn. Khi Nho giáo suy đồi, đấu tranh giai cấp tăng lên thì giáo dục trở thành diều quan trọng để nhân dân nói lên những nguyện vọng, tâm tư và tình cảm của mình. Nơi đầy có Văn Miếu - Quốc Tử Giám, là trường đại học đầu tiên của nước Việt. Xứ Bắc có một đội ngũ trí thức đông đảo, trong đó có nhiều danh nhân văn hoá tầm cỡ. Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ sở giáo dục, khoa học, thu hút các trí thức mọi vùng. Hiện tại, đây là nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học (80% các viện nghiên cứu và 64% các trường đại học), mà đội ngũ trí thức cũng tập trung đông nhất, chiếm 57% tổng số trí thức cả nước. Chính sự phát triển của giáo dục ở đây tạo ra sự phát triển của văn hoá bác học. Đó là điều kiện để tiếp nhận vốn văn hoá dân gian, vốn văn hoá bác học Trung Quốc, ấn Độ, phương Tây. Chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chính là sản phẩm được tạo ra từ quá trình sáng tạo của trí thức, thể hiện rõ đặc điểm này. Nói đến văn hoá bác học, không thể không nói đến văn hoá nghệ thuật. Có thể nói hầu hết các thơ phú (chủ yếu từ thế kỷ XV trở về trưcớ) đều thấm đượm tình cảm yêu nước và toát lên niềm tự hào dân tộc chân chính. Đáng chú ý nhất là các bài thơ thần Nam quốc sơn hà... của Lý Thường Liệt, Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, Qua sông Bạch Đằng của Phạm Sư Mạnh, Phú núi Chí Linh và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… Những bài thơ phú đương thời còn là đỉnh cao của nghệ thuật thanh thoát, khôi kỳ, hùng vĩ, hào phógn và cao siêu “không thua kém gì Đỗ Phủ, Lý Bạch thời Thịnh Đường”. Những tập thơ ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi, Quỳnh Uyển cửu ca của hội Tao Đàn thế kỷ XV là sự tiếp nối và nâng cao của thơ văn thời trước. Mặt khác bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời này còn chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm. Đó là: Trần Nhân Tông với Cụ trần lạc đạo phu, Mặc Đĩnh Chi với Ngọc Tỉnh liên phú, huyền quang với Vịnh hoa yên tử phú, Nguyễn Thuyên với Phí sa tập. Ngoài ra còn có các tác giả văn Nôm khác như Chu Văn An, Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Ly v.v... Đặc biệt bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi với 254 bài thơ bằng chữ Nôm và bộ Thơ Quốc âm của Lê Thánh Tông còn được lưu truyền đến ngày nay. Cùng với thơ ca, việc sưu tầm và dựng lại những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc, về phong tục tập quán, về sự tích các anh hùng có công dựng nước và giữ nước được tiến hành rộng rãi trong nhân dân, nhằm khẳng định về mặt tinh thần, văn hoá, nền độc lập của dân tộc, của đất nước. Sang thế kỉ XVI - XVIII với sự suy đồi của Nho giáo và sự thay đổi của hoàn cảnh đã làm cho nguồn cảm hứng dân tộc phai lạt đi trong tư tưởng của giai cấp thống trị. Văn học chữ Hán được sáng tác nhiều, song không còn chứa đựng những tình cảm yêu nước, yêu quê hương như trước. Một số nhà nho đã về với nhân dân, với cuộc sống thực của đất nưcớ. Họ đã tìm thấy những đề tài mới mẻ hơn trong những sáng tác thơ văn của mình. Nét đáng chú ý của văn học thời kỳ này là văn Nôm được khởi phát từ các giai đoạn trước đã ngày càng phát triển. Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, các nhà nho Đào Duy Từ v.v.. là những người tiêu biểu. Thể truyện văn xuôi được sáng tác nhiều, tiêu biểu là Truyền kì Mạn lục của Nguyễn Dữ. Bên cạnh dòng văn học chính thống của các nhà nho, các quan chức, hình thành cả một kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú bao gồm truyện, ca dao, tục ngữ, hò vè, hát ví, hát dặm, truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười đều nở rộ trong thời kì này. Các hình thức diễn xướng dân gian như hát tuồng, hát chèo, hát ả đào đều phát triển rất mạnh mẽ. Tương ứng với sự phát triển của nền văn học viết bằng chữ Nôm là sự phát triển của thể thơ lục bát và song thất lục bát. Những tri thức khoa học, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm ứng xử, đặc sản và đặc tính địa phương v.v… được đúc kết dưới dạng ca dao, tục ngữ. Những suy tư của cá nhân về cuộc sống và chế độ bóc lột của giai cấp thống trị, về vua quan, về chiến tranh phong kiến, quan hệ xã hội, tình yêu nam nữ, tình yêu thiên nhiên v.v… được thi vị hoá đã làm giàu và làm đẹp cuộc sống tình cảm, tinh thần của con người, đồng thời nói lên khát vọng sống tự do, hoà bình tỏng tình thương yêu đồng bào ruột thịt - một cuộc sống rất nhân bản của những người nông dân lao động chất phác. Giải phóng người lao động, giải phóng phụ nữ khỏi mọi bất công của xã hội, khỏi mọi tai hoạ do sự tham lam, ích kỷ, độc ác của một số người thuộc tầng lớp trên gây ra, hoà nhập với sự tỏng sáng của tự nhiên… là nội dung tư tưởng, tình cảm chủ đạo của văn học bình dân. Trào lưu văn học dân gian đã ảnh hưởng sâu sắc đến tầng lớp nho sĩ có tâm huyết đối với dân tộc, với nước. Xuất hiện những tài năng văn học viết như Đoàn Thị Điểm với bản dịch Chinh phụ ngâm, Cung oán Ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ Mai, Quan âm thị Kính, Phạm Công - Cúc Hoa - Phạm Tải - Ngọc Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh v.v... Là những tác phẩm có giá trị nhất, không chỉ với thời đại này mà ngay cả với thời đại sau, ở thế kỷ XIX có tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của nhà văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Trong khi mong muốn được sống tự do và giải phóng, người lao động đương thời vẫn không vượt qua được tư tưởng vua quan phong kiến, không vượt qua được những luỹ tre làng. Các đô thị nặng tình xóm làng và sản xuất thủ công không đủ điều kiện tạo nên một cuộc sống riêng của người đô thị, góp tiếng nói của mình vào văn học. 9. Tiếp biên văn hoá. Trong lĩnh vực ứng xử với môi trường tự nhiên, với vị trí ngã tư đường của các nền văn minh, người Bắc Bộ đã tiếp thu nhiều giá trị văn hoá nhân loại. Quá trình tiếp biến văn hoá của vùng “diễn ra lâu dài hơn cả với nội dung phong phú hơn cả” (Theo GS. Đinh Gia Khánh). Phật giáo du nhập vào Bắc Bộ từ sớm và do đó nhanh chóng được tiếp nhận một cách rộng rãi ở đây trong những thế kỷ đầu công nguyên, rồi tiếp đó chiếm được vị trí quan trọng vào thời Lý, Trần. Đầu thế kỷ X, Phật giáo đã có những bước phát triển lớn, nhiều chùa chiền xuất hiện (chùa Một cột, chùa Phật Tích, chùa Dạm,...) . Các vua Lý kế tiếp nhau dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, in kinh phật (tháp Báo Thiên, chuông quy Điền, vạn Phổ Minh,...). Trong nhân dân, số người theo Phật giáo ngày càng đông, nhà sử học Lê Văn hưu ở thế kỷ XVIII đã nhận xét: “Người đời sau (Lý Thái Tổ) làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cung điện của vua. Rồi người bắt chước có kẻ huỷ thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích”. ở các làng, chùa trở thành trung tâm sinh hoạt của làng vừa là nơi dậy chữ, tổ chức hội hè. Phật giáo giai đoạn này còn tác động đến tư tưởng, tâm lý phong tục và nếp sống của đồng đảo nhân dân ở các làng xã. Nó có ảnh hưởng to lớn đến kiến trúc, điêu khắc, thơ văn và nghệ thuật. Tuy nhiên, nó cũng hịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản địa hoá thành Phật giáo dân gian. Về sau này, chùa chỉ còn là nơi nhân dân đến cúng bái vào những ngày lễ tết, cầu tự, cầu phúc hoặc tìm một nguồn an ủi cho cuộc sống đầy biến động và bấp bênh. Nho giáo, vào Bắc Bộ theo con đường quan phương cùng với sự thống trị và nô dịch của các triều đại phong kiến phương Bắc. Vì vậy cho đến đầu thời độc lập, nó chỉ dựng lại ở một bộ phận nào đó của tầng lớp thống trị dân tộc, xa lạ với nhân dân. Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu. Năm 1075 triều đình mở khoa thi quốc gia đầu tiên. Từ cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển ngày càng mạnh cùng với giáo dục, thi cử. Lê Thánh Tông tìm thấy ở Nho giáo một trật tự, kỉ cương phù hợp với những quan niệm thống trị của Nhà nước phong kiến, đã quyết định ban hành hàng loạt thể lệ mới về cưới xin, tang ma, hiếu hỉ và 24 điều buộc nhân dân và các làng xã phải noi theo để thay đổi các tục lệ cổ truyền ít nhiều có tính chất địa phương. Tuy nhiên nhân dân Bắc Bộ đã tiếp thu có mức độ cái trật tự Nho giáo đó và cố gắng giữ lại một số tập tục quen thuộc và tốt đẹp của Tổ tiên. Sự thống trị của Nho giáo không làm mất đi bản sắc dân tộc trong sinh hoạt hàng ngày của các làng xã Bắc Bộ. Thời thuộc Pháp, đồng bằng Bắc Bộ cũng là một tỏng những vùng chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đậm nét hơn cả. Tuy nhiên, người Bắc Bộ đã có sự thâu hoá linh hoạt, chắt lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để biến thành nét đẹp riêng của dân tộc mình. có thể đơn cử: ở Bắc Bộ, một trong những nhà thờ đầu tiên là nhà thờ Phát Diệm. (Ninh Bình) xuất hiện dưới dạng kiến trúc dân tộc thấp trải rộng, có mái cong, khác hẳn với những ngôi nhà thờ nổi tiếng của đạo Kitô, vốn rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến trúc cao vút có đỉnh tháp nhọn. ở đây đã xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây với tính cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Bắc Bộ. Chẳng hạn, các toà nhà của trường Đại học Đông Phương (nay là Đại Học Quốc gia Hà Nội), bộ Ngoại giao,... đã sử dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác... làm nổi bật tính dân tộc. Chữ quốc ngữ và hệ thống giao dục theo kiểu phương Tây ra đời và phát triển rực rỡ. Các hình thức nghệ thuật Bắc Bộ thời kỳ này xuất hiện nhiều thể loại mới: trong văn học có Thơ mới; trong hội hoạ có tanh sơn dầu; sân khấu có ca nhạc (có nhạc thính phòng, nhạc cổ điển, ....), kịch... Hiện tại, trên con đường hội nhập và phát triển, văn hoá Bắc Bộ vẫn giữ cho mình những bản sắc riêng, giàu màu sắc truyền thống. Kết luận Tóm lại, vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việtu, nơi khai sinh của các vương triều Đại Việt, đồng thời cũng là quê hương của các nền văn hoá Đông Sơn, Thăng Long - Hà Nội. Đây là cái nôi hình thành văn hoá, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hoá bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống hơn cả. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hoá hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, vùng văn hoá này vẫn có những tiềm năng nhất định. Muc lục Danh sách nhóm sinh viên thực hiện TT Họ và tên Ngày sinh 1 Nguyễn Mạnh Hùng 17.10.86 2 Hà Mai Hương 13.06.85 3 Phạm Thị Mai Hương 21.06.86 4 Triệu Thu Hương 12.12.85 5 Nguyễn Thị Hường 01.08.85 6 Phạm Thị Hường 15.06.84 7 Phạm Thị Hường 26.07.86 8 Bùi Hông Khanh 10.11.86 9 Cao Thị Khuyên 29.10.86 10 Nguyễn Thị Lan 23.07.85 11 Vũ Thị Lành 02.03.85 12 Bùi Thị Lệ 15.02.86 13 Đồng Thị Liên 15.05.84 14 Nguyễn Thùy Linh 17.05.85 15 Phạm Thị Thùy Linh 12.08.86 16 Hoàng Thị Minh Loan 05.05.85 17 Nguyễn Thị Loan 26.08.85 18 Phùng Thị Hiền Lương 15.03.86 19 Nguyễn Thị Minh 13.03.85 20 Nguyễn Thị Hồng My 25.04.85

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số khái niệm và vùng văn hoá châu thổ bắc bộ.doc
Luận văn liên quan